You are on page 1of 7

Kiến thức cơ bản Ngữ văn 12 – GV Phạm Thị Cẩm Loan

SÓNG
- Xuân Quỳnh -
A. KHÁI QUÁT
1. Tác giả (1942 - 1988)
- Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kỹ
kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh thể hiện trái tim phụ nữ đôn hậu, chân thành, giàu đức hy
sinh và lòng vị tha. Trong thơ Xuân Quỳnh, khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt
luôn gắn liền với những dự cảm lo âu.
- Xuân Quỳnh là một phụ nữ gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời, là một tâm hồn phụ nữ nhạy
cảm, nhân hậu, một nghệ sỹ tài năng, một con người giàu nghị lực để có thể vượt lên những gian
truân, thử thách trong cuộc đời. Nhà thơ Vũ Tú Nam nhận xét: “Thơ Xuân Quỳnh trong sáng, cái
trong sáng đã được gạn lọc qua những nỗi đau, đó là niềm kiêu hãnh và là biểu hiện sự quý trọng
của chị đối với người đọc”
2. Tác phẩm :
2.1. Xuất xứ, vị trí:
- “Sóng” là một trong những bài thơ thành công nhất của Xuân Quỳnh về đề tại tình yêu. Bài
thơ được viết năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968).
- “Sóng” cũng là một trong những bài thơ thể hiện chân thực, gắn bó nhất vẻ đẹp tâm hồn
người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương, gắn bó, trái tim luôn trăn trở lo âu, luôn mong được
dâng hiến và hy sinh cho tình yêu.
2.2. Kết cấu hình tượng:
Bài thơ là sự vận động và phát triển song hành của hai hình tượng “sóng” và “em”. “Em” là
cái tôi trữ tình của nhà thơ, là hình tượng được miêu tả trong những cung bậc khác nhau của tình
yêu. “Sóng” là hình tượng nghệ thuật được Xuân Quỳnh sáng tạo để diễn tả những cảm xúc, tâm
trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, vừa phức tạp của một trái tim người phụ nữ đang rạo
rực khao khát yêu đương. “Sóng” chính là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim người phụ nữ đang yêu , là sự
hóa thân thân phận của “em”. Hai hình tượng ấy khi phân đôi để soi chiếu sự tương đồng, khi hòa
nhập để âm vang, cộng hưởng. Trái tim người phụ nữ đang yêu soi vào "sóng" để nhận ra mình,
thông qua "sóng" để thể hiện những rung động, đam mê, khao khát... Hai hình tượng này đan cài,
quấn quýt với nhau từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng cho nhau, nhằm diễn tả sâu sắc, thấm thía hơn
những khát vọng tình yêu trào dâng mãnh liệt trong lòng nữ sỹ. Với hình tượng "sóng", bài thơ làm
hiện lên hình ảnh người phụ nữ đứng trước đại dương, mang tâm thế của một cá thể đối diện với cái
vô biên, vĩnh hằng, từ đó mà liên tưởng, suy tư, chiêm ngưỡng về tình yêu như một nhu cầu tự nhận
thức, tự khám phá cái tôi trữ tình. Cảm xúc của bài thơ vì thế vừa sôi nổi, mãnh liệt, vừa có chiều
sâu của triết lý.
2.3. Âm hưởng của bài thơ chính là âm hưởng của sóng, trước hết là sóng biển và sau đó là sóng
lòng, là nhịp đập bồi hồi của trái tim người phụ nữ đang yêu. Thể thơ với những dòng thơ thường
không ngắt nhịp, sự đắp đối các thanh bằng, trắc ở cuối mỗi câu thơ, khổ thơ, những từ ngữ trùng
điệp, những cặp từ sóng đôi hô ứng, xô đuổi nhau từ cuối bài đã tạo nên âm hưởng dạt dào, nhịp
nhàng, gợi nhịp điệu những con sóng miên man, bất tận, vô hạn vô hồi, khi ào ạt trào dâng, lúc êm
đềm đằm lắng. Đó cũng đồng thời là nhịp đập của những con sóng lòng, những đợt sóng của đam
mê khao khát và da diết yêu thương đang cuộn trào trong trái tim người phụ nữ.
B. TÌM HIỂU BÀI THƠ:
1 Sóng – đối tương cảm nhận tình yêu

a) Khổ đầu:
- Những câu thơ trong khổ đầu miêu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tàng những nét
nghĩa ẩn dụ gợi liên tưởng đến tình yêu của người phụ nữ:
1
Kiến thức cơ bản Ngữ văn 12 – GV Phạm Thị Cẩm Loan
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
+ Trước hết, đây là sự thất thường muôn thuở của sóng. Đại dương vốn luôn hàm
chứa những trạng thái đối lập, những thay đổi đột ngột, bất ngờ, khi “dữ dội”, “ồn ào” bão tố, khi
“lặng lẽ”, “dịu êm” yên ả…
+ Những trạng thái ấy đã gợi liên tưởng thật tự nhiên đến trái tim người con gái khi
yêu bởi cũng như sóng, trái tim vốn rất nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương của người con gái luôn bao
hàm những trạng thái tâm lý đầy mâu thuẫn phức tạp, thất thường, “dữ dội - ồn ào” là sóng mà
“lặng lẽ - dịu êm” cũng vẫn là sóng, khi vui, lúc buồn, khi mãnh liệt sôi nổi, lúc dịu dàng đằm thắm,
khi hờn giận, lúc đắm say, khi gần gũi như những con sóng âu yếm vỗ bờ, lúc xa xôi như những
con sóng rời bờ, tít tắp ngoài khơi… Tất cả những trạng thái thất thường ấy đều là tình yêu. Tình
yêu luôn là sự thống nhất kỳ lạ của những mâu thuẫn, luôn mang trong mình những trạng thái tâm
lý phức tạp, đầy biến động vì “tình yêu muôn thuở - có bao giờ đứng yên”
- Tới hai câu sau, “sóng” xuất hiện trong mối quan hệ với “sông” - “bể”:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
+ Có thể hiểu hai câu thơ ở những nét nghĩa khác nhau. Khi coi “sóng” là một chủ thể
cảm nhận, câu thơ sẽ là một lời tuyên bố kiên quyết: nếu sông không hiểu nổi những khát vọng
mãnh liệt của mình thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, tìm ra tận bể, nơi có sự đồng cảm lớn
lao, nơi có thể tìm thấy tình yêu thật sự trong cái cao cả bao dung của bể lớn. Người phụ nữ thường
khao khát những bến bờ bình yên của tình yêu, nhưng không vì thế mà cam chịu, nhẫn nhịn, họ chủ
động, kiêu hãnh, mạnh mẽ và quyết liệt kiếm tìm sự đồng điệu tri âm.
+ Cũng có thể hiểu “sông” như một trạng ngữ chỉ không gian nơi chốn, “sông” là bối
cảnh, là hoàn cảnh sống, là yếu tố thường có sức chi phối mạnh mẽ tới tâm hồn, tính cách con
người, lúc đó câu thơ thể hiện một cố gắng không mệt mỏi của “sóng” để có thể sống với bản ngã
của mình: giới hạn chật hẹp của hai bên bờ sông làm bức bối những con sóng, trong lòng sông,
sóng không thực sự là mình, “không hiểu nổi mình”. “Sóng” tìm ra biển lớn để thỏa sức vẫy vùng,
để trở thành chính mình giữa mênh mông phóng khoáng, để nhận ra mình trong những mãnh liệt
đam mê. Trong trường liên tưởng của tứ thơ, nếu “sóng” không còn là “sóng” bởi những giới hạn
chật hẹp thì tình yêu cũng không còn là tình yêu bởi những điều kiện ràng buộc. Người phụ nữ
không chấp nhận sự tầm thường nhỏ hẹp, khao khát một tình yêu lớn lao, muốn được giải phóng
khỏi mọi giới hạn, để con người thực sự là mình, tình yêu thực sự là tình yêu.
Như vậy, dù hiểu theo nghĩa nào, bản chất của tình yêu cũng đều mang những nét tương
đồng với sóng, cũng đều khao khát vươn tới sự lớn lao, phóng khoáng, khôn cùng.
b) Khổ thứ hai:
- Nếu ở khổ đầu sóng được miêu tả trong không gian thì tới khổ hai, sóng được soi chiếu
trong thời gian:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế”
“Sóng” được đặt giữa ngày xưa và ngày nay. Những khái niệm chỉ thời gian và ý nghĩa
khẳng định của cụm từ “vẫn thế” đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng bởi trong thực tế, biển
là một thế giới vô biên, vĩnh viễn, xao động.
Theo quan niệm của Xuân Quỳnh, “nỗi khát vọng của tình yêu” xôn xao, rạo rực trong mỗi
trái tim là khát vọng đã có từ muôn đời của nhân loại và mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ, “khát vọng
tình yêu” của con người giống như những con sóng của đại dương, mãi trường tồn và vĩnh cửu với
thời gian, năm tháng.
- Hai câu thơ sau là một ẩn dụ tinh tế:
“Nỗi khát vọng tình yêu
2
Kiến thức cơ bản Ngữ văn 12 – GV Phạm Thị Cẩm Loan
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Trong cảm nhận của người phụ nữ đứng trước đại dương, mặt biển tựa vồng ngực trẻ trung
cường tráng của đất trời, “sóng” tựa nhịp thở phập phồng mang khát vọng tình yêu bồi hồi trong
ngực biển và trong câu thơ của Xuân Quỳnh, người đọc được đến với một phát hiện thú vị: chính
khát vọng tình yêu bồi hồi khiến ngực biển muôn đời trẻ trung. Hình tượng thơ đã làm hiện ra một
tương đồng rạo rực: biển tựa như con người, sóng là nhịp đập của trái tim của trái tim yêu đương,
còn biển thì còn sóng, còn con người thì còn khát vọng tình yêu. Cũng như sóng, tình yêu là khát
vọng vĩnh hằng của con người.
2. Sóng- băn khoăn suy tư trăn trở
a/ Khổ 3, 4
Giấu mình trong hình tượng sóng ở khổ 1+2, đến khổ 3, 4, hình tượng “em” đã trực tiếp xuất
hiện. “Em” được đặt trong sự đối diện với muôn trùng sóng biển, với cái vô biên vô hạn của trời đất
và tình yêu. Khi đứng trước cõi vô biên huyền diệu, người ta thường quên đi những cái nhỏ nhặt
tầm thường mà chỉ nghĩ đến những gì lớn lao cao cả nhất. Người phụ nữ trong tâm hồn nhà thơ đã
hướng suy ngẫm của mình tới những điều lớn lao huyền diệu, đó là “anh”, “em” và “biển lớn”:
“Trước muôn trùng sóng biển
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn”
- Khi tình yêu đến, trước những khát vọng mãnh liệt của tình yêu, con người thường có nhu
cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong lòng nó và cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Song
tình yêu lại là trạng thái tâm lý không dễ giải thích bằng lý lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời
chính xác về nguyên nhân và khởi nguồn của tình yêu, đúng như Xuân Quỳnh đã từng khẳng định:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu...”
- Tâm hồn luôn trăn trở của Xuân Quỳnh cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về
mình cùng những nỗi băn khoăn, suy ngẫm của tình yêu. Suy ngẫm hiện lên trong các câu hỏi về
sóng: sóng bắt đầu từ đâu? “Từ nơi nào sóng lên?”..., về gió: “Gió bắt đầu từ đâu?”... và sau cùng
lại trở về với câu hỏi muôn đời: “Khi nào ta yêu nhau?”. Những câu hỏi dồn dập như những con
sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa suy ngẫm của con người đến vô tận.
+ Câu hỏi đầu tiên về sóng, lời đáp dễ dàng, chóng vánh:
“Sóng bắt đầu từ gió”
Câu hỏi thứ hai đầy những băn khoăn trăn trở của lý trí: nếu “sóng bắt đầu tư gió” thì
“gió bắt đầu từ đâu?”. Câu trả lời xuất hiện nhưng lại mơ hồ chơi vơi giữa hai câu hỏi về gió và tình
yêu:
“Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
+ Câu trả lời giống như một cái lắc đầu nũng nịu của em khi nhận ra cả gió và tình
yêu đều bất ngờ, đều không thể cắt nghĩa, đều không có lý lẽ hay quy luật, nếu có thì đấy cũng là
quy luật riêng của trời đất, lý lẽ riêng của tình yêu. Em không biết “gió” có từ đâu, em không biết
những xao xuyến của trời đất có từ bao giờ cũng như em không biết “khi nào ta yêu nhau”, càng
không thể cắt nghĩa vì sao ta yêu nhau. Đây cũng là một quy luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm
thường đến trước lý trí, thậm chí còn dẫn dắt lý trí, và chính sự bí ẩn của trực cảm lại là yếu tố tạo
nên nét quyến rũ, say đắm của tình yêu.
+ Cấu trúc đảo của hai câu cuối khổ 4 - đáp trước hỏi sau khiến câu trả lời duyên dáng
như một nụ cười vừa bối rối, vừa hạnh phúc: bối rối vì sự bất lực của lý trí và hạnh phúc khi nhận
ra một điều kỳ diệu của lý trí: tình yêu lớn lao hơn mọi thứ lý trí trên đời, tình yêu hồn nhiên, giản
dị mà mãnh liệt như sóng, như gió, như thiên nhiên muôn đời bí ẩn, như một lẽ tự nhiên huyền diệu
của đất trời.
3
Kiến thức cơ bản Ngữ văn 12 – GV Phạm Thị Cẩm Loan
b) Khổ 5:
- Bốn câu đầu là hình ảnh của sóng. Hình ảnh những con sóng vỗ bờ miên man điệp lại liên
tiếp trong 3 câu thơ được cảm nhận trong sắc thái nhân hóa trở thành những con sóng vì nhớ bờ mà
thao thức.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Trong thực tế, sóng nước là hiện tượng tự nhiên xuất hiện khi gió tạo nên những dao động
trong nước. Hiện tượng ấy mang tính chất vĩnh hằng, sóng luôn tồn tại hoặc trên bề mặt hoặc trong
lòng sâu thăm thẳm của đại dương và luôn có xu thế hướng vào bờ. Quan sát sóng bằng trái tim
đang yêu, Xuân Quỳnh đã nhận ra sự tương đồng kỳ diệu giữa hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của
trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu đang dào dạt trong lòng, và trạng thái cảm xúc
đầu tiên thi sỹ mượn sóng để thể hiện chính là nỗi nhớ da diết của tình yêu.
- Trong 4 câu đầu của khổ 5, nhà thơ dường như mới chỉ miêu tả sắc thái của sóng, nhưng
những từ ngữ trùng điệp luân chuyển nối tiếp tạo ra nhịp điệu sôi nổi dồn dập làm hiện lên hình ảnh
những con sóng đang hăm hở trào dâng, những con sóng đang “nhớ bờ” cồn cào, mãnh liệt, nỗi nhớ
đầy ắp không gian dù dưới lòng sâu hay trên mặt nước, nỗi nhớ tràn ngập thời gian, dù ngày hay
đêm.
- Thực ra chỉ cần ý nghĩa nhân hóa cho hình ảnh con sóng nhớ bờ, khổ thơ đã có thể gợi ra
nỗi nhớ cồn cào, da diết của tình yêu, nhưng hình như khi muốn bộc lộ nỗi nhớ trong tình yêu, trạng
thái cảm xúc đặc biệt này không đựng vừa trong hình tượng “sóng” qua tầng nghĩa ẩn dụ, Xuân
Quỳnh viết thêm 2 câu cho một khổ thơ đã đầy, khiến nỗi nhớ như trào dâng khỏi những khuôn
khổ, mực thước thông thường:
“Lòng em nhớ tới anh
Cả trong mơ còn thức”
+ Hai câu thơ trước hết là nỗi nhớ trong ý nghĩa tương đồng với sóng, sóng vỗ bờ cả
ngày và đêm, sóng “nhớ bờ” cả ngày và đêm, em cũng nhớ anh mọi nơi mọi lúc, nếu sóng vì nhớ
bờ “ngày đêm không ngủ được” thì em vì nhớ anh mà “cả trong mơ còn thức”
+ Tuy nhiên trạng thái “trong mơ còn thức” không chỉ là nỗi nhớ, là sự thao thức của
người con gái đang yêu, đang nhớ như cô gái trong câu ca dao xưa:
“Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Mong trời chóng sáng ra đường gặp anh”
Có lẽ đó còn là dự cảm lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khao khát tình yêu và hạnh
phúc nhưng lại có quá nhiều trải nghiệm đắng cay: một trái tim bầm dập, đau đớn cho những tổn
thương trong tình yêu nên luôn lo sợ: “Lời yêu mỏng manh như làn khói, ai biết tình anh có đổi
thay”. Một trái tim luôn phải tự dặn lòng mình, cuộc đời này không có gì là vĩnh viễn bởi hôm nay
yêu, mai có thể xa rồi. Và do vậy, người phụ nữ thức không chỉ để nhớ tới anh, thức còn như để
trông giữ tình yêu, để tình yêu không tuột khỏi tầm tay. Trăn trở, lo âu, bất ổn luôn là nét tâm lý ám
ảnh quen thuộc trong hồn thơ Xuân Quỳnh, cũng là nét riêng tạo nên cái mong manh xót xa cho
tình yêu. Như vậy trong khổ 5, nhà thơ Xuân Quỳnh đã thông qua “sóng” để thể hiện cả nỗi nhớ và
những dự cảm lo âu của một trái tim đầy ắp tình yêu và những trải nghiệm bất hạnh.
c) Khổ 6:
- Qua việc thể hiện nỗi nhớ ở khổ 5, nhà thơ đã cho thấy tình yêu đích thực không phụ thuộc
vào thời gian “ngày - đêm”, “thức - ngủ”, và tới khổ 6, sự khẳng định lại tiếp tục hướng tới những
phạm trù của không gian:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
4
Kiến thức cơ bản Ngữ văn 12 – GV Phạm Thị Cẩm Loan
+ Nếu phương Bắc - Nam gợi những không gian xa xôi cách trở, những không gian
thường được lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, trong cuộc đời:
“Vừa thoáng tiếng còi tàu
Lòng đã Nam, đã Bắc” (Sân ga chiều em đi)
thì các động từ ngược hướng như “xuôi - ngược” lại thể hiện những vất vả gian khó
truân chuyên.
+ Có một sự khác biệt trong cách diễn đạt ngôn từ của Xuân Quỳnh so với quy ước
cũng như tâm thế thông thường: người đời nói ngược Bắc, xuôi Nam…, câu thơ của Xuân Quỳnh
làm xuất hiện những nghịch lý khi xuôi Bắc, ngược Nam. Sự khác biệt ấy hình như đã hé mở tinh
tế, sâu xa những éo le, trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung và trong tình yêu của người
nữ sỹ nói riêng.
+ Nếu cấu trúc điệp có pháp của 2 câu thơ làm đậm thêm những éo le, những xa xôi
cách trở, những vất vả khó khăn thì từ “dẫu” điệp lại ở đầu hai câu thơ lại khẳng định bản lĩnh kiên
cường của người phụ nữ trong tình yêu, bản lĩnh của những người con gái tự ngàn xưa:
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
Và riêng với Xuân Quỳnh, khó khăn trong tình yêu hình như cũng không chỉ là những
gian truân vất vả mà còn là những trắc trở, éo le. Nhưng nhà thơ đã cho thấy một quan niệm thật
đẹp khi khẳng định tình yêu đích thực không phụ thuộc vào những không gian “Nam - Bắc”, những
phương hướng “ngược - xuôi”, trái tim chỉ biết yêu thương mà không bận tâm đến những logic
khách quan dù là “ngược Bắc - xuôi Nam” hay “ngược Nam - xuôi Bắc”…
- Hai câu thơ sau đã cho thấy rõ hơn bản lĩnh của người phụ nữ trong tình yêu, đó là sự thủy
chung son sắt, bất chấp mọi thử thách, mọi khó khăn, trắc trở.
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Từ cuối cùng của khổ thơ lại là từ “phương” - một danh từ chỉ hướng trong không gian. Tình
yêu của người phụ nữ đã đem đến một sáng tạo mới mẻ, độc đáo trong ngôn từ: với tình yêu không
có “phương Bắc” hay “phương Nam”, mọi không gian khách quan đều vô nghĩa trước không gian
kỳ diệu của tình yêu. Người phụ nữ thủy chung chỉ duy nhất hướng về “phương anh”, phương có
người yêu dấu. Nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu khiến mọi phương trời không có anh đều
trở thành u ám:
“Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại
Ngọn gió buồn vẫn thổi phía không anh”
d) Khổ 7: Niềm tin vào tình yêu
- Thực chất khổ 7 hầu như chỉ điệp lại ý nghĩa ở khổ 6. Nếu ở khổ 6 thể hiện sự thủy chung
son sắt của người phụ nữ trong tình yêu thì tới khổ 7, thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã
mượn chính quy luật khách quan của trời đất để kiểm chứng và khẳng định niềm tin vào sự thủy
chung của mình, niềm tin vào sự tốt đẹp của tình yêu, niềm tin vào bến bờ hạnh phúc và bến bờ
cuối cùng của tình yêu khi “con sóng nhớ bờ” ở khổ 5 đã vượt qua những mênh mông cách trở của
đại dương trở thành con sóng tới bờ ở khổ 7. Giữa những ngược xuôi Nam Bắc của cuộc đời, người
phụ nữ chỉ hướng về một phương duy nhất: nơi có anh, giống như giữa muôn vời cách trở của mênh
mang biển lớn, mọi con sóng đều chỉ tha thiết hướng tới bờ:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
- Có thể nhận ra một cấu trúc đảo tinh tế trong hai câu cuối của khổ 7. Nếu viết theo trật tự
cú pháp thông thường của một câu ghép chính phụ “dù… nhưng” thì hai câu thơ sẽ là “Dù muôn
5
Kiến thức cơ bản Ngữ văn 12 – GV Phạm Thị Cẩm Loan
vời cách trở - Con nào chẳng tới bờ” và như thế ý thơ sẽ thuận hơn, sự khẳng định sẽ chắc chắn,
đầy lý trí với một kết cục có hậu và bình ổn. Nhưng Xuân Quỳnh lại chọn một kết cấu đảo khiến
niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh, một chút bất ổn và đầy cảm tính, niềm tin mãnh liệt, chân
thành mà không hề dễ dãi, ngây thơ. Một người phụ nữ đã từng mất mát, từng đổ vỡ trong tình yêu
nên luôn hiểu rằng con đường đi đến với hạnh phúc thường không ít đắng cay gian nan, một trái tim
đã bao lần bầm dập đau đớn nên niềm tin vào đích đến cuối cùng của tình yêu thêm vị đắng của sự
nếm trải. Câu kết “dù…” như một lời nói thêm để tự dằn lòng, tự nhắc nhở mình đừng bao giờ mất
niềm tin nhưng cũng đừng nên ngây thơ, ảo tưởng vào sự dễ dàng trong tình yêu. Và cũng chính vì
sự nếm trải ấy mà niềm tin của người phụ nữ càng thêm đáng quý, đáng trân trọng.
3. Hai khổ cuối: Tình yêu tan vào sóng để dâng hiến, bất tử (khổ 8,9)
- Không dừng lại trong niềm tin vào tình yêu, như một kết cục có hậu, Xuân Quỳnh lại tiếp
tục mở ra những trăn trở mới trong khổ 8. Khổ thơ này lại xuất hiện những phạm trù của không
gian và thời gian:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
+ Thời gian và không gian được đặt ra trong hai bình diện đối lập “cuộc đời - năm
tháng”, “biển - mây”. “Cuộc đời” chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi kiếp người, còn
“năm tháng” là dòng thời gian vô thủy vô chung; “biển” là không gian mênh mông nhưng vẫn là
hữu hạn, còn “mây” trôi lại gợi sự phiêu du trong sự vô cùng vô tận; cuộc đời tuy dài, biển tuy rộng
nhưng năm tháng sẽ đi hết cuộc đời, như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ đến với những không
gian bao la trong vũ trụ khôn cùng. Khổ thơ thoáng nỗi lo âu trong cái hữu hạn của tình yêu, của
cuộc đời, nhất là trong tình yêu. Cảm giác hữu hạn này thường xuất hiện ở những con người từng
trải, từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương và vì thế luôn khát khao sự bình yên, sự vĩnh cửu, vô
hạn.
+ Cảm giác về sự hữu hạn thường khiến con người buồn bã và bất lực. Xuân Diệu
từng sợ chính cái hữu hạn của lòng mình:
“Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”
Xuân Diệu cũng từng giục giã:
“Nhanh lên chứ, vội vàng lên mấy chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi”
Và khi không thể “tắt nắng” hay “buộc gió” để níu kéo năm tháng, để gìn giữ hương
sắc đời, để nối dài thêm quỹ thời gian cho tình yêu và hạnh phúc, Xuân Diệu đã tìm đến một giải
pháp mãnh liệt nhất, đó là vội vàng tận hưởng cuộc sống một cách say sưa, ham hố khi còn có thể,
từ việc “ôm” cả sự sống đến say đắm, “riết... thâu... hôn... cắn...”, từ “mây đưa, gió lượn” đến “non
nước, cỏ cây”
- Xuân Quỳnh cũng sớm nhận ra và thấm thía sự hữu hạn của cuộc đời, nhưng khác với
Xuân Diệu luôn khát khao tận hưởng và chiếm lĩnh, trái tim người phụ nữ trong Xuân Quỳnh lại có
một khát khao đầy nữ tính:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Câu thơ “Làm sao để tan ra” mang cấu trúc nghi vấn - cầu khiến cho thấy nỗi trăn trở và niềm mong
mỏi của người phụ nữ thật da diết, thành thực. “Tan ra” là dâng hiến, hy sinh, là hóa thành “trăm
6
Kiến thức cơ bản Ngữ văn 12 – GV Phạm Thị Cẩm Loan
con sóng nhỏ” giữa đại dương mênh mông của tình. Bởi thế khi yêu con người luôn khắc khoải, trăn
trở. Nỗi trăn trở đã thành bức bách, thôi thúc: Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ trong đại
dương bao la, vô tận kia để được tồn tại mãi, sống mãi và yêu mãi. Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát
vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính.

You might also like