You are on page 1of 41

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)

A.KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937)
-Là nngười có hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, nhất là lịch sử, địa lí và văn hóa
Huế.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Dù đã xuất bản một vài
tập thơ nhưng có thể nói toàn bộ tinh hoa và năng lực của nhà văn đều dồn tụ hết cho thể kí.
Chẳng phải ngẫu nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường được đánh giá là một trong mấy nhà văn viết
kí hay nhất của văn học ta hiện nay (Nguyên Ngọc). Các tác phẩm kí tiêu biểu: Ngôi sao trên
đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986),
Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999)…
- Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, với những liên tưởng mạnh mẽ, độc đáo và một lối
hành văn mê đắm, tài hoa.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh ra đời:
- "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là bài bút kí xuất sắc viết tại Huế ngày 4/1/1981, in trong tập
sách cùng tên. Bài tùy bút có ba phần:
+ Phần 1: Cảnh quan thiên nhiên xứ Huế.
+ Phần 2 + 3: Phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương.
- Đọan trích nằm ở phần thứ nhất và lời kết của toàn bộ tác phẩm.
b. Giá trị nội dung:
- Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của Sông Hương từ nhiều góc độ: Từ thượng nguồn tới khi qua
kinh thành Huế; từ tự nhiên, lịch sử đến văn hóa nghệ thuật. Qua đó ca ngợi thành phố Huế và
rộng hơn là ca ngợi quê hương đất nước .
- Bộc lộ con người tác giả: Lịch lãm, tài hoa, có tình yêu tha thiết với mảnh đất cố đô.
c. Giá trị nghệ thuật:
- Bộc lộ ngòi bút tài hoa, uyên bác:
+ Huy động nhiều vốn kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật ;
+ Sử dụng hiệu quả các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, ẩn dụ...
+ Ngôn ngữ phong phú, gợi hình, gợi cảm, câu văn giàu nhạc điệu.
- Liên tưởng rất mực phóng túng.
- Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa chủ quan và khách quan.
- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.
3. Cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Cái tôi say mê kiếm tìm cái đẹp, dạt dào cảm xúc và luôn gắn bó với thiên nhiên:
- Cái tôi yêu quê hương đất nước hướng về cội nguồn:

- Một cái tôi tài hoa uyên bác:


II. Những nhận định hay
1. Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều ánh lửa" (Nguyễn Tuân)
2. Anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân
dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ... (Nguyên Ngọc)
3. Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình. Thế mạnh
của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì,
ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được... (Hoàng Cát)
4. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài
chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn

1
sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài
hoa, tài tử, tài tình... (Ngô Minh)
5. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn đạt được 7 chữ “ T” - thứ nhất là có Tâm, rồi
có Tình, có Tài, có Thực Tiễn, và Trung Thực. (Tô Hoài)
* Thơ về sông Hương
- Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên (Nguyễn Trọng Tạo)
- Con sông dung dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu ( Thu Bồn)
- Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ (Nguyễn Bính)
- Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền,
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
(Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt
Dòng sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh) (Cao Bá Quát)
* Bài hát về Huế, sông Hương
- Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sông Hương
Nước sông Hương còn vương chưa cạn
Chim núi Ngự tìm bạn bay về
Người tình quê ơi người tình quê thương nhớ lắm chi
(Ai ra xứ Huế - Duy Khánh)
- Ðã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư
(Huế Tình Yêu Của Tôi - Trương Tuyết Mai)
- Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón...
Em cầm trên tay ra đứng bờ sông.
Sông Hương nước chảy thuyền trôi lững lờ,
Em trao nón đợi và em hẹn hò.
( Huế thương - An Thuyên)

LUYỆN ĐỀ: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?


 Hoàng Phủ Ngọc Tường 
* Các dạng đề cần lưu ý:
Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn.
Đề 2: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế. Từ đó, anh/chị nhận xét về
cảm hứng nhân văn trong đoạn trích.
Đề 3: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau: “Từ đây, như tìm đúng đường
về sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi ... như những vấn vương của một nỗi
lòng”. Từ đó, anh/chị hãy nhận xét về chất thơ trong tác phẩm.
Đề 4: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau: “Hình như trong
khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã ...Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình
với quê hương xứ sở.” Từ đó, nhận xét về lối hành văn tài hoa, mê đắm của HPNT.

2
Đề 5: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp Hương giang trong lịch sử. Từ đó, nhận xét về cái tôi
của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện trong bài kí.
Đề 6: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau: “Sông Hương là
vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết ... trong cái nhìn thắm thiết của tác
gia từ ấy”. Từ đó, hãy nhận xét về tình cảm của HPNT đối với sông Hương và xứ Huế được
thể hiện trong bài kí.

GỢI Ý LẬP DÀN Ý CHO CÁC ĐỀ


I. Dàn ý chung:
A. MB:
- Trực tiếp: Hoàng Phủ Ngọc Tường ... Tác phẩm tiêu biểu là ... /Đoạn trích đã ... Qua đó, ta
thấy ...
- Gián tiếp:
+ Tương liên (viết hai hoặc 4 câu thơ viết về sông nước hoặc sông Hương, hoặc xứ Huế =>
bắt sang Ai đã đặt tên cho dòng sông? Tác phẩm là .... Đoạn trích đã .... Qua đó, ta thấy...
VD: Từ xa xưa những con sông trên thế gian được coi là biểu tượng của sự sinh tồn của vạn
vật, của tính lưu truyền mọi dạng thể. Dòng sông gợi nhắc về một không gian với bao nhiêu
phù sa bồi đắp, gợi nhắc về thời gian như nước qua cầu. Dòng sông mang biểu tượng về ý
nghĩa thống nhất của sự vật, của sự kết thúc và bắt đầu. Xuôi theo dòng sông là sự tụ hội và
ngược về với dòng sông chính là sự trở về với cội nguồn.
Những con sông không muốn xa nguồn
Để biển cả dỗi hờn đẩy dòng sông trở lại
Em như con sông nũng nịu với thiên nhiên
Để anh muốn ngắm nhìn dòng sông mãi
Đó chính là dòng sông Hương, dòng sông muôn thuở! ....Tác phẩm “Ai đã dặt tên cho dòng
sông?”.... Đoạn trích...Từ đó, ta thấy...
+ Diễn dịch: Sông nước là đề tài ... Chính vì thế, các dòng sông đẹp đã soi bóng trong rất
nhiều áng thơ văn hay để lại những xúc cảm thẩm mĩ sâu sắc trong lòng người đọc. Nếu như
đến với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là ... Tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn
Tuân đã .... thì sông Hương lại được ...trong bài kí .... Tác phẩm là ... Đoạn trích đã... Qua đó,
ta thấy ...
B,TB:
1. Khái quát:
- Khái quát tác giả (MB gián tiếp)
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của HPNT viết tại Huế, ngày 4/1/1981,
in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí có 3 phần, văn bản được học trích phần thứ nhất. Đây là
bài bút kí rất đậm chất tùy bút, người đọc tìm thấy ở đó một phong cách tài hoa, tự do, phóng
túng với vốn văn hóa sâu rộng; một tâm hồn nhạy cảm, rất mực say mê với cái đẹp của cảnh
vật và con người xứ Huế thân yêu. Vì thế, xét đến cùng, sự hấp dẫn của bút kí này chính là “
cái tôi” tài hoa ấy.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? câu hỏi bâng khuâng khơi gợi sự kiếm tìm cái đẹp tiềm ẩn trong
sông Hương và thiên nhiên, con người xứ Huế.
- Thể hiện một cái tôi mê đắm, nồng cháy suy tư trước vẻ đẹp đầy quyến rũ của Hương Giang.
- Cách đặt tên độc đáo và lạ của tác giả đã thu hút sự tò mò cho người đọc những suy lắng và
cảm nhận về một con sông thiên phú cho một “ nhan sắc” làm mê đắm lòng người.
- Nếu như đoạn trước tác giả miêu tả sông Hương ở ... thì đến đoạn này vẻ đẹp của sông
Hương lại được thể hiện rất sâu sắc ...
2. Phân tích và cảm nhận: (mỗi một đoạn/mỗi đề có cách phân chia luận điểm riêng)
=> nắm chắc ý chính => mỗi ý chính viết thành một đoạn = luận điểm. Khi viết các luận điểm
phải có chuyển đoạn, có dẫn chứng đặt trong ngoặc kép, có phân tích dẫn chứng (từ ngữ, hình
3
ảnh, biện pháp tu từ => nội dung biểu thị của câu văn + thái độ, tình cảm, tấm lòng của tác
giả đối với đối tượng được miêu tả).
- Để bài văn hay hơn, hấp dẫn hơn chúng ta cần nhớ lấy 1 hai lời nhận xét của ai đó về đoạn
trích cần phân tích => đặt trong ngoặc kép. Cần lấy dẫn chứng mở rộng (câu thơ liên quan đến
vấn đề nghị luận)
- Khi viết xong hết các luận điểm chúng ta cần có luận điểm tiểu kết = tóm lược lại nội dung
vừa phân tích.
a. Luận điểm 1
b. Luận điểm 2
c. Luận điểm 3
d. Tiểu kết:
3. Đánh giá
a. Về nội dung: Hay, đặc sắc, ý nghĩa ở đâu?
b. Về nghệ thuật:
- Hiểu biết sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa, thi ca Huế
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc => giàu chất thơ
- Lối hành văn tài hoa, mê đắm cùng với các BPTT (so sánh, nhân hóa....)
-Liên tưởng tưởng tượng phong phú, táo bạo, bất ngờ.
=> tạo nên một trang viết đẹp như những trang hoa, tờ hoa.
c. Về lí luận văn học (viết cho 1 đề dung chung cho tất cả các đề)
Có ai đó đã từng khẳng định: nhà văn chân chính là người dẫn đường đến xứ sở của cái
đẹp, thì đoạn văn này, HPNT xứng đáng để được tôn vinh là nhà văn chân chính, người nghệ sĩ
suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp. Vẻ đẹp của sông Hương cùng với sự giàu có của ngôn ngữ và tấm
lòng của nhà văn đã trộn hòa, thăng hoa để tạo nên những trang viết đẹp lấp lánh chất thơ. Đọc
đoạn văn của HPNT, người đọc cảm thấy rất vui sướng khi bắt gặp vẻ đẹp của quê hương, đất
nước; vui như được nối lại chiêm bao đứt quãng khi, khi những trái tim chai sạn vì sương gió
cuộc đời đã được hồi sinh. Đó chính là sức mạnh của văn chương, của nghệ thuật chân chính,
của cái đẹp có khả năng cứu rỗi thế giới.
4. Lệnh phụ (học thuộc)
- B1: Nêu khái niệm
- B2: Biểu hiện trong tp hoặc trong đoạn trích.
- B3: Nhận xét về ý nghĩa của lệnh phụ đó đối với tp, đối với bạn đọc.
KB:
- Khẳng định nội dung và nghệ thuật đoạn trích
- Nêu giá trị và sức sống của tác phẩm
- Mở rộng, nâng cao: Cái đẹp/cái tâm/ sự sáng tạo.
VD:
Vâng, áng văn đẹp là những trang viết thể hiện được sự sáng tạo “khơi được những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Sự sáng tạo đó là trong cách cảm, cách
nghĩ, cách diễn đạt. Tuy nhiên, áng văn đó phải thể hiện được tấm lòng chân thành, tha thiết;
phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn cao đẹp và đánh thức được lòng trắc ẩn trong trái
tim mỗi người. Vâng, đọc những áng văn ấy, người đọc như được thưởng thức được sắc đẹp
ngoài sắc đẹp, vị ngon ngoài vị ngon mà khó có ngành nghệ thuật nào có thể tạo ra được. Đó là
ưu điểm vượt trội của văn chương khi lấy ngôn từ làm chất liệu. Đối với văn của HPNT, khi
thứ ngôn từ ấy được tinh luyện, chắt lọc được một chữ sao cho xác đáng nhất thì lại đáng quý,
đáng trân trọng hơn bao giờ hết. Cho nên, với thứ văn chương được chưng cất rất công phu tỉ
mỉ ấy chắc chắn sẽ còn “xanh mãi” với thời gian. Đúng như Văn Cao khẳng định:
“Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh
Và đôi mắt em long lanh
4
Như hai giếng nước”.
Ngày nay, trước đại dịch cô vid đang diễn ra vô cùng phức tạp, liệu những thứ văn chương như
thế còn có thể giúp con người vượt lên trên tăm tối, bế tắc, khổ đau để dẫn lối tới tương lai tươi
đẹp hơn?

II. DÀN Ý TỪNG ĐỀ CỤ THỂ


Đề 1: Vẻ đẹp sông Hương nơi thượng nguồn.
MB:
- Dẫn dắt
- VĐNL: Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn.
TB.
1. Khái quát
- “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của HPNT viết tại Huế, ngày 4/1/1981,
in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí có 3 phần, văn bản được học trích phần thứ nhất. Đây là
bài bút kí rất đậm chất tùy bút, người đọc tìm thấy ở đó một phong cách tài hoa, tự do, phóng
túng với vốn văn hóa sâu rộng; một tâm hồn nhạy cảm, rất mực say mê với cái đẹp của cảnh
vật và con người xứ Huế thân yêu. Vì thế, xét đến cùng, sự hấp dẫn của bút kí này chính là “
cái tôi” tài hoa ấy.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? câu hỏi bâng khuâng khơi gợi sự kiếm tìm cái đẹp tiềm ẩn trong
sông Hương và thiên nhiên, con người xứ Huế.
- Thể hiện một cái tôi mê đắm, nồng cháy suy tư trước vẻ đẹp đầy quyến rũ của Hương Giang.
- Cách đặt tên độc đáo và lạ của tác giả đã thu hút sự tò mò cho người đọc những suy lắng và
cảm nhận về một con sông thiên phú cho một “ nhan sắc” làm mê đắm lòng người.

2. Phân tích, cảm nhận:


Dẫn dắt: HPNT đã nhân hóa dòng sông, ông kể toàn bộ thủy trình của nó tựa như một
cuộc kiếm tìm ý trung nhân của người đẹp trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Người đẹp sông Hương có cuộc đời, có cội nguồn, có giai đoạn thử thách và hạnh phúc của
mình.
a. Luận điểm 1: Bản trường ca của rừng già rầm rộ
- Sông Hương được sinh ra từ giữa lòng dãy Trường Sơn hùng vĩ bát ngát xanh. Nó được
mệnh danh là “một bản trường ca của rừng già” nên mặc sức tung hoành “rầm rộ giữa bóng
cây đại ngàn”, mãnh liệt băng qua những ghềnh thác, “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy
vực bí ẩn”. Và có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ của hoa
đỗ quyên rừng”.
- Trường ca: rầm rộ, mãnh liệt, dịu dàng, say đắm
- Hình ảnh: mãnh liệt qua những ghềnh thác và cuộn xoáy như cơn lốc; dặm dài chói lọi màu
đỏ hoa đỗ quyên rừng.
- Nghệ thuật: + nhân hóa, so sánh + câu văn dài được chia làm nhiều vế => góp phần làm nổi
bật vẻ đẹp của một bản trường ca.
b. Luận điểm 2: Sông Hương là một cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại
- Với biện pháp nhân hóa, sông Hương được ví như, một “cô gái Di - gan phóng khoáng và
man dại”, bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
- Hình ảnh: cô gái Di – gan.
- BPTT: nhân hóa + so sánh => lời văn thêm gợi hình, gợi cảm; đối tượng miêu tả sinh động,
hấp dẫn => nhấn mạnh sự tương đồng giữa sông Hương với cô gái Di – gan.
c. Luận điểm 3: Người mẹ phù sa của một vừng văn hóa xứ sở, xứ Huế
- Khi ra khỏi rừng già, sông Hương được chế ngự để nhanh chóng trở thành người con gái
mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở này.
- Người mẹ: sinh thành, nuôi dưỡng => tạo ra VH Huế là sông Hương.
5
- Người mẹ phù sa: sông Hương ko chỉ bồi đắp phù sa để tạo nên những cánh đồng màu mỡ;
mà sông Hương còn bồi đắp để tạo không gian VH Huế: phong phú, giàu có, rất đặc sắc.
- Nghệ thuật: nhân hóa + so sánh + từ ngữ giàu sức gợi => giúp người đọc thấy được vị trí,
vai trò của sông Hương đối với VH Huế.
d. Tiểu kết:
 Dưới ngòi bút tài hoa của HPNT, sông Hương vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức
sống mãnh liệt, hoang dại đầy cá tính.
3. Đánh giá:
a. Nội dung:
- Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn: phong phú, đa dạng; cảm nhận sông Hương dưới
góc độ của thi ca, nhân văn (so sánh sông Hương như con người) => đoạn văn đẹp, hấp dẫn
và lấp lánh chất thơ.
- Hiểu biết của HPNT về dòng sông rất tường tận => ông trở về với thượng nguồn để khám
phá cội nguồn của dòng sông mà ko một nhà văn nào làm được điều đó => đoạn văn đã giúp
cho người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương.
- Tình yêu, sự nâng niu, trân trọng của tác giả đối với con sông quê hương xứ sở.
b. Nghệ thuật:
- Hiểu biết sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa, thi ca Huế
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc => giàu chất thơ
- Lối hành văn tài hoa, mê đắm cùng với các BPTT (so sánh, nhân hóa....)
-Liên tưởng tưởng tượng phong phú, táo bạo, bất ngờ.
=> tạo nên một trang viết đẹp như những trang hoa, tờ hoa.
c. Kiến thức lí luận văn học
4. Lệnh phụ
KB.

Đề 2: Vẻ đẹp sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.


MB:
- Dẫn dắt (trực tiếp/gián tiếp)
- VĐNL: Vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế. Từ đó, ta thấy ...
TB:
1. Khái quát
- “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của HPNT viết tại Huế, ngày 4/1/1981,
in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí có 3 phần, văn bản được học trích phần thứ nhất. Đây là
bài bút kí rất đậm chất tùy bút, người đọc tìm thấy ở đó một phong cách tài hoa, tự do, phóng
túng với vốn văn hóa sâu rộng; một tâm hồn nhạy cảm, rất mực say mê với cái đẹp của cảnh
vật và con người xứ Huế thân yêu. Vì thế, xét đến cùng, sự hấp dẫn của bút kí này chính là “
cái tôi” tài hoa ấy.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? câu hỏi bâng khuâng khơi gợi sự kiếm tìm cái đẹp tiềm ẩn trong
sông Hương và thiên nhiên, con người xứ Huế.
- Thể hiện một cái tôi mê đắm, nồng cháy suy tư trước vẻ đẹp đầy quyến rũ của Hương Giang.
- Cách đặt tên độc đáo và lạ của tác giả đã thu hút sự tò mò cho người đọc những suy lắng và
cảm nhận về một con sông thiên phú cho một “ nhan sắc” làm mê đắm lòng người.
2. Cảm nhận phân tích:
- Dẫn dắt: Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét tài
hoa, lịch lãm trong lối viết của tác giả. Người đọc khó cưỡng lại sức hấp dẫn toát ra từ thủ
pháp nhân hóa, từ cách dùng hàng loạt các động từ diễn tả cái dòng chảy thật sống động qua
các địa danh khác nhau của xứ Huế.
a. Luận điểm 1: Sông Hương là người gái đẹp nằm ngủ mơ màng...
Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng”.
6
- Từ ngữ: người gái đẹp
- Hình ảnh: nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại
- Nghệ thuật: Nhân hóa + so sánh
=> như công chúa ngủ trong rừng trong các câu chuyện cổ tích.
b. Luận điểm 2: Cuộc hành trình đi tìm người tình trong mộng đầy ý thức:
- Ý thức:
+ người tình trong mộng là thành phố Huế.
+ Ý thức: để có tình yêu và hạnh phúc thì sông Hương phải thay đổi và hoàn thiện.
- Thay đổi:
+ hành trình đến với người tình đầy gian truân:
Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như nàng tiên được người tình mong đợi đến đánh thức
bỗng bừng lên sức trẻ của tuổi thanh xuân đầy khao khát. “Sông Hương đã chuyển dòng một
cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật
mềm”. Từ ngã ba Tuần, sông Hương chuyển hướng theo hướng nam bắc... rồi lại chuyển
hướng tây bắc... đột ngột vẽ một vòng cung thật tròn về phía đông bắc “ôm lấy chân đồi
Thiên Mụ”, rồi “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên
xanh thẳm”. Từ đó, nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, vẫn kiêu hãnh đi
trong dư vang của Trường Sơn.
=> mạnh mẽ, linh hoạt, mềm mại, duyên dáng => hoàn thiện vóc dáng của một người thiếu
nữ khi biết phô khoe những đường cong tuyệt mĩ.
- Từ ngữ: Động từ: chuyển dòng, đột ngột, tìm kiếm, chuyển hướng, vẽ, ôm => sông Hương
như một con người có tính cách, có suy nghĩ và có hành động =>
- Hình ảnh: đường cong thật mềm, hình cung thật tròn => giàu sức gợi
- BPTT: liệt kê, nhân hóa, so sánh + Câu văn dài chia làm nhiều vế câu => miêu tả trọn vẹn
cuộc tìm kiếm người tình trong mộng của sông Hương.
c. Luận điểm 3: Màu sắc thay đổi theo ngày
- mạnh mẽ, vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam
Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “ những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím” giống như sắc màu trang phục của người con gái đẹp chuyển đổi liên tục cho
thêm phần xuân sắc, hấp dẫn khi đi qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố.
- Màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím => đa dạng, biến ảo => không gian rất thơ mộng
và trữ tình.
- Liệt kê: giúp người đọc hình dung, tưởng tượng được vẻ đẹp hiếm có mà không phải dòng
sông nào cũng diễm phúc có được.
d. Luận điểm 4: Trầm mặc nhất: như triết lí, như cổ thi.
- Triết lí: những chiêm nghiệm về cuộc đời => khái quát lên tính chất đúng đắn => sâu sắc.
- Cổ thi: thơ cổ => thơ hay, thơ bí ẩn => chất thơ, huyền bí => hấp dẫn.
- Giữa đám quần sơn lô xô ấy, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc; khi qua lăng tẩm, đền
đài, sông Hương mang niềm kiêu hãnh thâm u của những vua chúa đang yên giấc ngàn
thu được phong kín trong những rừng thu u tịch: “ Bốn bề núi phủ mây phong/ Mảnh trăng
thiên cổ bóng tùng vạn niên” cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp tiếng chuông
chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”...
- So sánh, nhân hóa, hoán dụ => vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương => xứ Huế.
e. Tiểu kết:
 Bút pháp kể - tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn làm nổi bật vẻ đẹp
hình tượng sông Hương bởi phối cảnh kì thú của sơn thủy hữu tình: sông Hương - núi Ngự.
3. Đánh giá:

Đề 3: Sông Hương là điệu slow tình cảm dành riêng cho xứ Huế.
MB:
7
- Dẫn dắt
- Nêu VĐNL: Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Hương khi chảy qua trung tâm thành
phố Huế. Từ đó, ta thấy...
TB:
1. Khái quát:
2. Cảm nhận và phân tích:
* Dẫn dắt: - Sông Hương khi chảy vào thành phố thân yêu, có lẽ đây là đoạn tác giả tả về sông
Hương đẹp nhất, duyên sáng nhất, trữ tình nhất.
a. Luận điểm 1: Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương vui tươi hẳn lên (niềm vui của
sông Hương khi nhìn thấy cầu Trường Tiền, một biểu tượng của thành phố Huế)
- Nó như đã tìm đúng đường về, tìm thấy chính mình. Nó “vui hẳn lên giữa những biền bãi
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Dòng sông kéo một nét thẳng theo hướng tây nam -
đông bắc, cuối đường, “nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng ... in ngần trên nền trời ... như những
vành trăng non”.
- Vui tươi:
+ Tìm được đúng đường về
+ Nhìn thấy cầu Trường Tiền = gặp được thành phố Huế, người tình trong mộng => nhân đôi
=> trải qua một cuộc hành trình đầy gian truân.
- Kéo một nét thẳng thực yên tâm:
+ Quãng đường: ngắn nhất; thời gian nhanh nhất, để đến bên người tình sớm nhất.
- Nghệ thuật: nhân hóa, so sánh => tâm hồn, có tính cách, cảm xúc => sống động.
b. Luận điểm 2: Sông Hương e thẹn, dịu dàng khi giáp mặt người tình:
- Khi giáp mặt TP Huế ở cồn Giã Viên, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn
Hến khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “ vâng” không nói ra của tình yêu”.
- E thẹn, tình tứ, kín đáo: khi giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên => Thúy Kiều khi gặp
Kim Trọng trong ngày tết thanh minh “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”
- Dịu dàng, e thẹn nó tạo nên chiều sâu tâm hồn và tính cách của sông Hương.
- Nghệ thuật: Cách so sánh thực tài tình! Ss uốn cung từ cồn Giã Viên – sang đến Cồn Hến
giống như tiếng vâng không nói ra của tình yêu. So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng. Ss hình
dáng của sông Hương với tình yêu thiêng liêng.=> Hiểu rõ hơn vẻ đẹp của Sông Hương khi về
đến Huế và đã mang được linh hồn mảnh đất, con người nơi đây.
c. Luận điểm 3: Sông Hương trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ là một mặt hồ yên tĩnh =>
điệu Slow tình cảm dành riêng cho xứ Huế.
- Khác với những dòng sông cũng chảy qua thành phố như sông Xen (Pari), sông Đa-nuýp
(Pu-đa-pét) và sông Nê-va (Nga), sông Hương khi qua thành phố lại trôi đi thật chậm, cơ hồ
như chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.
- Chậm, thực chậm vì:
+ Địa lí: Do có các chi lưu dọc hai bên bờ sông; hai hòn đảo nhỏ đó là Cồn Hến và cồn Giã
Viên => lưu tốc chậm.
+ Nhân văn: Sông Hương trôi chậm là do muốn ở bên người tình của mình lâu.
 Dòng sông được nhìn dưới góc độ hội họa với những chi lưu của nó tạo ra những nét
thật tinh tế, làm nên vẻ đẹp cố đô.
+ Nhìn thấy rõ nhất: Dòng sông lại như một quý điệu chảy lững lờ... đấy là điệu Slow bồng
bềnh trên nghìn ánh hoa đăng hội rằm tháng Bảy, ... qua Huế bỗng ngập ngừng, vấn vương
như một nỗi lòng muốn đi muốn ở. Dòng sông cứ chùng chình như chờ, như đợi, mơ màng,
suy ngẫm như muốn lưu giữ lại những giá trị cổ xưa trước khi ra biển cả.
- So sánh + nhân hóa: slow = vũ điệu, du dương, nhẹ nhàng => đôi tình nhân yêu nhau.
Ta thấy dòng chảy rất nhẹ nhàng, êm đềm => tình yêu tha thiết, mãnh liệt, thủy chung
của SH dành cho Huế.

8
=> slow đã tạo nên hồn, cốt của xứ Huế => Lãng mạn, mộng mơ, trầm mặc mà không 1
dòng sông nào trên TG có được điều đó => con người Huế (nói, đi khoan thai, chậm rãi,
nhẹ nhàng) + VH Huế (ca Huế trên sông Hương) => vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo mà không
nơi nào có được.
Thấm thía câu thơ của Thu Bồn:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
d. Tiểu kết:
- Nói tóm lại, khi đi qua thành phố Huế SH: vui tươi, lưu luyến, dùng dằng trong mối tình sâu
đậm, son sắt với TP Huế. SH thơ mộng, quyến rũ, trữ tình bậc nhất.
3. Đánh giá:
a. Nội dung:
- Hay: Miêu tả để toát lên cái điệu Slow tình cảm = nến, trăng, nhạc, mặt sông phẳng = không
gian huyền hoặc, lãng mạn, thực mà như mộng.
- Đặc sắc: SH tiếp cận, so sánh với người thiếu nữ có khát vọng yêu đương mãnh liệt nhưng rất
tế nhị, trong sáng. SH quả thực rất Kiều =>giá trị nhân văn => con sông = con người/
- Tình cảm HPNT: yêu thương, sự trân trọng => tình yêu quê hương, đất nước thắm
thiết của HPNT.
b. Nghệ thuật (giống đề 1,2)
c. Lí luận VH: làm chung giống các đề
KB: Dựa vào KB mẫu để tự viết.

Đề 4: Sông Hương là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya và người tình dịu dàng, thủy
chung
2. Phân tích và cảm nhận:
a. Luận điểm 1: Sông Hương là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya
- Bằng những liên tưởng thú vị, HPNT đã ví sông Hương như “ một ngươì tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya”. Và thật tự nhiên nhà văn gắn kết sông Hương với nền âm nhạc cổ điển Huế: “
Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của
dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái
chèo khuya”. Từ dòng sông “ mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa
bằng con thoi” những điệu hò vút lên, khiến nhà văn liên tưởng đến tiếng đàn của bậc tài nữ
Thúy Kiều.
b. Luận điểm 2: Sông Hương là người tình dịu dàng và thủy chung
+ Với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và thủy
chung với Huế. Điều này được nhà văn diễn tả trong một phát hiện thú vị: “ Rời khỏi kinh
thành sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong
sương khói”, “ lưu luyến đi giữa màu xanh biếc của tre trúc”, và những vườn cau vùng ngoại ô
Vĩ Dạ, và rồi sực nhớ điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột chuyển dòng, rẽ ngoặt sang hướng
đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ.
Những khúc quanh bất ngờ lại được tác giả cảm nhận thật khác lạ, tự nhiên cũng giống
như con người ở nơi đây, có cái gì “ như vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Và
còn giống như tình yêu của Thúy Kiều - Kim Trọng trong đêm tình tự ở ngã rẽ này để nói lời
thề trước khi về với biển cả. Như vậy, trong cảm nhận của HPNT, sông Hương và Huế chẳng
khác nào một cặp tình nhân quyến luyến, ngập ngừng, dùng dằng tiếc nuối bởi sông Hương
làm đẹp cho Huế, và Huế cũng khiến cho sông Hương mang vẻ đẹp riêng không thể lẫn với bất
kì dòng sông nào.
c. Tiểu kết:

9
 Cách so sánh, liên tưởng thật sâu sắc, uyên bác, cùng với ngôn từ chan chứa chất thơ,
HPNT đã đem lại cho người đọc nhiều thú vị trong lối hành văn. Ông phải là người am hiểu và
yêu xứ Huế nhường nào mới có được những trang văn hay đến thế.
3. Đánh giá:
4. Lệnh phụ:
Đề 5: Sông Hương với lịch sử dân tộc.
2. Phân tích cảm nhận:
a. Luận điểm 1: Bản hùng ca ghi dấu ấn những thế kỉ vinh quang
- Sông Hương trong nét thơ mộng còn mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu ấn những thế
kỉ vinh quang. Từ thuở cac vua Hùng dựng nước cho đến Dư địa chí của Nguyễn Trãi, với cái
tên Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ phía nam Tổ quốc Đại Việt.
Đi qua những thế kỉ trung đại “ nó vẻ vang soi bóng xuống kinh thành Phú Xuân của người
anh hùng Nguyễn Huệ”. Từ thế kỉ XIX nó liên tiếp chứng kiến các cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mĩ oanh liệt của dân tộc.
b. Luận điểm 2: Dòng sông nhuốm màu của các cuộc khởi nghĩa
- Nó đau đớn oằn mình chịu những trận bom của không quân Hoa Kỳ đã dội lên mình nó và
cả những di sản văn hóa của cố đô bao đời. Sự phá hủy của Mĩ giống như sự mất mát của nền
văn minh Châu Âu ;;; bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại.
c. Luận điểm 3: Tiểu kết:

Đề 6. Sông Hương - dòng sông của âm nhạc và thơ ca.


2. Phân tích và cảm nhận
a. Luận điểm 1: Dòng sông của sử thi viết lên giữa màu cỏ lá xanh biếc, tự hiến đời mình làm
nên những chiến công để rồi qua đi những năm tháng oanh liệt ấy, sông Hương lại trở về như
một cô gái dịu dàng, thủy chung, say đắm lòng người
b. Sông Hương - dòng sông thi ca.
- Tản Đà - “ Dòng sông trắng lá cây xanh”
- Với Cao Bá Quát “ như lưỡi kiếm dựng trời xanh đầy khí phách”.
- Với Tố Hữu thì dòng sông thành sức mạnh phục sinh tâm hồn “ cô gái giăng ca”...
- Còn nữa: “ Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng Huế nên rất thơ”.
( Thu Bồn).
- Nguyễn Trọng Tạo: “ Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí - Bạch của chờ Khuất Nguyên”
 Dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng thi ca cho biết bao thế hệ.
c. Tiểu kết:
- Dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, một vẻ đẹp rất thơ, khơi
nguồn cho cảm hứng thơ ca, và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày lịch sử
văn hóa của Huế.
- Vẻ đẹp dòng sông: tình yêu quê hương xứ sở, tình yêu đất nước.
C. Kết thúc vấn đề.
- Vẻ đẹp dòng sông được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế với một vốn văn hóa
phong phú và một ngôn ngữ giàu có, đậm chất thơ của tác giả.
- Nhờ ngòi bút tài hoa của tác giả, sông Hương trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí
nhớ và tình cảm của người đọc. Bồi đắp tình cảm đối với quê hương, đất nước.

Đề 7: Phân tích những cảm nhận tinh tế của HPNT trước vẻ đẹp của thiên nhiên Huế
trong kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Gợi ý.
A. Đặt vấn đề.
10
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Vẻ đẹp của thiên nhiên Huế.
B. Giải quyết vấn đề.
- Nhan đề bài kí thể hiện sự nhạy cảm của nhà văn trước những vẻ đẹp gợi sự khám phá, kiếm
tìm. Nhà văn đã tìm cách lí giải về tên của dòng sông bằng kiến thức phong phú của mình.
+ Huyền thoại sông Hương - sông thơm.
+ Địa lí: thủy trình của sông Hương là một cuộc tìm kiếm có ý thức của người con gái khao
khát yêu đương - ý trung nhân.
+ Dòng sông lịch sử, âm nhạc, thi ca.
- Nhà văn đã cảm nhận và miêu tả sông Hương từ nhiều góc nhìn khác nhau với những so sánh
thú vị.
+ Góc nhìn địa lí:
 Cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại.
 Người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở, sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ.
 Người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại.
 Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Góc nhìn văn hóa, lịch sử: Cái tinh tế của nhà văn là ở sự phát hiện và chuyển hóa cái hữu
hình ( dòng sông ) thành cái vô hình ( nối vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình
yêu ); chuyển hóa thành hình ảnh, thành âm thanh ( như một tiếng vâng không nói ra của tình
yêu ).
- Sự hòa quyện của sông Hương và thiên nhiên, con người xứ Huế:
+ Vẻ đẹp của thiên nhiên vùng thượng nguồn.
+ Vẻ đẹp thiên nhiên vùng ngoại ô xứ Huế.
+ Vẻ đẹp thành phố Huế.
C. Kết thúc vấn đề
- Sông Hương mang vẻ đẹp tổng hòa với thiên nhiên Huế.

ĐỀ 8
Trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả vẻ đẹp của
sông Hương:
Ở thượng nguồn: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca
của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn
xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm
giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.”
Khi về đến thành phố Huế: “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh
biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn
Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của
tình yêu”; “Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; “sông Hương đã trở thành một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.”
Anh/ chị hãy phân tích những chi tiết trên để làm nổi bật nét đặc sắc trong hành
trình của sông Hương. Từ đó nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.

HƯỚNG DẪN
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận


Vẻ đẹp đặc sắc của sông Hương ở thượng nguồn và khi chảy qua thành phố Huế. Từ đó
11
nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:

* Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác phẩm Ai đã đặt tên cho
dòng sông và vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương qua hai đoạn văn
* Phân tích hai đoạn văn
- Sông Hương ở thượng nguồn:
-Ngay từ ngọn nguồn của dòng chảy gắn liền với đại ngàn Trường sơn hùng vĩ, SH toát
lên vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa trữ tình được
+ Là bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn Những động
từ mạnh, những cấu trúc giống nhau được điệp lại liên tiếp đã khiến cho con sông hiển
hiện như một khúc ca dài bất tận của thiên nhiên cho thấy con sông mang vẻ đẹp mạnh
mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng:
GV: Với hình ảnh “bản trường ca của rừng già”, sông Hương hiện ra với cả chiều
dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn.
Bởi “trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi
ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh
mông.
+ Nhưng trường ca đâu chỉ có sức mạnh mà trong bản chất của mình nó còn mang chứa
yếu tố trữ tình bay bổng. Quả đúng thế, con sông Hương, sau những “rầm rộ”, “cuộn
xoáy”, đã trở nên “dịu dàng”, đằm thắm có thể làm “say đắm” bất cứ ai khi chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của nó giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa trữ tình
+ Cách miêu tả uyển chuyển tài hoa qua những hình ảnh đối lập đã giúp nhà văn làm hiện
lên hình ảnh dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và vẻ đẹp.
Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác ghềnh sóng
gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu, những miên man da diết
của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn; do đó sông Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ,
man dại, vừa khơi gợi những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp kiêu sa, rực rỡ.
+ Sử dụng thủ pháp điệp cấu trúc, so sánh với những động từ, tính từ giàu sức biểu đạt đã
tạo nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng của con sông trong mối quan hệ với rừng già.
- Sông Hương khi về đến thành phố Huế:
+ Sự thay đổi trong cảm xúc của dòng sông khi đã tìm được đúng đường về: - Cuối cùng,
sông Hương cũng đến nơi mà nó cần đến, cũng gặp được thành phố tương lai mà nó mong
đợi: thành phố Huế. Có lẽ vì thế mà con sông tươi vui hẳn lên. Như đã tìm đúng đường đi,
sông Hương cập bến thành phố thân yêu giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô
Kim Long để rồi giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên
+ Sông Hương mang dáng điệu mềm mại trữ tình, tính cách dịu dàng, kín đáo của người
con gái Huế: Đến đây, con sông giống như một cô gái đẹp e lệ, dịu dàng nghiêng mình
“chào” Huế: … sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến… như một
tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng
trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế.
+ Sông Hương mang điệu chảy lững lờ, bởi tình cảm dành riêng cho Huế quá sâu đậm: +
Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là
âm nhạc. Ở góc độ này, sông Hương chính là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.
Trong tiếng Anh, “slow” nghĩa là chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi
12
chỉ “dành riêng cho Huế” mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế khi nhìn ra một đặc
trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và thế giới, lưu tốc của
sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lí giải từ đặc điểm địa lí: Những chi
lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến
cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một
mặt hồ yên tĩnh.
+ Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với
sông Nê-va – con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể
Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức không kịp cho lũ hải âu nói một điều
gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. + Tuy nhiên, tất cả sự lí giải và so
sánh nêu trên chưa lột tả được hết ý nghĩa của cái mệnh đề mà nhà văn đã khái quát về
sông Hương khi nó chảy giữa lòng thành phố: điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.
Mượn câu nói của Hê-ra-clít – nhà triết học Hi Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh khóc
suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một
kiến giải khác, hết sức thú vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông yêu quý. Đó là
cách lí giải từ “trái tim”: sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành
phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi
phải dời xa. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay chính là tình cảm của nhà văn
với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ? Có lẽ là cả hai!
+ Sông Hương gắn liền với văn hóa Huế, nơi sinh thành âm nhạc cổ điển Huế:Theo
HPNT, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước SH. Âm nhạc
Huế được gợi cảm hứng từ SH và phải được biểu diễn trên mặt nước SH mới thấy hết cái
hay cái đẹp. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó
khi sinh thành trên mặt nước của Hương giang trong một khoang thuyền nào đó, giữa
những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.

* So sánh hai đoạn văn và nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Giống nhau: hai đoạn văn đều nói đến vẻ đẹp của sông Hương, đặc biệt đều chú ý
khắc họa vẻ đẹp nữ tính của dòng sông.
- Khác nhau:
+ Ở thượng nguồn: khám phá phần đời bí mật, hoang dại + Ở thành phố
Huế: khám phá vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình - Nhận xét về nghệ thuật miêu tả:
+ Lựa chọn những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, đắt giá để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương.
+ Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu.
+ Khả năng quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú.
+ Vốn hiểu biết sâu rộng cùng cới sự say mê vẻ đẹp sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
* Đánh giá, khái quát lại vấn đề
- Khẳng đinh vẻ đẹp độc đáo của hình tượng sông Hương, dòng sông hoang dã vừa trữ
tình.
- Khẳng định sự độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề cần nghị luận.

ĐỀ 9
13
Phân tích Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, từ đó liên hệ đến khổ thơ thứ 2 của Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
để làm rõ vẻ đẹp của cái tôi trữ tình của hai nghệ sĩ.
HƯỚNG DẪN
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Giới thiệu tác phẩm. Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Giới thiệu khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
-> Qua vẻ đẹp của sông Hương giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của cái tôi trữ tình.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?
* Thượng nguồn:
- Khi qua dãy Trường Sơn;
+ Sông Hương là bản trường ca của rừng già “ Rầm rộ và mãnh liệt”…”dịu dàng và say
đắm”…-> Sự hợp âm của nốt bổng nốt trầm để mãi ngân nga vang vọng giữa đại ngàn của
Trường Sơn.
+ Sông Hương như một cô gái Trường Sơn phóng khoáng và man dại-> Vẻ đẹp của 1 sức sống
trẻ trung, mãnh liệt, hoang dại.
- Khi ra hỏi rừng già: đóng kín tâm hồn sâu thẳm của mình ở của rừng…mang một sắc đẹp dịu
dàng và trí tuê, trở thành người mẹ phù sa của vùng vưn hóa xứ sở.
->Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
* Sông Hương về châu thổ Châu Hóa
- Được nhà văn liên tưởng như môt người con gái đẹp được người tình đến đánh thức sau 1
giấc ngủ dài
+ Uốn mình liên tục” Uốn mình theo đường cong thật mềm”. Theo hướng Nam - Bắc, Tây -
Bắc…
+ Đột ngột vẽ 1 hình cung thật tròn về phía Đông - Bắc
+ Ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế -> Sông Hương có sơ hội để phô bày vẻ đẹp
của những đường cong mềm mại.
- Vẻ đẹp tuyệt mĩ:
+ Qua Tam Thai, Vọng Cảnh mềm như một tấm gương phản chiếu nhiều màu sắc .
+ Đến rừng thông u tịch, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn; sông Hương mang vẻ đẹp cổ
kính trầm mặc như triết lí, như cổ thi.
+ Tới ngoại ô Kim Long: vẻ đẹp tươi vui…
-> Sông Hương như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang đi tìm hạnh phúc tình yêu theo tiếng
gọi vang vọng từ trái tim-> Nghệ thuật so sánh cân đối, hài hòa đậm chất thơ, ngôn ngữ, hình
tượng phong phú khiến sông Hương trở nên lung linh màu sắc, vẻ đẹp trầm mặc,cổ kính với
thành quách, lăng tẩm.
* Sông Hương trong không gian kinh thành Huế
+ Bắt đầu vào thành phố Huế, SH được so sánh với một ng tình vui tươi và duyên dáng,
+ Nhận ra những dấu hiệu rõ hơn của thành phố; Cầu Tràng Tiền in ngần trên nền trời như một
vành trăng non.
+ Làm duyên làm dáng trước khi gặp người yêu: Uốn 1 cánh cung rất nhẹ… không nói ra của
tình yêu”.
+ Trong long thành phố Huế sông Hương như 1 “ điêu slow tình cảm dành riêng cho Huế; SH
giảm hẳn lưu tốc,xuôi đi chậm, thực chậm..yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với
mảnh đất nơi đây.
-> SH và Huế gặp gỡ qua cảm nhận của tác giả như một cuộc hội ngộ của một cặp tình nhân
b. Liên hệ với khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ

14
- Đây thôn Vĩ Dạ được Hàn Mặc Tử lấy cảm hứng từ bức bưu thiếp có in hình dòng sông con
thuyền vầng trăng. Từ những kỉ niệm với Huế, nhà thơ đã khắc họa bức tranh tuyệt đẹp về thôn
Vĩ dạ một làng ven sông Hương với khung cảnh thơ mộng trữ tình. Qua bài thơ, Hàn Mặc Tử
cũng mượn câu chuyện tình yêu đơn phương của mình để kín đáo gửi gắm tình yêu xứ sở, tình
yêu với cuộc đời và con người.
- Khổ 2 của bài thơ miêu tả vẻ đẹp đêm trăng, nơi mảnh đất cố đô với núi Ngự, sông Hương
trầm buồn mà sâu lắng.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Nhà thơ đặc tả cảnh sông nước mây trời thấm nỗi niêm cảm xuc cuả con người. Cảnh đẹp mà
người buồn vì gợi cảm giác chia lìa xa cách. Thế giới bên ngoài càng tươi đẹp, thi sĩ càng thấm
thía với thực trạng của mình. Con người tài hoa bất hạnh ấy đã mượn cảnh để vẽ tình, lấy điều
phi lí để nói lên điều có lí trong tâm trạng của mình; tha thiết yêu đời nhưng cuộc sống của nhà
thơ đang được tính bằng giây, bằng phút.
Hai câu sau mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng, đẹp như cõi mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu hỏi tu từ mang bao khắc khoải giúp chúng ta cảm nhnj sâu saawscveef nỗi lòng của một
con người đnag chạy đua với thời gian để sống, để yêu, để khao khát hạnh phúc. Tất cả được
thể hiện trong một chữ “ kịp”, một chữ khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn,
dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà
thơ hằng ấp ủ?
* Tương đồng
+ Cả 2 nhà thơ đều lấy những địa danh nổi tiếng của Huế đê làm điểm nhấn và khởi hứngcamr
xúc .
+ Cùng tái hiện vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc, con người Huế rất riêng, rất thơ mộng. Có
được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con người Huế đã chiếm chỗ sâu bền nhất trong lòng các tác
giả.
+ Cả 2 đều thể hiện cái tôi tinh tế nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn,
phong phú.
* Khác biệt
+ Đây thôn Vĩ Dạ: Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi cho Hàn
Mặc Tử nên điểm nhìn cảm xúc trong một không gian hẹp, cái nhìn từ kí ức. Cảnh vật của xứ
Huế hiện lên với những nét đặctrưng rất bình dị, quen thuộc, gần gũi nhưng cũng thật lãng
mạn: cảnh khu vườn mướt như ngọc, sông trăng huyền ảo, con người với vẻ đẹp đằm thắm, dịu
dàng, cảnh vật in đậm cảm xúc về tình đời, tình người.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn điểm nhìn là sông Hương, đặt
trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn. Vẻ đẹp của xứ Huế hiện lên ở rất nhiều góc
độ từ quá khứ cho đến hiện tại, từ lịch sử, thơ văn đến địa lí, văn hóa.Vì thế vùng đất cố đô
hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế,là nơi tích tụ
những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa.
* Lí giải sự khác biệt
+ Xuất phát từ đặc điểm của thể loại thơ và bút kí là khác nhau. Thơ nghiêng về cảm xúc, tâm
trạng. Bút kí không chỉ đòi hỏi có cảm xúc mà ít nhiều có tính xác thực và khách quan.
+ Đối với Hàn Mặc Tử, Huế là nơi tác giả từng gắn bó, giờ đã trở thành kỉ niệm. Còn Hoàng
Phủ Ngọc Tường là người con của xứ Huế nên chất Huế đã thấm sâu vào tâm hồn máu thịt của
ông
- Nhận xét: + Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hàn Mặc Tử là hai nghệ sĩ đều có tình cảm tha thiết
với Huế.

15
+ Cả hai đều là những cây bút tài hoa, tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết
sức lãng mạn, phong phú.
3. Kết luận
- Qua ngòi bút uyên bác, mê đắm tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện lên
với vẻ đẹp có linh hồn, đầy lãng mạn.
- Cùng với Hàn Mặc Tử vẻ đẹp sông Hương trở nên phong phú, đáng mên, đáng yêu.

ĐỀ 10
Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp đoạn văn sau trích trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng
sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh
biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông
bắc, phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên
nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông
Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm
hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của
Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của
mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và
cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với
những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những
nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ
mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn
đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua
thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
Từ đó, liên hệ với đoạn thơ sau để nhận xét cái tôi của mỗi tác giả.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
HƯỚNG DẪN
1. Mở bài: (Dẫn ý giới thiệu tác giả, đoạn trích và vấn đề cần liên hệ)
GỢI Ý:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là 1 ngòi bút xuất sắc của thể bút kí, các tác phẩm của ông là thành
quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giọng văn nghị luận đầy sắc bén
với lối tư duy đa chiều, súc tích, tài hoa.
- Thiên nhiên là nguồn thi liệu bất tận, phong phú trong văn học, là nơi các thi văn nhân hòa
mình vào đó, thoải mái dùng ngòi bút mà họa nên mọi tâm tư, tình cảm với cảnh cùng người.
Thế nhưng, từ cái nguồn chung đó, thiên nhiên của mỗi tác giả lại rất khác nhau. Cùng là mảnh
đất Huế mộng Huế mơ, ấy mà Huế trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ
Ngọc Tường với điểm nhìn là dòng sông Hương, trở nên thật nhẹ nhàng, đằm thắm, còn Huế
trong Đây thôn Vĩ Dạ của thi sĩ Hàn Mặc Tử lại rất đỗi bình dị, gần gũi và lãng mạn. Cái tôi rất
riêng của mỗi tác giả từ đây cũng được bộc lộ.
- Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? người đọc được chiêm ngưỡng con sông Hương đặc trưng
của xứ Huế trong mối tương quan toàn diện với lịch sử, văn hóa và con người nơi đây. Đặc
biệt là vẻ đẹp yêu kiều, duyên dáng của dòng sông vắt ngang thành phố qua trích đoạn: “….”
2. Thân bài
a. Khái quát về bút kí, đoạn trích
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông? là 1 tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Hoàng
Phủ Ngọc Tường.
16
+Ra đời năm 1981 in trong tập sách cùng tên, gồm 3 phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất, nói
về thủy trình Hương giang và mối lien hệ giữa sông Hương với lịch sử, văn hóa Huế. Đoạn
văn bản trên miêu tả dòng sông khi vào thành phố Huế thơ mộng.
b. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp của sông Hương trong trích đoạn
* Về nội dung: (tham khảo giáo án trên lớp)
- Sông Hương khi vào thành phố Huế:
+ Đoạn văn được cảm nhận dưới con mắt nghệ thuật của nhà văn, hội họa và âm nhạc:
++ Nhân hóa: “Sông Hương vui tươi hẳn lên” vì “nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời”. Nhà văn thể hiện tâm trạng vui tươi khi trở lại là chính mính.
++ So sánh: “như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, thể hiện một tình yêu kín đáo.
++ “Phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên
nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” gợi vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và chiếc
cầu trong thành phố.
++ Dòng sông còn được liên tưởng để so sánh với các dòng sông trên thế giới:
• Sông Xen chảy vào thành phố Paris.
• Sông Đa - nuýp chảy vào thành phố Budapet.
Giống với dòng sông Hương nằm trong thành phố yêu quý của mình. Điều này thể hiện niềm
tự hào của tác giả và vẻ đẹp riêng của sông Hương giữa đô thị cổ Huế.
+ Bức hoạ dòng sông tiếp tục hiện ra trong những nét chấm phá về những vườn cau Vĩ Dạ với
nắng hàng cau trong trẻo tinh khôi, với lá trúc che ngang e ấp, dịu dàng, với màn sương khỏi
huyền ảo gợi nhớ thi sĩ họ Hàn tài hoa mà bất hạnh... Với niềm hoài cổ của một nhà văn hoá,
Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng cái nhìn trầm tư và mơ mộng tới những cây đa, cây cừa cổ thụ
toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, tới ánh lửa thuyền chài lập loè trong đêm
sương- những hình ảnh khiến dòng sông vừa gần gũi với cuộc sống đời thường, vừa xa xăm
trong cõi miên viễn của cổ thi…
+ Nhận xét chung: Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm
nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên
có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say
đắm trong tình yêu.
* Về nghệ thuật:
- Đoạn trích viết dưới dạng bút kí.
- Ngôn từ trau truốt.
- Sử dụng những hình ảnh đặc sắc, mang giá trị biểu cảm cao, giàu chất nhạc.
-Vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa.
- Thể hiện cái tôi mê đắm và tài hoa.
c. Liên hệ với đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để nhận xét cái tôi của
mỗi tác giả
* Về đoạn thơ thứ hai trong bài Đây thôn Vĩ Dạ
- Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Cuộc đời ông
ngắn ngủi, đầy bi thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ, để lại chặng
đường thơ sáng ngời và nhiều bài thơ bất hủ cho hậu thế, trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Bài thơ là một thi phẩm xuất sắc của Thơ mới và đồng thời tiêu biểu cho phong cách sáng tác
của Hàn Mặc Tử.
- Cảnh sông nước đêm trăng ở sông Hương của thôn Vĩ đẹp vẻ thơ mộng, lãng mạn: gió thổi
nhẹ, mây trôi chậm, dòng nước lững lờ và hoa bắp đôi bờ cũng chỉ khẽ lay). Cảnh đượm buồn:
Dường như tất cả đều trôi chảy, xa dần (gió thổi, mây trôi, dòng nước cũng lững lờ trôi); dòng
sông như một sinh thể có hồn mang nỗi niềm tâm trạng của nhân vật trữ tình (buôn thiu); gió
mây chia lìa đôi ngả; hoa bắp khẽ lay đọng lại nỗi buồn cho câu thơ. Cảnh sông nước đêm
trăng hiện thực mà huyển ảo: Dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, dòng ánh sáng
tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Con thuyền vốn
17
có thực trên sông trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng đê’ chở
trăng về với thi nhân.
- Chữ kịp cho thấy tâm trạng âu lo, phấp phỏng của Hàn Mặc Tử. Trong hoàn cảnh mắc bệnh
hiểm nghèo, quĩ đời của thi nhân cứ vơi dần từng giây, từng phút. Cuộc ra đi chia lìa vĩnh viền
có thể đến bất cứ lúc nào. Vậy nên, thuyền không chở trăng về kịp tối nay thì biết đâu thi sĩ sẽ
ra đi trong vĩnh viễn đau buồn.
- Nhận xét chung: Bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng vẫn đẹp nhưng buồn. Đồng thời,
bức tranh phong cảnh này cũng là bức tranh tâm cảnh – chứa đựng nỗi buồn về dự cảm hạnh
phúc chia xa nhưng vẫn thấy ở đó niềm khao khát giao cảm với đời, khao khát yêu, khao khát
hạnh phúc của thi nhân vào những năm tháng cuối đời.
* Nhận xét cái tôi của mỗi tác giả
+ Đây thôn Vĩ Dạ: Một cái tôi hoài vọng phấp phỏng lo âu vì mặc cảm chia lìa. Cái tôi đó thể
hiện qua hình ảnh thiên nhiên xứ Huế tuy đẹp nhưng nặng trĩu nỗi buồn đau.Chọn điểm nhìn
cảm xúc ở một không gian hẹp, thu nhỏ, đồng thời đó là cái nhìn được gợi cảm hứng từ bức
ảnh, là cái nhìn của kí ức nên Hàn Mặc Tử đã làm nổi bật vẻ đẹp của xứ Huế qua những nét
lãng mạn, dung dị, bình thường mà vô cùng đặc biệt: đó là thiên nhiên gần gũi, là cảnh sông
nước hữu tình nhưng chất chứa nỗi đau thương.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Cái tôi của nhà văn trong đoạn trích đồng nhất với con
người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất
nước. Tác giả chọn điểm nhìn là sông Hương. Đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng
lớn hơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn bao quát, trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, từ
đời sông cho đến văn hóa xứ Huế. Vì thế, vẻ đẹp của xứ mộng mơ này hiện lên toàn diện hơn,
hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những trầm tích văn
hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa, mang những nét đẹp thuần túy chưa hề phai mờ
trong kí ức của những người yêu xứ Huế.
- Nguyên nhân sự khác biệt :
+ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện cái tôi trong sáng tác;
+ Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn cái tôi của mỗi tác
giả.
3. Kết bài:

ĐỀ 11
Cảm nhận về vẻ đẹp hình tượng sông Hương từ thượng nguồn đến trước khi ra biển
trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Liên hệ vẻ đẹp dòng sông trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận để nhận xét về cách
khai thác hình tượng thiên nhiên (dòng sông) của mỗi tác giả.
HƯỚNG DẪN
1. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà trí thức yêu nước. Ông là một nhà văn chuyên về bút kí.
Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị
luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú ở nhiều lĩnh vực,
lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút
kí xuất sắc
- Qua tác phẩm, nhà văn đã khắc họa thành công vẻ đẹp của hình tượng sông Hương từ thượng
nguồn đến trước khi ra biển. Cùng viết về đề tài dòng sông, ta phát hiện được cách mà Huy
Cận trong bài thơ Tràng giang cũng như Hoàng Phủ Ngọc Tường tận dụng để khai thác được
giá trị của hình tượng thiên nhiên.
2. Thân bài
a. Khái quát về tuỳ bút:
- Viết tại Huế 4-1-1981
18
- Thể loại: bút kí - thể loại mà nhân vật trung tâm là “cái tôi” tác giả
- Làm nên thành công của bài bút kí trước hết là ông đã gắn liền với mảnh đất quê hương mình
tại Huế. Chính điều này đã giúp ông hiểu biết sâu sắc và gắn bó sâu nặng với xứ Huế và sông
Hương.
b. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về hình tượng từ thượng nguồn đến trước khi ra biển
* Về nội dung:
- Vẻ đẹp của dòng sông Hương ở thượng nguồn:
+ Mang vẻ đẹp hoang dại, bí ẩn, dữ dội, được tác giả ví “như một bản trường ca của rừng già,
rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, nhưng cũng có lúc lại dịu dàng, hiền lành, trữ tình như người
mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở;
+ Vẻ đẹp của dòng sông Hương được so sánh với vẻ đẹp của người con gái Di- gan, đó là vẻ
đẹp ẩn chứa cái phóng khoáng, man dại đầy hấp dẫn, khó cưỡng chế mà thực thu hút; đó là vẻ
đẹp bản năng, hoang sơ.
- Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong cuộc hành trình đến với “người tình” Huế:
+ Sông Hương rời nguồn và bắt đầu tìm đến với “thành phố tương lai của nó”. Rời núi Trường
Sơn, sông Hương uốn chuyển mình khoe những đường cong mềm mại, dịu dàng, nữ tính:
“Nhưng ngay từ đầu vừa rời khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng liên tục, vòng giữa
khúc đột ngột uốn mình theo những đường cong mềm mại”.
+ Sông Hương lúc thì có vẻ đẹp sắc màu biến ảo với sắc nước xanh, vàng, tím, in hình nền trời
Tây Nam thành phố, khi thì lại mang vẻ đẹp ưu tư, thâm nghiêm, hoài cổ lặng lẽ chảy qua lăng
mộ của các vua chúa, lúc lại mang vẻ đẹp mơ màng khi ngang qua Vĩ Dạ.
- Vẻ đẹp sông Hương trong lòng “người tình” Huế:
+ Khi chạm mặt người tình tại cồn Dã Viên, “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ”, đường
cong ấy “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Giây phút ban đầu e lệ mà nhẹ nhàng
đến thế.
+ Khi trong lòng Huế, dòng sông Hương như muốn chậm khẽ, giống điệu slow nhẹ nhàng, khẽ
khàng từng nhịp, “đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.
- Vẻ đẹp của sông Hương khi rời xa “người tình” Huế:
+ Cuộc hội ngộ nào rồi cũng tới lúc giã biệt, “rồi như sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói.
Nó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối”. Cái gặp lần
cuối ấy nói lên bao lưu luyến của con sông dành cho người tình xứ Huế này
+ Nhà văn đã ví sông Hương như nàng Kiều lưu luyến tìm Kim Trọng nói lời tạm biệt, “một
lời thề” trước khi xuôi về biển cả.
* Về nghệ thuật:
- Có những liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, nhân hóa rất phong phú, độc đáo.
- Câu văn gợi hình, gợi cảm, lối hành văn hương nội, mê đắm, tài hoa
- Đoạn văn được viết bởi một ngòi bút đậm chất thơ: ngôn ngữ (nhiều tính từ), hình ảnh, giọng
điệu…
- Vận dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực.
c. Liên hệ vẻ đẹp dòng sông trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận để nhận xét về cách
khai thác hình tượng thiên nhiên (dòng sông) của mỗi tác giả.
* Vẻ đẹp dòng sông trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận
- Huy Cận là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại, là gương mặt tiêu biểu của phong
trào Thơ Mới 1932 - 1945. Huy Cận là một trí thức Tây học song lại chịu ảnh hưởng sâu sắc
của Nho học. Thơ ông vừa phảng phất màu sắc Đường thi cổ điển, vừa mang hình ảnh con
người cá nhân ảo não, cô đơn của văn học lãng mạn.
- Vẻ đẹp thiên nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế của hồn thơ Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua
bài thơ Tràng giang.
- Hình tượng Tràng giang khước từ mọi địa danh, địa chỉ cụ thể để trở thành một tạo vật thiên
nhiên mang tính phổ quát. Lòng yêu của thi sĩ trong đó là lòng yêu dành cho tạo vật thiên
19
nhiên. Cảm hứng chung của bài thơ là cảm hứng không gian: không gian được mở ra từ sâu
thẳm vũ trụ vào tận sâu thẳm tâm linh con người. Bởi vậy,Tràng giang hiện ra như một bức
tranh tạo vật trường cửu lớn lao, vừa hoang sơ vừa cổ kính, thôi thúc lòng quê trỗi dậy tìm
chốn nương tựa quê hương, chỗ tựa bền vững muôn thuở của con người, kín đáo bộc lộ tình
cảm tha thiết gắn bó với quê hương, bộc lộ niềm khát khao tình đời tình người hơi ấm của con
người.
* Nhận xét về cách khai thác hình tượng thiên nhiên (dòng sông) của mỗi tác giả
- Nét chung về cách khai thác hình tượng thiên nhiên (dòng sông) của hai tác giả :
+Cả 2 tác phẩm đều chọn hình tượng thiên nhiên (dòng sông) làm nguồn cảm hứng sáng tác;
+Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước.Đó cũng là biểu hiện của tinh thần
yêu nước thầm kín của các nhà thơ.
+ Cả 2 tác phẩm đều cho thấy nét bút tài hoa, lãng mạn của 2 thi sĩ.
- Khác biệt:
+ Cách khai thác hình tượng thiên nhiên (dòng sông) trong bài Tràng giang: đó là không gian
mênh mang, bao la, rộng lớn “Trời rộng sông dài” vừa mang đậm màu sắc cổ điển nhưng vẫn
gần gũi, thân thuộc với mọi tấm lòng Việt Nam. Sự đối lập giữa bao la mênh mông của trời
nước với vạn vật nhỏ nhoi tạo nên cảm giác lạc lõng; con người cảm thấy cô đơn, bơ vơ. Tác
giả sử dụng thể thơ bảy chữ. Bao trùm bài thơ là một giọng điệu buồn.Dường như nỗi buồn đã
thấm sâu vào cảnh vật.
+ Cách khai thác hình tượng thiên nhiên (dòng sông) trong bài bút kí của Hoàng Phủ Ngọc
Tường: đó là không gian được nhìn ở góc độ địa lí. Một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, một vốn văn
hóa phong phú về Huế và trước hết, với một tình cảm vô cùng thiết tha đối với Huế, tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường như đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn từ
giàu có của mình để phát hiện, diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế thể hiện tập trung của dòng
sông Hương như một biểu tượng của xứ Huế. Tác giả sử dụng thể bút kí, thể hiện phong cách
mê đám và tài hoa
- Nguyên nhân sự khác biệt
+ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện hình ảnh thiên nhiên.
+Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và
hình ảnh thiên nhiên của mỗi tác giả.
3. Kết bài Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp thiên nhiên của 2 tác phẩm. Cảm nghĩ
của bản thân về hình tượng dòng sông.
Đề 12: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm “Người
lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó, trình bày suy nghĩ của mình về việc
bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà
– Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông?
– Giới thiệu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo vệ cảnh quan
thiên nhiên của quê hương, đất nước.
II.Thân bài
1. Nét tương đồng của 2 dòng sông
a/ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có tính cách
với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất
nước.
b/ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.

20
– Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó trên nhiều
phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như đang bày trùng vi
thạch trận.
– Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của rừng già,
tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
c/ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:
– Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay đổi qua từng
mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính…
– Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái ngủ mơ màng chờ người
tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế…
d/ Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
– Tài hoa:
2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:
+ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy
nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.
+ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những
nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
– Uyên bác:
cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật
để khắc họa hình tượng 2 dòng sông.
2.Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dòng sông:
a/ Sông Đà:
– Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà giống như một
kẻ thù hiểm độc và hung ác
-> Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch trận
chực lấy đi mạng sống của con người. – Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ dội, phi
thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng, đá trên sông đà
mỗi viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến…
– Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa, tài trí của người
lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt thác của người lái đò là
mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá…
b/ Sông Hương:
– Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng
vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở thượng nguồn, nó
là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ
màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà
lại chung tình, là người con gái dịu dàng của đất nước.
– Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa bồi đắp
cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.
– Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông Hương là thủy
trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế, sông Hương mềm hẳn đi như
một tiếng ” vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như người
con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện một nỗi niềm vương vấn với một chút lẳng lơ
kín đáo.
– Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét đẹp lãng mạn,
trữ tình của đất trời xứ Huế
3. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất
nước
Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau : Thế hệ trẻ cần có trách
21
nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như: yêu quí, bảo vệ môi trường,
quảng bá thắng cảnh…
III. Kết luận:
Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn
– Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2 tâm hồn có
tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông đất nước Việt Nam.
– Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình tượng các
dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về vẻ đẹp của quê hương,
đất nước mình.
ĐỀ 13
Cảm nhận của anh/chị về những đoạn văn sau:
(…) Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi
lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng…
(…) Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân… Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu
về” (Nguyễn Tuân - Người lái đò Sông Đà)
Từ đó liên hệ với đoạn trích sau đây để nhận xét phong cách của hai nhà văn trong cách
xây dựng hình tượng sông Đà và sông Hương?
(…) Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già,
rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng…
(… )Từ tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai
dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai,
Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc
thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản
quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như
người Huế thường miêu tả …” (Hoàng Phủ Ngọc Tường - Ai đã đặt tên cho dòng sông?)
HƯỚNG DẪN
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, yêu cầu đề.
2. Cảm nhận những đoạn văn của Nguyễn Tuân
a) Nội dung:
- Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà như một công trình thẩm mĩ, một kì công
nghệ thuật mà thiên nhiên ban tặng con người với hai đặc điểm: hung bạo, dữ dội và thơ mộng,
trữ tình.
- Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có âm thanh dữ dội,
nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã nghe thấy tiếng nước
“réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc đáo: tiếng nước thác nghe như là “oán trách”,
như là “van xin”, như là “khiêu khích”, rồi rống lên “như tiếng một ngàn con trâu mộng” gầm
thét khi bị cháy rừng.
- Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở nhiều góc độ, điểm
nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên cao, Sông Đà có dòng chảy uốn
lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm. Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như
22
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo mùa,
mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”.
Những chi tiết miêu tả của tác giả gợi lên một liên tưởng thú vị: giữa khung cảnh ngày xuân
thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một
thiếu nữ đương độ xuân thì.
- Đoạn miêu tả dáng vẻ, màu nước sông Đà là những phát hiện thú vị về vẻ đẹp dịu dàng của
dòng sông và phát hiện rất tinh tế về màu nước theo mùa. Đoạn văn được viết bằng sự thăng
hoa của tâm hồn, nhà văn như “đề thơ vào sông nước”, thể hiện cách khám phá sự vật ở
phương diện mĩ thuật.
b) Nghệ thuật
- Ngôn ngữ giàu sức tạo hình, vốn từ ngữ phong phú, biến hóa, được tác giả tung ra đúng lúc,
đặc biệt là những ví von, so sánh, nhân hóa lạ, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú
vị.
- Từ ngữ sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc khi thì chậm rãi, trừ
tình,…
3. Liên hệ với hai đoạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường huy động vốn tri thức, vốn ngôn ngữ phong phú, kết
hợp giữa trữ tình và chính luận, trí tuệ và cảm xúc, cảm hứng lịch sử và chiều sâu văn hóa, khả
năng liên tưởng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ.
- Đoạn văn viết về sông Hương ở thượng nguồn là khám phá của tác giả về vẻ đẹp vừa“phóng
khoáng và man dại” vừa “dịu dàng và say đắm”của dòng sông, là kết quả của trí tưởng tượng
đầy tài hoa. Cảnh sông ở đây được khắc họa với những hình ảnh đầy ấn tượng bằng năng lực
quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ.
- Đoạn văn miêu tả sông Hương ở ngoại vi thành phố là lối hành văn hướng nội, súc tích, mê
đắm và tài hoa của sông Hương qua phép nhân hóa khi miêu tả dòng chảy
và cách đặc tả màu nước phản quang hai bên bờ và thay đổi trong ngày.
4. Nhận xét phong cách của hai nhà văn trong cách xây dựng hình tượng sông Đà và sông
Hương
a) Sự tương đồng
- Điểm gặp nhau giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường: Đi tìm cái đẹp và thể hiện cái
đẹp bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo tạo được nét riêng, mới lạ qua hình ảnh dòng sông.
- Đều là những nhà văn viết tùy bút thành công:Hai tác giả đều viết tùy bút về các dòng sông
(bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? thực sự là một thiên tùy bút- một áng văn xuôi tự sự trữ
tình.
- Hai bài kí đều thể hiện kiến thức lịch sử, địa lí, văn hóa... sâu rộng. Cả hai con sông đều được
khám phá ở vẻ đẹp trữ tình và mạnh mẽ, hoang sơ.
- Hai tác giả đều thể hiện cái tôi trữ tình khi khám phá vẻ đẹp của những con sông quê hương
đất nước, kết đọng trong đó tình yêu xứ sở. Đó là sự gặp gỡ của những tâm hồn Việt, những tài
năng tùy bút bậc thầy
b) Sự khác biệt
- Tùy bút của Nguyễn Tuân giàu chất kí, chất truyện. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu
chất trữ tình - chất tùy bút.
- Cùng tài hoa, uyên bác nhưng Nguyễn Tuân là tài hoa kiêu bạc, còn Hoàng Phủ Ngọc Tường
thì tài hoa sâu lắng.
- Nguyễn Tuân đến với Sông Đà như đến với một sự thử thách để bộc lộ cái tôi độc đáo tài
hoa, thể hiện cảm hứng mãnh liệt trước cái đẹp, cái khác thường, phi thường thì Hoàng Phủ
Ngọc Tường đến với sông Hương như một sự tương giao linh diệu của một tâm hồn Huế, với
chiều sâu văn hóa của đất quê hương.
23
- Nguyễn Tuân là phù thủy ngôn từ, câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu giá trị tạo hình, dựng
cảnh, tả người đặc sắc. Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu liên tưởng, tưởng tượng, lối văn đậm chất
thơ, thiên về thể hiện cảm xúc, ngẫm suy mang chiều sâu văn hóa.
Đề 14
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn văn sau:
(…) Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành
chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ
mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò
Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước
giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những
cánh quạ đàn (…) (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một,
NXB Giáo dục 2008, tr. 186)
(…) Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ
sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm,
nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua các
ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng
trường sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di - gan phóng
khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và
trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt
khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng,
sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở (…) (Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr. 198)
HƯỚNG DẪN
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, với phong cách nghệ thuật độc đáo, nổi bật là nét tài hoa,
uyên bác, đặc biệt sở trường về thể tùy bút. Người lái đò sông Đà là một tùy bút đặc sắc, kết
tinh nhiều mặt của phong cách Nguyễn Tuân, viết về vẻ đẹp và tiềm năng của thiên nhiên và
con người Tây Bắc.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nghệ sĩ tài hoa, mang đậm chất Huế, có nhiều thành tựu về
thể kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là một tùy bút giàu chất trữ tình về vẻ đẹp sông Hương
với bề dày lịch sử và văn hóa Huế, rất tiêu biểu cho phong cách của ông.
2. Về đoạn văn trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
a. Nội dung
- Đoạn văn tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy chất tạo hình của sông Đà với sự hùng vĩ và hung dữ
của con sông trước hết thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nơi ấy chỉ đúng ngọ mới
thấy mặt trời, vách đá thành chẹt lòng sông như cái yết hầu, có chỗ đứng bên này bờ nhẹ tay
ném hòn đá qua bên kia vách, ngồi trong khoang đò qua quãng ấy mùa hè cũng thấy lạnh…
Cảnh mặt ghềnh sông: hung tợn và dữ dằn, dài hàng cây số với sự hợp sức của gió, sóng và đá,
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua đây…
24
- Hiện diện một cái tôi Nguyễn Tuân đắm say, nồng nhiệt với cảnh sắc thiên nhiên, tinh tế và
độc đáo trong cách cảm nhận cái đẹp
b. Nghệ thuật
- Hình ảnh cụ thể, ngôn từ mới lạ; câu văn ngắn, trùng điệp, nhịp điệu nhanh, dồn dập
- Cách so sánh, nhân hóa táo bạo mà kì thú, liên tưởng độc đáo, bất ngờ; thủ pháp điệp từ,
điệp cấu trúc được sử dụng hợp lí…
3. Về đoạn văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
a. Nội dung
- Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của sông Hương ở phía thượng nguồn với một sức sống mãnh liệt,
vừa hùng tráng vừa trữ tình như bản “ trường ca” bất tận của thiên nhiên. Đôi khi dòng sông
mang vẻ đẹp hoang dại như cô gái Di - gan nhưng cũng rất tình tứ và quyến rũ. Có lúc nó như
chế ngự được bản năng trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở
- Toát lên một tình yêu xứ sở sâu nặng, đằm thắm, một cách cảm nhận bình dị mà tinh tế của
Hoàng Phủ Ngọc Tường.
b. Nghệ thuật
- Hình ảnh chân thực mà gợi cảm; câu văn dài được chia thành nhiều vế liên tục; những động
từ mạnh tạo âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ
- Lối so sánh và liên tưởng thú vị, độc đáo; biện pháp nhân hóa ấn tượng, sự quan sát tinh tế.
4. Về sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn văn
- Tương đồng: Cùng miêu tả vẻ đẹp đa dạng và phong phú của sông nước, cùng bộc lộ tình yêu
mãnh liệt dành cho thiên nhiên, xứ sở với một mĩ cảm tinh tế, dồi dào, được viết bằng thứ văn
xuôi đậm chất tạo hình, giàu hình ảnh, âm thanh và nhịp điệu.
- Khác biệt: Đoạn văn của Nguyễn Tuân trội về cảm xúc mãnh liệt, cảm giác sắc cạnh, liên
tưởng phóng túng, so sánh táo bạo…Đoạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường trội về cảm xúc
sâu lắng, cảm giác gắn với tư duy…
5. Đánh giá chung.

Đề 15
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
(…) Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám
mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước
Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về (…) (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ
Văn 12, Tập 1, NXBGD Việt Nam, 2015).
(…) Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa
hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam
Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với
những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên
những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ
nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm
kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề
núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc
nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của
nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du
bát ngát tiếng gà (…)
25
(Ai đã đặt tên cho dòng sông?- Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ Văn 12, Tập 1, NXBGD Việt
Nam, 2015).
HƯỚNG DẪN
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn với phong cách nghệ thuật độc đáo, nổi bật là nét tài hoa,
uyên bác, đặc biệt sở trường về tùy bút. " Người lái đò sông Đà" là một tùy bút đặc sắc , kết
tinh nhiều mặt của phong cách Nguyễn Tuân, viết về vẻ đẹp và tiềm năng của con người Tây
Bắc.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nghệ sĩ tài hoa, mang đậm chất Huế, có nhiều thành tựu về
kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tùy bút giàu chất trữ tình viết về vẻ đẹp sông Hương với
bề dày lịch sử và văn hóa Huế, rất tiêu biểu cho phong cách của ông.
2. Vể đoạn văn trong Người lái đò sông Đà
a. Nội dung: - Đoạn tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy chất tạo hình của sông Đà với hình tượng
thơ mộng, đường nét mềm mại, ẩn hiện, màu sắc dòng nước biến đổi tương phản theo mùa,
gây ấn tượng mạnh.
- Hình tượng một cái tôi Nguyễn Tuân đắm say, nồng nhiệt với cảnh sắc thiên nhiên, tinh tế và
độc đáo trong cảm nhận cái đẹp.
b. Nghệ thuật:
- Hình ảnh, ngôn từ mới lạ, câu văn căng tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm thanh và
nhịp điệu.
- Cách so sánh, nhân hóa táo bạo mà kì thú , lối tạo hình giàu tính mĩ thuật , phối hợp nhiều
góc nhìn theo kiểu điện ảnh .
3. Về đoạn văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?
a. Nội dung
- Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp sông Hương theo thủy trình của nó, với những vẻ uyển chuyển,
linh hoạt của dòng chảy; vẻ biến ảo của màu sắc; vẻ uy nghi trầm mặc của cảnh quan đôi bờ .
- Toát lên một tình yêu xứ sở sâu nặng, đằm thắm , một cách cảm nhận bình dị mà tinh tế của
Hoàng Phủ Ngọc Tường.
b. Nghệ thuật:
+ Hình ảnh chân thực mà gợi cảm, câu văn kéo dài mà khúc chiết, thanh điệu hài hòa, tiết tấu
nhịp nhàng.
+ Lối so sánh gần gũi và xác thực, sử dụng nhuần nhuyễn các địa danh và cách nói của
người Huế.
4. Về sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn văn
* Tương đồng:
- Cùng miêu tả vẻ đẹp phong phú và biến ảo của sông nước, cùng bộc lộ tình yêu mãnh liệt
dành cho thiên nhiên xứ sở với một mĩ cảm tinh tế, dồi dào; cùng bao quát sông nước trên nền
cảnh khoáng đạt của không gian và thời gian .,
- Cùng được viết bằng một thứ văn xuôi đậm chất trữ tình, giàu hình ảnh, âm thanh và nhịp
điệu.
* Khác biệt:
+ Đoạn văn của Nguyễn Tuân trội về cảm xúc nồng nàn , cảm giác sắc cạnh, liên tưởng phóng
túng, so sánh táo bạo; cảnh sắc được bao quát từ nhiều góc nhìn khác nhau, theo nhiều mùa
trong năm.
+ Đoạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường trội về cảm xúc sâu lắng, cảm giác gắn với suy
tư; cảnh sắc được bao quát từ cùng một gốc nhìn mà nương theo thủy trình để nắm bắt sự biến
đổi của sông nước qua từng chặng, từng buổi trong ngày.

Đề 16
Về hình tượng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng
26
Phủ Ngọc Tường, có ý kiến cho rằng: Sông Hương mang vẻ đẹp đầy nữ tính và rất
mực đa tình.
Bằng hiểu biết về tác phẩm, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
HƯỚNG DẪN
1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, cũng là một
trí thức giàu lòng yêu nước. Ông có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể bút kí,
tuỳ bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về
triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí...
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách bút kí của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Đến với tác phẩm người đọc sẽ gặp ở đó dòng sông Hương với vẻ đẹp đầy nữ
tính và rất mực đa tình
- Trích ý kiến
2. Giải thích ý kiến
- Vẻ đẹp nữ tính : Có những vẻ đẹp, phẩm chất của giới nữ (như: xinh đẹp, dịu dàng, mềm mại,
kín đáo...)
- Rất mực đa tình : Rất giàu tình cảm.
=>Ý kiến đề cập đến những vẻ đẹp khác nhau của hình tượng sông Hương trong sự miêu tả
của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
3. Phân tích vẻ đẹp sông Hương
a) Vẻ đẹp nữ tính
+ Khi là một cô gái Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và
trong sáng. Khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và
trí tuệ.
+ Khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng. Khi là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
Khi được ví như là Kiều, rất Kiều. Khi là người con gái Huế với sắc màu áo cưới vẫn mặc sau
tiết sương giáng.
=> Dù ở bất kỳ trạng thái tồn tại nào, sông Hương trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc
Tường vẫn đầy nữ tính, xinh đẹp, hiền hòa, dịu dàng, kín đáo nhưng không kém phần mãnh
liệt...
b) Rất mực đa tình
+ Cuộc hành trình của sông Hương là cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi. Trong
cuộc hành trình ấy, sông Hương có lúc trầm mặc, có lúc dịu dàng, cũng có lúc mãnh liệt mạnh
mẽ…Song nó chỉ thực vui tươi khi đến ngoại ô thành phố, chỉ yên tâm khi nhìn thấy chiếc cầu
trắng của thành phố in ngần trên nền trời.
+ Gặp được thành phố, người tình mong đợi, con sông trở nên duyên dáng ý nhị uốn một cánh
cung rất nhẹ sang cồn Hến, cái đường cong ấy như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu.
+ Sông Hương qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở. như những vấn vương của
một nỗi lòng.
+ Sông Hương đã rời khỏi kinh thành lại đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông - Tây
để gặp lại thành phố 1 lần cuối. Nó là nỗi vương vấn, chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Như
nàng Kiều trong đêm tình tự, sông Hương chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó...
* Vài nét về nghệ thuật
- Có sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ.
- Bộc lộ ngòi bút tài hoa, uyên bác: Huy động nhiều vốn kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ
thuật và những trải nghiệm của bản thân tác giả.
- Ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, đầy chất thơ gợi hình, gợi cảm, câu văn
giàu nhạc điệu; cách sử dụng những phép tu từ so sánh, nhân hoá, ẩn dụ. Liên tưởng rất mực
phóng túng.
27
- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.
4. Đánh giá
- Miêu tả sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường bộc lộ một vốn hiểu biết phong phú, một trí
tưởng tưởng bay bổng.
- Đằng sau những dòng văn tài hoa, đậm chất trữ tình là một tấm lòng tha thiết với quê hương,
đất nước.

Đề 17
“Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về
văn hóa lịch sử rất phong phú” (Ngữ văn 12, Tập 1).
Anh /chị hãy phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
để làm rõ nhận định trên.
HƯỚNG DẪN
1. Mở bài:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút kí tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện
đại. Với thể loại kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trên từng trang văn vốn kiến thức uyên
bác và cách viết tài hoa.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kí của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương , thiên nhiên và con người xứ Huế với
những trang văn “vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa, lịch
sử rất phong phú”.
2. Thân bài:
a. Khái quát
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? rút từ tập bút kí cùng tên, được xuất bản năm 1984. Tập bút kí
gồm tám bài viết về nhiều đề tài. Đặc biệt là những bài viết về Huế.
- Trong số những bút kí đó, Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài kí độc đáo về sông Hương.
Dòng sông khơi gợi cảm hứng cho thơ ca, nhạc họa đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm
nhận từ nhiều góc nhìn, đặc biệt là góc nhìn tâm linh, mang những nét riêng của “văn hóa Phú
Xuân”.
b. Phân tích:
* Chất trí tuệ của một cái tôi uyên bác:
Viết về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về mọi mặt:
văn hóa, lịch sử, địa lí, văn học nghệ thuật… Nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng
thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông Hương và thiên nhiên, con người Huế.
Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn địa lí:
- Hành trình của dòng sông: với câu hỏi gợi tìm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, bằng những
bước chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông
Hương:
+ Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại
ngàn, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”.
+ Ra khỏi đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, giấu kín cuộc hành trình gian truân giữa
lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” -> Vẻ đẹp
dữ dội, hùng vĩ của sông Hương giữa rừng già ít ai biết đến.
+ Chảy qua vùng rừng núi, sông Hương trở nên dịu dàng, “uốn mình theo những đường
cong thật mềm”. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững
như thành quách, chảy qua những lăng tẩm đồ sộ, chảy qua chùa Thiên Mụ và “những xóm
làng trung du bát ngát tiếng gà”.
-> sông Hương trở thành “người mẹ phù sa” mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.
+ Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm, in bóng cầu
Tràng Tiền xa trông nhỏ nhắn như “những vành trăng non”.
28
+ Xuôi về Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa với màu xanh của thôn
Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ, trước khi rời khỏi kinh
thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng… để gặp lại thành phố lần cuối”. Nhà văn dùng
biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa hình dáng của dòng sông: “Đó là nỗi vương vấn, cả một
chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” -> Biện pháp nhân hóa đã giúp tác giả thổi hồn vào dòng
sông và hơn thế nữa là một phương thức để nhà văn kết nối sông Hương với con người và văn
hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và Huế ngày nay.
- Sông Hương và thiên nhiên Huế: Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức
tranh thiên nhiên đẹp mượt mà.
Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện với vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian.
Sông Hương phản quang vẻ đẹp biến ảo của Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền
với dòng sông, những địa danh quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai
dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở
nên xanh thẳm”…-> sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc thiên nhiên Huế và ngược lại
dòng sông cũng hun đúc mọi sắc trời văn hóa của vùng đất cố đô.
- Sông Hương và con người Huế:
+ Thiên nhiên và dòng sông luôn gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của
dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung
tình với quê hương xứ sở”.
+ Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang
phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều lục các cô dâu trẻ vẫn
mặc trong tiết sương giáng”.
Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn lịch sử
- Từ góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là “cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại”,
không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà trở thành chứng nhân
của những biến thiên lịch sử. Nhà văn ví sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá
xanh biếc” -> Sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương là một bản anh hùng
ca, đồng thời giữa đời thường sông Hương là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài -
Còn về, còn nhớ...”.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ của
dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử.
Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng sông Hương trong lịch sử dân
tộc. Từ thời đại các Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong những thế
kỉ trung đại, với tên gọi Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc
Đại Việt”. Sông Hương gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu
những cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc Cách mạng tháng tám với
những chiến công rung chuyển. Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế oằn mình
dưới sự tàn phá của bom Mỹ… -> Chất trữ tình của tùy bút giảm đi, nhường chỗ cho chất
phóng sự với những sự kiện lịch sử cụ thể.
=> Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông
có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.
Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa
Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa
phi vật thể.
- Sông Hương - dòng sông âm nhạc:
+ Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua
sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành những làn điệu hò dân gian
và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vút lên,
mênh mang, xao xuyến...

29
+ Viết về sông Hương, nhiều lần nhà văn đã liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền
thống nhã nhạc cung đình. Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một nghệ
nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc
cung đình và bật thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh” -> Bóng dáng Nguyễn Du và những trang
Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí bộc lộ một khả năng liên tưởng phong phú, một vốn văn
hóa sâu rộng và sự gắn kết với truyền thống, một sự đồng điệu tâm hồn nhà văn.
- Sông Hương - dòng sông thi ca:
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về xứ Huế:
“Dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hình ảnh thơ này cùng với câu chữ của tác giả “màu cỏ lá
xanh biếc” là minh chứng cho sự tương giao của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc
của thiên nhiên Huế.
+ Nhà văn cũng làm sống dậy một sông Hương hùng tráng bất tử “như thanh kiếm dựng trời
xanh” trong thơ Cao Bá Quát, một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện
Thanh Quan...
=> Bằng vốn kiến văn phong phú, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lay động linh hồn của con sông
mà tên gọi của nó đã đi vào văn chương nghệ thuật mà theo tác giả “dòng sông ấy không bao
giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.
* Chất thơ của một ngòi bút tài hoa
- Chất thơ toát ra từ những hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những
xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của
một linh hồn mô tê xưa cũ…”; qua cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của
thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vành trăng non”.
- Chất thơ còn lấp lánh ở cách Hoàng Phủ Ngọc Tường điểm xuyết ca dao, lời thơ Tản Đà, Cao
Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan.
- Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông: Ai đã
đặt tên cho dòng sông?
3. Kết bài
- Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên
phong cách đặc sắc của nhà văn này.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? không chỉ là một trong những tác phẩm hay nhất viết về sông
Hương mà còn là bút kí đặc sắc vào bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Đề 18:
Về hình tượng sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường (sách Ngữ văn 12), có ý kiến cho rằng: Vẻ đẹp nổi bật của sông Hương là
cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: Vẻ đẹp bề sâu
của sông Hương là những trầm tích văn hóa, lịch sử. Bằng cảm nhận về hình tượng sông
Hương, anh/chị hãy bình luận hai ý kiến trên
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí, có văn phong giàu chất trí tuệ và tài
hoa.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm xuất sắc thể hiện tình yêu của tác giả dành cho xứ
Huế và cũng là cho đất nước. Hình tượng sông Hương được khắc họa với nhiều vẻ đẹp khác
nhau.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
– Vẻ đẹp nổi bật là vẻ đẹp hiện trên bề nổi, gây ấn tượng vượt trội, dễ nhận thấy bằng trực
cảm. Ý kiến thứ nhất coi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ là vẻ đẹp nổi bật của sông
Hương.
30
– Vẻ đẹp bề sâu là vẻ đẹp ẩn chìm, đòi hỏi phải có tri thức sâu rộng và chiêm nghiệm công phu
mới khám phá được. Ý kiến thứ hai coi những trầm tích văn hóa, lịch sử là vẻ đẹp bề sâu của
sông Hương.
2. Cảm nhận về hình tượng sông Hương
a. Vẻ đẹp thơ mộng, tình tứ của sông Hương được thể hiện rõ nhất qua thủy trình của dòng
sông
- Ở thượng nguồn: Dòng sông mang vẻ đẹp dịu dàng, đắm say
+ Sông Hương nhìn từ thượng nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường
Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, Sông Hương tựa như " một bản trường ca của rừng
già"với nhiều tiết tấu hùng tráng dữ dội. Khi thì " rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", lúc " mãnh
liệt vượt qua ghềnh thác", khi " cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn", lúc" dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Bằng bút pháp
nghệ thuật nhân hóa, Sông Hương không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác mà hiện ra tựa " cô
gái Di - gan phóng khoáng và man dại", với " một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do phóng
khoáng".
+ Khi ra khỏi rừng, sông Hương đã chế ngự và nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí
tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
- Ở ngoại vi thành phố Huế: dòng sông mang vẻ đẹp thanh tân với khát vọng mong muốn tìm
hiểu người tình mong đợi của mình.
+ Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, Sông Hương là một “cô gái đẹp ngủ mơ màng",
nhưng sau khi ra khỏi vùng núi thì cũng như nàng tiên được đánh thức , Sông Hương bỗng
bừng lên sức trẻ và mềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự chuyển dòng liên tục, vòng
giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm.
+ Với những so sánh đậm chất thơ, với sự phong phú về ngôn ngữ và hình tượng, tác giả còn
cho người đọc thấy được vẻ đẹp biến ảo của dòng sông. Sông Hương có lúc "mềm như tấm
lụa" khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai , Lưu Bảo. Có khi sông Hương như một tấm gương
phản chiếu nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím".
Sông Hương có khi lại có một "vẻ đẹp trầm mặc" khi chảy dưới chân những rừng thông u tich
với những lăng mộ âm u và kiêu hãnh của vua chúa triều Nguyễn.
- Trong lòng thành phố Huế:
+ Gặp Huế, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ” như “một tiếng vâng không nói ra của
tình yêu” - một sự thuận tình mà không nói ra vì e lệ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dùng tiếng
nói của tình yêu để tả cảnh nhưng đây là ngôn ngữ tình yêu của cô gái Huế e lệ, duyên dáng,
kín đáo để diễn tả cái vẻ uốn lượn của dòng sông.
+ Những chi lưu của sông Hương làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước “trôi đi thực chậm,
thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh” đẹp như một điệu slow chậm rãi, trữ tình dành
riêng cho Huế.
- Sông Hương chia tay thành phố Huế: sông Hương chia tay thành phố Huế giống như chuyện
chia tay đầy lưu luyến của những người yêu nhau.
b. Vẻ đẹp trầm tích văn hóa của sông Hương
- Vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn văn hóa: dòng sông của thi ca, âm nhạc…
- Vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn lịch sử
c. Đặc sắc nghệ thuật
- Văn phong tao nhã, hướng nội tinh tế: sử dụng nhiều hình ảnh đẹp mang tính hình tượng cao,
ngôn từ ngợi cảm, câu văn giàu nhạc điệu.
- Sử dụng kết hợp các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, lặp, ..
- Sử dụng kiến thức liên ngành: lịch sử, địa lí, văn hóa…
3. Bình luận hai ý kiến
- Hai ý kiến trên đều chính xác, bổ sung cho nhau góp phần thể hiện vẻ đẹp hoàn chỉnh của
sông Hương.
31
- Qua bút kí này, ta thấy được phong cách nghệ thuật đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường
trong thể bút kí, đồng thời thấy được tình yêu nồng nàn, thiết tha của nhà văn với sông Hương,
xứ Huế nói riêng, quê hương đất nước nói chung.
III. Kết bài
- Khẳng định những vẻ đẹp của sông Hương
- Khẳng định tài năng của tác giả.

ĐỀ 19
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của Sông Hương qua đoạn trích: “Trong những dòng
sông đẹp […] bát ngát tiếng gà”
HƯỚNG DẪN
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương và để
nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”.
Vâng, ai rồi cũng có một dòng sông “để thương và để nhớ” nhưng nỗi nhớ mang theo ở mỗi
người lại một vẻ. Với Nguyễn Tuân, dòng sông mang theo là Đà giang hung bạo mà trữ tình,
Tế Hanh nhớ “con sông xanh biếc”, Hoài Vũ mênh mang phù sa Vàm Cỏ, Quang Dũng nào
quên “khúc độc hành” của dòng sông Mã yêu thương… thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại cùng
nàng Hương tương tư với kinh thành Huế qua tuỳ bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Với sự
hiểu biết sâu sắc về Huế, về thuỷ trình của sông Hương kết hợp văn phong khoa học, chất trí
tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều - Hoàng Phủ Ngọc Tường quả
thực đã mang đến những xúc cảm nồng nàn về Hương giang - dòng sông của thơ ca. Tất cả
những giá trị đặc sắc ấy đã được nhà văn tập trung sâu sắc qua đoạn trích: “Trong những dòng
sông đẹp […] bát ngát tiếng gà”
2. Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của Sông Hương qua đoạn trích
a. Khái quát
Là nhà văn gốc Quảng Trị nhưng trưởng thành ở Huế, gắn bó với Huế và đã hơn nửa
cuộc đời sống bên cạnh dòng sông Hương trước khi viết tuỳ bút này. Nên hơn ai hết, Hoàng
Phủ Ngọc Tường rất am hiểu Hương giang. Sông Hương với ông cũng như một người tình mà
suốt cả cuộc đời ông trăn trở đi tìm và lý giải cội nguồn tên gọi. Tuỳ bút này được nhà văn viết
tại Huế năm 1981, in trong tập cùng tên. Đoạn trích trên là đoạn nằm ở phần đầu của bút ký -
sông Hương ở thượng nguồn Trường Sơn và đoạn chảy qua đồng bằng Châu Hoá.
b. Nội dung
* Mở đầu đoạn trích tác giả khẳng định: “trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi
thường nghe nói đến hình như chỉ Sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Trong
lời mở đầu nồng nàn ấy, tác giả đã đặt vị trí của sông Hương ngang bằng với những “dòng
sông đẹp” của thế giới - nhưng trên hết tác giả khẳng định rằng “chỉ Sông Hương là thuộc về
một thành phố duy nhất”. Lời khẳng định ấy cũng chính là niềm tự hào của tác giả về dòng
sông quê hương - dòng sông thi ca đất mẹ.
* Đằng sau lời khẳng định ấy, tác giả đã nhân cách hóa, sử dụng bút pháp miêu tả kết hợp
nhiều động từ mạnh làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương ở đại ngàn. Sông Hương ở thượng
nguồn có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Bằng vốn am hiểu địa lý, cấu trúc lãnh
thổ cũng như am hiểu địa hình, tác giả đã làm hiện lên thật sống động hình ảnh của sông
Hương ở rừng già. Trong cái nhìn của nhà văn, Sông Hương hiện lên như một “cô gái Di Gan
phóng khoáng và man dại”. Dòng chảy ấy được tác giả so sánh ví von như một điệu múa của
cô gái Di Gan, một vũ khúc giữa rừng già: “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng
cây đại, ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn
và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”.

32
- Câu văn kéo dài được ngăn cách bởi những dấu phẩy tạo thành kiểu câu phức trùng điệp.
Sông Hương qua những câu văn ấy thật đẹp. Hai nét tính cách hùng vĩ và thơ mộng đan cài dệt
nên chất thơ, chất hùng của dòng sông mang tên một người con gái. Chỉ mấy lời văn mà tác
giả đã huy động một loạt tính từ, động từ, phép so sánh, nhân cách hóa… làm dòng sông trở
nên sinh động, có hồn cốt: tác giả gọi Sông Hương là “bản trường ca”, “rầm rộ”, “mãnh liệt”,
“cuộn xoáy”, “bí ẩn”… nhưng đằng sau nét dữ dội hùng vĩ ấy chính là một sông Hương thơ
mộng trữ tình với mái tóc thướt tha, kiều diễm, bung nở “giữa những dặm dài” và “cài lên
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” làm náo nức lòng người.
Sông Hương không chỉ có ngoại hình “phóng khoáng và man dại” mà còn hiện lên
với vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ. Trường Sơn và sông Hương có mối tình “nửa cuộc đời” khăng
khít, bền chặt. Chính vì có nửa đời gắn bó với Trường Sơn mà sông Hương đã được đại ngàn
ban cho “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Cũng chính rừng già đã chế
ngự sức mạnh bản năng của người con gái để khi ra khỏi rừng già Trường Sơn, sông Hương
nhanh chóng mang một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng
văn hoá xứ sở”. Ngòi bút giàu chất thơ lai láng của Hoàng Phủ Ngọc Tường quả có sức ru lòng
người. Nếu trước đó sông Hương hiện lên với những từ ngữ góc cạnh, dữ dội “cuộn xoáy,
mãnh liệt, rầm rộ” làm toát lên nét linh thiêng, hùng vĩ của dòng chảy thượng nguồn, thì ở đây
nhiều tính từ mĩ miều đã xuất hiện để tôn vinh vẻ đẹp trời phú của Hương giang: “dịu dàng, trí
tuệ, người mẹ phù sa”…Những mỹ từ ấy cũng đã góp phần tô đậm thêm nét nữ tính, yêu kiều
của nàng Hương đắm say và bí ẩn.
Vẻ đẹp cô gái Di gan ấy quả thực khó đoán biết, vì mỗi một trường đoạn nàng Hương
lại mang một vẻ đẹp khác nhau. Khi ra khỏi Trường Sơn, dòng sông đã “đóng kín lại ở cửa
rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Từ đây nàng khoá
chặt tâm hồn thẳm sâu của mình “không muốn bộc lộ” và tiếp tục cuộc hải trình đi tìm “người
tình mong đợi”.
Có đoạn, tác giả thêm cái tôi của mình vào để bàn luận: “nếu chỉ mải mê ngắm nhìn
khuôn mặt kinh thành, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông
Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua”. Lời trữ tình ngoại đề như thể một
chút thanh minh cho cô gái Hương giang, vừa như toát lên vốn am hiểu sâu sắc thuỷ trình của
dòng sông thơ mộng. Từ đây ngòi bút của nhà văn tiếp tục xuôi dòng về Châu Hoá – cánh
đồng phù sa bãi bồi và đầy hoa dại.
* Khi chảy qua miền địa hình đồng bằng, tác giả ví von sông Hương giống như “người gái
đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”.
Ở đoạn văn tiếp theo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả Sông Hương ở điểm nhìn vừa
xa vừa gần, vừa thi ca vừa hội hoạ. Ở những điểm nhìn xa, sông Hương hiện lên đẹp ở những
đường cong quyến rũ. Liên tưởng tới cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng” Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của dòng sông, để từ đó, ngòi bút
của nhà văn cuốn hút người đọc vào thuỷ trình đầy mê hoặc của dòng sống.
- Tác giả viết “phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp
ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Nhưng đánh thức rồi người tình không
biết đã đi đâu? Hương giang đã thức dậy ngơ ngác đi tìm. Chính điều này tạo nên điểm nhìn
hội hoạ đầy mê hoặc.
- Rời xa vùng núi, sông Hương chuyển dòng một cách liên tục. Sự chuyển dòng này tạo nên
“những khúc quanh đột ngột” mà nhà văn gọi đó là “một cuộc tìm kiếm có ý thức” về người
tình tương lai. Vô tình cuộc tìm kiếm đã tạo nên cho dòng sông một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình.
Sông Hương thật gợi cảm biết bao dưới ngòi bút của nhà văn, đó là dòng sông uốn khúc như
“những đường cong thật mềm”, có lúc “mềm như tấm lụa”. Đẹp nhất của đường cong mềm
mại, thướt tha ấy của cô gái Hương Giang chính là đoạn “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo
hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua

33
thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông
bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
- Đoạn văn sử dụng phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán,
Thiên Mụ… mang đến cho người đọc hình dung về vẻ đẹp của những danh thắng Huế đô đã đi
vào dư địa chí. Ngoài ra cách dùng từ ngữ của nhà văn cũng gợi hình dung về dòng chảy trữ
tình của con sông: “vấp - chuyển hướng - vòng qua - vẽ một hình cung - ôm lấy - xuôi dần…”.
Hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có hồn như
một sinh thể sống động và giàu sức sống.
Nhà văn quan sát ở điểm nhìn gần hơn và cảm nhận được “từ Tuần về đây, sông Hương
vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để
sắc nước trở nên xanh thẳm”. Đi trong “dư vang” là đi trong âm vang, trong sự vang vọng của
đại ngàn Trường Sơn. Dòng chảy ấy dù uốn quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc vẫn còn mạnh mẽ
khó kiềm toả. Nhưng khi về đến những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dòng sông đã phần
nào được kiềm chế sức mạnh. Từ đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm, hiền hoà. Sắc xanh thẳm
của nước hoà vào bóng dáng hùng vĩ của “hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những
điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” tạo nên vẻ đẹp như bức đồ hoạ mà ca
dao người Huế từng ngợi ca “Đường vô xứ Huế quanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh
hoạ đồ”. Sắc nước hoà vào sắc núi, sắc đồi và ánh chiếu lên bầu trời Tây Nam thành phố cái
sắc màu chỉ riêng Huế mới có: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Cái sắc màu không trộn lẫn
ấy có lần cũng đã thổn thức trong thơ của Đoàn Thạch Biền: Đã bốn lần đến Huế/Vẫn lạ như
lần đầu/ Sông Hương lơ đãng chảy/ Nắng tím vướng chân cầu.
* Không chỉ vậy, Hương Giang còn đẹp bởi “vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, như cổ thi”.
- Giữa đám quần sơn lô xô, sông Hương như trầm mặc hẳn đi. Bởi nàng đang đi qua một “giấc
ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và
niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề
núi phủ mây phong Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”.
- Dường như sông Hương khi qua vùng địa lý này đã cúi đầu tưởng niệm những anh linh đã
khuất, như tưởng niệm cả một thời dĩ vãng vàng son. Sự trầm mặc của dòng sông như nét đẹp
văn hoá của người Huế vốn coi trọng yếu tố tâm linh và nhất là sự thành kính với các bậc tiền
nhân.
- Có lẽ vì vậy mà mặt nước Hương giang bỗng trở nên phẳng lặng và kéo dài mênh mang cho
đến khi hoà vào “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa những xóm làng trung du bát
ngát tiếng gà”. Đó là vẻ đẹp cổ thi trầm mặc, cổ kính mà hiện đại đã đi vào thi ca, văn học của
bao thi sĩ, văn nhân bao đời.
c. Nghệ thuật:
- Đoạn trích sử dụng bút pháp miêu tả, nhân cách hoá, phép tu từ so sánh, liên tưởng độc đáo.
- Ngôn ngữ vừa trí tuệ vừa giàu chất thơ, chất hoạ.
- Giọng văn mượt mà, truyền cảm.
Đề 20: Chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường?
* Tìm hiểu đề:
- Vấn đề nghị luận: Làm rõ đặc điểm chất thơ - chất trữ tình của tác phẩm.
- Thao tác lập luận: So sánh, phân tích, chứng minh, bình luận.
- Phạm vi dẫn chứng: Trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?
* Dàn ý:
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết thể loại bút
kí. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ
tình và chất chính luận, sử thi hóa lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Chất
trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ của ngôn ngữ.

34
- Nêu vấn đề nghị luận: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm tiêu biểu của Hoàng Phủ
Ngọc Tường mang đậm chất thơ.
II. Thân bài:
1. Chất thơ là gì? Chất thơ trong một tác phẩm văn học được tạo nên từ những yếu tố
nào?
Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều yếu tố: Cảm xúc, cái đẹp, trí
tưởng tượng và liên tưởng cùng khả năng sử dụng ngôn ngữ, nhạc điệu, giọng điệu của lời văn.
Những yếu tố này hoà quyện với nhau, chuyển hoá vào nhau cùng biểu hiện trong từng chi tiết
nghệ thuật của tác phẩm.
2. Những biểu hiện về chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” :
- Chất thơ được thể hiện trong bài ký chủ yếu ở chất trữ tình của tác phẩm: đó là tình yêu
say đắm với sông Hương đẹp dịu dàng, với Huế cổ kính và thơ mộng. Mỗi đoạn văn là một
chắt lọc tinh túy về hành trình, dáng vẻ, về vẻ đẹp và sức cuốn hút riêng của mỗi đoạn sông.
+ Sông Hương ở vùng thượng nguồn được miêu tả như một cá thể sống, như một người
con gái đẹp với những từ ngữ gợi cảm, diễn tả tình yêu say đắm của con người với dòng sông
“sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di- gan phóng khoáng và man
dại”.
+ Sông Hương khi về đồng bằng đã thay đổi tính cách, như đã chế ngự bản năng của
người con gái để mang “một nét đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một
vùng văn hóa xứ sở”.
Với những liên tưởng kì thú, diễm tình, tác giả ví Sông Hương như một người con gái
đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức. Những câu văn đẹp, đầy màu sắc, ấn tượng
“sông Hương vẫn đi trong dư vang Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, “dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc
thuyền xuôi chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang
nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố sớm xanh, trưa vàng, chiều tím".
+ Đến ngoại vi thành Huế, sông Hương có vẻ đẹp trầm mặc như những rừng thông u tịch
và những lăng tẩm đồ sộ phong kín niềm kiêu hãnh âm u.
+ Đoạn tả sông Hương chảy vào thành phố, tác giả sáng tạo hình ảnh đầy ấn tượng
“chiếc cầu trắng ... in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Tác giả đã sử
dụng rộng rãi, đặc sắc các phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so sánh kết hợp
với nhân hóa, ẩn dụ “dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.
Những chi tiết về phong tục, lễ hội cũng trở thành nhạc họa, thành tình, nghia, thành thơ “trăm
nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về,
qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn
vương của một nỗi lòng”.
+ “Thi trung hữu nhạc”, đó là nhạc lòng. Trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng
có nhạc: điệu chảy lặng tờ của sông Hương khi đi qua thành phố như “điệu slow tình cảm
dành riêng cho Huế”. Những trang văn trải dài, uyển chuyển, du dương mà tự nhiên, nhuần
nhị như dòng sông, như bản đàn đẹp, như một “Đan- nuýp xanh” trong văn.
+ Trí tưởng tượng thật phong phú trong những liên tưởng so sánh, những hồi tưởng đầy
hình ảnh thú vị, đầy những hình ảnh kì thú “sông Nê- va với những phiến băng trôi nhanh như
những chiếc thuyền của những chú chim hải âu”.
+ Vẻ đẹp của đoạn văn tăng lên trong từng chi tiết, đến chi tiết cuối cùng thì thăng hoa,
đẹp nhất, cao nhất. Tác giả lí giải tên dòng sông bằng huyền thoại đầy chất thơ, khiến cho dòng
sông có cái tên rất thơ càng trở nên thơ hơn: Hương là thơm, thơm của ngàn hoa, của nước nấu
trăm loài hoa đổ xuống, làm thơm đến cả từng hơi đất.
III. Kết bài:
Chất thơ gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, lớn
lao nhất, dạt dào nhất là tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả.
35
Đề 21 (5 điểm)
Hãy phân tích vẻ đẹp dòng sông Hương trong đoạn trích từ bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông” từ góc nhìn văn hoá, lịch sử và nhận xét về cái tôi trữ tình mà tác giả Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã biểu hiện.
Cái tôi trữ tình của tác giả: Tác giả đã thể hiện một cái tôi phong phú, độc đáo: rất tài hoa,
nghệ sĩ, rất uyên bác, nặng lòng với quê hương xứ sở.

Đề 22 (5 điểm)
Hãy phân tích vẻ đẹp dòng sông Hương trong những đoạn văn sau và nhận xét về những phát
hiện độc đáo của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.
“Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một nhánh cung rất nhẹ sang đến Cồn
Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của
tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Paris, sông Đanuýp của Buđapet, sông Hương
nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng
một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang
nước sông Hương tỏa đi khắp phố phường với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u
sầm xuống xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa
thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn
thấy được. Những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của
dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ
còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
“Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh
năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc
của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì
chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông – tây để gặp lại thành phố lần
cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài
mười dặm trường đình.Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm
ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống
con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng
lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông
Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn
non – còn nước – còn dài. Còn về – còn nhớ….”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông
Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung
tình với quê hương xứ sở.” (Trích bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông- Hoàng Phủ Ngọc
Tường, SGK Ngữ văn 12 Tập 1)
Phát hiện độc đáo của tác giả: Tác giả đã cảm nhận dòng sông Hương một cách rất độc
đáo.Với cách tiếp cận nhiều góc độ nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so
sánh đầy mới lạ, bất ngờ cùng một vốn ngôn từ phong phú, óc quan sát tinh tế và đầy sáng
tạo…, tác giả đã mang đến cho sông Hương, xứ Huế một linh hồn, sự sống mới. Đó là tâm hồn
là tình yêu của người con gái si tình – sông Hương – đang say đắm, chung thuỷ với mảnh đất,
con người xứ Huế.

Đề 23 (5.0 điểm)
Trong bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhiều
lần ví von vẻ đẹp sông Hương:
Lúc ở thượng nguồn: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của
mình như một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản
lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc
biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của
36
mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”
Khi về ngoại vi thành phố Huế: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh
thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu
vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh
đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi
tới gặp thành phố tương lai của nó.”
Và khi tạm biệt kinh thành Huế: sông Hương “như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói, nó đột
ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao
Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình.
Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh
này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây;
và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình
yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại
tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả…”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr198-201)
Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong những lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật nét tài
hoa trong phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
*Giới thiệu về khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”
*Cảm nhận được vẻ đẹp sông Hương qua ba lần miêu tả:
– Vẻ đẹp sông Hương trong quan hệ với cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế mang những nét đặc
trưng của con người và cảnh vật nơi đây:
+ sông Hương ở thượng nguồn nguyên sơ, man dại, mãnh liệt và đầy quyến rũ (cô gái Di- gan)
nhưng cũng hết sức dịu dàng và trí tuệ bởi chiều sâu nhân cách của một dòng sông lặng lẽ bồi
đắp “phù sa” cho văn hóa Huế, góp phần tạo nên và bảo tồn văn hóa của thiên nhiên xứ sở.
+ sông Hương ở ngoại vi thành phố mềm mại, đương thì xuân sắc với những đường cong gợi
cảm và tuyệt mĩ.
+ sông Hương lúc tạm biệt kinh thành với khúc rẽ ngoặt độc đáo, được khám phá ở chiều sâu
tính cách lãng mạn, đa cảm và chung tình.
– Hành trình sông Hương từ thượng nguồn về đến ngoại vi và thành phố Huế là hành trình đầy
gian truân và thử thách, từ đó làm nổi bật diện mạo xinh đẹp, dịu dàng và tính cách thủy
chung, thâm trầm của dòng sông;
– Vẻ đẹp sông Hương thể hiện niềm yêu da diết, niềm tự hào và kiêu hãnh của tác giả về con
sông quê hương nói riêng và xứ Huế nói chung.
* Làm nổi bật nét tài hoa phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường:
– Vốn ngôn từ đẹp, tao nhã, tinh tế, lịch lãm; những ví von, so sánh nhân hóa giàu chất thơ,
chất nhạc, chất họa và chất suy cảm, hướng nội đã làm nên nét thanh tao rất riêng trong chất kí
HPNT; sự quan sát và tưởng tượng bằng lăng kính của tình yêu và cái nhìn lãng mạn đã làm
nên chất trữ tình riêng của kí HPNT;
– Giọng điệu rất Huế, rất trữ tình và sâu lắng, đầy suy niệm.
Đề 24 (5.0 điểm)
Trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn vẻ đẹp tự
nhiên của sông Hương từ nhiều góc độ:
(1)[ …] Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già ,
rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc
đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó
một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu
37
trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con
gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí
tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
(…)
(2) Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam –
đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần
trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông
Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm
hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của
Pa-ri, sông Đa- nuýp của Bu- đa- pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của
mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.Đầu và cuối
ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị , với những
cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy,
vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà
không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn
đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua
thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. [ … ] Đấy là
điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn
ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua
Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương
của một nỗi lòng.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.198 và tr.199-200)
Từ những góc nhìn trên, anh/chị hãy trình bày cảm nhận của mình về những vẻ đẹp khác nhau
của sông Hương để qua đó thấy rõ phong cách nghệ thuật mê đắm tài hoa của nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận
b. Cảm nhận vẻ đẹp tự nhiên của dòng sông Hương
*Sông Hương trong không gian núi rừng Trường Sơn:
-Là bản trường ca của rừng già. Ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn
Trường Sơn hùng vĩ, con sông toát lên vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa trữ tình, mang một sức sống
mãnh liệt.
-Như cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Biện pháp nhân hóa đã gợi ra vẻ đẹp hoang dại
nhưng cũng rất đỗi tình tứ của dòng sông.
-Là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở: Khi ra khỏi rừng già, dòng sông nhanh
chóng mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”, góp phần hình thành, giữ gìn và bảo tồn văn hóa của
xứ Huế.
àTác giả đã thực sự kì công để quan sát , khám phá và hết sức tinh tế để thấu hiểu cái phần đời
mà “ dòng sông hình như không muốn bộc lộ, để đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa
trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
*Sông Hương trong không gian kinh thành Huế:
-Bắt đầu đi vào thành phố- sông Hương được so sánh với người tình vui tươi và duyên dáng
+Tâm trạng vui tươi của dòng sông từ khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ đến đây càng trở
nên rõ hơn khi đã nhận ra những dấu hiệu của thành phố
+Người gái đẹp sông Hương làm dáng lần cuối cùng trước khi chảy vào giữa lòng thành phố
thân yêu, trước khi đến với người tình nhân đích thực: uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến
Cồn Hến, khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
-Trong lòng thành phố: sông Hương được so sánh với điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế

38
+Nhà văn đã rất tinh tế khi nhận ra đặc điểm riêng của sông Hương là lưu tốc rất chậm, “khiến
cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ
yên tĩnh”
+Đặc điểm ấy được nhà văn lí giải từ nhiều góc nhìn khác nhau:
.Từ đặc điểm địa lí tự nhiên: những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm
giảm hẳn lưu tốc của dòng nước
.Từ những lí lẽ của trái tim thì “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông
Hương là do tình cảm dành riêng cho Huế
, do quá yêu thành phố của mình, do muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân
thương trước khi đi xa.
àTình yêu thiên nhiên quê hương đất nước, tình cảm nhiệt huyết của nhà văn với văn chương
đã thắp sáng bài bút kí (nói chung), đoạn trích(nói riêng) làm rực sáng dòng Hương giang.
Thiên nhiên xứ Huế và dòng sông Hương luôn gắn bó , gần gũi với con người. Qua điệu chảy
của dòng sông Hương, nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế. Từ góc độ của dòng
sông thiên nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông như một thiếu nữ xinh đẹp và tài
hoa, dịu dàng và trí tuệ, đa tình và kín đáo.
c.Phong cách nghệ thuật mê đắm tài hoa của HPNT
*Mê đắm: viết về đối tượng với tất cả niềm đam mê, nhiệt thành, tâm huyết, bằng tất cả tình
cảm, nỗi lòng rung cảm của nhà văn.
*Tài hoa thể hiện ở việc khám phá đối tượng từ nhiều góc độ, phương diện thẩm mĩ khác nhau.
-Lối ví von, so sánh, liên tưởng độc đáo, đầy ấn tượng, gần gũi và xác thực, nhân hóa mới mẻ,
sử dụng nhuần nhuyễn cách nói của người Huế.
-Hình ảnh chân thực đầy ấn tượng mà gợi cảm, câu văn kéo dài với nhiều ý, thanh điệu hài
hòa, tiết tấu nhịp nhàng.
-Cây bút tài năng, giàu chất trí tuệ và văn hóa
-Kiến thức uyên bác nhiều mặt, cách viết đầy chất thơ
-Tình yêu sâu nặng và niềm tự hào về quê hương xứ sở …(so sánh sông Hương với các dòng
sông nổi tiếng trên thế giới) làm hiện lên sông Hương với vẻ đẹp vừa dữ dội, bí ẩn, sâu thẳm
nhưng lại vừa dịu dàng say đắm qua cách viết thật gợi cảm bởi óc quan sát tinh tế, ngôn từ
giàu hình ảnh, sắc cạnh.
d.Đánh giá chung:
–Tác phẩm nói chung, phần trích nói riêng bồi đắp cho người đọc tình yêu, niềm tự hào và sự
gắn bó với quê hương, đất nước từ những gì rất gần gũi, quen thuộc, thân thương. Sông Hương
hiện lên vừa tươi đẹp, thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên, vừa sâu lắng trong
các giá trị văn hóa.
-Tất cả những điều trên được kết tinh bởi tài năng xuất sắc của nhà bút kí tài hoa Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
Đề 25 (5 điểm)
Trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả sông
Hương ở thượng nguồn:
“… nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác,cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên
dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng
Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan phóng
khoáng và man dại”.
Và sông Hương ở đồng bằng:
“…dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con
thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây
nam thành phố,“sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả”.
(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2016, tr.198)
39
Phân tích hình ảnh sông Hương được miêu tả qua hai đoạn văn trên, từ đó chỉ ra những vẻ đẹp
khác nhau của nó ở thượng nguồn và ở đồng bằng.
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận
b. Phân tích
– Sông Hương ở thượng nguồn:
+ Sông Hương được so sánh như “một bản trường ca của rừng già”: Sông Hương rầm
rộ, cuộn xoáy, mãnh liệt chảy qua những ghềnh thác.
+ Sông Hương mang tính cách mạnh mẽ như một cô gái Digan vừa nóng bỏng, tình tứ vừa tự
do, phóng khoáng.
+ Có lúc Sông Hương lại rất dịu dàng, nữ tính trôi đi giữa những dặm dài rừng đỗ quyên chói
lọi màu hoa đỏ.
Bằng việc Bằng những động từ mạnh, giọng điệu chắc khỏe, tiết tấu nhanh gấp cùng với sự
liên tưởng độc đáo, thú vị … sử dụng nghệ thuật đối lập, so sánh, nhân hóa kết hợp với sức
liên tưởng dồi dào, nhà văn đã làm nổi bật vẻ độc đáo của sông Hương vùng thượng nguồn:
vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa trữ tình, say đắm.
– Sông Hương ở đồng bằng:
+ Với điểm nhìn từ xa, Hương giang hiện lên thật mềm mại, gợi cảm như một tấm lụa mềm và
óng ả vắt ngang qua đồng bằng.
+ Sông Hương tràn ngập hơi thở của cuộc sống với những chiếc thuyền xuôi ngược trên sông.
+ Dưới cái nhìn của một họa sĩ tranh màu, Sông Hương trở nên lung linh, kì ảo khi sắc nước
liên tục chuyển màu qua thời gian trong ngày: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Với nghệ thuật so sánh, liệt kê kết hợp với ngôn ngữ mượt mà, giàu giá trị tạo hình, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên cảnh sắc sông Hương ở đồng bằng thật nên thơ và diễm lệ.
c. Vẻ đẹp khác nhau của sông Hương ở thượng nguồn và ở đồng bằng.
– Sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp vừa hoang sơ, hùng vĩ vừa dịu dàng, say đắm.
– Ở đồng bằng Sông Hương mang vẻ đẹp đầy mềm mại, gợi cảm và nhiều màu sắc.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm một cuộc hành trình ngược sông Hương để khám phá tất cả
những vẻ đẹp của nó. Đó chính là quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc, để có
thể mang đến cho người đọc thưởng lãm tất cả những vẻ đẹp khác nhau của dòng Hương
giang.
Đề 26: (5,0 điểm)
Trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã 2 lần miêu tả dòng
sông Hương:
Ở thượng nguồn “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm nó đã là một bản trường ca của
rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy
như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
Khi về đến thành phố Huế: “ Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bờ xanh biếc của
vùng ngoại ô Kim Long”; Sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường
cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đấy
là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế; Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya”.
Hãy phân tích các chi tiết trên để làm nổi bật nét đặc sắc trong hành trình của sông Hương. Từ
đó, nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
1.Phân tích 2 đoạn
+Bình giá: Sông Hương trở thành sinh thể có tâm hồn – một cô gái đẹp duyên dáng, trữ tình.
Một sự lột xác khi gặp người tình nhân tri kỉ trong cuộc tìm kiếm có ý thức. Hương giang thức
sự là mình khi nằm giữa thành phố Huế.
Sự thay đổi của SH không chỉ do cấu trúc địa hình mà còn là sự lắng đọng, kết tụ những giá trị
văn hóa Huế. Hình ảnh SH là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn xứ Huế
40
2.Nhận xét về nghệ thuật miêu tả
- Nhà văn đã chọn những chi tiết tiêu biểu, đắt giá để miêu tả vẻ đẹp của SH
+Thượng nguồn: Khám phá phần đời bí mật, hoang dại ít ai biết đến về SH.
+Thành phố Huế: Khám phá vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông; góp phần khẳng định
SH là nơi khai sinh và cũng là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống của mảnh đất kinh
kì.
-Ngôn từ giàu hinh ảnh, nhạc tính
- Câu văn dài, sinh động với những vế đối, động từ mạnh, tính từ cặp đôi
- Khả năng quan sát tinh tế, trí liên tưởng, tưởng tượng phong phú
+ Các chi tiết nghệ thuật thể hiện :
+ ý thức lao động công phu nghiêm túc, tinh thần say mê, vốn hiểu biết sâu rộng về lịch sử,
văn hóa, địa lý cùng tài năng viết kí bậc thầy của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
+ Thể hiện đậm chất phiêu trong thể kí của HPNT cùng tình yêu tha thiết, mãnh liệt về quê
hương xứ sở của nhà văn.

41

You might also like