Professional Documents
Culture Documents
net/publication/309428450
CITATIONS READS
0 17,657
2 authors:
All content following this page was uploaded by Hai Vu Pham on 26 October 2016.
xúc tiến HACCP, châu Âu gián tiếp giảm tải việc sử dụng các quy
chuẩn ATTP quốc gia trên thị trường chung – tức quản lý trên cơ sở
tư duy kiểm tra và phạt. Tư duy mới chuyển sang giám sát các quy
trình kiểm soát nội bộ HACCP do tư nhân đề xuất và được chấp nhận.
Tám năm sau, luật Thực phẩm chung “General Food Law” được
ban hành vào năm 2002. Bạn đọc cần lưu ý là Liên minh châu Âu
chỉ có 2 hình thức văn bản có tính lập pháp, tức là được Ủy ban châu
Âu đề xuất và sau đó phải được Hội đồng châu Âu và Quốc hội châu
Âu thông qua, đó là Chỉ thị[3], và Quy định[4] (Xem HỘP 1). Chỉ thị là
một văn bản ghi rõ các mục tiêu mà EU hướng đến, nhưng các nước
thành viên được tự do lựa chọn phương thức để hoàn thành (ví dụ
Chỉ thị 93/43 nói trên). Còn Quy định là một văn bản có tính bắt
3
European Directive.
4
European Regulation.
Trước khi cơ quan ATTP thực phẩm châu Âu EFSA ra đời vài
năm, một số nước thành viên đã xây dựng các cơ quan ATTP quốc
gia của riêng mình. Lấy ví dụ đó là AFSSA[8] tại Pháp, hay FSA tại
Vương quốc Anh[9], tiền thân của hai cơ quan ATTP thực phẩm hiện
tại của Pháp và Anh là ANSES và BSA, sẽ được đề cập đến dưới
đây. Lần ngược nữa về nguồn lịch sử, hai cơ quan của Pháp và Anh
được xây dựng từ kinh nghiệm của cơ quan ATTP của Liên bang
Hoa Kỳ được biết đến với tên gọi FDA (viết tắt của Food and Drug
Administration) (Alam, 2009, p.415). Chúng ra đời từ một nhận thức
chung là các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quản lý không
7
Viết tắt của chữ European Food Safety Authority.
8
Agence Française de Sécurité Sanitaire des Aliments.
9
FSA được tạo ra bởi Luật Tiêu chuẩn Thực phẩm Food Standards Act của Vương
quốc Anh năm 1999, sau khi sách trắng ATTP của Anh được xuất bản năm 1998 nhờ
những đóng góp lớn của Giáo sư Philip James, Giám đốc Viện nghiên cứu Rowett.
(Nguồn : Chính phủ Anh, 1998).
Điều hành đối thoại tại châu Âu, nền tảng của quản lý ATTP 139
người Anh Ronald Coase xây dựng, điều hành đối thoại được Olivier
Williamson, người kế tục Coase sử dụng. Trong cuốn sách nổi tiếng
năm 1994 mang lại cho ông giải Nobel, có tên “Các thể chế của nền
kinh tế tư bản”[13], Williamson cho rằng kinh tế thị trường có ba thể
chế quan trọng nhất là: tổ chức, hợp đồng và thị trường. “Tổ chức”
là quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp (hoặc cơ quan). “Thị trường”
tương ứng với quan hệ giao dịch mua bán trên thị trường. Còn “Hợp
đồng” là một dạng thể chế trung gian, nằm giữa tổ chức và giao dịch.
Khái niệm “Điều hành đối thoại” theo Williamson là nghệ thuật
quản trị (doanh nghiệp), cho phép sử dụng cả 3 thể chế này một cách
uyển chuyển trên cơ sở đối thoại. Doanh nghiệp không nhất thiết
luôn ưu tiên sử dụng hợp đồng hay thị trường, mà có thể ưu tiên tổ
chức; ví dụ lựa chọn sáp nhập & mua lại doanh nghiệp mới để dễ
quản lý thay vì ký hợp đồng. Linh động lựa chọn thể chế thích hợp
cho phép doanh nghiệp hướng đến đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trong nội bộ doanh nghiệp, đối thoại diễn ra giữa ban giám đốc với
hội đồng quản trị và nhân viên. Ngoài doanh nghiệp, đó là đối thoại
giữa ban giám đốc và các đối tác (Dignam and Lowry, 2006).
Khái niệm điều hành đối thoại sau đó được sử dụng bởi các nhà
nghiên cứu chính sách để chỉ một hình thức điều hành mới của nhà
nước. Bắt nguồn từ phong trào “New public management”, hay còn
gọi là “Quản trị nhà nước kiểu mới” được sử dụng tại Mỹ và Anh từ
những năm 1980 (Gaudin, 2002), điều hành đối thoại trong chính
sách lấy cảm hứng từ điều hành đối thoại ở doanh nghiệp, tức là cho
phép luân chuyển giữa các nguyên tắc tổ chức và thị trường. Khái
niệm này tương ứng với việc nhà nước cho phép thay thế một phần
các quan hệ mệnh lệnh thông thường với người dân bằng các hình
thức làm việc qua hợp đồng, hoặc thương thuyết & khuyến khích,
nhằm hướng đến một hiệu quả chính sách cao hơn. Nhìn chung,
quản trị nhà nước kiểu mới chấp nhận cạnh tranh trên thị trường,
ví dụ như cho phép một doanh nghiệp tư nhân cung cấp dịch vụ
13
Nguyên văn “The economic institutions of capitalism”. Xem dẫn chiếu đầy đủ ở Tài
liệu tham khảo.
Điều hành đối thoại tại châu Âu, nền tảng của quản lý ATTP 141
giới, nhưng hoạt động chỉ với rất ít kinh phí. Các nước thành viên
đều có sẵn các tài nguyên và chuyên gia. Liên minh châu Âu chỉ sử
dụng lại các nguồn lực này trên một cơ sở điều phối mới giúp phát
huy hiệu quả rộng hơn. Ví dụ một kết quả phân tích an toàn tại một
nước sẽ được chia sẻ và áp dụng cho các nước khác thông qua gói
pháp lý ATTP chung. Không những chỉ cần ít chi phí, hình thức
quản lý này còn cho phép phản ứng rất nhanh khi các nguy cơ mất
ATTP bùng phát, điều mà các cơ quan hành chính cứng nhắc khó
có khả năng làm. Chúng tôi sẽ minh chứng những điểm nói trên
trong phần 4 dưới đây.
HỘP 2: Những mục đích hướng đến của Luật Thực phẩm chung EU
(QĐ. CE 178/2002)
• Luật hướng đến Sự an toàn và lòng tin của người tiêu dùng. Nó nhằm bảo
vệ chặt chẽ sự an toàn người tiêu dùng châu Âu khi tiêu thụ thực phẩm.
• Luật hướng đến chuẩn hóa các quy định ATTP thực phẩm của các nước
thành viên. Tránh tình trạng các quy định này ngăn cản tự do trao đổi
thương mại.
• Luật đặt nền tảng cho phân tích nguy cơ, (và phương pháp 3R) coi đó là
phương pháp nền tảng đề xác định một cách chính xác bản chất các nguy
cơ ATTP, đồng thời cho phép ra các quyết sách phù hợp trên cơ sở cân đối
các lợi ích liên quan.
• Luật quy định trách nhiệm ATTP chính thuộc về các chủ thể sản xuất kinh
doanh thực phẩm. Họ là những người “có thể đảm bảo an toàn tốt nhất
cho hoạt động sản xuất của mình. Do đó cần phải là người chịu trách nhiệm
chính theo dõi ATTP sản phẩm mình làm ra”.
• Luật trình bày sự cần thiết phải có một cơ sở khoa học đánh giá nguy cơ
độc lập.
• Luật hướng đến xây dựng một hệ thống cảnh báo nhanh trong những
trường hợp khẩn cấp (RASFF).
và hợp thức các quyết định hành chính. Trong phân tích nguy cơ,
bước đánh giá nguy cơ là một bước thuần túy khoa học, sẽ được tiến
hành một cách hoàn toàn độc lập bởi cơ quan ATTP châu Âu EFSA.
Trách nhiệm của các chủ thể tham gia chuỗi thực phẩm đi liền với
nguyên tắc phòng ngừa, theo đó nếu không biết xác suất xảy ra rủi
ro nguy hại là bao nhiêu thì phải có biện pháp phòng ngừa như thể
rủi ro này chắc chắn sẽ xảy ra. Trụ cột 3 đặc biệt dẫn chiếu đến các
Quy định CE 852/2004[16] và CE 853/2004, yêu cầu bắt buộc các chủ
thể phải sử dụng phương pháp phân tích mối nguy và kiểm soát
điểm tới hạn HACCP. Cụ thể, các chủ thể tham gia chuỗi thực phẩm
phải tự mình xây dựng HACCP, tự đánh giá các điểm tới hạn có thể
gây nguy hiểm trong hệ thống của mình và tự đưa ra giải pháp kiểm
tra ATTP nội bộ tại các điểm tới hạn này. Đảm bảo ATTP là trách
nhiệm chính của chủ thể sản xuất kinh doanh. Nhà chức trách chỉ
hướng dẫn, giám sát và tiến hành kiểm tra khi cần thiết.
Toàn bộ hệ thống ATTP của châu Âu và 3 trụ cột của nó được
minh họa trong HÌNH 8.2 dưới đây. Chúng tôi đặc biệt lưu ý độc giả
đến 3 cấu thành trụ cột nằm trong chiếc “hộp đen” quyết định cơ
16
Quy định CE 852/2004 cũng quy định nguyên tắc từ trang trại tới bàn ăn.
cấu hoạt động của hệ thống ATTP châu Âu; bởi vì trên các văn
bản, 3 trụ cột này không được nhắc đến một cách cụ thể. Nhìn từ
phía bên ngoài, hệ thống ATTP của EU chỉ là một tập hợp các cơ
quan, được đặt dưới sự điều phối của DG SANCO và EFSA như
trong hình vẽ cho thấy. Nhưng logic hoạt động của các cơ quan
này hoàn toàn do 3 trụ cột nói trên quyết định. Hệ thống ATTP
không thể hoạt động nếu thiếu một trong số chúng. Ví dụ châu Âu
cần hợp tác với tất cả chủ thể sản xuất kinh doanh để đảm bảo
ATTP. Từ cơ sở này, châu Âu lựa chọn kết hợp giám sát với thanh
tra vì nếu chỉ sử dụng thanh tra thì sẽ không bao giờ có thể kiểm
soát hết toàn bộ nền kinh tế. Một khi các chủ thể sản xuất kinh
doanh hợp tác, cơ quan chức trách chỉ cần tiến hành quản lý trên
nguyên tắc điều hành đối thoại. Khi có một rủi ro mới phát sinh,
sẽ tiến hành đánh giá nhờ EFSA và công bố kết quả rộng rãi đến
tất cả. Trong trường hợp có nguy cơ ATTP lớn, châu Âu sử dụng
thông báo cảnh báo nhanh (RASFF) đến toàn bộ người tiêu dùng
của 28 quốc gia.