You are on page 1of 16

Đề tài: Đánh giá mối liên hệ giữa thay đổi tư duy và nâng tầm vị thế trong giai đoạn

từ 2019-
2023
1. Thay đổi tư duy là điều kiện tiên quyết để nâng tầm vị thế
1.1 Định nghĩa về tư duy và tư duy phát triển

 Tư duy là từ dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem những cảm giác sửa
đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật chất, làm cho con người có nhận
thức đúng đắn về sự vật xung quanh và đưa ra cách ứng xử với các sự vật, sự việc
đó.
 Quá trình này có một mức độ nhận thức cao hơn so vơi cảm giác và tri giác. Khác
với các giác quan, tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất những
mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Quá trình phản ánh
này mang tính gián tiếp và khái quát, nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn, từ
sự nhận thức cảm tính nhưng vượt xa giới hạn của nhận thức cảm tính. Quá trình
tư duy bao gồm nhiều giai đoạn, từ khi cá nhân gặp những tình huống có vấn đề
và nhận thức vấn đề, đến khi đưa ra cách giải quyết vấn đề. Đó là các giai đoạn:
Tiếp nhận vấn đề, xuất hiện và sàng lọc cách giải quyết, giải quyết nhiệm vụ tư
duy.
 Tư duy phát triển là hiểu rõ những khả năng và sự hiểu biết để có thể phát triển
hơn. Ai cũng có tư duy phát triển tuy nhiên mỗi người sẽ có cách nhận biết và
phát triển chúng khác nhau bởi thái đội, sự linh hoạt cũng như nỗ lực để có thể đạt
được kết quả mong muốn. Những người có tư duy phát triển họ tin rằng mình sẽ
trở nên khôn ngoan, thông minh hơn thông qua việc bỏ thời gian rèn luyện và nỗ
lực.
1.2 Tầm quan trọng của thay đổi tư duy trong việc nâng tầm vị thế
1.2.1 Tầm quan trọng của tư duy đối với quốc gia
 Quá trình tiến triển của tư duy, bao gồm cả tư duy lý luận và tư duy khoa học, không
ngừng diễn ra theo một quy luật liên tục. Sự phát triển này có thể diễn ra một cách dần
dần thông qua sự tích lũy, nhưng cũng có thể xảy ra một cách "đột phá" trong những tình
huống và điều kiện đặc biệt. Quá trình tiến triển và đổi mới của tư duy luôn phản ánh
nhận thức chủ quan của con người, đặc biệt là của đội ngũ lãnh đạo và quản lý quốc gia.
Nó đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển trong các giai đoạn lịch sử cụ thể.Sự phát
triển và đổi mới của tư duy không chỉ giới hạn trong quy mô cá nhân, mà còn bao gồm cả
mức xã hội. Điều này đặt ra sự cần thiết phải thúc đẩy sự đổi mới trong tư duy của cả xã
hội và mỗi cá nhân. Đội ngũ lãnh đạo và quản lý quốc gia chịu trách nhiệm quan trọng
trong việc này, vì họ có vai trò, chức năng và nền tảng chính trị, pháp lý để chấp nhận và
thúc đẩy tư duy mới và sự phát triển. Đối với đội ngũ lãnh đạo và quản lý quốc gia, sự
phát triển và đổi mới của tư duy không chỉ là một quá trình nâng cao kiến thức, mà còn là
việc chuyển hóa những ý tưởng mới thành nhận thức cá nhân, quan điểm, và định hình
chiến lược lãnh đạo và quản lý quốc gia. Điều này là quan trọng để đưa vào cuộc sống và
chuyển hóa chúng thành tư duy của toàn xã hội, tạo nên động lực quan trọng đằng sau sự
phát triển của quốc gia.
 Trong đó, tư duy lý luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, là quá trình mà tư duy tiếp cận,
nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và thường được thể hiện
ra ở các giả thuyết, các lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau
 Trên thực tế, trên thế giới, đội ngũ lãnh đạo - quản lý của một đất nước không phải lúc
nào cũng có tư duy phù hợp, tiên tiến, đáp ứng với đòi hỏi của sự phát triển; thường có
thể rơi vào hai trạng thái bảo thủ, trì trệ; hoặc tư biện, giáo điều. Cả hai trường hợp đó
đều không tạo được nền tảng nhận thức lý luận phù hợp, đúng đắn để lãnh đạo, quản lý
đất nước phát triển; ngược lại, làm mất đi động lực phát triển, kìm hãm sự phát triển. Lý
do cơ bản là quá trình phát triển và đổi mới tư duy không xuất phát từ thực tiễn, thường
bị những nhận thức giáo điều chi phối, gắn với những hạn chế về năng lực chủ quan và
lợi ích của một bộ phận cán bộ làm lãnh đạo - quản lý, chứ không phải lợi ích phát triển
của đất nước.
 Bởi vậy, tư duy phát triển phải là tư duy dựa trên nền tảng khoa học và thực tiễn, nhận
thức được đúng bản chất và thực trạng vấn đề, nhìn ra được xu thế và cơ chế khách quan
của sự vận động, trên cơ sở đó xác định được định hướng chiến lược phát triển phù hợp,
các nhân tố và thể chế thúc đẩy phát triển. Từ thực tiễn cho thấy, Tư duy phát triển giúp
mỗi cá nhân tự tin hoàn thiện bản thân, vượt qua khó khăn và thách thức để tìm ra con
đường đúng đắn nhất. Khi một quốc gia có một dân số với tư duy phát triển, họ sẽ không
ngừng cải thiện và phát triển, điều này sẽ tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, nâng cao vị
trí của quốc gia đó trong chính sách đối ngoại và phát triển của các quốc gia khác. Tư duy
phát triển giúp quốc gia đối phó với những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, bất
ổn kinh tế, và các vấn đề khác. Những nhà lãnh đạo có tư duy phát triển sẽ xem những
thách thức này như là cơ hội để học hỏi và phát triển. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy,
hình thành tư duy phát triển, nhất là trong những thời điểm có tính bước ngoặt của sự
phát triển, rất không dễ dàng, có thể diễn ra các cuộc “đấu tranh” không khoan nhượng
với tư duy bảo thủ, giáo điều; đòi hỏi bản lĩnh và quyết tâm chính trị cao.
(https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/doi-
moi-tu-duy-phat-trien-de-tao-su-phat-trien-but-pha-cua-dat-nuoc-trong-giai-doan-moi
https://tuoitre.vn/the-va-luc-duoc-nang-tam-uy-tin-viet-nam-gia-tang-tren-truong-quoc-te-
20211214091844022.htm
https://clevai.edu.vn/hieu-con-yeu/tu-duy-phat-trien/)

*Ví dụ về sự thay đổi trong tư duy dẫn đến sự phát triển và nâng tầm vị thế của Singapore

Singapore có diện tích 721,5 km2 gồm cả nông thôn và thành thị và dân số trên 6 triệu người
cho đến cập nhật mới nhất. Kể từ khi Singapore tách khỏi Malaysia vào năm 1965, Singapore đã
từng bước thay đổi cơ cấu công nghiệp từ sản xuất, gia công thay thế hàng nhập khẩu sang sản
phẩm dựa trên tri thức tiên tiến, phù hợp với xu hướng hiện đại. Người Singapore không chỉ phụ
thuộc vào thương mại hàng hải mà còn đặt mình ở vị trí trung tâm của một số phong trào kinh tế
và công nghệ hàng đầu thế giới. Singapore không chỉ phát huy vị trí địa lý độc đáo mà còn rất
chủ động trong việc thích ứng với xu hướng phát triển kinh tế và trở thành thiên đường cho các
startup trong khu vực. Có năm bài học được rút ra.

Trước hết, Singapore đã xây dựng được một nền quản trị tốt. Ngay từ những ngày đầu lập quốc,
Singapore đã thay đổi tư duy để hướng đến một nền hành chính công trong sạch, hiệu quả, có
năng suất cao và thu hút được nhân tài từ các khu vực tư nhân. Bí quyết của người Singapore
trong việc trị dứt căn bệnh tham nhũng tràn lan trước đó xuất phát từ một nguyên tắc hết sức đơn
giản: Hãy trả lương cho công chức nhà nước thật cao để họ có thể tập trung cho công việc mà
không cần phải tham nhũng. Với chính sách này, Singapore đã giải quyết được 2 vấn đề quan
trọng của một nền hành chính quốc gia là trong sạch và thu hút nhân tài.

Thứ hai, Singapore đã đi trước các xu hướng tiếp nhận các vận động của khoa học công nghệ và
kinh tế tri thức, đặc biệt là đón đầu xu thế start-up của khu vực để trở thành thiên đường cho các
công ty khởi nghiệp. Sự phát triển của hệ thống các trường đại học hàng đầu và viện nghiên cứu
đã góp phần hình thành nên những nhóm nghiên cứu mạnh, quy tụ các nhà khoa học hàng đầu
trong lĩnh vực khoa học công nghệ.

Thứ ba, Singapore đã liên kết phát triển kinh tế với sự tạo việc làm cho người dân. Với lợi thế
ban đầu chỉ là một cảng trung chuyển hàng hải, Singapore đã chú trọng vào công nghiệp hóa để
tạo ra cơ hội việc làm với mức thu nhập ngày càng tăng. Điều này đã đặt nền móng cho sự an
sinh và sự phát triển kinh tế.

Thứ tư, Singapore đã thành công trong việc giải quyết vấn đề nhà ở cho người dân thông qua
chính sách nhà ở công. Với 90% dân số sinh sống trong căn hộ được Chính phủ đầu tư và bán
lại, quốc gia này đã đảm bảo rằng những người có thu nhập thấp có nơi ở ổn định, giúp giải
quyết mối quan ngại về nhà ở và thúc đẩy sự sáng tạo và phát triển kinh tế.

Thứ năm, với mật độ dân số cao và diện tích hạn chế, Singapore đã xây dựng một hệ thống cơ sở
hạ tầng vững chắc, kèm theo hệ thống giao thông công cộng hiệu quả và không gian sống xanh,
tạo ra một thành phố bền vững và thuận tiện cho cuộc sống.
(https://hcmussh.edu.vn/tin-tuc/phattrientphcmtusingapore)
 Tại Việt Nam, từ thực tiễn cho thấy, việc đổi mới và phát triển tư duy lý luận là nhân tố
mang tính quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, nhất là
trong những lúc cam go, bước ngoặt của lịch sử. Đại hôi VI, với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đã thẳng thẳn phê phán những sai lầm
chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chủ quan, không tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Đại hội kiên quyết đổi mới tư duy mà trước hết là tư
duy kinh tế, coi đổi mới tư duy là khâu “đột phá” cho toàn bộ quá trình đổi mới toàn diện
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động khởi xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mới.
(https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/827267/doi-moi-tu-duy-ly-luan-
cua-dang-cong-san-viet-nam.aspx)
1.2.2 Một số đổi mới trong tư duy của Việt Nam
Trong suốt thời gian qua, sự nhận thức, tư duy lí luận của Đảng đã được chuyển biến một
cách rõ rệt thông qua việc thực hiên có hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận. Sự chuyển biến về tư duy lí luận của Đảng được thể hiện qua một số nội dung
quan trọng, cụ thể là:
 Một là, mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn
mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ
sung và hoàn thiện, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng.
 Hai là, khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển
tổng quát của nền kinh tế Việt Nam. Đảng đề ra nhiều chính sách nhằm gắn kết giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân
dân làm trung tâm và là mục tiêu, động lực của sự phát triển; tiếp tục phát huy vai trò văn hóa -
nền tảng tinh thần của xã hội.
 Ba là, khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước
theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn
thiện mô hình tổ chức của Nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan
hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
 Bốn là, nhận thức sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của Đảng, vai trò
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đặt mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, phát triển vững mạnh
toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ lên hàng đầu. Đảng và nhà nước
Việt Nam không ngừng đề ra những chính sách nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
trong điều kiện mới, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ…
 Năm là, quán triệt sâu sắc phương châm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế -
xã hội; hoàn thiện lý luận về quốc phòng, an ninh và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ
xa, từ khi “nước chưa nguy” trên cơ sở xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc có bước
phát triển quan trọng, Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia được xây
dựng.
 Sáu là, hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin
cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi; chú trọng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
 Bảy là, nghiên cứu, bổ sung nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ; nghiên cứu cụ thể hóa biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thành 27 biểu hiện; vấn đề nêu gương của
người đứng đầu; vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; thực hành dân chủ và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm kỷ cương xã hội; nghiên cứu những tư tưởng, học
thuyết mới, tiến bộ trên thế giới...

(https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/827267/doi-moi-tu-duy-ly-luan-
cua-dang-cong-san-viet-nam.aspx)

1.2.3 Thành công đạt được từ quá trình thay đổi và phát triển tư duy của Việt Nam

 Đạt được chuyển biến từ tư duy dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối
hoa sở hữu nhà nước và tập thể với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất sang tư duy mới là xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống
nhất biện chứng với tính đa dạng của các hình thức sở hữu và phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối
dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất – kinh doanh
và phẫn phối thông qua phúc lợi xã hội nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất.

 Đạt được chuyển biến từ tư duy quản lý kinh tế dựa trên mô hình kinh tế tập
trung, kế hoạch hoá với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới
thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 Đổi mới tư duy về chính trị theo hướng xoá bỏ phương thức quản lý hành chính
mệnh lệnh để thực hiện dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội, dân chủ gắn
liền với thượng tôn pháp luật, pháp chế, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.

 Đảng ta quan niệm sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội phải dựa trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và điều kiện thực tiễn cụ thể.

 Đảng luôn quan tâm đến các nhận thức mới về nhân tố con người, khắc phục
những hạn chế và khiếm khuyết của nhận thức về xã hội chủ nghĩa có liên quan
đến vấn đề con người đó là phải thừa nhận và bảo vệ lợi ích chính đáng của cá
nhân, coi lợi ích cá nhân của người lao động là một trong những động lực trực
tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội...
( theo GS.VS. Nguyễn Duy Quý – Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam (2009))

* Một số thành tựu cụ thể trên các lĩnh vực

 Thành tựu trong Công nghiệp Công nghệ: "VinFast" - Thương hiệu ô tô và xe
máy của Việt Nam, được thành lập bởi Tập đoàn Vingroup, là một ví dụ điển hình
về sự đổi mới và tư duy sáng tạo trong ngành công nghiệp. VinFast đã nhanh
chóng trở thành đối thủ đáng kể trên thị trường ô tô thế giới với việc sản xuất các
mô hình ô tô điện và xe máy hiện đại.

 Giáo dục và Nghiên cứu: "VinUniversity" - Đại học tư nhân thuộc Tập đoàn
Vingroup, đã được xây dựng với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục ở Việt
Nam và khu vực. Việc này không chỉ cung cấp cơ hội đào tạo cho sinh viên Việt
Nam mà còn thu hút sự quan tâm từ sinh viên quốc tế, tăng cường hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu.

 Đổi mới và Khởi nghiệp: "Vietnam Silicon Valley" - Một cụm từ và sự kiện thể
hiện sự phát triển của cộng đồng khởi nghiệp ở Việt Nam. Nhiều startup đã xuất
hiện và phát triển trong lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền thông, và các ngành
công nghiệp khác, đóng góp vào sự đổi mới và sức mạnh kinh tế.

 Bảo vệ Môi trường và Phát triển Bền vững:"Chương trình Rừng Xanh" - Đây là
một chương trình của Chính phủ Việt Nam nhằm bảo vệ và phục hồi rừng, đồng
thời giúp người dân sống bền vững từ lợi ích của rừng. Chương trình này không
chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn tạo ra cơ hội kinh tế cho cộng đồng địa
phương.

 Quan hệ Quốc tế và Hợp tác:

 Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): Việt
Nam tham gia CPTPP, một hiệp định thương mại quy mô lớn, làm tăng cường
quan hệ thương mại và hợp tác quốc tế. Điều này thể hiện sự mở rộng tư duy và
sẵn sàng tham gia vào cộng đồng kinh tế quốc tế.

 Đối thoại ASEAN và Hòa bình khu vực: Việt Nam đã chủ trì Hiệp hội Quốc tế
Hòa bình lần thứ 7 (APPF-7) tại Hà Nội vào tháng 1 năm 2019. Sự kiện này tập
trung vào đối thoại và hợp tác giữa các nước trên thế giới để thúc đẩy hòa bình và
an ninh. Việt Nam, thông qua việc tổ chức APPF-7, đã góp phần vào sự ổn định
khu vực và tăng cường vai trò của mình trong cộng đồng quốc tế.

 Chủ tịch ASEAN 2020: Vai trò Chủ tịch ASEAN đã giúp Việt Nam chủ động đối
thoại và giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong khu vực. Việt Nam đã tổ chức
thành công nhiều sự kiện, gặp gỡ và đàm phán để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực
thương mại, an ninh, và phát triển bền vững.

 Hiệp định Thương mại EU-Việt Nam (EVFTA): Ký kết và áp dụng EVFTA vào
tháng 8 năm 2020 đã mở ra thị trường lớn của EU cho hàng hóa và dịch vụ Việt
Nam. Điều này đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ thương mại quốc tế,
giúp Việt Nam tận dụng cơ hội xuất khẩu và thúc đẩy phát triển kinh tế.

 Hợp tác Quốc tế về An ninh và Quốc phòng: Việt Nam thường xuyên tham gia
các chiến dịch duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc và hợp tác với nhiều đối tác
quốc tế về an ninh và quốc phòng. Điều này không chỉ củng cố vị thế an ninh của
Việt Nam mà còn thể hiện cam kết của nước này đối với an ninh quốc tế.

 Phản đối Xây dựng Cơ sở Quân sự ở Biển Đông: Việt Nam đã liên tục thể hiện sự
quyết liệt trong việc phản đối các hành động gây căng thẳng và đe dọa an ninh ở
Biển Đông, đặc biệt là việc xây dựng cơ sở quân sự trái phép của một số quốc gia.
Hành động này giúp Việt Nam giữ vững vị thế và uy tín trong cộng đồng quốc tế.

Những thành tựu và sự kiện trên là minh chứng cho sự chuyển đổi tư duy và nỗ lực nâng cao vị
thế của Việt Nam trên bước đường phát triển quốc tế.

1.2.4 Một số thách thức trên các lĩnh vực và các tác động của chúng lên tư duy
1.2.4.1 Thách thức từ kinh tế toàn cầu

Năm 2023, nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với sự bất ổn và cạnh tranh lớn hơn những năm
trước. Hầu hết các nước phát triển đều có mức tăng trưởng thấp. Các nước đang phát triển và
mới nổi sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc giải quyết gánh nặng nợ quốc gia và
đồng tiền yếu. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng đưa ra dự đoán 1/3 nền kinh tế sẽ rơi vào suy
thoái. Bill Winters, Tổng giám đốc toàn cầu của Ngân hàng Standard Chartered, cho biết các
điều kiện huy động tài chính toàn cầu đã bị thắt chặt và nhu cầu bên ngoài chậm lại, điều này
đang ảnh hưởng đến tỷ giá USD/Việt Nam. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam đã thực hiện chính
sách tài chính tiền tệ thận trọng, thực hiện các biện pháp kiểm soát lạm phát và tận dụng dự trữ
ngoại hối để tăng giá trị đồng Việt Nam. Trước những bình luận như vậy, Việt Nam vẫn phải đối
mặt với những thách thức. Số lượng đơn hàng nhận được trong quý 4/2022 giảm hơn 25-50% so
với quý trước khiến nhiều công ty ở nước ta phải đối mặt với tình trạng thiếu đơn hàng trầm
trọng. Sự biến động bên ngoài gia tăng đòi hỏi sức mạnh lớn hơn trong nền kinh tế. Các tổ chức
quốc tế nhận định sẽ có cơ hội thúc đẩy kinh tế Việt Nam trong năm tới từ nguồn lực trong
nước, trong đó có việc thực thi hiệu quả chính sách tiền tệ và nâng cao hiệu quả đầu tư công.

Trong hoàn cảnh Việt Nam đang trong năm chuyển tiếp quan trọng thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XIII và Nghị quyết Quốc hội lần thứ V về các vấn đề kinh tế - xã hội, Việt Nam
đang có lập trường thận trọng với nhiều thay đổi lớn trong tư duy. tới nơi. Trước đó, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã tham dự cuộc họp với Chính phủ và chính quyền địa phương để tổng kết
công tác năm 2022 và triển khai nhiêm vụ cho năm 2023 và một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu:
Cần chủ động đối với mọi tình huống, đặc biệt là những khó khăn, thách thức mới phát sinh;
tuyệt đối không chủ quan, thoả mãn với những kết quả, thành tích đã đạt được. Vì những mục
tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đã được đề ra cho năm 2023 và cả nhiệm kỳ khoá XIII là rất cao bởi
đất nước ta đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ, nâng tầm vị thế, trong khi đó chúng ta vẫn
đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức lớn. Về phát triển kinh tế, Quốc hội nhất
trí, để phát triển nhanh, bền vững, cần quán triệt sâu sắc hơn các chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và thực hiện nghiêm túc, phù hợp.

*Ví dụ về sự thay đổi tư duy trong bối cảnh thách thức từ nền kinh tế toàn cầu

Số lượng đơn đặt hàng có lúc bị giảm đến gần 50% trong quý IV/2022, Công nhân có nơi bị cho
nghỉ việc. Khó và phải nỗ lực hơn rất nhiều. Nhưng không còn con đường nào khác với nhiều
công nhân của Tổng Công ty may Bắc Giang và có lẽ cũng là của nhiều công nhân ngành may
trong năm vừa qua.

"Khị thị trường khó khăn hơn, nguồn hàng không đáp ứng được theo sở trường của nhà máy
buộc chúng tôi phải đa dạng hóa mặt hàng. Chúng tôi phải thuê các chuyên gia để đào tạo lao
động để họ tăng năng suất và đảm bảo được mức lương. Đây cũng là một cơ hội để khi thị
trường khó khăn hơn, công ty có thể tiếp nhận những đơn hàng dễ dàng", bà Chu Thị Thu Thủy -
Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty may Bắc Giang cho biết.

Nhờ nỗ lực như vậy, chuỗi cung ứng với các đối tác lớn được giữ vững, cán cân thương mại
hàng hóa duy trì xuất siêu những tháng cuối năm ngoái.

Qua ví dụ về Tổng Công ty May Bắc Giang, ta có thể thấy được sự thay đổi đáng chú ý trong tư
duy kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trước những thách thức đáng kể từ tình hình
kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, điều đáng chú ý là doanh nghiệp không chỉ nhìn nhận khó khăn như là
một thách thức, mà còn nhìn nhận đó là cơ hội. Việc thuê chuyên gia để đào tạo lao động của
Tổng công ty may Bắc Giang là một ví dụ, thể hiện sự sẵn sàng tận dụng cơ hội từ những thách
thức. Sự thay đổi trong tư duy của họ thể hiện sự thận trọng, đồng thời cũng rất quyết tâm đối
mặt với những khó khăn, đặc biệt trong một môi trường kinh doanh không chắc chắn. Tóm lại,
sự linh hoạt, đa dạng hóa, và nỗ lực để nâng cao năng suất là những đặc điểm chính trong tư duy
của các doanh nghiệp Việt Nam trước những thách thức toàn cầu.

(https://vtv.vn/kinh-te/kinh-te-viet-nam-2023-thach-thuc-va-co-hoi-20230114114028366.htm

https://vneconomy.vn/vuot-bao-suy-giam-tong-cau-vuc-day-tang-truong-kinh-te.htm)
1.2.4.2 Thách thức từ công nghệ

 Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực
vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác
động sâu sắc. Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư diễn ra một cách ồ ạt.
Nó đặt ra rất nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp và các nhà lãnh đạo Việt Nam.
 Chuỗi cung ứng: Sự gia tăng dịch bệnh COVID-19 đã gây ra sự suy thoái toàn cầu về
chuỗi cung ứng, khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc nhập khẩu nguyên
liệu, thiết bị và linh kiện từ các quốc gia khác.
 An ninh mạng: Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, an ninh mạng trở thành
một vấn đề nghiêm trọng. Các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi và phức tạp hơn, đe
dọa đến sự an toàn của dữ liệu và thông tin cá nhân.
 Tăng tốc đổi mới công nghệ: Công nghệ đang phát triển với tốc độ chóng mặt, đòi hỏi
các doanh nghiệp phải không ngừng cập nhật và đổi mới để không bị tụt hậu.
 Cạnh tranh với các doanh nghiệp công nghệ lớn: Các doanh nghiệp công nghệ lớn có
nguồn lực mạnh mẽ và quy mô lớn, tạo ra sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
 Hơn hết, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng, cuộc cách mạng này có thể mang lại
sự bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động
hóa thay thế người lao động bằng máy móc có thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch
giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận so với sức lao động. Mặt khác, tri thức sẽ là
yếu tố quan trọng của sản xuất trong tương lai và làm phát sinh một thị trường việc làm
ngày càng tách biệt thành các mảng "kỹ năng thấp/lương thấp" và "kỹ năng cao/lương
cao", do đó dễ dẫn đến sự phân tầng xã hội ngày càng trầm trọng thêm.

Trước thực trạng này, Việt Nam đã đưa ra các chính sách, chủ trương, giải pháp phát triển toàn
diện ngành công nghệ số quốc gia. Trong đó, việc thông qua Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ
Chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tham gia tích cực vào cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, nhằm phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ đất nước. Qua đó đề ra chủ trương
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của
đất nước. Sau khi nhận thấy mức độ tham gia tích cực của nước ta vào Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư còn thấp do còn nhiều vấn đề khác nhau, Đảng và nhà nước sẽ tiếp tục đẩy mạnh ứng
dụng, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, huấn
luyện các cấp, các ngành để phát huy, nâng cao hiểu biết, khả năng tiếp cận và tham gia tích cực
vào Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc biệt, việc phát triển Chính phủ điện tử, phát triển
Chính phủ số đã được triển khai triệt để và bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.

Điều này thể hiện sự chủ động và nhạy bén của Việt Nam trước những thách thức toàn cầu.
Những nỗ lực này là minh chứng cho sự thay đổi lớn về mặt tư duy của các nhà lãnh đạo Việt
Nam cũng như sự chủ động và quyết tâm của Việt Nam trong việc nâng tầm vị thế quốc gia
trước bối cảnh của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

(https://mic.gov.vn/atantt/Pages/TinTuc/143457/Mot-so-chu-truong--chinh-sach-chu-dong-tham-
gia-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu.html)
2. Nâng tầm vị thế tác động ngược trở lại trong tư duy

2.1 Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

2.1.1 Quan hệ đối ngoại và uy tín quốc tế

 Ngay sau khi đảm nhiệm thành công vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam chính thức
ứng cử làm ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020 - 2021. Trở
thành Ủy viên không thường trực của HĐBA là mục tiêu và cơ hội đặc biệt được
đại đa số các nước thành viên LHQ hết sức coi trọng. Cho nên, việc Việt Nam
được các nước châu Á - Thái Bình Dương đồng thuận cao giới thiệu làm ứng viên
duy nhất ứng cử Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020 -2021
cũng đánh dấu vị thế mới của Việt Nam, đồng thời cho thấy uy tín của đất nước
sau hơn 30 năm đổi mới.
 Đồng thời với việc đảm nhiệm vai trò là Chủ tịch ASEAN vào năm 2020, năm
đầu tiên của Thập kỷ thứ 2 trong thế kỷ 21 cùng với việc Việt Nam được tín
nhiệm giới thiệu làm ứng viên duy nhất của nhóm các nước châu Á - Thái Bình
Dương ứng cử vào ủy viên không thường trực HĐBA LHQ phản ánh vị thế mới
của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới toàn diện, thể hiện sự tín nhiệm cao, chủ
động và tích cực đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, an ninh
khu vực và quốc tế. Điều này cũng thể hiện kết quả của nỗ lực vận động tích cực,
mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện, dưới nhiều hình thức, ở nhiều cấp khác nhau, đặc
biệt là cấp lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.
 Qua 30 năm Đổi mới, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được nâng cao; quan hệ đối ngoại phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Việt
Nam đã thiết lập quan hệ đối tác Chiến lược với 15 nước, Đối tác toàn diện với 10
nước, trong đó có tất cả các nước P5 và hầu hết các nước chủ chốt trong khu vực
và trên thế giới.
 Việt Nam đã được bầu là thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2014 - 2016 và tiếp tục ứng cử và đã được các nước ASEAN đồng
thuận đề cử là ứng cử viên của ASEAN tham gia ứng cử vị trí thành viên Hội
đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025
(https://dangcongsan.vn/doi-ngoai/vai-tro-va-vi-the-cua-viet-nam-tren-truong-quoc-te-
ngay-cang-duoc-nang-cao-524044.html
https://dangcongsan.vn/tieu-diem/khang-dinh-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-cua-viet-nam-
592373.html)
2.1.2 Hội nhập quốc tế
 Để khẳng định được vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, Việt Nam đã và đang phấn
đấu dần đóng vai trò “nòng cốt, dẫn dắt, hoà giải, sáng kiến, tích cực, có trách nhiệm” tại
các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp
với khả năng và điều kiện cụ thể. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với
189/193 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ tốt đẹp với tất cả nước lớn, các Uỷ
viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến
lược với 17 quốc gia (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn diện.
 Năm 2020, Việt Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả Hiệp định thương mại tự do
giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA); tham gia ký Hiệp định Đối tác Kinh tế
toàn diện khu vực (RCEP), tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên
nhiều lĩnh vực. Đã có 71 nước công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
 Việt Nam đã gia nhập ASEAN năm 1995; ASEM năm 1996; APEC năm 1998; WTO
năm 2007; CPTPP năm 2018. Đã đăng cai thành công Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC) năm 2006 và 2017; hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần hai
năm 2019…
 Việt Nam là một thành viên tích cực của hầu hết các văn kiện cơ bản về quyền con người
của Liên hợp quốc và đã được bầu là thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2014 - 2016 và tiếp tục ứng cử và đã được các nước ASEAN đồng thuận đề cử
là ứng cử viên của ASEAN tham gia ứng cử vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên
hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025.
(https://dangcongsan.vn/tieu-diem/khang-dinh-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-cua-viet-nam-
592373.html)
2.1.3 Kinh tế
 Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu
như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm
chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các
giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016-2019 đạt mức bình
quân 6,8%.
 Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm
thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159
USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế
về tích lũy-tiêu dùng, tiết kiệm-đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động-việc làm… tiếp
tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô.
 Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho
phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập
trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa
cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
 Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu
nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như
càphê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các
mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn.
Những nỗ lực đổi mới trong cả tư duy lẫn hành động trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường
đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển.
(https://en.vietnam.vn/kinh-te/nhung-thanh-tuu-noi-bat-cua-dat-nuoc-sau-35-nam-doi-moi-
20210122140142529.html)
2.2 Cách thức mà việc nâng tầm vị thế đã tác động ngược trở lại vào tư duy của Việt Nam.
2.2.1 Tác động lên Đảng và nhà nước
2.2.1.1 Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương

Trước hết ta có thể khẳng định việc nâng tầm vị thế quốc gia đã giúp Việt Nam tiên phong, chủ
động, tích cực và sáng tạo trong công tác đối ngoại.
 Đối ngoại là công tác quan trọng trong đường lối lãnh đạo chung của Đảng ta. Đại hội
XII của Đảng cũng đã đặt ra những yêu cầu cụ thể với công tác đối ngoại, trong đó có
nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường
hòa bình và tạo điều thuận lợi để phát triển đất nước.
 Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động về chính trị, kinh tế, xã hội, những
nỗ lực trong lĩnh vực chính sách đối ngoại sẽ được phát huy theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ XII và chiến lược của Đại hội Đảng lần thứ XII với tinh thần chủ
động, tích cực. Phải nói rằng, những nỗ lực trong lĩnh vực chính sách đối ngoại không
chỉ mang lại nhiều kết quả quan trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước mà
còn củng cố, nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
 Thành công của APEC 2017 với Việt Nam là chủ nhà hay trở thành điểm chú ý của cả
thế giới khi là nước được chọn và tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều
Tiên năm 2019.
 2020 là một năm đại thành công đối với công tác đối ngoại Việt Nam khi nước ta giữ vai
trò Chủ tịch ASEAN và hội đồng liên nghị viện AIPA cùng vai trò kép thành viên không
thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Bản lĩnh đã được chứng tỏ qua khó khăn. Một năm
2020 nhiều thách thức đã qua đi, dấu ấn về sự chủ động, linh hoạt, đầy sáng kiến, sáng
tạo của Việt Nam được thế giới và khu vực đánh giá cao.
 Năm 2020 cũng kết thúc nhiệm kỳ 12 của Đảng, công tác đối ngoại trong suốt nhiệm kỳ
qua đã để lại nhiều thành tựu. Vị thế và uy tín chính trị của Việt Nam liên tục được khẳng
định.
 Nhiều nước đã nâng cấp quan hệ ngoại giao với Việt Nam, thể hiện niềm tin ở cấp cao
nhất, đặc biệt phải kể đến các chuyến thăm Việt Nam của những nguyên thủ cường quốc.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình vừa có chuyến thăm cấp Nhà
nước Việt Nam. Trước đó, Tổng thống Mỹ Joe Biden sang thăm Việt Nam và hai nước
cùng thống nhất nâng cấp quan hệ.
 Đối ngoại cũng có những đóng góp trực tiếp vào phát triển kinh tế đất nước. CPTPP,
EVFTA hay gần nhất là RCEP, tạo những nền tảng không thể tốt hơn thúc đẩy thương
mại, đầu tư.
 Để xây dựng một vị thế cần cả quá trình, một mục tiêu liền mạch và thông suốt về công
tác đối ngoại thời kỳ đổi mới đã được Đảng ta khởi xướng từ đại hội VI năm 1986 và liên
tục được kế thừa, bổ sung qua các kỳ đại hội, hướng đến một nhiệm vụ chung nhất: đối
ngoại phục vụ nhiệm vụ phát triển đất nước, nâng tầm vị thế quốc gia.
 Trong 5 năm qua, công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao quốc gia và ngoại giao nhân
dân tiếp tục được phối hợp hài hòa và đạt được những thắng lợi ngoại giao to lớn cả về
chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng - an ninh, khẳng định và tăng cường vị thế, vai
trò của Việt Nam trên các diễn đàn hợp tác khu vực và toàn cầu.
Sự linh hoạt trong tư duy và đường lối ngoại giao của Việt Nam thời gian qua cũng đã phát huy
tính hiệu quả. Lấy dẫn chứng khái niệm độc lập mà chúng ta vẫn đề cao, đến nay nội hàm của từ
độc lập cũng thay đổi do thời thế lẫn cách tiếp cận. Ngày trước, độc lập là kiểu “không anh nào
được đụng đến tôi” và “tôi chơi riêng”. Còn trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, độc lập không
thể như vậy mà cách tiếp cận là phải làm cân bằng các mối quan hệ phụ thuộc. Đó là những mối
quan hệ lợi ích song trùng, song phương và cả đa phương đan xen lẫn nhau. Đây chính là nghệ
thuật về ngoại giao để nâng tầm vị thế của mình. Việt Nam đang làm tốt điều này, cũng vì thế mà
Việt Nam tuy cần các nước, nhưng các nước cũng phải cần đến Việt Nam.

Như vậy, việc nâng tầm vị thế tác động sâu sắc tới tư duy phát triển của các nhà lãnh đạo Việt
Nam, giúp Việt Nam tiên phong, chủ động, tích cực và sáng tạo trong công tác đối ngoại, góp
phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện của đất nước.

( https://www.sggp.org.vn/nang-tam-vi-the-viet-nam-post718109.html

https://vtv.vn/chinh-tri/cong-tac-doi-ngoai-nang-nang-tam-vi-the-viet-nam-
20210105205859135.html)

2.2.1.2 Cách mạng công nghê 4.0


 Cách mạng công nghiệp 4.0 đã thay đổi căn bản tư duy của các nhà lãnh đạo Việt Nam.
Qua đó, Việt Nam cần tận dụng những cơ hội mà Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại
để phát triển hơn nữa. Bài phát biểu của Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt
Nam, Ousmane Dione tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 tổ chức tại Hà Nội ngày
13/7/2018 đã đặt ra nhiều câu hỏi cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam trong
việc áp dụng công nghệ 4.0 vào nhiều lĩnh vực đời sống, trong bối cảnh đất nước ta đang
không ngừng nâng tầm vị thế trong khu vực.
 Theo bài phát biểu trên, Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển cũng đóng vai trò quan trọng
giúp Việt Nam gia nhập nền Công nghiệp 4.0. Nhãn mác “Sản xuất tại Việt Nam” phải
nhanh được thay thế bằng “Nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam”. Điều này có nghĩa là
Việt Nam không chỉ tạo ra lao động chi phí rẻ, mà cũng đầu tư vào công nghiệp của
tương lai. Cũng rõ ràng rằng lợi ích lớn nhất từ công nghệ mới sẽ đến với những xã hội
và công ty không khăng khăng tiếp tục xu hướng quá khứ mà có thể thích nghi và hướng
công dân của mình tới những ngành công nghiệp đang lên, như rô bốt chẳng hạn.

Quan điểm "Nâng tầm vị thế" trong tư duy của Đảng và nhà nước Việt Nam, như được thể hiện ở
trên, đánh dấu một sự chuyển đổi quan trọng và tích cực trong việc tiếp cận với cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0. Thay vì giữ vững mô hình "Sản xuất tại Việt Nam," Việt Nam dần thay đổi,
hướng sự chú tâm hơn tới "Nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam," đặt ra tầm quan trọng của
đầu tư vào sự đổi mới và sáng tạo. Các nhà lãnh đạo đã nhận thức sâu sắc được thực tế để cần
phải tập trung vào nâng cao khả năng nghiên cứu và phát triển nếu muốn vươn lên trong thời đại
Công nghiệp 4.0. Quan điểm này không chỉ là cam kết đối với cách mạng công nghiệp mà còn là
lối đi để Việt Nam tạo ra sự cạnh tranh bền vững và gia tăng giá trị. Điều đáng chú ý là quan
điểm này thách thức nhãn mác "Sản xuất tại Việt Nam", đặt ra một tầm nhìn rộng lớn hơn về sự
đổi mới và tiến bộ. Các nhà lãnh đạo thấu hiểu rằng lợi ích lớn nhất từ công nghệ mới sẽ đến với
những xã hội và doanh nghiệp có khả năng thích nghi và hướng tới những ngành công nghiệp
đang nổi lên. Quan điểm "Nâng tầm vị thế" không chỉ là một chiến lược kinh doanh, mà còn là
một bước quan trọng trong việc thay đổi tư duy, định hình sự phát triển của Việt Nam theo
hướng có sự đổi mới, sáng tạo và tiên tiến, hứa hẹn một tương lai mạnh mẽ và độc đáo trong thời
đại Công nghiệp 4.0.

(https://www.worldbank.org/vi/news/speech/2018/07/17/industry-4-harnessing-disruption-for-
vietnams-development)
2.2.1.3 Tư duy lãnh đạo
 Tư duy lãnh đạo là quá trình phản ánh hiện thực khách quan về lãnh đạo dựa trên
hoạt động của bộ não để nhận thức được bản chất và quy luật về quá trình lãnh
đạo, cách thức lãnh đạo và mục tiêu lãnh đạo. Việc nâng tầm vị thế đã giúp các
nhà lãnh đạo Việt Nam nắm bắt được những quy luật khách quan và định hướng
cho hành động lãnh đạo trên thực tiễn.
 Trong khu vực công, có 3 nguồn lý tưởng của đổi mới là: các phản ứng có định
hướng chính trị trước khủng hoảng; những biến động trong tổ chức do các nhân
vật lãnh đạo mới xuất hiện và khởi xướng; và từ dưới lên – do những nhân viên
làm ở vị trí “mặt tiền” – giao diện tiếp xúc trực tiếp của bên trong và bên ngoài tổ
chức hay các nhà quản lý cấp trung gian.
 Tuy nhiên, trên thực tế thì quá trình đổi mới còn có thể được dẫn dắt bởi những
mưu cầu cá nhân của những người không nhất thiết nằm trong 3 nhóm trên. Hiểu
biết về những điều này sẽ hỗ trợ cho người/đội ngũ lãnh đạo tư duy lại về năng
lực, nguồn lực mình có để quyết định “Mình muốn gì?” và “Mình là ai?” hoặc
Mình sẽ là ai?”.
 Không ngừng tư duy và đổi mới tư duy về bản thân trong mối quan hệ với bối
cảnh, mục tiêu lãnh đạo là một công cụ, một cơ hội để đội ngũ và cá nhân mỗi
lãnh đạo định vị và định vị lại bản thân trong mỗi bối cảnh, hoàn cảnh lãnh đạo cụ
thể.
Như vậy, việc nâng tầm vị thế đã tác động mạnh mẽ đến tư duy của các nhà lãnh đạo Việt Nam,
góp phần vào sự phát triển toàn diện của đất nước.
2.2.1.4 Vị thế Việt Nam trong cục diện khu vực

Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu lần 13
của Đảng, Phó thủ tướng thường trực Phạm Bình Minh thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư
trình bày báo cáo về thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai
đoạn 5 năm qua từ 2016-2021
Phó thủ tướng cho biết quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên với GDP gần 400 tỉ USD
và gần 100 triệu dân. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần.
Ổn định chính trị - xã hội được đảm bảo trên cơ sở củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường vững chắc. Đất nước hội nhập sâu rộng
vào mọi mặt đời sống xã hội quốc tế, là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế.
Theo Phó thủ tướng, trong giai đoạn 2016-2021, Việt Nam đã xác lập thêm 6 khuôn khổ
Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện, nâng tổng số quan hệ đối tác chiến lược và toàn
diện lên 30 nước. Kết quả này tạo cho đất nước ta có vị thế đối ngoại thuận lợi nhất từ trước
đến nay, góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lợi ích
quốc gia, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, tranh thủ các nguồn lực để phát triển" - Phó
thủ tướng cho biết.
Về quan hệ với các quốc gia láng giềng, Phó thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết quan hệ
láng giềng hữu nghị với Lào và Campuchia được củng cố.
Với Trung Quốc, tổng thể khuôn khổ quan hệ láng giềng, đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện được tăng cường. Việc chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình vừa có chuyến thăm
cấp Nhà nước Việt Nam cũng đánh dấu sự phát triển mới trong mối quan hệ tốt đẹp giữa hai
nước. Quan hệ với các nước ASEAN phát triển tốt đẹp trên mọi lĩnh vực.

*Ngoại giao vắc xin hiệu quả

Theo Phó thủ tướng thường trực Phạm Bình Minh, trong đại dịch COVID-19, Việt Nam đã triển
khai quyết liệt, kịp thời và hiệu quả công tác ngoại giao y tế/vắc xin trên cả kênh song phương và
đa phương.

Đến nay, Việt Nam đã nhận được trên 151 triệu liều vắc xin, đạt 100% mục tiêu đề ra, góp phần
quan trọng vào công tác phòng, chống dịch hiệu quả đi đôi với phục hồi, phát triển kinh tế - xã
hội.

Việt Nam cũng đã kịp thời viện trợ vật tư y tế và tài chính cho trên 50 quốc gia và tổ chức quốc
tế, qua đó thể hiện rõ vai trò "thành viên có trách nhiệm" trong cộng đồng quốc tế.

Phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh về việc nâng tầm vị thế Việt Nam trong cuộc
chiến chống dịch COVID-19 không chỉ là một báo cáo về thành công trong lĩnh vực y tế mà còn
là một tín hiệu vô cùng tích cực về sự tác động của việc nâng tầm vị thế quốc gia trong khu vực
và ảnh hưởng trở lại tư duy của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đầu tiên, Việt Nam đã thể
hiện sự linh hoạt và tình thần đoàn kết khi triển khai quyết liệt, kịp thời và hiệu quả công tác
ngoại giao y tế và vắc xin. Sự khéo léo trong hợp tác cả ở cấp độ song phương và đa phương đã
giúp Việt Nam đảm bảo nguồn cung vắc xin đầy đủ, không chỉ bảo vệ sức khỏe cộng đồng mà
còn chứng tỏ sức mạnh và ảnh hưởng của quốc gia trong khu vực.

Thứ hai, việc Việt Nam đạt 100% mục tiêu tiêm chủng với hơn 151 triệu liều nhập khẩu không
chỉ là thắng lợi về mặt y tế mà còn là minh chứng rõ ràng cho sức mạnh, khả năng tự chủ của đất
nước trong đối phó với thách thức toàn cầu.

Thứ ba, Việt Nam củng cố tư duy lãnh đạo thông qua hỗ trợ quốc tế tích cực, bao gồm cung cấp
vật tư y tế và hỗ trợ tài chính cho hơn 50 quốc gia và tổ chức quốc tế. Đây không chỉ là hành
động nhân đạo mà còn là chiến lược khôn ngoan nhằm củng cố uy tín và vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.

Tóm lại, thông qua những thành công trong chiến lược nâng tầm vị thế, Việt Nam đã tạo ra một
sức mạnh không chỉ trong lĩnh vực y tế mà còn trong lĩnh vực chính trị và kinh tế, tác động tích
cực đến tư duy của những người đứng đầu, thúc đẩy họ định hình quốc gia với tư cách một đối
tác đáng tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Ngoài ra, việc nâng tầm vị thế đã giúp các nhà lãnh đạo Việt Nam nhận thức được tầm quan
trọng của việc xác lập và nâng cao vị thế quốc gia trong hoạch định chiến lược phát triển của đất
nước.

(https://tuoitre.vn/the-va-luc-duoc-nang-tam-uy-tin-viet-nam-gia-tang-tren-truong-quoc-te-
20211214091844022.htm

https://moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/tin-tuc/Pages/listbnv.aspx?ItemID=3265)

Như vậy, việc nâng tầm vị thế đã tác động mạnh mẽ đến tư duy của các nhà lãnh đạo Việt Nam,
góp phần vào sự phát triển toàn diện của đất nước.

2.2.2 Tác động đến nhân dân

- Tư Duy Sáng Tạo và Khởi Nghiệp: Những cơ hội mới từ sự nâng tầm vị thế đã tạo
ra sự thúc đẩy tư duy sáng tạo và khởi nghiệp ở cộng đồng. Người dân Việt Nam trở nên
sẵn sàng thử nghiệm ý tưởng mới và tìm kiếm cơ hội kinh doanh.

- Tư Duy Quốc Tế và Đa Dạng: Sự mở cửa quốc tế và gia nhập vào cộng đồng quốc
tế đã mở mang tư duy của người dân. Họ trở nên nhận thức hơn về sự đa dạng văn hóa,
quan điểm và giá trị, giúp hình thành tư duy toàn cầu hơn.

- Tư Duy Về Nghề Nghiệp và Học Vấn: Cơ hội nghề nghiệp và giáo dục mở rộng đã
thách thức và thay đổi tư duy về lựa chọn nghề nghiệp và giáo dục. Người dân trở nên
chủ động hơn trong việc xây dựng sự nghiệp và phát triển cá nhân.

- Tư Duy Về Môi Trường và Bền Vững: Với sự chú trọng vào phát triển bền vững, tư
duy của người dân đã thay đổi về môi trường và ý thức về bảo vệ tài nguyên. Cộng đồng
trở nên nhận thức hơn về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên
một cách có trách nhiệm.

Như vậy, việc nâng tầm vị thế của Việt Nam đã có ảnh hưởng đáng kể đến tư duy của cả
nhà nước và người dân. Thách thức và cơ hội từ sự thay đổi này đã tạo nên một môi
trường đa dạng và sáng tạo, khuyến khích sự phát triển bền vững và tích cực trong xã hội.

(https://kinhtevadubao.vn/thuc-day-khoi-nghiep-khoi-nghiep-doi-moi-sang-tao-trong-thanh-nien-
27783.html)

You might also like