Professional Documents
Culture Documents
Tái hiện lại cuộc chia tay giữa người ở lại và người ra đi với những lời gợi nhắc về quá khứ và những kỉ niệm
của 15 năm gắn bó gian khổ. Việt Bắc hiện lên trong những hoài niệm đầy cay đắng, gian khổ nhưng tình nghĩa
mặn nồng. Bao trùm lên cả bài thơ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ của cả người ở lại và người ra đi. Trong tâm thức của
người ra đi, nỗi nhớ về Việt Bắc hiện lên với những cung bậc đa dạng, nhiều nhiều: nhớ con người, cuộc sống
Việt Bắc; Nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc; nhớ về cuộc kháng chiến anh hùng và nhớ cả những ngày đầu độc
lập. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được mối quan hệ và sự gắn bó keo sơn, cá nước giữa nhân dân Việt Bắc
với những người cán bộ cách mạng. Bài thơ được viết theo kết cấu đối đáp của ca dao trữ tình với sự luân phiên
của người ở lại và người ra đi tạo cho bài thơ sự nhịp nhàng, đăng đối. Cách xưng hô mình - ta quen thuộc trong
ca dao với sự biến đổi linh hoạt giữa mình với ta; ngưởi ở lại có lúc là mình, có lúc là ta; người ra đi lúc là ta, lúc
là mình tạo ra tình cảm thân mật, tha thiết. Tác giả sử dụng thể thơ lục bát - thể thơ đặc sắc của dân tộc, với
những luyến láy, vần điệu nhịp nhàng khiến cho nỗi nhớ trong bài thơ càng trở nên nồng nàn, sâu đậm. Đoạn
trích sử dụng nhiều từ láy, tượng hình giàu hình ảnh.
“Việt Bắc” không chỉ là câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ kể về cuộc chia tay giữa
người cán bộ kháng và đồng bào Việt Bắc mà nó còn cho người đọc thấy được mười lăm năm chiến đấu khó
khăn, gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Bởi lẽ đó mà đã bao năm nay Việt Bắc vẫn luôn có một vị trí nhất
định trong tâm chí độc giả.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Trong gia tài văn học đồ
sộ của mình tác giả đã từng thử sức qua rất nhiều thể loại như thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng...
Nhưng có lẽ đến với thể loại tùy bút đã đưa tài năng của Nguyễn Tuân lên một tầm cao mới. Điều này đặc biệt đã
được tác giả thể hiện qua tập tùy bút Sông Đà.
Có thể nói Nguyễn Tuân là một ngòi bút tài hoa và uyên bác. Tập tùy bút Sông Đà là kết quả của chuyến đi của
tác giả lên vùng Tây Bắc giai đoạn năm 1958-1960.
Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và hình tượng người lái đò trên dòng
sông quanh năm dữ tợn thách thức với con người. Với ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà
giang mang hai sắc thái, hai bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo những cũng cũng không kém phần trữ
tình, thơ mộng.
Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành
những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất
cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà ai đi qua cũng phải đối mặt.
Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái
trước từng con con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông.
Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông Đà bố
trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng
sông”, biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con thuyền nghênh
ngác phải tan xác dưới lòng sông.
Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo
để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ
đẹp của người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ mộng, tình yêu như đang
tràn với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình...cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân".
Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người đến với những rung cảm trong tâm
hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương
như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng
biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa
làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”.
Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc nước đổi thay theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì
mỗi độ thu về".
Khép lại Tùy bút Sông Đà, người đọc như được trải nghiệm không gian hùng vĩ cũng như vẻ đẹp nên thơ của
cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Qua đó tác giả cũng ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân
lao động nơi đây cũng như tình yêu thương yêu quê hương đất nước con người Việt Nam.
Dưới ngòi bút miêu tả tài tình của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên với 2 vẻ đẹp đối lập nhau, con sông Đà có
lúc dữ dằn “hung bạo” nhưng chốc lại dịu dàng thơ mộng, hùng vĩ. Phải có con mắt quan sát tỉ mỉ và tâm hồn tinh
tế, khéo léo lắm thì tác giả Nguyễn Tuân mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của con sông cũng như quá trình chuyển
đổi phức tạp ấy. Ngay từ đầu đoạn trích, con sông Đà hiện lên với vẻ hung bạo, dữ dằn, nhiều thác ghềnh và hiểm
trở, vẻ đẹp hùng vĩ của con sông Đà không chỉ có nhiều thác đá mà nó còn là những cảnh đá ở 2 bên bờ sông, đá
dựng vách thành và những bức thành đá cao thành chẹt lấy lòng sông hẹp như một cái yết hầu. Với cách so sánh
rất độc đáo, mới lạ nhưng cũng rất lạ lùng khi đem cái “yết hầu” của con người ra để ví von với những bức thành
đá cao lớn ép chặt lấy lòng sông Đà.
Cái hẹp của lòng sông Đà được tác giả mô tả hẹp theo đủ cách khác nhau nào là chỉ và đúng lúc “ngọ” giữa buổi
trưa, khi mặt trời lên cao nhất và chiếu thẳng xuống lòng sông thì lòng sông mới nhận được chút tia nắng ấm áp ít
ỏi và khi thời gian trôi đi thì những tia nắng ấy cũng dần biến mất, hay là chỉ cần đứng từ bên bờ bên này nhẹ tay
ném một hòn đá nhỏ cũng có thể qua đến vách đá bên kia bờ sông, hơn nữa có quãng hẹp đến nỗi con nai con hổ
cũng có lần đã vọt từ bên bờ bên này sang được bờ sông bên kia, hay mùa hè ngồi trong khoang đò đi qua quãng
sông ấy mà cũng cảm thấy mát lạnh, thấy mình như đứng ở một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ của
một tòa nhà cao tầng nào đó. Bằng việc so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ lạ lùng tác giả Nguyễn Tuân
như đã lục lọi hết cả kho từ ngữ phong phú của mình để tìm ra được những ngôn từ đắt giá nhất có thể làm kinh
động đến hồn trí người đọc khi miêu tả những vách đá bên bờ sông Đà.
Con sông Đà không chỉ có những vách đá dựng đứng mà ở quãng Hát Loong còn có hàng dài cây số nước và đá,
nước xô đá, đá xô sóng, sóng lại xô gió như một vòng tuần hoàn tự nhiên của con sông cứ lặp đi lặp lại và dòng
nước lúc nào cũng cuồn cuộn chảy xiết với những luồng gió gùn ghè quanh năm như đòi nợ bất kì một người nào
đi qua nó, bằng lối viết rất văn hoa, cấu trúc câu trùng điệp gợi lên hình ảnh một con sông Đà lúc nào cũng cuồng
nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn nuốt chửng bất kì con thuyền xấu số nào rơi vào trận địa mà nó đã bày sẵn.
Đến quãng Tà Mường, ta lại bắt gặp “những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị
làm móng cầu”, trên bề mặt cái hút ấy lúc nào cũng xoáy tít xuống tận đáy và quay lừ lừ chỉ chẹc có con thuyền
nào đi qua là “lôi tuột” ngay xuống đáy sông và đánh chúng tan xác ngay lập tức, hay âm thanh của tiếng nước kêu
và thở ừng ực như cái cống bị sặc. Với lối so sánh độc đáo, sử dung những từ ngữ miêu tả rất chân thực sống động
khiến con sông Đà hiện lên như một loài thủy quái luôn gầm gừ đe dọa với những âm thanh ghê rợn có thể khủng
bố tinh thần bất cứ ai và uy hiếp con người.
Không chỉ miêu tả hình ảnh những vách đá dựng đứng, những cái hút nước sâu hút hay hơi thở ừng ực của dòng
nước cuồn cuộn, con sông Đà còn phối hợp hài hòa với âm thanh réo rắt của những thác nước, Nguyễn Tuân như
một nhạc trưởng đang đắm mình điều khiển giàn nhạc giao hưởng hùng tráng của sông Đà với bài ca của sóng hòa
âm với tiếng gió xô nước lên những vách đá. Tiếng thác nước réo rắt nghe như ai oán, oán trách điều gì, rồi lại van
xin, khiêu khích hay gằn mình lên chế nhạo, thế rồi âm thanh được phóng đại lên bất ngờ như bừng lên cơn thịnh
nộ đỉnh điêm và “rống lên như hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa và rừng lửa
cũng gầm thét lên với nó”, tác giả Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của thác nước như một trận đánh kịch liệt, dữ
dội của tự nhiên.
Khi đến cái thác với sóng bọt trắng xóa cả một chân trời, và xung quanh đó là một trận địa đá bằng thủ pháp nghệ
thuật nhân hóa, tác giả như thổi hồn vào từng hòn đá khiến chúng trở nên chân thực và sống động. Trận địa đá với
kích cỡ đa dạng từ to đến nhỏ ấy đã “mai phục” ở lòng sông từ ngàn năm trước rồi , có hòn thì “nhổm cả dậy” khi
có chiếc thuyền nào đó nhô vào đường ngoặt của sông hay mặt hòn đá nào ở đây cũng trông “ngỗ ngược” như một
đứa trẻ bướng bỉnh hay “nhăn nhúm méo mó” hơn cả mặt nước cuộn sóng, những hòn đá muôn hình vạn trạng có
hòn “đứng” có hòn “nằm” hay “ngồi” tùy vào sở thích riêng của chúng. Qua ngòi bút miêu tả tài tình của tác giả
thì những hòn đá vô tri vô giác ấy như được thổi hồn vào một cách chân thực sống động khiến chúng giống như
những tên du côn hung dữ của thiên nhiên hoang dại. Những “tên du côn” ấy còn hống hách bày thạch trận trên
lòng sông để giăng bẫy mọi thứ đi qua con sông này, ở thạch trận thứ nhất bày ra năm cửa trận thì có đến 4 cửa tử
và chỉ duy nhất 1 của sinh ở giữa, bọn đá đứa thì hất hàm đứa thì thách thức trêu ngươi, đến cả mặt nước cũng hùa
vào với bọn đá ùa vào bẻ gãy cán chèo, sóng nước đá trái thúc gối vào bụng thuyền và hông thuyền. Thạch trận
thứ hai với sông nước cũng bài binh bố trận ở khắp nơi trên lòng sông, tăng nhiều cửa dinh cửa tử ở phía hữu ngạn
con sông, còn thạch trận thứ ba thì trái phải đều là luồng chết, duy chỉ có luồng sống ở ngay chính giữa. Qua đó, ta
thấy con sông Đà hung bạo hống hách như một loài thủy quái hết bày thạch trận lại đến thủy trận nhằm uy hiếp,
nuốt chửng những con thuyền trên lòng sông, nó như là “kẻ thù số 1” của con người nơi vùng Tây Bắc hùng vĩ,
nhờ vậy mà có thể tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa của tác giả với cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, độc đáo.
Hình ảnh con sông Đà hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân không chỉ mang vẻ “hung bạo, dữ dằn” mà còn ẩn
chứa nét thơ mộng, trữ tình. Dòng sông Đà không chỉ có những vách đá dựng đứng, những cái giếng hút sâu hoắm
hay những trận thạch bàn nguy hiểm mà còn là bức tranh thủy mặc vấn vương lòng người. Từ trên tàu bay nhìn
xuống, dòng sông Đà như cái sợi dây thừng ngoằn ngoèo không còn nét dữ tợn hung bạo nữa mà thay vào đó nó
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, cả đầu tóc và chân tóc như đang thoắt ẩn thoắt hiện trong làn mây trời xanh
thẳm rợp trời sắc trắng của hoa ban hay sắc đỏ của hoa gạo và cuồn cuộn mù lên những làn khói của những người
đốt nương xuân chuẩn bị canh tác. Như có một người vô hình điều khiển mà dòng nước sông Đà thay đổi theo
mùa, vào mùa xuân là sắc nước màu xanh ngọc bích, có lẽ sức sống xanh mơn mởn của cây cỏ mùa xuân đã
nhuộm cho dòng sông màu ngọc bích đẹp đến nao lòng như vậy. Nhưng mùa hạ qua đi khi mùa thu đến dòng sông
như cởi bỏ lớp áo cũ để khoác lên mình chiếc áo màu lừ lừ chín đỏ như da mặt một người say rượu hay giận dữ
việc gì đó.
Cứ mỗi mùa qua đi dòng sông Đà như được thay da đổi thịt, mỗi mùa nó mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp quyến rũ
tình tứ, thơ mộng đến xao xuyến lòng người. Nguyễn Tuân nhìn con sông Đà như một người cố nhân đã lâu không
gặp lại, tác giả say mê đến mức như sắp đổ ra sông Đà, nó mang vẻ gợi cảm nhưng trong con mắt mỗi người nó lại
được cảm nhận theo cách khác nhau. Cảnh ven 2 bên bờ sông lặng như tờ nhưng lại mộng mơ, quen thuộc với
những nương ngô mới nhú lên xanh mướt, bãi cỏ gianh góc kia đang nhú lên những búp xanh mơn mởn hay những
chú hươu cái cúi đầu bứt những búp cỏ xanh non vẫn còn đẫm sương mai rồi ngẩng đầu lên khỏi những áng cỏ
sương, bờ sông mang vẻ đẹp hoang dại của một bờ tiền sử cổ kính, hay hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xa
xưa. Bức tranh thơ mộng về sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả một cách tỉ mỉ, tinh tế bức tranh ấy có màu sắc,
hình ảnh hiện lên với nét hoang sơ nguyên thủy chưa có đôi bàn tay con người tác động.
Nếu có ai hỏi tôi hai tiếng thiêng liêng nhất mà tôi biết là gì, tôi chẳng ngần ngại mà trả lời là "Đất Nước". Chỉ
hai từ ngắn gọn nhưng mỗi khi vang lên ta thấy được sự cao cả, trang trọng nhưng lại rất đỗi bình dị và gần gũi.
Trong giai đoạn 1945 - 1975, "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm như một bản giao hưởng trầm hùng bay lên
với biết bao yêu thương cháy bỏng, ngân nga mãi cùng năm tháng. Hình ảnh thơ hiện lên xiết bao bình dị, gần
gũi, mang tính biểu tượng sâu sắc đúng với đất nước ta.
Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể
quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn
người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích
cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến
đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn
thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn
giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều sâu
văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai
bảo vệ và gìn giữ muôn đời?" Để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm
xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước.
1. Quan niệm của nhà thơ về cội nguồn Đất Nước: (từ đầu đến “Đất Nước có từ ngày đó”)
* Cảm nhận chung:
- Đất nước là một cảm hứng lớn của thơ ca thời đại chống Mĩ. Với cảm xúc yêu mến, tự hào, đất nước được tác
giả khám phá, cảm nhận và suy ngẫm trong một cái nhìn toàn vẹn từ nhiều bình diện: Thời gian lịch sử, không
gian địa lý, chiều sâu văn hóa, phong tục, lối sống và tâm hồn dân tộc. Từ đó làm nổi bật tư tưởng lớn: Đất
nước của nhân dân, khơi dậy ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước trong cuộc đấu tranh của dân
tộc.
* Cảm nhận đoạn thơ:
- Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có rồi. Đất Nước có từ khi ta
lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt 4000 năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển
nhiên. Nó có chiều sâu, cội nguồn cũng như sự hình thành phát triển bao đời nay.
- Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu
bằng “ngày xửa ngày xưa” mà các bà mẹ vẫn hay kể cho con cháu nghe.
- Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Mỗi câu chuyện là một bài học đạo lý
dạy ta “ở hiền gặp lành”, biết thiện biết ác, biết sống thủy chung.
-> Ý thơ không mới, nhưng cách nói cách thể hiện có nhiều điểm mới, vừa quen vừa lạ.
Tác giả không dùng những từ ngữ, hình ảnh mỹ lệ mang tính biểu tượng thể hiện đất nước mà dùng cách
nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta hiểu đất nước có từ nền văn hóa
dân gian, cha ông ta để lại.
- Tác giả cảm nhận đất nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc.:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu, bây giờ bà ăn
- “Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “Sự tích trầu cau” khiến ta rưng nước mắt về tình cảm vợ
chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh trầu cao trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới,
trở thành “Miếng trầu là đầu câu chuyện” tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.
- Đất nước được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
+ Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí chống
giặc. Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra: “Tre giữ làng, giữ nước,
giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
+ Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên dáng và thật đáng yêu.
- Đất Nước được cảm nhận trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nghĩa như gừng cay muối
mặn:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
+ Hình ảnh gợi nhớ đến câu thơ: “Tay bưng đĩa muối, chén gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.
Dù cay đắng, gian nan nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, tha
thiết.
- Đất Nước còn gắn với cách gọi tên cái kèo, cái cột khi dân ta biết làm nhà để che mưa che nắng, là quá trình
lao động cần cù, vất vả của con người để mưu sinh:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
+ Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp “xay”, “giã”, “giần”, “sàng” gợi lên sự vất vả
triền miên của người nông dân trên đồng ruộng. Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước, lấy hạt gạo làm gia
bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có được hạt gạo, để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc.
- Cấu trúc câu thơ: “Đất Nước đã có... , Đất Nước có... , Đất Nước bắt đầu... , Đất Nước lớn lên... , Đất Nước
có từ...” cho phép ta hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên và trưởng thành của đất nước trong tâm thức con
người Việt Nam bao thế hệ.
Đánh giá: Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giọng thơ trữ tình, câu
thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tự nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các
chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ. Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì
bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên
một chân dung trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.
2. Khái niệm Đất Nước, mối quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân (từ Đất là nơi anh đến
trường đến Làm nên Đất Nước muôn đời)
a. Khái niệm Đất Nước: (Từ Đất là nơi anh đến trường đến Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ)
- Trong những năm tháng Mỹ ngụy còn chiếm đóng, các đô thị miền Nam chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng văn
hóa nô dịch và phản động, việc nhận thức lại khái niệm Đất Nước và bản chất của Đất Nước là vô cùng cần
thiết.
- Nguyễn Khoa Điềm không giải thích một cách chung chung, trừu tượng mà dùng cách phân tách rồi tổng hợp
nhiều lần để cụ thể hóa khái niệm Đất Nước, để phát hiện ra Đất Nước trong nhiều chiều, nhiều mặt: thời gian
lịch sử đằng đẵng, không gian địa lý mênh mông, phong tục tập quán muôn màu muôn vẻ:
Đất là nơi anh đến trường
...
Nước là nơi Rồng ở
- Mỗi câu thơ là một định nghĩa, một khám phá về Đất và Nước. Có những hình ảnh giản dị đến bất ngờ khiến
ta ngạc nhiên: “nơi ánh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi ta hò hẹn”... Tác giả cảm nhận Đất Nước là kỉ niệm
tuổi thơ, là tình yêu buổi ban đầu nồng nàn, trong sáng, là nỗi nhớ sâu đậm trong lời ca dao nổi tiếng: “Khăn
thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai/Khăn vắt lên vai/Khăn thương nhớ ai/Khăn chùi nước
mắt”.
- Khái niệm Đất Nước được nhận thức ở những tầng bậc mới cụ thể mà toàn diện, sâu sắc thấm thía hơn bởi
cách nói khép lại và mở ra, liên tưởng và hồi nhớ, thực tế và sách vở hòa quyện.
- Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ nhắc đến huyền thoại “Con Rồng cháu Tiên”, “Lạc Long Quân”, “Âu
Cơ”. Đây là một sự suy ngẫm nghiêm túc, chân thành về cội nguồn của dân tộc.
- Hai câu thơ:
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính hướng về cội nguồn trong sự ngưỡng vọng.
+ Từ “Tổ” có nghĩa là cội nguồn, suy rộng ra là nòi giống dân tộc, đất nước, nói hẹp là gia đình, dòng họ. Ở
đây tác giả có cách nói mới giản dị mà sâu sắc lấy ý từ câu ca dao:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Tóm lại: Với cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng, với những hình ảnh cụ thể, tiêu biểu trong văn học dân
gian, Nguyễn Khoa Điềm đã giải thích khái niệm Đất Nước thật rõ ràng dễ hiểu mà không kém phần hấp
dẫn. Từ đó nhà thơ khẳng định: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng
và cá nhân, giữa hiện thực và huyền thoại... Mỗi người không thể không có trách nhiệm với Đất Nước.
b. Bàn về mối quan hệ giữa Đất Nước và cá nhân (Trong anh và em hôm nay... Đất nước muôn đời)
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
+ “Anh” là nhân vật trữ tình nhà thơ, “em” là nhân vật tác giả tạo ra để tâm tình, chính là tuổi trẻ - đối tượng
mà nhà thơ đang hướng tới.
+ Nguyễn Khoa Điềm nghĩ về Đất Nước sâu sắc và thấm thía trong cảm xúc ân nghĩa của thế hệ sau với những
lớp người đi trước. Chúng ta được thừa hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do cha ông để lại nên trong
mỗi chúng ta “đều có một phần Đất Nước”. Bằng cách lí giải này, nhà thơ giúp ta hiểu Đất Nước thật gần gũi,
thân thiết ngay trong mỗi con người chúng ta.
+ Nói như thế cũng là để khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người.
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa, nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
+ Hình ảnh “hai đứa cầm tay” gợi tả sự gắn bó thắm thiết của đôi lứa yêu nhau, là hình ảnh tượng trưng cho
hạnh phúc tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là một phần của Đất Nước. “Sự hài hoàm
nồng thắm” ấy có tác dụng khắc sâu mối hòa hợp, thân ái giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất giữa tình
yêu đôi lứa và tình yêu Đất Nước.
+ Với cách sử dụng các tính từ đi liền nhau: hài hòa nồng thắm, vẹn tròn to lớn trong kiểu câu có cặp đối xứng
về ngôn từ: “Khi... Đất Nước.../ Khi... Đất Nước...”, kết hợp với nghệ thuật tăng tiến: từ hai đứa cầm
tay đến “chúng ta cầm tay mọi người, từ Đất Nước... hài hòa nồng thắm” đến “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, tác
giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp: Đất Nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình
yêu Tổ quốc, giữa cá nhân và cộng đồng. Sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh để dân tộc vượt qua mọi thử thách,
chiến thắng mọi kẻ thù.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
+ Các cụm từ “mang Đất Nước đi xa”, “những tháng ngày mơ mộng” phác họa hình ảnh Đất Nước tươi đẹp,
huy hoàng, phồn vinh, thịnh vượng ở tương lai. Đồng thời biểu thị một niềm tin mãnh liệt vào tài, đức của thế
hệ trẻ Việt Nam. Soi vào thực tế, ta thấy khát vọng của nhà thơ đã thành hiện thực. Giữa những tháng ngày gian
khổ hi sinh chống quân xâm lược, tác giả vẫn vững niềm tin vào tương lai dân tộc. Điều đó giúp ta hiểu giá trị
của niềm tin, niềm lạc quan trong cuộc sống giúp con người đi tới thành công.
Em ơi Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
+ Nghệ thuật liên tưởng, liệt kê “máu xương”, “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” kết hợp với điệp ngữ “phải
biết” và lời gọi ngọt ngào, trìu mến “Em ơi em” làm cho giọng điệu thơ giàu chất chính luận, chất trí tuệ mà
vẫn trữ tình tha thiết.
+ Các từ “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” có sức gợi rất lớn, khiến mỗi con người phải trăn trở, suy ngẫm.
_ “Gắn bó” là biết đồng cam cộng khổ với nhân dân, không sợ khó, sợ khổ, dám đứng về phía dân chống
lại kẻ thù. Không chê nước nghèo, nước lạc hậu do chiến tranh liên miên, dám vươn lên từ trong gian khó, cống
hiến sức lực, tài năng, góp phần bảo vệ, xây dựng Đất Nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
_ “San sẻ” là biết chia bùi sẻ ngọt, biết sống nghĩa tình Lá lành đùm lá rách, yêu thươn giúp đỡ mọi người
lúc khó khăn. Biết gánh vác trách nhiệm của một công dân với Đất Nước.
_Từ “hóa thân” có nghĩa là biến đi rồi hiện lại thành một người hoặc một vật cụ thể khác nào đó. Cụm từ
“hóa thân cho dáng hình xứ sở” nói đến hi sinh của mỗi con người làm nên hình hài, dáng vẻ, sự trường tồn
vĩnh cửu của Đất Nước, ý nghĩa của từ này sâu sắc hơn từ hi sinh. Ý thơ gợi nhớ bài thơ “ Dáng đứng Việt
Nam” của Lê Anh Xuân:
Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường.
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ
…
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
Tóm lại: Đoạn thơ là lời tự nhủ, tự khuyên mình của nhà thơ, cũng là lời căn dặn, nhắn gửi thế hệ trẻ
phải có trách nhiệm với Đất Nước, phải sống hết mình, sống cho ra sống, sống để bảo vệ, tô điểm, làm
đẹp cho Đất Nước muôn đời. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình bộc lộ một tình yêu quê hương đất nước cháy
bỏng.
3. Lí giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân (phần còn lại)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
- Để chứng minh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, nhà thơ đưa hàng loạt dẫn chứng bằng hình ảnh, sự việc,
con người, câu chuyện dân gian, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước,
những tên làng, tên núi, tên sông... Tất cả đều có bàn tay, máu xương của lớp lớp con người Việt Nam tạo dựng,
giữ gìn và hi sinh cho sự trường tồn của Đất Nước và dân tộc.
+ Các điệp từ “những”, “góp” nhấn mạnh vào số lượng nhiều người, nhiều đối tượng cùng đóng
góp làm nên Đất Nước.
+ Những hình ảnh quen mà lạ: “núi Vọng Phu” xứ Lạng, “hòn Trống Mái” ở Thanh Hóa, “gót ngựa Thánh
Gióng” để lại ao đầm vùng Sóc Sơn, “chín mươi chín con voi dựng đất Tổ Hùng Vương”, “con rồng nằm im
góp dòng sông…” – sông Cửu Long ở miền Nam, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Nam, “con cóc, con gà quê
hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, “những người dân góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm” được nhắc đến một cách tự nhiên, thú vị trong cảm xúc chân thành và suy tư sâu lắng của nhà thơ nhằm
khẳng định chân lí: Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước, là chủ nhân đích thực và muôn đời của Đất
Nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
…
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
- Các từ “ruộng, đồng, gò, bãi” chỉ Đất Nước, nơi nào cũng in dấu người xưa. “Dáng hình” ông cha để lại cho
cháu con phải chăng là dáng hiên ngang không khuất phục bất cứ kẻ thù nào? “Ao ước” của ông cha phải chăng
là ao ước về một cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc? “Lối sống” ông cha phải chăng là lối sống cần cù, giản
dị, khiêm tốn, thật thà, thủy chung tình nghĩa...?
- Cảm xúc trào dâng khiến tác giả thốt lên thành lời khẳng định: “Và ở đâu...chẳng mang...”, thành tiếng gọi:
“Ôi Đất Nước...” để bày tỏ niềm tự hào, xúc động trước những cuộc đời, những con người đã hóa thân cho Đất
Nước.
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
...
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
- Tiếng gọi tha thiết “Em ơi em” với lời khuyên “Hãy nhìn rất xa/ Vào bốn nghìn năm Đất Nước” cho thấy tấm
lòng và dụng ý nhà thơ muốn thức tỉnh tuổi trẻ bằng lịch sử bốn ngàn năm hào hùng
của dân tộc.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
- Nhà thơ khích lệ tuổi trẻ bằng cách so sánh kín đáo: “Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm
lụng…”. Hai từ láy đi liền nhau làm nổi bật phẩm chất “cần cù” và điều kiện sống vất vả, lam lũ “làm lụng” của
những lớp người đi trước.
- Hình ảnh “người con trai ra trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con” và “giặc đến nhà thì đàn bà cũng
đánh” đã cụ thể những việc làm mang tính đặc trưng của mỗi giới. Tác giả đặc biệt ngợi ca người phụ nữ Việt
Nam “kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
- Để thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả không nêu tên hoặc nhắc lại những chiến tích lẫy lừng
của các anh hùng tên tuổi mà có dụng ý chứng minh bằng những anh hùng vô danh:
Có biết bao người con gái, con trai
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ “Họ” ở đây là “những người con gái con trai. Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”. Họ đều trẻ
trung, tương lai phơi phới nhưng họ biết vì Đất Nước mà quên thân mình. Họ sống giản dị mà hữu ích và chết
thanh thản bởi họ biết chết cho lí tưởng của dân tộc.
+ Các cặp từ sóng đôi: “sống” và “chết”, “giản dị” và “bình tâm” tạo điểm nhấn ngợi ca những con người hi
sinh thầm lặng.
-> Đất Nước với các nhà thơ khác là của huyền thoại và anh hùng còn với Nguyễn Khoa Điềm là của
những anh hùng vô danh, của nhân dân. Bằng những cuộc đời thầm lặng, vô danh, nhân dân đã tạo nên
giá trị vĩ đại và trường cửu đó là Đất Nước.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Bằng nghệ thuật liệt kê, điệp đại từ “họ” và sử dụng nhiều động từ liên tiếp “giữ, truyền, chuyền, truyền, gánh,
đắp đập, be bờ”, nhà thơ muốn tôn vinh nhân dân và cụ thể hóa những việc làm thiết thực, lớn lao của nhân
dân, tạo nên giá trị vật chất và tinh thần để lại cho con cháu muôn đời:
+ Từ buổi sơ khai của con người, “lửa” là một nhân tố quan trọng và cần thiết đưa loài người vượt hẳn lên một
giá trị khác, tách xa loài vật. Từ “lửa” ở đây hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: lửa duy trì sự sống và ngọn
lửa văn hóa, truyền thống dân tộc.
+ Khi phát triển cây lúa nước, với người Á Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, “lửa” và “lúa” là hai
thứ tối cần thiết cho cuộc sống. Bởi vậy giữ gìn “lửa” và “lúa” là giữ gìn sự sống còn của cộng đồng. Đó là
cuộc chiến đấu sinh tử giữa con người và thiên nhiên. Nguyễn Khoa Điềm trân trọng và biết ơn nhân dân.
+ Với tinh thần dân tộc cao cả, luôn khát vọng duy trì bản sắc dân tộc, cha ông ta mới “truyền giọng nói, gánh
theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Nghĩa là giữ tiếng nói của dân tộc mình, giữ bản sắc của làng
quê, của đất nước để con cháu biết cội biết nguồn. Nhân dân trong thời đại nào cũng vậy, lao động, chiến đấu,
sống, chết giản dị, vô danh. Đánh giặc xong lại trở về với mảnh vườn thửa ruộng, cần cù, lam lũ với con trâu,
cái cày. Nhân dân vĩ đại là ở đó. Nhân dân không chỉ làm nên lịch sử, nhân dân còn sáng tạo văn hóa. Chính
nhân dân làm ra Đất Nước, Đất Nước thuộc về nhân dân.
+ Câu thơ “Đất Nước của nhân dân. Đất Nước của ca dao thần thoại.” hai lần nhấn mạnh chủ nhân của Đất
Nước này là nhân dân vì “ca dao thân thoại” là do nhân dân sáng tạo nên. “Đất nước của ca dao thần thoại”
cũng chính là “Đất Nước của nhân dân”
* Khi nghĩ về truyền thống dân tộc, tác giả chọn ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất:
Tình yêu, tình nghĩa và tinh thần chống giặc:
+ Say đắm trong tình yêu: “Yêu em từ thuở trong nôi”
+ Quý trọng tình nghĩa: “Quý công cầm vàng những ngày lặn lội”.
+ Kiên trì, nhẫn nại, quyết liệt trong căm thù và chiến đấu:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
-> Những câu thơ lấy ý từ ca dao càng khẳng định rõ hơn tư tưởng Đất Nước nhân dân vì ca dao nói
riêng, văn học dân gian nói chung là sản phẩm do nhân dân sáng tạo, là tâm hồn, tư tưởng, là trí tuệ,
khát vọng, là lời ăn tiếng nói của nhân dân.
- Đoạn thơ cuối tiếp tục gợi bản sắc văn hóa dân tộc:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
…
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
+ Hình ảnh những dòng sông đã đi vào thơ ca từ xưa đến nay. Khi làm nông nghiệp, cuộc sống con người
thường gắn với những dòng sông.
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi (ca dao)
+ Sông đi vào tâm hồn nhân dân, là biểu tượng của nước Việt. Hơn nữa từ lâu, trong ý thức dân gian, sông còn
mang ý nghĩa của sự sống, của tình yêu thương và khát vọng. Đáng tiếc ngày nay vì lợi nhuận, người ta đang
đầu độc nhiều con sông. Nó nhắc nhở chúng ta phải có trách nhiệm góp phần bảo vệ những dòng sông, trả lại
cho dòng sông màu xanh thơ mộng, nước ngọt trong lành.
+ Câu thơ cuối bài là cách diễn đạt hình tượng của thơ ca về sự đa dạng của các dòng chảy văn hóa trên một đất
nước. Nó làm cho nền văn hóa của ta trở nên vô cùng phong phú, đa dạng: “Gợi trăm màu trên trăm dáng sông
xuôi”
-> Chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm giữ gìn sự phong phú, giàu có của nền văn hóa dân tộc. Khi
viết chương thơ Đất Nước (cũng như trường ca Mặt đường khát vọng), mục đích của Nguyễn Khoa Điềm
là để thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ ở các đô thị miền Nam trong những ngày ác liệt của cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước, mong họ dứt khoát trong sự lựa chọn đứng về phía nhân dân, phía cách
mạng. Cho đến nay, tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị.
Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện: từ văn hóa - lịch sử, địa lí - thời gian đến không gian của đất
nước. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình. Cái
nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh
bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất nước. Tác giả lựa chọn thể thơ
tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về
hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên. Sử dụng các
chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục - tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể
loại của văn học dân gian như ca dao - dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích,...Điều đặc biệt là tác giả sử
dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu
về thi liệu dân gian ấy. Giọng thơ trữ tình - chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng
của người trí thức về đất nước và con người.
Đề tài về đất nước luôn luôn là một cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền văn học của một dân tộc mà tình
yêu nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành công về đề tài này đã nhiều nhưng “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm vẫn có một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách riêng, góp vào vườn thơ về
đất nước bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời, muôn thế hệ.
Năm tháng trôi qua, nhiều thứ đã trở thành dĩ vãng tuy nhiên những giá trị thì vẫn trường tồn cùng thời gian và
gây ấn tượng sâu sắc với thế hệ đi sau. Có thể lúc bấy giờ có rất nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, nhưng mãi
sau này chúng ta vẫn còn ấn tượng và yêu quý nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng tác phẩm Ai đã đặt tên
cho dòng sông và hình ảnh con sông Hương mang những vẻ đẹp khác nhau.
Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của
dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên
nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích
lũy cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của
dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong
không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài
hoa, mê đắm.
Hương trên mọi phương diện: văn hóa, lịch sử, địa lí. Nhưng hơn hết, đằng sau những câu chữ này ta còn cảm
nhận được tình yêu Huế, yêu sông Hương tha thiết chân thành của ông. Đồng thời qua bài bút kí này ta cũng
càng thấy rõ hơn nữa tài năng nghệ thuật bậc thầy của ông.
Năm tháng trôi qua, nhiều thứ đã trở thành dĩ vãng tuy nhiên những giá trị thì vẫn trường tồn cùng thời gian
và gây ấn tượng sâu sắc với thế hệ đi sau. Có thể lúc bấy giờ có rất nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, nhưng
mãi sau này chúng ta vẫn còn ấn tượng và yêu quý nhà thơ Quang Dũng cùng hình ảnh người lính Tây Tiến
- Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ
biên giới Việt - Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.
- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến, là đại đội trưởng. Cuối năm
1948, Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây).
- Chủ đề bài thơ: Ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng
chiến chống Pháp, thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây
Bắc một thời gắn bó.
Nhớ những cuộc hành quân gian khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội: (14 câu đầu)
a. Hai câu đầu: Khái quát nỗi nhớ
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Đoạn thơ đầu diễn tả nỗi nhớ của Quang Dũng gắn liền với sông Mã, với núi rừng Tây Bắc, với những vùng
đất lạ, hoang sơ, hùng vĩ và đặc biệt với đoàn quân Tây Tiến trong những cuộc hành quân gian lao mà kiêu
dũng.
Tác giả phối hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật để bày tỏ nỗi nhớ:
- Bài thơ mở đầu bằng một lời gọi tha thiết: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”. Sông Mã còn gọi là sông La, chảy
qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Con sông lưu giữ nhiều kỷ niệm về đồng đội cũ, được nhắc đến như một
cái cớ khơi gợi cảm xúc, như nhịp cầu nói ký ức của Quang Dũng với Tây Tiến. Câu hai là không gian
hoài niệm của tâm hồn: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
+ Điệp từ “nhớ” như hai nốt nhấn khiến câu thơ đong đầy nỗi nhớ cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. + “Nhớ
rừng núi” là nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, nhớ con đường hành quân cũng là nhớ về Tây Tiến.
+ Từ láy “chơi vơi” rất sáng tạo, diễn tả cảm giác bồng bềnh, huyền ảo, lơ lửng. Dường như nỗi nhớ xóa nhòa
khoảng cách thời gian, không gian, đưa con người đắm vào quá khứ, sống với kỷ niệm. Một nỗi nhớ mênh
mang, đầy ắp.
+ Điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”, “chơi”, “vơi”, “hơi” tạo âm hưởng mênh mang như kéo dài thêm nỗi
nhớ, tô đậm âm hưởng chủ đạo của toàn bài.
b. Nỗi nhớ được khắc họa cụ thể:
* Nhớ thời tiết Tây Bắc khắc nghiệt:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
- Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “i” không chỉ gợi bao cảm xúc nhớ thương mà còn tạo ấn tượng
về sự xa xôi, heo hút, hoang vu, bí ẩn của những vùng đất lạ, chứ đựng nhiều khó khăn, thử thách ý chí con
người.
- Hình ảnh “sương lấp” và “đoàn quân mỗi” là những hình ảnh miêu tả hiện thực. Các chiến sĩ tây tiến vất vả
hành quân trong sương mù lạnh giá. Sương giăng giăng che lấp cả đoàn quân. Chữ “mỏi” nói lên bao gian khó
mà người lớn phải trải qua.
- Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi thật đẹp”, vừa khắc họa vẻ thơ mộng của núi rừng Tây Bắc vừa gợi nét lạc
quan ở những người lính trẻ và chất lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng.
=> Ngay từ bốn câu mở đầu, Quang Dũng đã tạo được âm điệu thơ sâu lắng. Nhà thơ đã kết hợp hài
hòa chất hiện thực và lãng mạn, thể hiện một ngòi bút tài hoa, phóng khoáng.
* Nhớ địa hình Tây Bắc hiểm trở:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
- Đây là đoạn thơ miêu tả rất thật con đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến với núi cao, vực
sâu, đèo dốc hiểm trở, cheo leo. Và sánh ngang với núi rừng hùng vĩ là tinh thần quả cảm của người lính.
- Tác giả phối hợp tài tình các biện pháp nghệ thuật đặc sắc:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
+ “Điệp từ “dốc” và cặp từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh co, hiểm trở của dốc núi Tây Bắc.
Đường lên rất cao và đường xuống rất sâu.
+ Câu thơ có bảy chữ mà có năm chữ mang thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, vừa gợi con đường gập ghềnh,
cheo leo vừa gợi liên tưởng đến hơi thở gấp gáp của người lính khi vượt dốc.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
+ Từ láy “heo hút” gợi nét hoang sơ, vắng vẻ, đồng thời vẽ ra thế núi hùng vĩ. Núi Tây Bắc rất cao, ngập vào
trong những cồn mây
+ “Súng ngửi trời” là một hình ảnh được nhân hóa, thật thú vị, vừa tả độ cao của núi, của dốc như cao đến tận
trời vừa thể hiện nét tinh nghịch đậm chất lính của Quang Dũng.
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
+ Điệp ngữ “ngàn thước” nhấn vào con số ước đoán phỏng chừng, gợi cái vô cùng vô tận.
+ Câu thơ như bị bẻ làm đôi bởi nghệ thuật đối diễn tả hay sườn núi dốc dựng đứng, vút lên cao rồi đổ xuống
rất sâu, nguy hiểm mà cũng thật ấn tượng.
“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”
+ Hình ảnh mở ra một không gian. Người lính tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa. Trong màn
mưa giăng mịt mù, những ngôi nhà sàn của người dân tộc như bồng bềnh ẩn hiện.
+ Câu thơ toàn thanh bằng gợi tả niềm vui, một chút bình yên trong tâm hồn người lính.
=> Bốn câu thơ này phối hợp với nhau thật hài hòa. Sau những câu thơ vẽ bằng những nét gân guốc là
câu thơ vẽ bằng nét mềm mại. Sự phối hợp bằng trắc của nhà thơ cũng giống như cách sử dụng những
gam màu trong hội họa. Giữa những gam màu nóng, tác giả dùng một gam màu lạnh, làm dịu khổ thơ.
Đó cũng là bằng chứng “Thi trung hữu họa” trong thơ Quang Dũng.
* Nhớ những ngày gian khổ, hi sinh của đồng đội:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
- Nỗi nhớ của Quang Dũng hướng về những đồng đội đã hy sinh, những hiểm nguy thường gặp, kể cả những
kỷ niệm khó quên với đồng bào Tây Bắc trên đường hành quân.
- Tác giả sử dụng các thủ pháp nghệ thuật phù hợp: từ láy “dãi dầu”, nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu
ngày. Người lính phải hành quân triền miên trong thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, thiếu thốn đủ mọi
thứ, nhiều người kiệt sức vì đói vì, mệt mỏi quá độ.
- Nghệ thuật nói giảm “không bước nữa”, “bỏ quên đời” diễn tả cái chết nhẹ nhàng, người lính hy sinh trong
tư thế đang bước đi với tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Cách nói này thể hiện thái độ trân trọng,
tự hào của tác giả về đồng đội.
- Các từ láy nhấn mạnh “chiều chiều”, “đêm đêm” chỉ thời gian nhiều chiều, nhiều đêm, người lính Tây Tiến
phải đối mặt với những hiểm nguy chốn núi rừng Tây Bắc.
* Nhớ tình cảm sâu nặng của người dân Tây Bắc:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
- Từ cảm thán cùng phép đảo ngữ “Nhớ ôi Tây Tiến” nhấn mạnh nỗi nhớ thấm thía, sâu sắc của tác giả.
- Hình ảnh “cơm lên khói” vừa chân thật vừa trữ tình, quyện với mùi hương “thơm nếp xôi” rất đặc trưng của
vùng đất Mai Châu đã khắc họa nghĩa tình quân dân thật ấm áp.
- Cách dùng từ sáng tạo “mùa em” gợi nét trẻ trung thể hiện tình cảm sâu nặng chất chứa trong lòng nhà thơ.
=> Giữa bao gian khổ, khó khăn, thử thách khắc nghiệt đã thành ấn tượng thì niềm vui dù ít ỏi càng
đáng nhớ hơn. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Nỗi
nhớ “chơi vơi” đã được gợi lên thành “Nhớ ôi Tây Tiến…” - một nỗi nhớ sâu đậm chỉ có những con
người sống nghĩa tình chân thật.
Tóm lại, qua 14 câu thơ đầu, với sự kết hợp hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lại cảnh núi
rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội trong nỗi nhớ miên man đầy ắp. Đoàn quân Tây Tiến đã vượt qua những
chặng đường dài vô cùng gian khổ, có mất mát, hy sinh nhưng vẫn ánh lên niềm tin nét trẻ trung, kiêu
dũng.
2. Nhớ đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào, nhớ cảnh sông nước miền Tây thơ mộng
a. Nhớ đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
- Cảnh đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào địa phương được nhà thơ miêu tả bằng những chi tiết rất
chân thực mà cũng rất thơ mộng:
- Cả doanh trại bừng sáng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đốt, âm
thanh réo rắt của tiếng khèn, cảnh vật và con người đều như nghiêng ngả, ngây ngất.
- Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn cước. Họ bất ngờ hiện ra trong
những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, dịu dàng, vừa tình tứ trong vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ, thu hút những
chàng trai Tây Tiến.
- Hai tiếng “kìa em” như một tiếng reo vui với cái nhìn ngạc nhiên thú vị, tinh nghịch của các chàng lính trẻ.
- Tuy say trong tiếng nhạc nhưng người lính không quên nhiệm vụ thiêng liêng của mình là tiến về phía trước,
phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt Lào. Bởi thế mà “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
=> Giọng thơ vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung.
b. Nhớ cảnh sông nước miền tây thơ mộng, trữ tình:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lao nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
- Cảnh sông nước Tây Bắc gợi cảm giác mênh mông, huyền ảo, xao xuyến lòng người.
- Cụm từ “chiều sương ấy” gợi nhớ về một chiều sương năm nào gắn với bao kỷ niệm.
- Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy” cùng các câu hỏi tu từ “có thấy…”, “có nhớ” cho ta
biết cảnh và người miền Tây đang hiện về trong ký ức nhà thơ. Tác giả hỏi người mà chính là hỏi lòng mình,
nói với chính mình. Hỏi mà thực chất khẳng định nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm hồn nhà thơ.
- Các cụm từ:
+ “hồn lau” chỉ ngàn vạn bông lau phất phơ xào xạc trong gió như có hồn người.
+ “dáng người trên độc mộc” chỉ hình dáng mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái lái chiếc thuyền
độc mộc vượt dòng nước lũ trên sông Mã.
+ “hoa đong đưa” chỉ những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ. Từ “đong đưa” tình tứ
hơn, có hồn hơn so với từ “đung đưa”.
-> Những đường nét thanh thoát, sắc màu tươi tắn làm hiện lên hình ảnh dòng sông trong một buổi
chiều sương, bến bờ lặng tờ, hoang dại, nổi bật dáng uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc
mộc cùng những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.
=> Đoạn thơ như đưa ta vào thế giới của cái đẹp, của âm nhạc khiến ta say mê cùng người lính Tây
Tiến. Ở đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện đến mức có thể tách biệt, đúng như nhà thơ
Xuân Diệu đã từng nói rằng: đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.
3. Chân dung người lính Tây Tiến
Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội và duyên dáng mỹ lệ của núi rừng miền Tây, hình tượng người lính Tây Tiến
xuất hiện thật phi thường. Đó là một vẻ đẹp đậm chất bi tráng.
a. Phi thường ở diện mạo:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
- Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” là một hình ảnh thật chứ không phải tưởng tượng. Lính Tây Tiến,
người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Họ
vẫn không rời đội ngũ.
- “Quân xanh màu lá” cũng là một hình ảnh thực vừa chỉ màu da xanh xao của người lính bị sốt rét rừng hành
hạ vừa chỉ màu lá ngụy trang che mắt địch của đoàn quân.
- Nghệ thuật ẩn dụ, đối lập trong câu “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” làm rõ phẩm chất kiên cường của người
lính Tây Tiến. Cái vẻ xanh xao vì sốt rét của họ, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên vẻ oai phong dữ
tợn của chúa tể sơn lâm nơi rừng thiêng. Họ không vì thiếu thốn, khó khăn mà nhụt chí chiến đấu, vẫn làm
cho kẻ thù phải khiếp sợ.
=> Không hề che giấu những khó khăn gian khổ, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hy sinh lớn lao của người
lính nhưng Quang Dũng cũng không miêu tả hiện thực một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc
lãng mạn khiến người đọc vừa cảm thương, vừa khâm phục, ngưỡng mộ những người lính dám hy sinh vì lý
tưởng cao đẹp.
b. Tâm hồn lãng mạn, hào hoa:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- Hình ảnh “mắt trừng” là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn để chỉ sự trắn trọc khó ngủ vì nhớ nhà,
nhớ quê, nhớ người thương của các chiến sĩ Tây Tiến. Dù nhớ như vậy nhưng họ vẫn không xa rời rồi ngũ.
Cũng có người hiểu “mắt trừng” là hình ảnh hoán dụ thể hiện cái nhìn căm giận với mộng giết giặc của người
lính.
- “Dáng kiều thơm” chỉ những cô gái nơi quê nhà Thủ đô yêu dấu.
à Hai câu thơ tả tâm trạng rất thật của người lính Tây Tiến trong những đêm xa nhà, xa quê ở đất bạn Lào. Họ
nhớ da diết nhưng không hề nản chí, không tìm cách đào ngũ mà vẫn sẵn sàng chấp nhận hy sinh.
=> Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạo nên tượng đài tập thể,
khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là 2 chất liệu chủ yếu hòa quyện làm
nên vẻ đẹp bi tráng của bức tượng đài.
c. Lý tưởng quên mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
- Cảm hứng của Quang Dũng mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đở bằng đôi cánh của lý tưởng và
tinh thần lãng mạn. Vì vậy, cái bi được giảm nhẹ đi rất nhiều. Hơn nữa, nhà thơ sử dụng rất hiệu quả những từ
Hán Việt trang trọng, cổ kính để diễn tả chân dung người lính trong chiến tranh tàn khốc.
- Từ láy “rải rác” cùng các từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khắc họa một khung cảnh nghiệt ngã, đau
lòng. Nhiều người lính Tây Tiến hy sinh trên chặng đường hành quân, phải nằm lại biên cương xa xôi. Đó là
sự khốc liệt của chiến tranh.
- Nhưng cái bi thương ấy cũng là bị mờ đi trước lý tưởng quên mình xả thân vì tổ quốc của những người lính
trẻ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
- Cách đảo ngữ “chiến trường đi” và hoán dụ “đời xanh” ca ngợi sự hy sinh quên mình vì lý tưởng của người
lính Tây Tiến. Ta như thấy tất cả sự khẳng khái rất đáng khâm phục ở những con người dám quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh.
d. Phi thường ở cái chết:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- “Áo bào” là áo dài, tay rộng, người đàn ông quý tộc thời xưa thường mặc. Ở đây, nhà thơ gọi áo người lính
Tây Tiến đang mặc là “áo bào” để chỉ sự trang trọng.
- Hình ảnh “áo bào thay chiếu” gần với hình ảnh điển tích “da ngựa bọc thây” nhưng lại nói lên sự thật đau
lòng: Nơi chiến trường khốc liệt người lính về với đất không có một manh chiếu để bọc thi hào. Dù vậy, họ đi
vào cõi chết cũng thật sang trọng.
- Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ cái chết nhẹ nhàng vì lý tưởng của người lính.
- Nghệ thuật nhân hóa “Sông Mã” cùng từ Hán Việt “khúc độc hành” khiến nỗi bi thương như bị át hẳn đi,
tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã như khúc nhạc tiễn đưa những người đã hy sinh.
=> Bằng bút pháp lãng mạn, bằng cảm hứng bi tráng, nhà thơ đã dựng lại chân thật cái chết, sự hy sinh
oanh liệt của các chiến sĩ Tây Tiến trong âm hưởng hào hùng của thiên nhiên Tây Bắc. Sự hy sinh của
người lính Tây Tiến không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
- Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ này trang trọng, thể hiện niềm đau vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của
nhà thơ trước những hy sinh vô giá của đồng đội.
=> Tóm lại, chân dung người lính Tây Tiến thực ra được phác họa từ đoạn một và đoạn hai. Nhưng ở
đoạn này nó là đối tượng chính và được thể hiện trực tiếp trên bức tranh thơ. Chỉ tám câu mà tác giả
thể hiện sinh động nét phi thường ở cả diện mạo, tâm hồn, khí phách, thái độ trước cái chết và vẻ hào
hoa rất Hà Nội của người lính Tây Tiến.
4. Lời thầy gắn bó với Tây Tiến và với miền Tây
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ nói lời nhắn gửi mà như lời thề son sắt. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn
nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
- Đây là lời thề của những người lính sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ trở về đất nước quê hương. Họ thề với
những đồng đội đã hy sinh, thề với lòng mình, với quá khứ hào hùng. Tây Tiến đã trở thành một mảnh hồn
của các anh.
Cách nói “người đi không hẹn ước”, “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện tâm trạng buồn thương,
luyến tiếc về một khoảng thời gian ôm ấp kỷ niệm, về những địa danh, cuộc hành quân tiến về phía Tây lịch
sử, giờ đây và mãi mãi suốt đời không thể nào quên.
Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng của núi rừng
Tây Bắc. Đặc biệt là cảnh sông nước mênh mang, mờ sương khói của Tây Bắc càng làm cho bức tranh thiên
nhiên ở đây hiện lên đầy ấn tượng và trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của những người lính Tây Tiến. Hình tượng
của những người lính Tây Tiến vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, vừa mang tinh thần bi tráng. Những chặng đường
hành quân dài qua núi non gập ghềnh, trắc trở và những trận chiến hùng tráng, sự hi sinh mất mất cũng không
làm hình ảnh của các anh mờ nhòe đi mà chỉ là những nét bút tô đậm hơn vẻ kì vĩ của những bức tượng đài ấy
mà thôi. Qua bài thơ, ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó máu thịt với đoàn binh Tây Tiến của tác giả Quang
Dũng. Bài thơ Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác cũng như cho phong cách lãng mạn -
tài hoa của hồn thơ Quang Dũng. Những sáng tạo nghệ thuật của Quang Dũng với bút pháp tạo hình đa dạng đã
dựng nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng và hình ảnh của người lính Tây Tiến với những
đường nét khỏe khoắn, mạnh mẽ. Ngôn ngữ vừa quen thuộc vừa độc đáo, vừa có nét cổ kính, vừa mới lạ. Bút
pháp lãng mạn kết hợp với tinh thần bi tráng tạo nên giọng điệu riêng cho thơ Quang Dũng
Với nỗi nhớ Tây Tiến da diết cùng với tài năng sáng tác nghệ thuật vượt bậc của mình, nhà thơ Quang Dũng đã
mang đến cho bạn đọc hình ảnh người chiến sĩ của binh đoàn Tây Tiến vừa dũng cảm, bi tráng lại vừa hào hoa,
lãng mạn. Tác phẩm không chỉ đưa tên tuổi nhà thơ Quang Dũng tiến xa hơn trong giới nghệ thuật mà còn góp
phần không nhỏ vào việc làm đa dạng, phong phú nền văn học nước nhà.