You are on page 1of 116

HỌC VĂN CHỊ HIÊN

Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

20 BÀI VĂN MẪU TRỌNG TÂM

Tên tác Nội dung chính Đề số Tên tác Nội dung chính Đề số
phẩm phẩm

Tây Tiến 14 câu đầu 1 Sóng 5 đoạn đầu 11

8 câu thơ giữa 2 4 đoạn sau 12

8 câu hình tượng 3 Vợ nhặt nhân vật Tràng 13


người lính

Việt Bắc 8 câu đầu 4 buổi sáng hôm sau 14

bức tranh tứ bình 5 Vợ chồng A những “cái khổ” 15


Phủ của Mị

so sánh 2 đoạn 6 Mị trong đêm mùa 16


đông cởi trói

VB ra trận 7 NLĐSĐ Sông Đà hung bạo 17


ở hút nước

Đất Nước 9 câu đầu 8 Cảnh vượt thác 18

lịch sử + văn hóa 9 Chiếc Câu chuyện ở tòa 19


thuyền ngoài án huyện
xa
địa lí 10 nhận định 20

ĐỀ 1: Cảm nhận của về khung cảnh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến trong
14 câu thơ đầu bài thơ “Tây Tiến" - Quang Dũng.
Bài làm
Có một người nghệ sĩ đã từng viết trong tác phẩm của mình:
“Có khoảng không gian nào, đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương”
Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ thương. Đó là nỗi nhớ
thương Hoàng Cầm gửi lại mảnh đất của mình qua bài thơ “Bên kia sông Đuống”, là nỗi nhớ
thương của những kẻ đi xa qua bài thơ “Bếp lửa” – Bằng Việt, đôi khi cũng là nỗi nhớ thương
tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi cho người bên này qua “hương bưởi” trong bài thơ
“Hương thầm” – Phan Thị Thanh Nhàn. Trước những rung cảm của con tim, người nghệ sĩ

1
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

dùng ngòi bút để trải lòng, viết về nỗi nhớ niềm thương nhiều như vậy. Quang Dũng – người
nghệ sĩ đa tài cũng không ngoại lệ khi đặt để những tình cảm của mình nơi những người đồng
chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”. Nổi bật trong bài thơ này là mười bốn câu thơ đầu tiên
diễn tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, trữ tình cùng hình ảnh người lính Tây Tiến dũng cảm,
hào hùng nhưng cũng vô cùng lạc quan, dí dỏm và yêu đời.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Quang Dũng ghi dấu ấn của mình với hình ảnh
của một người nghệ sĩ đa tài. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn mang trong mình những tài năng
khác như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…Thế nhưng xét ở mọi phương diện, điều mang người
nghệ sĩ này đến gần nhất với người yêu mến mình đó chính là những thi phẩm hay. Thơ của
Quang Dũng bất cứ khi nào cũng vậy, luôn lột tả một chất thơ: hồn hậu, lãng mạn, phóng
khoáng, tài hoa – Phong cách nghệ thuật rất riêng của một chàng trai Hà Nội khoác áo lính lên
đường. “Tây Tiến” là thi phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng, được
ông viết vào năm 1948 khi đang tham gia Đại hội thi đua ở làng Phù Lưu Chanh. Những ký ức
quay trở lại lung linh. Vào năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến và từng giữ
chức vụ đại đội trưởng. Sau đó không lâu, ông điều chuyển sang đơn vị khác. Khi những niềm
thương nỗi nhớ rủ nhau về bầu bạn, Quang Dũng không thể ngăn nổi lòng mình mà viết lên bài
thơ này – Bài thơ được coi là khúc độc hành của nỗi nhớ thương.
Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời chiến binh, ta chợt
nhận ra, “Tây Tiến” được bắt đầu bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến như thế:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Cả bài thơ không một dấu chấm câu, nỗi nhớ tràn từ câu thơ này sang câu thơ khác, bắt nhịp
từ tứ thơ này sang tứ thơ khác. Nỗi nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha “Tây
Tiến ơi!” – Đó cũng chính là cách mà Quang Dũng mở đầu bài thơ của mình. Cảm xúc hiện
hình trong nỗi nhớ “chơi vơi”.Đó vừa là trạng thái của nỗi nhớ vừa là trạng thái của cảnh vật
được nhớ. Cả chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong nỗi
nhớ “chơi vơi” ấy. Nỗi nhớ trở thành cội nguồn cảm hứng sáng tạo và làm nên cấu trúc của thi
phẩm. Mạch bài thơ là mạch nhớ, là sự đan dệt của kỉ niệm, với những sực nhớ miên man,
những vụt hiện bất chợt... Cũng từ đây nỗi nhớ dậy lên làm một nguồn sinh khí, nó soi tràn đến
đâu muôn vàn hình sắc trong kí ức tươi tắn, sống dậy đến đó. Nhờ nỗi nhớ mà những hình ảnh
của những ngày qua cồn cào sống dậy. Chính nỗi nhớ “chơi vơi” đã dẫn ngòi bút tác giả đi
miên man trong thế giới thơ. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể nào quên với đồng
đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành

2
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tiếng gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành âm vang của cả
thời đại, của cả dân tộc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh dòng
sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang âm điệu của núi rừng, của địa bàn
hoạt động gắn với một đời chiến binh nay cũng đã xa rồi, binh đoàn Tây Tiến cũng đã xa rồi,
tất cả chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Có thể thấy từ “xa rồi” cũng chính là điểm rơi thấp nhất
của câu thơ này, nó giống như một khoảng hụt hẫng khi những kỷ niệm chỉ giống như những
thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm xúc đong đầy.
Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, về địa bàn
hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Giữa khoảng không gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh
mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho phải, thế nên mới tạo
ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi vơi”. Chỉ với hai câu thơ đầu tiên, những ký ức gắn với
binh đoàn đã từ từ hiện ra lung linh huyền diệu, trong chuyến độc hành quay về với những ký
ức, nhà thơ Quang Dũng thêm một lần đi lại những con đường đã qua.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha trìu mến ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà
thơ mở ra lan tỏa như mỗi chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Hai
địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian địa lý in đẫm kỷ niệm của một
thời chiến binh nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao nhớ lại những
kỷ niệm trong bao chặng được hành quân vất vả. Và ở câu thơ tiếp theo này, hình ảnh “đoàn
quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình
ảnh thơ khiến ta như hình dung Thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của
những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song
cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp
huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi khiến cho toàn bộ cảnh thực
chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trung, tâm trí người đọc. Hình ảnh “hoa về trong
đêm hơi” nhanh chóng kéo bạn đọc trở về với sự cân bằng. Không gian được liên tưởng tới là
địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm
ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại được tiếp thêm sức
mạnh. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ
Tô Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

“Những đường Việt Bắc của ta,

3
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Đêm đêm rầm rập như là đất rung


Quân đi điệp điệp trùng trùng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra trận. Còn
trong thơ Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh
sóng đôi của sự trái ngược:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của một bài thơ tứ tuyệt, đặc tả bước hành quân gian lao của
người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, gập
ghềnh cũng được vẽ ra một cách chân thực ở đoạn thơ này. Ta như nghe thấy bước chân và hơi
thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên
khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Những con dốc là hình ảnh đầu tiên được đề cập tới. Những con
dốc được miêu tả bằng từ láy tượng hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người đọc dễ dàng
liên tưởng tới địa hình gấp gãy. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con đường hành
quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai miêu tả độ cao
của những ngọn núi nơi đây.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với những khoảnh khắc tinh nghịch,
dí dỏm, đậm chất lính. Đường hành quân dài thăm thẳm muôn trùng, có khoảnh khắc đi lên
cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là nguyên cớ có hình ảnh nhân hóa
“súng ngửi trời”. Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng chạm vào
mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm tới trời. Chi tiết
này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng. Nó rất giống với liên
tưởng trong thơ của Chính Hữu:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
(“Đồng chí”)

4
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Cảnh vừa khắc nghiệt, gian khổ, đan xen nét tinh nghịch của anh bộ đội cụ Hồ chính là điểm
nhấn cho đoạn thơ này. Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong
câu thơ tiếp theo:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như
kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu,
với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của "ngàn thước lên cao ngàn thước
xuống", khiến người đọc dường như đang chơi một trò bập bênh chóng mặt. Núi cao thì cao
vời vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ mang dáng dấp của hai vế tiểu đối sử dụng các cặp
từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ
đe dọa bởi địa hình hiểm trở, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của con người khi dừng lại ngắm
nhìn những nếp nhà Pha Luông:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những chiến sĩ
Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những chặng
đường hành quân vất vả. Tôi tự hỏi lòng mình, trong giây phút được lắng lại nhiều phần tâm
hồn như vậy, người chiến binh Tây Tiến liệu có đang nhớ về quê hương của mình hay không?
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính dẫn chặng đường hành
quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã,
Quang Dũng không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ tái hiện lại trong những vần
thơ của mình:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Nhà thơ nói về "anh bạn" là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối ngày, đêm
nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ "gục" có phần nặng
nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình ảnh "bỏ quên đời". Cái chết với
người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản. Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên
và con người tạo nên một sự đối chiếu thầm lặng để rồi từ đó tôn vinh sức mạnh của con người,
dù con người có nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi phía,
mọi nơi

Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị đe dọa bởi
thác dữ, thú rừng:

5
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Điều này chứng
tỏ thác dữ, thú rừng không phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi lặp lại ngày nào cũng
như vậy. Sự đe dọa dường như bủa vây từ mọi phía, người lính trong hoàn cảnh phải chống
chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt
hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung
cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về, đó là khoảnh khắc những bữa ăn của đồng bào
chuẩn bị cho cán bộ cách mạng, để rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn thấy vương vấn đâu đây
nếp nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi. Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”
Chế Lan Viên từng viết:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương.”
Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn một địa danh có tên nghe thật mềm mại,
êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu” nếu như không lựa chọn địa danh này mà thay nó bằng
“Lai Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần. Đặc biệt lưu ý, ở trong câu thơ
cuối có một danh từ nghe rất lạ, đó là “mùa em”. Đất trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
nhưng trong những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng lại có một mùa thật lạ đó là mùa em. Mùa
em là mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm
nương, mùa ta gặp nhau mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không
quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự đủ đầy.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút
pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung
cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong
nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như
những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần
tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ này là bên
cạnh những nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những góc nhìn đầy lãng mạn của

6
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

một chàng trai Hà Nội. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng
nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến mà
dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.
Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn phía sau
của “đoàn binh không mọc tóc” và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem
vào trận chiến. Yêu quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha thiết trong lòng người đọc
khi biết về binh đoàn Tây Tiến qua vần thơ của Quang Dũng. Xin được mượn lời thơ của Giang
Nam để thay lời kết cho bài viết này, có lẽ Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết bao người
yêu mến nhà thơ Quang Dũng và bài thơ “Tây Tiến”:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”

ĐỀ 2: Nhận xét về bài thơ “Tây Tiến”, tác giả Hà Minh Đức viết: “Tây Tiến” là bài thơ
giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn” (Nxb Văn học, 2006, tr.67-68).
Anh/Chị hãy làm rõ ý kiến đó qua đoạn thơ sau:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(“Tây Tiến”, Quang Dũng)
Bài làm

“Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế

Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ

Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào

7
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau…”

(“Cuộc chia ly màu đỏ” – Nguyễn Mỹ)

Chiến tranh đi qua để lại cho chúng ta là bao hoài niệm về những tháng năm không thể nào
quên. Đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, để vệ quốc, đó
là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ và tình cảm cá nhân để đi theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc… Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền
thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thực xuất sắc thông qua lăng kính lãng
mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của mình qua bài thơ “Tây Tiến”. Nhận xét về bài thơ “Tây
Tiến”, tác giả Hà Minh Đức viết: “Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc
sống và của tâm hồn” . Qua khổ thơ hai và ba trong thi phẩm, ta càng hiểu rõ thêm về nhận
định này.

Quang Dũng là người con của thủ đô Hà Nội. Ngay từ lúc còn là một chàng trai Hà
thành đầy sức trẻ, ông đã nguyện cống hiến sức mình vào sự nghiệp cứu nước. Bên cạnh vai
trò là một người lính hăng hái và nhiệt thành cách mạng, Quang Dũng còn được biết đến với
nhiều năng khiếu đặc biệt như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Chính những điều này đã củng
cố thêm niềm tin của mọi người về sự tài hoa của nhà thơ – chiến sĩ Quang Dũng. Trong suốt
quá trình phụng sự sức mình cho đất nước cũng như đến cuối đời, nhà thơ đã ghi lại những cảm
xúc, tâm tư của mình trong những tác phẩm mang dấu ấn riêng, đó cũng đồng thời là những
đóng góp rất đáng kể của ông cho nền văn học nước nhà. Một số tác phẩm nổi bật của Quang
Dũng cần kể đến như: “Mắt người Sơn Tây”, “Rừng biển quê hương” (năm 1957), “Đường lên
Châu Thuận” (năm 1964), “Rừng về xuôi” (năm 1968). Nhưng tiêu biểu nhất là tập “Mây đầu
ô” (năm 1986) mà điển hình là bài thơ “Tây Tiến”. Thi phẩm ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”,
được ra đời năm 1948, do Quang Dũng muốn ghi lại những kỉ niệm, những niềm thương, nỗi
nhớ dành cho đoàn binh một thời gắn bó của mình.

“Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn”, nhận
định đã đề cập đến một vẻ đẹp rất riêng của “Tây Tiến” đó là tính nhạc. “Nhạc điệu” ở đây
không phải một bộ môn nghệ thuật riêng rẽ mà nhạc ấy là nhạc điệu của thơ, là một sự biểu đạt
của ngôn ngữ, là vần điệu, sự hài thanh, sự sắp xếp câu chữ mang tính nhạc và dễ đi vào lòng
người. “Tây Tiến” là một thi phẩm “giàu nhạc điệu” không chỉ ở vần điệu, tiết tấu hài hòa, nhịp
nhàng, mà còn ở cảm xúc và tâm hồn của tác giả, của chủ thể trữ tình đang nhớ nhớ thương

8
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

thương về binh đoàn từng gắn bó. Như vậy nhận định của Hà Minh Đức khẳng định tính nhạc
trong bài thơ “Tây Tiến” - nhạc ở vần thơ, nhạc ở cảm xúc, tâm hồn.

Sau những dòng thơ gieo neo, trúc trắc nơi chặng đường hành quân gian khổ, “Tây
Tiến” ru ta trong nhạc điệu cất lên từ men say của tâm hồn người lính:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Trong toàn bộ thi phẩm, đây là lần thứ hai “đuốc” được liên tưởng đến “hoa” – nếu trong đêm
sương Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo như “hoa về
trong đêm hơi” thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản mường miền Tây, bút pháp lãng
mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi những liên tưởng
thú vị, đem đến sự náo nức, rạo rực trong lòng người, khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân
làng trở thành đêm hội tưng bừng, rộn rã. Đâu rồi những mệt nhọc, khó khăn? Đâu rồi những
mỏi mệt, hi sinh? Khung cảnh đêm liên hoan dường như đã xóa tan những điều đó. Ở đây cụm
từ “bừng lên” là một nét nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó đem đến ấn tượng về thứ ánh sáng
chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xóa đi cái tối tăm lạnh lẽo của núi rừng, thể hiện niềm vui
sướng, rạo rực trong lòng người. Người đọc còn có thể hình dung ra những ánh mắt ngỡ ngàng,
những gương mặt bừng sáng của các chiến sĩ, bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh lửa bập bùng
đêm hội, bừng sáng còn vì ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa của niềm vui trẻ trung,
lạc quan, ngọn lửa của tình yêu với con người và mảnh đất miền Tây. Cứ như thế, từng câu chữ
như những nốt trầm bổng trên khuông nhạc, dìu dắt tâm hồn người đọc đến với bao hình ảnh
ấn tượng:

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp”

Từ “kìa” và cụm từ nghi vấn “tự bao giờ” đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng
mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất
chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân nơi rừng già với núi cao, dốc

9
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

thẳm, sương dày, với mua rừng và thú dữ. Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng còn đưa
người đọc đến một cảm nhận thú vị khi liên tưởng tới câu thơ trước. Doanh trại bừng lên hình
như không chỉ vì ánh sáng của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ
miền Tây. Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mỹ lệ hóa trong xiêm áo
lộng lẫy và nét e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước một đoàn quân
“xanh màu lá”, duyên dáng hơn trước những người lính “dữ oai hùm”. Nét tương phản của cảm
hứng lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh.
Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, say đắm trước vẻ đẹp của những thiếu nữ miền Tây
e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu của núi rừng. Man điệu có thể hiểu là vũ
điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể là giai điệu mới mẻ của vùng đất lạ trong tiếng
khèn lên mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa nghệ sĩ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp,
người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm
thanh ngọt ngào, những đường nét duyên dáng trong đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu
bay bổng trong thế giới mộng mơ với những vẻ đẹp say người của phương xa đất lạ: “Nhạc về
Viên Chăn xây hồn thơ”. Câu thơ có tới sáu thanh bằng đã diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng
chơi vơi ấy. Nhịp điệu của bốn câu thơ như nhịp nhặt khoan, dìu dặt của tiếng khèn, gợi vẻ
khỏe khoắn, trẻ trung. Bốn câu thơ vừa chan chứa màu sắc, âm thanh, vừa ấm áp tình người.
Đó phải chăng là nhịp điệu của đời sống chiến khu và của tâm hồn những người lính trẻ.

Nhạc tính của “Tây Tiến” không chỉ đến từ những vần thơ rộn ràng tái hiện không khí
liên hoan mà còn nhẹ nhàng, bâng khuâng trong những câu từ của hoài niệm, của nỗi nhớ về
cảnh và người miền Tây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng
khuâng xa vắng trong nỗi nhớ tha thiết mênh mông về cảnh sắc và con người miền Tây Bắc.
Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn với người đi, nhưng đâu chỉ là nhắn với ai đó mà thực
ra nhà thơ đang để lòng mình hướng về Châu Mộc, hướng về núi rừng miền Tây trong một
chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của hoài niệm, nhớ nhung. Từ “ấy” vang lên

10
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

không chỉ là chỉ định về một buổi chiều sương đặc biệt mà còn mở ra những cung bậc da diết
của nỗi nhớ. Trong tiếng Việt, “ấy” là một đại từ chỉ định luôn đem đến sắc thái xa xôi, mơ hồ
cùng nỗi nhớ tiếc cho những danh từ đứng cùng với nó như thuở ấy, ngày ấy, người ấy. Và bây
giờ, khi đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng cũng nhắc về “chiều sương ấy” với bao nỗi
nhớ thương lưu luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều miền
Tây với cảnh, với người đã bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm. Chữ “ấy” bắt vần với chữ
“thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở
trong hoài niệm nhiều bâng khuâng.

Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là
nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ
chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một
lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những kỉ niệm trở về,
thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về cảnh và người. Câu hỏi thứ nhất hướng về những
hàng lau xám buồn bên bờ sông hoang dại: “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Nét đặc sắc trong
câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về “hồn lau” thay vì bờ lau, hàng lau hay rừng lau… Hoa lau
có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li li nên chỉ cần một chút gió rất
nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng của hoa lau trong chiều sương
nhạt nhòa, mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi đã khiến rừng lau như có
hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da
diết. Và hơn thế nữa, đối với Quang Dũng, hình ảnh “hồn lau” dường như đã trở thành đặc
trưng, biểu đạt cho một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa và giàu ý chí:

“Đâu đây đứt pháo xích kêu giòn

Liệt sĩ tên còn xanh núi non

Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt

Mà như lau sậy có linh hồn”

(“Pha Đin” - Quang Dũng)

Còn trong những cung bậc thiết tha của nỗi nhớ trong “Tây Tiến”, câu hỏi “Có thấy hồn lau
nẻo bến bờ” càng làm xao xác lòng người. Trong những năm tháng quá khứ, người chiến sĩ
Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phơ phất ngàn lau, lau

11
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

như linh hồn của rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sĩ trên đường hành quân. Nay người đã
đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, cảm giác về những bờ lau cô đơn nẻo bến
bờ khiến nỗi nhớ càng xúc động trong lòng người đã chia xa. Và cứ thế, “hồn lau” nhắc nhớ và
liên hệ tới tình cảm với con người, vẫn trong cấu trúc câu hỏi “có thấy”, “có nhớ”:

“Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Trong làn sương mờ của hoài niệm, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ
xa huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền độc mộc, vừa mềm mại,
duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ “hoa đong đưa”. Quang Dũng không viết hoa “đung đưa” mà
là hoa “đong đưa” vừa nhằm miêu tả sự duyên dáng của hoa trên dòng nước lũ vừa gợi tả tinh
tế dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của những sơn nữ miền sơn cước. Chi tiết “đong đưa” rất nhẹ, rất
nhỏ ấy nhưng đã góp phần làm nên nhạc điệu tâm hồn cho thi phẩm. Toàn bộ đoạn thơ là những
miêu tả, những liên tưởng, hoài niệm, nhớ mong của tác giả đối với thiên nhiên miền Tây đẹp,
lãng mạn, có sự giao hòa độc đáo tính họa và tính nhạc.

Như vậy, có thể thấy ý kiến của tác giả Hà Minh Đức hoàn toàn xác đáng. Những câu
thơ trong “Tây Tiến” không chỉ được khắc, chạm hình sắc, đường nét vào người và cành, mà
còn được tác giả phổ vào những nốt nhạc tinh tế. Nhạc điệu ấy thể hiện ở vần chân: “Bờ-đưa”,
vần lưng: “ấy- thấy”; ở điệp âm, điệp thanh: “Châu Mộc, độc, dòng, đong”.... Nhưng đây là
nhạc điệu được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc: “Giữa
chiến trường nhiều khi thay cho nhạc / là những tâm hồn có nhạc ở bên trong” (Phạm Tiến
Duật). Từ hình thức, câu từ đến nội dung, xúc cảm, đọc “Tây Tiến” và đặc biệt là hai khổ thơ
này, “ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng” (Xuân Diệu) và cảm được điệu nhạc cất
lên từ cuộc sống và trong tấm lòng của nhà thơ dành cho một thời kì gian khó và những người
đồng đội giờ đây đã chia xa.

Mỗi phần của bài thơ “Tây Tiến” đều mở ra những khung cảnh và hoài niệm khó quên
trong những vần điệu linh hoạt và tài tình. Những hình ảnh mộc mạc ấy dưới ngòi bút tài hoa
của nhà thơ, mỗi nét đậm nhạt với sự kết hợp cả cảnh và con người đều thật sống động. Tám
câu thơ của khổ hai đều vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ đẹp mĩ lệ,
thơ mộng, trữ tình. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển, giàu nhạc
điệu, “nhạc điệu của cuộc sống và tâm hồn”. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng

12
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

mạn của tác giả trong tổng thể bài thơ, để lại dấu ấn lâu bền trong trái tim bạn đọc. Bất giác ta
lại nhớ đến những vần thơ Giang Nam đã từng viết về thi phẩm này:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Sống mãi muôn đời với núi sông.”

ĐỀ 3: Phân tích về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau và từ đó nhận xét
về phong cách thơ của Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu, anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

(Trích “Tây Tiến” - Quang Dũng)

Bài làm

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà
thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có
nhụy”. Thật vậy, cái “nhụy sống” ấy đã nảy nở trong thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang
Dũng để rồi dâng hiến cho cuộc đời một bài ca thật đẹp về người lính Tây Tiến hào hùng, hào
hoa, lãng mạn và bi tráng, thể hiện rõ nhất phong cách thơ độc đáo của tác giả này:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

13
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở phương
diện thơ ca, Quang Dũng mang trong mình hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài
hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, in trong tập “Mây đầu ô”, được
viết vào một buổi chiều mưa lại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời đơn vị cũ chưa lâu. Với
cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa thành công hình tượng
người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Hình tượng người
lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng lại đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài
với bạn đọc nhiều thế hệ.

Chiến tranh đã qua đi, tấm áo hòa bình ấp ôm mảnh đất hình chữ S đã được nhiều thập
kỉ, đã hàn gắn được phần nào bao vết thương đớn đau, bao mất mát hi sinh của một thời lửa
đạn. Nhưng ngày hôm nay, trong nền hòa bình này, ta đọc lại “Tây Tiến” để một lần nữa nhớ
về thế hệ các anh, những người lính trẻ trung và dũng cảm, trong mạch nguồn nỗi nhớ khi xưa
của nhà thơ Quang Dũng. Bức tượng đài bằng thơ về các anh vẫn luôn sừng sững, sống mãi
những vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Nhà thơ dùng từ “đoàn binh” để khẳng định một lực lượng đông đảo, “đoàn binh” Tây Tiến là
đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân
hành quân của người lính, đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên
ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người lính đầu “không mọc
tóc”, da “xanh màu lá”. Ấy là sự ngụy trang đề phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là
sự tàn phá của bệnh tật, của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi
chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn sốt rét rừng, những lần
thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách
ý chí người lính trẻ như thế:

“Cuộc đời gió bụi pha xương máu

Đói rét bao lần xé thịt da

14
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!”

(“Lên Cấm Sơn” - Thôi Hữu)

Nhưng ở đây, giọng thơ “Tây Tiến” lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, viết về gian khổ, khó
khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm:
“dữ oai hùm”. Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô những
hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, vui tươi hóa của Quang Dũng về
những người đồng đội của mình. “Dữ oai hùm” là hình ảnh khẳng định tinh thần vượt lên trên
khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí
quyết tâm của những người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo rất
độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng thời phản ánh hiện thực
gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng,
cách viết đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu “không mọc tóc”, da
“xanh màu lá” với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, sức mạnh “dữ oai hùm”,
Quang Dũng đã đem đến những nét phác họa đầu tiên về người lính Tây Tiến rất hào hùng,
dũng cảm và lạc quan.

Khắc họa về đồng đội mình, Quang Dũng tiếp tục đem đến những hình ảnh chân thực,
không chỉ về đời sống mà còn về tâm hồn hào hoa, lãng mạn của các anh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt “trừng” của người lính Tây Tiến vẫn luôn hướng về
bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ

Bay đừng hòng khuất phục đời ta

Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy

Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”

15
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

(“Bài ca chim Chơrao” - Thu Bồn).

Quả thực ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời tuyên chiến trước quân
thù, rất oai phong, hào hùng. Và gửi theo ánh mắt của quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc
mộng chinh phu, giấc mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi đời
còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận, sẵn sàng gánh trên vai “món
nợ” núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và
khâm phục nhiều tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh khi cảnh
giác trước quân địch, khi cũng ấp ôm nỗi nhớ niềm thương về thị thành quê hương: “Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về Hà Nội với “dáng kiều thơm”, với hình ảnh những thiếu nữ
Hà thành duyên dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta chỉ có
thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ với xuất thân chủ yếu là thanh niên trí thức thủ đô, ra đi
theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy, tầm thường mà
là động lực để họ vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ. Không những vậy “dáng kiều
thơm” ấy còn một lần nữa đem đến màu sắc hiện thực cho câu thơ, Quang Dũng đã đem những
gì thật chất, đúng nhất về người lính Tây Tiến lên những trang thơ của mình. Ta cảm nhận và
trân trọng vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất đỗi hào hoa, lãng mạn ấy.

Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta vào nơi biên cương hẻo lánh rải rác những ngôi
mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng câu chữ cho thấy sự khốc liệt và hơn hết
là những đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa: “Rải rác biên cương mồ
viễn xứ”. Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy máu và mộ phần
để tiếp ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà không hề nao núng. Chính vì thế, Quang
Dũng sử dụng một loạt những từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm cho câu thơ trở
nên trang trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận chiến lừng
danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý tưởng của một thời đại mới “chẳng
tiếc đời xanh” – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt
giữa những sự vật: “chiến trường” - là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề, “đời xanh” - là
tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay đồng đội mình, những anh hùng Tây
Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ, thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”. Bên cạnh sự hào hùng là bi tráng. Với Quang Dũng, chết không bao giờ
là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh “áo bào thay chiếu”, ông đã bi tráng hóa cái chết của con
người, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính, “anh về đất” biến cái chết trở thành một sự nghỉ
ngơi sau những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi nhưng không hề

16
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

lụy. Cái chết của các anh, sự hi sinh của các anh luôn là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội,
đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ, âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng trọng:

“Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh

Trọn đời làm chiến sĩ vô danh”

(Thu Bồn)

Trở lại với những vần thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng không trốn tránh hiện thực mà đã khắc họa
sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người,
lay động thiên nhiên. Và “Sông Mã” được nâng tầm như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến
hết tất cả tội ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến: “Sông
Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm cuối cùng ấy là khúc tráng ca, là khúc nhạc thiêng tiễn
đưa anh linh của những người chiến sĩ về với cha ông, về với đất mẹ. Vẻ đẹp bi tráng về những
người lính Tây Tiến từ đó mà cứ vang vọng mãi trong tâm khản bạn đọc.

Một khổ thơ có thể được coi là đặc sắc nhất của thi phẩm “Tây Tiến” đã thể hiện rõ vẻ
đẹp phong cách thơ Quang Dũng. Đó là hồn thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa.
Thơ Quang Dũng hồn hậu, chân thực ở chỗ nhà thơ không né tránh những hiện thực tàn khốc,
đau thương của chiến tranh. Ngòi bút ấy cũng rất đỗi lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, đặc
biệt khi viết về hình ảnh những người lính Tây Tiến với sự trẻ trung, tinh thần bất khuất, sung
sức và bền lòng trước tiếng gọi của Tổ quốc. Với giọng thơ trang trọng, cảm xúc dạt dào, đôi
lúc lắng đọng, khắc khoải, bút pháp tả thực kết hợp với những hình ảnh bay bổng, lãng mạn,
nhà thơ Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp
hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Bức tượng đài ấy sẽ còn sống mãi trong văn chương
nghệ thuật, trong tấm lòng người yêu thơ và trong trái tim của lớp lớp thế hệ thanh niên sau
này.

Với tài năng văn học của mình, Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả
nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa, thương cảm. Những vần
thơ sáng ngời vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng của người lính cũng đã góp phần
khẳng định chất riêng trong phong cách thơ của tác giả. Quang Dũng đã làm sống lại trong
lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Từ đó giúp ta thấu hiểu hơn vẻ
đẹp của những người lính trong thời chiến, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu
hơn giá trị của hòa bình ngày hôm nay, để ta trân trọng hơn những cống hiến không màng danh

17
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

lợi, những hi sinh không kể đáp đền. Đọc lại “Tây Tiến” ấy, trong những ngày hòa bình này,
ta thực sự thấm thía và cảm phục:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông”.

(Giang Nam)

ĐỀ 4: Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

- Mình về mình có nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
(Trích “Việt Bắc”, Tố Hữu)
Qua đó, hãy bình luận về sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình trong thơ Tố
Hữu.

Bài làm

Có một người nghệ sĩ đã từng tâm sự trong thi phẩm của mình:

“Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu…”

Cũng là thi sĩ ấy, khi sắp phải lìa xa với cuộc đời, đã cất tiếng thơ sâu lắng:

18
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Tạm biệt đời ta yêu quý nhất

Còn mấy dòng thơ, một nắm tro

Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất

Sống là cho. Chết cũng là cho.”

Hào sảng là vậy nhưng cũng nặng nghĩa nặng tình là vậy, đó không ai khác ngoài người nghệ
sĩ, người chiến sĩ cách mạng Tố Hữu. Cứ như thế, bao trang thơ hay cũng chính là trang sử vẻ
vang, trang cách mạng hào hùng mà Tố Hữu chấp bút đã đi vào lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tiêu
biểu trong số đó không thể không kể đến “Việt Bắc”, thi phẩm ra đời nhân một sự kiện lịch sử
trọng đại, là kết tinh của phong cách thơ trữ tình - chính trị, là thứ văn chương cách mạng “chí
nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc…” (Xuân Diệu). Thi phẩm đã ghi dấu ấn trong
lòng bạn đọc ngay từ những câu thơ đầu tiên mà qua đó sự hài hòa giữa chất chính trị và chất
trữ tình được thể hiện sâu sắc:

“- Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Những câu thơ thiết tha, bồi hồi được chấp bút bởi người nghệ sĩ, người chiến sĩ cách
mạng Tố Hữu. Ông là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách
mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng
là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính
nhà thơ. Xuân Diệu từng nhận xét rằng: “...Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình rất đỗi

19
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

trữ tình...” Minh chứng cho điều này phải kể đến bài thơ ‘‘Việt Bắc’’ trong tập thơ cùng tên.
Tác phẩm được hoàn thành khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Bán đảo Đông Dương được ký kết
(tháng 7 năm 1954). Hòa bình trở lại, tháng 10 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ
quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà
Nội. Trong không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay với Việt Bắc, Tố Hữu đã chắp bút
viết nên thi phẩm này. “Việt Bắc” như một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng,
về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Là nhà cách mạng, nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như một nhà
thơ “kể chuyện”, một nghệ sĩ chuyên viết “tình ca”. Tình cảm gắn bó với đồng bào Việt Bắc
trong những năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây đã trở thành niềm trăn trở trong Tố Hữu.
Có lẽ cũng bởi vậy mà giây phút chia ly giữa người đi kẻ ở đã được tái hiện vô cùng chân thực
và sinh động:

“- Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”

Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại – đồng bào Việt Bắc. Trước khoảnh khắc chia tay đầy lưu
luyến với cán bộ Cách mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình mà cất thành tiếng tỏ
bày. Câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp về tình cảm của cán bộ cách mạng: “Khi về đến
thủ đô Hà Nội rồi, liệu có còn nhớ đến chúng tôi hay không?”. Chữ “về” nghe sao mà tha thiết,
bâng khuâng đến thế. Điểm rơi thấp nhất của câu thơ khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một
khoảng hụt hẫng trong tâm hồn giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng
năm cách mạng, vậy mà cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình – ta” – cách xưng hô
thắm thiết yêu thương gợi nhớ những khúc hát tình nghĩa trong ca dao dân ca. Nhắc đến “mình
- ta” là nhớ tới:

“Mình về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

Là không thể quên:

“Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ

20
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu thơ ba chữ rành rành

Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình

Chữ trung thì để phần cha

Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình”

Với cách xưng hô “ta” – “mình”, dường như Tố Hữu đã đem tất cả kí ức yêu thương tình nghĩa
để phổ vào cuộc chia tay Việt Bắc giữa đồng bào kháng chiến với đồng bào chiến khu. Cuộc
chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại bỗng ùa về trong dáng dấp của cuộc biệt li giữa
những đôi lứa yêu nhau. Bao ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết vừa để
dò hỏi, vừa để tỏ bày nỗi nhớ niềm thương đang đong đầy cõi lòng. Đây cũng là thời điểm phù
hợp để người ở lại nhắc nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm. "Mười lăm năm", nghe vừa
xa xôi, vừa gần gũi. Tố Hữu đã rất tinh tế khi sử dụng chữ “ấy” để cá nhân hóa khoảng thời
gian này. Đây là khoảng thời gian đã chứng kiến biết bao kỷ niệm trong chiến đấu, trong sinh
hoạt của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Và đặc biệt thay, đó cũng là mốc thời gian
nhắc nhớ về cội nguồn cách mạng. Cách sử dụng từ ngữ của Tố Hữu thật đặc biệt, nói về tình
cảm của những người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc mà lại sử dụng tính từ: “thiết
tha, mặn nồng.” Đây vốn là những từ ngữ thường sử dụng cho tình cảm của đôi lứa, uyên ương.
Vậy mới thấy được chất trữ tình nồng đượm trong tứ thơ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Chế
Lan Viên – người bạn thơ đồng thời đã từng đưa ra nhận xét về thơ Tố Hữu như sau: “Thơ là
đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực
nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân
bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý”.
Đọc “Việt Bắc” chúng ta càng thêm thấm thía nhận định này. Chưa dừng lại ở đó, người ở lại
tiếp tục tỏ bày:

“Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.”

Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhớ người đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi nhắc người đi
về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về với Hà Nội của đèn đường, phố thị, những
cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người quên đi hay không. Từ “nhìn” được
điệp lại hai lần mang theo lời nhắn nhủ thiết tha, “nhìn cây” – “nhớ núi” – nhớ về thiên nhiên

21
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông – nhớ nguồn”- nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn Cách
mạng. Giống với Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình, nói
hộ biết bao trái tim về những cung bậc trước khi chia xa:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Việt Bắc bây giờ đã trở thành một phần ký ức không thể nào quên với cán bộ cách mạng. Càng
nhìn lại càng thấy nhớ, thấy thương. Điều này còn được thể hiện rõ hơn qua lời tâm sự của Tố
Hữu: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.”

Nếu như bốn câu thơ đầu cho ta thấy tình cảm thiết tha, trìu mến của người ở lại dành
cho người ra đi thì ở bốn câu thơ tiếp theo chính là lời đáp trả của người ra đi. Đối với người
ra đi, cảm xúc chủ đạo bây giờ là xuyến xao, bồi hồi, bâng khuâng khó tả:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

“Tiếng ai”, là tiếng của ai thiết tha khiến cho lòng ai bâng khuâng, bồn chồn không nỡ cất bước
ra đi? Những vần thơ bịn rịn khiến người đọc cũng thấy xao xuyến theo. Mặc dù tác giả đã bỏ
ngỏ phần chủ ngữ nhưng đọc câu thơ, ta vẫn hiểu được ai là người rối bời bao cảm xúc trong
tâm trí. Có lẽ trong giây phút ấy, kẻ ở người đi chỉ có thể “Cầm tay nhau biết nói gì hôm
nay…”. Dấu ba chấm bị bỏ lửng thay cho bao điều muốn nói. Xúc động và nghẹn ngào, hẳn là
trong giây phút này có không ít người đang rưng rưng nước mắt. Lúc gian khó ở bên nhau, giờ
hòa bình độc lập lại phải xa nhau. Tình nghĩa sắt son, mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi
cũng đến lúc phải chia ly. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là những người dân miền núi, Tố
Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này càng thể hiện sự gần gũi, giản dị giữa quân và
dân miền núi. Họ không cùng một quê hương, nhưng chung một đất nước, có thể lý tưởng sống
của mỗi người cũng khác nhau nhưng một khi đã gặp nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm
lăng, trong lòng họ không ai bảo ai đều chung một niềm tin chiến đấu, chiến đấu đến cùng đập
tan quân giặc.

22
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Màu chàm sắc áo là màu của bền bỉ, của tình nghĩa, sự nồng hậu, thủy chung từ con
người Việt Bắc. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ người dân Việt Bắc và bởi
vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc
với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm" dường như tác giả muốn nói đến tình cảm
thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn
tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...".
Trước tiên là hành động "cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi
chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở
người đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Trong giây
phút chia ly đầy lưu luyến, người đi người ở bao nhiêu mối vương bận tơ lòng chưa thể ngỏ
cùng nhau, chỉ một ánh mắt trao đi là đủ. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt lặng
không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay
đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác
thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ
mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn
tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.

“Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”, đó là những gì Xuân
Diệu nhận xét về thơ ca của người chiến sĩ, thi sĩ này. Và qua tám dòng thơ đầu của “Việt Bắc”,
ta đã thấy được sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình ấy. Đoạn thơ đã đề cập đến một
sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn với cả dân tộc: Trung ương Đảng và chính phủ rời căn cứ địa
Việt Bắc để trở về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Cuộc chia tay giữa “mình”
và “ta” trong đoạn thơ thực chất là cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với người cán bộ
kháng chiến, góp phần thể hiện mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa cách mạng với quần chúng
nhân dân. Đây là một tình cảm lớn lao, mang tính chính trị, nó khác với những tình cảm riêng
tư, cá nhân. Cảm hứng chủ yếu của đoạn thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm biết ơn sâu
sắc với Đảng, Bác Hồ, với căn cứ địa Việt Bắc. Không chỉ vậy, kỉ niệm được nhắc đến là kỉ
niệm về một thời cách mạng, một vùng cách mạng mà “mình” và “ta” đã cùng nhau trải qua
“mười lăm năm ấy”... Tất cả đó đem đến chất chính trị rất đỗi cao cả cho đoạn thơ. Nhưng bên
cạnh đó, cái hay của Tố Hữu là ở chỗ hòa quyện được chất chính trị với chất trữ tình, dù chỉ
trong tám dòng thơ ngắn ngủi. Đoạn thơ được viết với kết cấu đối đáp giữa “mình” và “ta”
trong một cuộc chia tay quyến luyến bịn rịn. Đó là cách xưng hô thân mật thường thấy trong
ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu đôi lứa, nghe sao mà tha thiết, bâng khuâng. Tiếng
nói trữ tình tha thiết của người đi - kẻ ở đã gieo vào lòng người đọc sắc thái của một cuộc chia

23
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại nhưng lại ùa về trong dáng dấp của cuộc biệt li giữa đôi
lứa yêu nhau. Như vậy, bằng hình ảnh ẩn dụ giản dị mà sâu sắc, thể thơ lục bát thiết tha bồi
hồi, lời thơ duyên dáng, ngọt ngào, Tố Hữu đã mở ra trước mắt người đọc cuộc chia li giữa
người đi kẻ ở, giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ Cách mạng, biết bao lưu luyến, ân tình nhưng
cũng là biết bao tự hào về trang sử vẻ vang của dân tộc. Chất chính trị và chất trữ tình đã cùng
hòa quyện, hài hòa và thống nhất trong một hồn thơ - Tố Hữu.

Tiếng lòng của người ra đi và người ở lại vẫn còn âm vang đâu đây, gieo vào lòng người
bao xúc cảm nhớ nhung và yêu mến trước nghĩa tình sâu nặng, tha thiết ấy. Lời hỏi cũng đồng
thời là lời đáp, lời khẳng định, lời nhắn gửi ân tình giữa cán bộ chiến sĩ về xuôi với người dân
Việt Bắc. Chia tay là khoảnh khắc, ra đi là tất yếu nhưng khoảng thời gian “mười lăm năm ấy”,
sự hòa quyện độc đáo giữa chất chính trị và chất trữ tình ấy sẽ mãi luôn thường trực trong tiềm
thức, ấp ủ trong trái tim mỗi người, để dù khoảng cách về thời gian, không gian có xa đến đâu
thì “Việt Bắc” vẫn luôn sống mãi trong lòng người dân, người chiến sĩ cách mạng và trong
lòng bạn đọc mọi thế hệ về sau. Cũng giống như lời hứa sắt son năm ấy mà người đi kẻ ở vẫn
hoài mong và nhắc nhớ:

“- Nước trôi, lòng suối chẳng trôi

Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non

Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.”

(“Việt Bắc” - Tố Hữu)

ĐỀ 5: Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết:

“Ta về mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

24
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Rừng thu trăng rọi hòa bình


Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
(Tố Hữu, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 111)
Hãy phân tích đoạn thơ trên để thấy được vẻ đẹp của bức tranh từ bình về cảnh vật và
con người Việt Bắc.

Bài làm

Tố Hữu từng tâm niệm: “Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã đầy”. Chính những
niềm thương nỗi nhớ đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi dòng thời gian
lại trào ra trong nhung nhớ vô vàn. Và đối với Tố Hữu, “Việt Bắc” chính là sự rung động ấy.
Bài thơ là kết tinh của mười lăm năm thiết tha mặn nồng” giữa cán bộ cách mạng và nhân dân
Việt Bắc. Trong dọc dài của nỗi nhớ và niềm rung động thiết tha ấy, khung cảnh thiên nhiên
và con người Việt Bắc qua bốn mùa đã được Tố Hữu khắc họa thật đặc sắc và nổi bật qua
những câu thơ:

“Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Tố Hữu được mệnh danh là cây đại thụ của nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Thơ Tố
Hữu tiêu biểu cho phong cách trữ tình chính trị với một giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết,
mang đậm cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi. Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của
ông, “Việt Bắc” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Tác phẩm ra đời khi sau chín năm
trường kỳ kháng chiến chống Pháp, tháng 10 năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cơ
quan Trung ương Đảng rời Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Sự kiện đó đã khép lại một thời kỳ vẻ
vang và lật sang một trang mới cho lịch sử dân tộc. Trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa các
chiến sĩ cách mạng với đồng bào Việt Bắc, tiếng thơ Tố Hữu cất lên vừa âm vang, rộn ràng lại
vừa xúc động, xao xuyến. Bài thơ thể hiện tình cảm bịn rịn, nhớ thương trong buổi chia tay
đồng thời cũng là lời nhắc nhở về truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.

“Việt Bắc” mang kết cấu đối đáp của một cuộc chia tay giữa người ra đi và người ở lại.
Sau những hoài niệm về ngày tháng cùng nhau đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi giữa chiến
sĩ và đồng bào Việt Bắc thì giờ đây, những hoài niệm tươi đẹp không thể nào quên trong lòng

25
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

những chiến sĩ cách mạng chính là cảnh và người Việt Bắc. Tất cả được khắc họa qua mười
câu thơ như một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, thần tình. Tranh tứ bình là một loại hình nghệ
thuật phổ biến trong hội họa trung đại. Đó là một bộ tranh gồm bốn bức miêu tả bốn phương
diện của một đối tượng nào đó. Tranh tứ bình giúp cho người nghệ sĩ thâu tóm được những nét
thần thái nhất của một đối tượng đồng thời khám phá đối tượng từ nhiều phương diện. Trong
bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã miêu tả vẻ đẹp của cảnh vật và con người Việt Bắc qua bức
tranh tứ bình tương ứng với bốn mùa trong năm.

Mở đầu đoạn thơ, tác giả sử dụng cách xưng hô đầy gần gũi, thân thương:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Cặp đại từ nhân xưng “mình”-“ta” là cách đối đáp quen thuộc của tình yêu đôi lứa, vợ chồng.
Bằng cách gọi này, tác giả đã biến cuộc chia tay chính trị giữa cán bộ và người dân Việt Bắc
như cuộc chia tay của đôi lứa yêu nhau đầy bịn rịn, lưu luyến. Điệp từ “nhớ” lặp lại hai lần
diễn tả nỗi nhớ dâng trào mãnh liệt không kìm nén được, một lần nữa lại nhấn mạnh cảm xúc
chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ thương da diết. Tâm trạng người ra đi như càng được đậm tô
hơn bằng gam màu nỗi nhớ, thể hiện qua điệp ngữ “ta về” nhấn mạnh sự tiếc nuối, không nỡ
rời xa. Rằng thời khắc chia tay đã điểm, người cán bộ cách mạng lưu luyến chia xa với đồng
bào hay chính là phần đời đi trước đã sớm tối quen với đời sống kháng chiến gian lao nay phải
nói lời tạm biệt ân tình với phần đời sau mai này về với thủ đô Hà Nội. Nhưng dù là lời chia
tay cất lên từ ai, ở khoảnh khắc nào thì nỗi nhớ vẫn luôn là cung bậc cảm xúc tha thiết nhất. Ở
đây là “nhớ hoa cùng người”. “Hoa” là biểu tượng cho cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, còn
“người” được coi là “hoa của đất” theo như cách nói của dân gian: “Người ta là hoa đất”, kết
hợp với từ “cùng” như càng khẳng định rõ hơn sự gắn kết, hòa quyện giữa thiên nhiên và con
người nơi rẻo cao Tây Bắc này.

Và cứ thế, ngòi bút người nghệ sĩ viết thơ mà như cầm cọ vẽ nên bức tranh tứ bình mộc
mạc, sinh động. Tố Hữu chọn mùa đông là mùa khởi đầu cho tứ thơ:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

26
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Khắc họa lại mùa đông Việt Bắc, có lẽ chính Tố Hữu đã chọn thời gian của hiện tại, trong
khoảnh khắc chia ly đầy nhớ nhung bịn rịn để viết về vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây,
theo mạch cảm xúc, nhà thơ nhớ lại kỉ niệm của một thời gian khó. Câu thơ đầu tiên sử dụng
bút pháp chấm phá, nổi bật trên nền xanh rộng lớn của núi rừng là màu đỏ của hoa chuối và
màu vàng của những đốm nắng. “Hoa chuối đỏ tươi” như đốm lửa ấm áp, lan tỏa hơi ấm tới
những nẻo đường rừng, khe suối, mùa đông Việt Bắc từ ấy mà chẳng còn lạnh lẽo, u buồn. Sự
ấm áp ấy có lẽ chỉ ở Việt Bắc, một Việt Bắc trong lòng Tố Hữu mới có được, khác với cái giá
lạnh, cô đơn mà trước nay đã trở thành đặc trưng của mùa đông:

“Mùa đông lạnh gió lùa qua phên cửa

Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn

Cây trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ

Ai có về tôi gửi áo len cho”

(Việt Phương)

Mùa đông của thiên nhiên mang đặc điểm rét và lạnh. Nhưng mùa đông trong lòng người cán
bộ và nhân dân thì ấm áp nghĩa tình. Nếu như câu lục khắc họa một khung cảnh núi rừng bao
la thì câu bát ngay sau đã đem đến hình ảnh trung tâm, nổi bật trên nền thiên nhiên ấy: “Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Giữa khoảng không gian mênh mông vô tận, hình ảnh con
người lao động hiện lên đầy kiêu hãnh. Nhà thơ không chỉ miêu tả chi tiết mà nhanh mắt chớp
lấy một hình ảnh thần tình nhất. Đó là khoảnh khắc khi ánh sáng của mặt trời chiếu xuống lưỡi
dao gài ngang lưng. Con người bây giờ, như một điểm hội tụ của ánh sáng giữa núi rừng đại
ngàn mênh mông, giữa lá xanh và hoa đỏ. Trong nỗi nhớ về khung cảnh Việt Bắc, mùa đông
không lạnh lẽo mà ấm áp vô cùng. Nơi núi cao, nơi đại ngàn, mùa đông không hoang vu, không
tàn tạ thê lương mà chan hòa hơi ấm tình người.

Đông qua xuân tới, đất trời cũng có sự đổi thay:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Hoa mơ - tín hiệu mùa xuân dễ thấy nhất ở núi đồi Việt Bắc. Khung cảnh choáng ngợp sắc
trắng được vẽ ra chính là tín hiệu đầu tiên báo hiệu mùa xuân về cùng với đồng bào. Mùa xuân

27
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tới mang theo bao điều tốt lành, mùa xuân là mùa của khởi sự, là mùa của sinh sôi, là mùa bắt
đầu cho một năm mới sức khỏe và may mắn. Người ra đi quả thực đã lựa chọn hình ảnh rất tiêu
biểu khi nhớ về mùa xuân Việt Bắc. Phép đảo ngữ “trắng rừng” là một tín hiệu nghệ thuật độc
đáo giúp cho nhà thơ thể hiện tinh tế về khoảng không gian ngập tràn sắc trắng tinh khôi. Thêm
vào đó, từ “nở” được đặt ở giữa câu thơ khiến người đọc dễ dàng liên tưởng tới hình ảnh của
một bông hoa đang bung từng cánh thắm. Hoa mơ nở trắng thời gian ngày xuân, nở trắng không
gian núi rừng Tây Bắc. Ta ngỡ như trước mắt giờ đây là cả một khu vườn mơ đang nở rộ, làm
bừng giác quan của con người. Thơ Tố Hữu lúc nào cũng khỏe khoắn, mãnh liệt, sục sôi như
thế, là “trắng rừng”, là “ngày xuân mơ nở trắng rừng”, là “trắng rừng biên giới nở hoa mơ”
(“Theo chân Bác”), chứ không nhẹ nhàng, chỉ là “trắng điểm”, điểm xuyết như trong thơ xưa:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

(Nguyễn Du)

Trong cái nền của một không gian với sắc trắng tinh khôi và tràn trề nhựa sống, ta bắt gặp hình
ảnh con người: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh con người Việt Bắc mùa
xuân gắn liền với công việc lao động hăng say và ý nghĩa, làm nên những chiếc nón gửi tặng
người chiến sĩ khi mưa nắng mỗi ngày. Chi tiết “chuốt từng sợi giang” bên cạnh việc miêu tả
sự chau chuốt, tỉ mỉ của người lao động còn là chi tiết tiêu biểu cho bàn tay khéo léo, cho tâm
hồn tài hoa của đồng bào Việt Bắc đã làm nên vẻ đẹp bao đời. Với giọng điệu tâm tình Tố Hữu
viết và những tình cảm của nhà thơ này để lại, hình ảnh người Việt Bắc chuốt bao nhiêu sợi
giang là bấy nhiêu sợi tình trao gửi. Ý thơ thật hay làm sao!

Mùa xuân sức sống đang tràn trề và tiếp nối ngay sau là mùa hạ rực rỡ, sáng tươi:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Tố Hữu tài lắm, và cũng tình lắm. Nhà thơ bắt được những cảnh đẹp nhất và cũng là đặc trưng
nhất của mỗi mùa. Và mùa hạ nơi rẻo cao Tây Bắc làm sao thiếu được tiếng ve ngân. Không
chỉ thuần nhất gợi tả màu sắc nữa mà đến đây, không khí mùa hạ đã rộn ràng hơn bởi âm thanh.
m thanh tiếng ve là một tín hiệu quen thuộc báo hiệu hè về. Nó tạo nên một khúc nhạc rừng
rộn rã tưng bừng, náo nhiệt, làm cho không gian rừng núi náo nức một sức sống mới. Cách

28
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

miêu tả của Tố Hữu như mở ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên sinh động, ta có
cảm giác như tiếng ve ngân đến đâu thì rừng phách “đổ vàng” đến đó. Là bàn tay tạo hóa diệu
kì hay ngôn từ tài hoa đã nhuốm màu cho cảnh vật? Toàn bộ khung cảnh thiên nhiên như đột
ngột chuyển sang sắc vàng qua động từ “đổ”. Ấy là sắc vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng
bừng, đầy sức sống. Ấy cũng có thể là chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa. Động
từ “đổ” trong câu thơ được diễn tả rất tinh tế và chính xác. Nó diễn tả sự nhanh chóng, đột ngột
của cảnh sắc thiên nhiên khi hè về. Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Hà: “Chữ “đổ” vừa
gợi sự chuyển biến mau lẹ của màu sắc, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi
có ngọn gió thoảng qua vừa thể hiện chính xác hè sang. Tác giả đã dùng âm thanh để gọi dậy
màu sắc, dùng không gian để gọi dậy thời gian. Bởi vậy cảnh vừa thực nhưng cũng vô cùng
huyền ảo.” Với cách sử dụng từ ngữ chính xác, giàu liên tưởng, bức tranh thiên nhiên mùa hạ
được đánh giá là đặc sắc nhất trong bộ tranh tứ bình. Độc đáo và đặc sắc là vậy nhưng bức
tranh hè về cũng không nằm ngoài thứ tự miêu tả từ thiên nhiên đến con người: “Nhớ cô em
gái hái măng một mình”. Gọi là “cô em gái” - một cách gọi thể hiện sự trân trọng, yêu thương
trìu mến của tác giả với đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự
chăm chỉ, chịu thương chịu khó. Hoạt động “hái măng một mình” cũng giúp cân bằng lại sự
rực rỡ, rộn ràng của mùa hạ, kéo không khí trở lại với mạch cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ -
nỗi nhớ.

Nếu ba bức tranh trước được tác giả khắc họa vào ban ngày thì bức tranh mùa thu lại
được miêu tả vào ban đêm:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Hình ảnh vầng trăng là một hình ảnh quen thuộc và trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế
hệ nhà thơ, đặc biệt trong thời kì cách mạng:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”

29
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

(“Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh)

Còn ở đoạn thơ này, hình ảnh ánh trăng được miêu tả giữa không gian rừng núi, ánh trăng như
ẩn như hiện dưới những vòm cây vừa gợi lên vẻ đẹp trong trẻo, vừa lung linh, lại huyền ảo.
Ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng núi rừng Việt Bắc, đó là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui,
hạnh phúc và tự do. Trong không gian ấy, tiếng “ai” ngân nga khúc hát “ân tình thủy chung”.
Từ “ai” được dùng để phiếm chỉ, “ai” đó có thể là người thiếu nữ đứng hát dưới trăng, đó cũng
có thể là cả đất trời, nhân dân Việt Bắc. Con người say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành,
có tấm lòng “thủy chung”, nặng “ân tình”. Tiếng hát ấy vừa gợi nhắc những kỷ niệm của người
ra đi và người ở lại vừa như lời nhắn nhủ, mong muốn người ra đi không quên những kỉ niệm
của năm tháng gian lao, nhưng đồng thời cũng là lời ước nguyện, khẳng định của người ra đi
về đạo lý sống ân tình, thủy chung. Chính vì vậy ở vị trí kết thúc của bức tranh tứ bình, tiếng
hát ấy như ngân nga, vang vọng mãi trong không gian, trong lòng người.

Bức tranh tứ bình về Việt Bắc được Tố Hữu khắc họa đầy ấn tượng với những màu sắc
tươi sáng, ấm áp, âm thanh rộn rã. Mùa nào cũng đẹp, cũng đằm thắm, tinh tế. Vẻ đẹp thiên
nhiên Việt Bắc và con người đan cài, hòa quyện làm cho tình yêu Việt Bắc càng nồng nàn, nỗi
nhớ Việt Bắc càng thêm da diết. Thể thơ lục bát ngọt ngào, điệp từ “nhớ” nhấn mạnh cung bậc
tình cảm chủ đạo, kết hợp cùng những từ ngữ giản dị, đượm nghĩa đượm tình, cấu trúc đan xen
câu lục tả cảnh câu bát tả người đã đem đến một đoạn thơ đặc sắc, đẹp cả về ý nghĩa nội dung
và nghệ thuật biểu hiện.

Những vần thơ của Tố Hữu đã ghi lại chân thực và sinh động biết bao về cảnh sắc thiên
nhiên và con người nơi quê hương Cách mạng. Thật đẹp và cũng thật tình! Bạn đọc sẽ còn nhắc
nhớ mãi về những mùa đông, mùa xuân Việt Bắc, hay những cô em gái, những “hoa cùng
người” đặc sắc và ân tình nơi đây, sẽ còn trân trọng mãi những vần thơ trữ tình chính trị độc
đáo, “thứ văn chương chí nghĩa chí tình”, “thứ văn chương nên thơ nên nhạc” của người nghệ
sĩ tài hoa Tố Hữu.

ĐỀ 6: Phân tích hai đoạn thơ trong thi phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu. Từ đó anh/chị hãy
nêu cảm nhận về quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến công vang dội của quân và
dân ta thời kì kháng chiến chống Pháp.

Ta đi, ta nhớ những ngày


Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
30
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng


Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Bài làm

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà thơ Tố Hữu được biết tới là một trong những
đại diện tiêu biểu của mảng thơ ca cách mạng. Mỗi bước chuyển mình của lịch sử, Tố Hữu đều
ghi dấu ấn của mình với bạn đọc bằng những tập thơ xuất sắc. Nhà thơ mang trong mình giọng
thơ trữ tình chính trị, có thể viết về những sự kiện lịch sử quan trọng nhưng lại bằng giọng thơ
thủ thỉ, tâm tình. Một trong những thi phẩm tiêu biểu cho đời thơ Tố Hữu đó là bài thơ “Việt
Bắc” - đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Qua hai đoạn thơ về cuộc sống của quân
và dân tại chiến khu và về đoàn quân ra trận trong thi phẩm này, mỗi người trong số chúng ta
sẽ cảm nhận rõ hơn về quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến thắng của quân và dân thời
kì chống Pháp để từ đó thêm yêu, thêm tự hào hơn về một thời quá khứ hào hùng của dân tộc.

31
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Chặng
đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy
gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những
chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.
Xuân Diệu từng nhận xét rằng: “...Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình rất đỗi trữ tình...”
Minh chứng cho điều này phải kể đến bài thơ ‘‘Việt Bắc’’ trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm
được hoàn thành khi Hiệp định Genève về Bán đảo Đông Dương được ký kết (tháng 7 năm
1954). Hòa bình trở lại, tháng 10 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan trung
ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Trong
không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay với Việt Bắc, Tố Hữu đã chắp bút viết nên thi
phẩm này. “Việt Bắc” như một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến.

Cuộc sống của quân và dân ta tại chiến khu Việt Bắc những năm tháng gian khổ ấy được
Tố Hữu khắc họa qua những câu thơ: “Ta đi, ta nhớ những ngày… đều đều suối xa…” thật
ngọt ngào, sâu lắng. Bốn dòng thơ đầu là lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại.
Giọng thơ tha thiết, chân thành gợi lên bao nỗi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ của “ta”
và “mình”:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Nếu người ở lại hỏi “mình đi có nhớ những ngày” thì người ra đi hồi đáp: “Ta đi ta nhớ những
ngày”. “Những ngày” ở đây là cách nói chỉ thời gian gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi
kẻ ở. Đó là nỗi nhớ về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” với bao ân tình cao đẹp. Mười
lăm năm “ta” đã cùng “mình” gánh vác giang sơn, chịu đựng bao gian khổ, thiếu thốn; đã cùng
nhau đi qua bao biến cố; mười lăm năm ấy giờ đã thành máu thịt trong nhau rồi. Bốn chữ “mình
đây, ta đó” gợi lên mối quan hệ gắn bó khăng khít, gần gũi, sát cánh vai kề như “đây” với “đó”.
Nhà thơ Tố Hữu còn khéo léo đưa vào trang thơ của mình âm hưởng dân gian qua thành ngữ
“đắng cay ngọt bùi” giàu sức gợi. “Đắng cay ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư vị, bốn giai
âm của cuộc sống. “Đắng cay ngọt bùi” cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm trong cuộc

32
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đời mà “ta” và “mình” đã cùng nhau trải qua. “Đắng cay” là để chỉ những gian khổ, mất mát,
hi sinh; “ngọt bùi” chỉ niềm vui, hạnh phúc, vinh quang. Nếu như có người từng cảm thán “Có
mối tình nào đậm sâu hơn mối tình Tổ quốc” thì đến đây ta cảm nhận được một mối tình cũng
đậm sâu và gắn bó thân thiết, là tiền đề cho mối tình với Tổ quốc thiêng liêng - ấy là mối tình
quân dân. Nghĩa tình đó còn được Tố Hữu thể hiện thật sâu sắc qua hình ảnh: “chia củ sắn lùi”,
“bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, sự kết hợp ba động từ “chia-sẻ-đắp” đã cụ thể hoá tình
đoàn kết, hữu ái giai cấp, gắn bó sâu sắc, chân thành giữa cách mạng và nhân dân. Có thể chưa
biết đến khi no ấm đủ đầy, con người ta có còn trọng nghĩa trọng tình và cùng nhau gắn bó hay
không, chỉ biết rằng trong gian khó mà đồng cam cộng khổ để vượt qua, trong thiếu thốn mà
sẻ chia cho nhau từng miếng ăn, manh chiếu, tấm chăn thì ấy chính là tri kỉ. Tình cảm ấy thân
thương mà đáng trọng quá đỗi.

Nỗi nhớ trải dài qua khắp núi rừng Việt Bắc rộng lớn, để rồi quy tụ về những kỷ niệm
mà trước hết là nhớ người mẹ nuôi Việt Bắc đã hết lòng vì cán bộ chiến sĩ:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng đến thiên nhiên Việt Bắc
vô cùng khắc nghiệt. Nắng thì đến cháy lưng, mà rét thì như cắt da cắt thịt. Hai chữ “cháy lưng”
nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Các động từ “địu
con”, “bẻ từng” cũng gợi lên sự tần tảo, cần cù lao động, vất vả gian khổ của bà mẹ nuôi trong
kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản ngại
thời tiết khắc nghiệt, dữ dội “nắng cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao động. Hai chữ
“bẻ từng” gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao động, mẹ đang chắt chiu, dành dụm từng
hạt bắp làm lương thực nuôi quân. Người mẹ - một biểu tượng đẹp đẽ cho quê hương, cho
nghĩa tình nhân dân mà ta cũng đã bắt gặp trong vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Ngủ ngoan
a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi / Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ đội / Con mơ cho mẹ hạt gạo
trắng ngần / Mai sau con lớn vung chày lún sân...” (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ). Đó là những ân tình không thể nào quên trong ký ức của người về.

Đoạn thơ sau đó sử dụng phép liệt kê và điệp ngữ “nhớ sao” để làm sống dậy những kỷ
niệm, những sinh hoạt ở Việt Bắc. Điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “nhớ sao” khiến
cho nỗi nhớ như mênh mang, như trải dài vô tận. Đó là kỷ niệm với lớp học bình dân học vụ –

33
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nơi cán bộ dạy chữ cho nhân dân vùng cao; nhớ những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng
đầy náo nức, tưng bừng:

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”

Nhớ những ngày tháng hoạt động cách mạng:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.

Gian nan và vất vả nhưng tinh thần mỗi chiến sĩ, quân quân thì luôn vui vẻ. Câu thơ “gian nan
đời vẫn ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời sống vật chất gian khổ và tinh thần luôn
lạc quan, yêu đời. Dù có khó khăn đến đâu thì vẫn cứ “ca vang núi đèo”. Đến cả những âm
thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi khiến cho mỗi chiều, mỗi đêm khuya
càng thêm thao thức:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Hai câu thơ cuối gợi nhớ vẻ đẹp thanh bình của núi rừng Việt Bắc. Tiếng mõ rừng chiều gợi
hình ảnh từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản làng, tiếng mõ vang vọng, rộn
ràng cả buổi chiều sơn cước. Mỗi đêm khuya thanh vắng, tiếng chày giã gạo từ suối xa vẫn đều
đều vỗ về trong giấc ngủ.

Đoạn thơ gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân
của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm
tình. Tình quân dân luôn là sức mạnh tinh thần làm nên chiến thắng. Đoạn thơ cũng đã khơi
dậy kỷ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn bền chặt với bao vất vả gian lao thiếu thốn nhưng
luôn đầy lạc quan, tin yêu. Qua đó người về cũng tự nhắc nhở mình đừng quên cội quên nguồn.

Biết bao gian khó đã trải qua, sức lực và lòng quyết tâm đã bao đêm dài nung nấu, cuộc
chiến quyết định cũng đã đến. Tố Hữu đã viết nên một khúc ca hùng tráng về con người kháng
chiến và cuộc kháng chiến qua bức tranh Việt Bắc ra quân. Ở đoạn thơ này, nhà thơ dẫn người
đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng với không gian núi rừng rộng lớn, với

34
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức.
Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng; đồng thời khơi dậy sức
sống mạnh mẽ của thiên nhiên, con người Việt Bắc cùng sức mạnh vô địch của khối đoàn kết
toàn dân kháng chiến.

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Ở ngay câu thơ đầu, Tố Hữu đã khẳng định “của ta” tiếng nói vang lên một cách đầy khảng
khái, chắc nịch, hùng hồn. Vào năm 1938, anh thanh niên trẻ lúc bấy giờ vừa mới bắt đầu gặp
lí tưởng của bản thân mình thì Tố Hữu vẫn luôn xưng “tôi”, chữ “tôi” ấy mang đậm sắc thái cá
nhân của ông. Nhưng bây giờ, ngay tại vần thơ này, Tố Hữu đã sử dụng “của ta”. Chàng thanh
niên trẻ ngày nào bây giờ đã hòa nhập cuộc đời của mình vào cái ta chung của toàn dân tộc, đã
hoà nhập sứ mệnh của bản thân vào sử mệnh của dân tộc. “Việt Bắc” là những con đường trong
suốt cuộc chiến tranh được mở ra để phục vụ chiến đấu. Nhưng cũng có khi con đường ấy
mang ý nghĩa tượng trưng, là ý nghĩa quá trình đi lên của cuộc kháng chiến cách mạng. Con
đường ấy mở lối chiến công, và cũng là con đường ấy dẫn tới sự độc lập, tự do của tố quốc.
Con đường máu lửa ấy đã trở thành con đường chiến thắng của Việt Bắc. Vì thế nên ấn tượng
chung về sức mạnh dân tộc đã được gắn liền với ấn tượng về con đường chiến thắng này.
Không những thế sức mạnh của quân và dân ta còn được đo bằng thước đo sông núi. Từ láy
“đêm đêm”, “rầm rập” thể hiện sự lặp đi lặp lại những âm thanh lớn, đồng loạt, vang dội kết
hợp sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “như là đất rung”. Với từ "rầm rập" đặc sắc, cuộc ra trận
của quân ta bỗng trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:

“Xuân hãy xem! Cuộc diễn binh hùng vĩ

Ba mươi mốt triệu nhân dân

Tất cả hành quân

Tất cả thành chiến sĩ”.

(“Chào xuân 67” - Tố Hữu)

Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh
thơ mang đậm màu sắc thần thoại.

35
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Tiếp tục, hai câu thơ tiếp theo cũng là khúc hùng ca về đoàn quân ra trận với khí thế và sức
mạnh ngút trời:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Hai từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” đi liền ở hai câu thơ rất có sức gợi tả. Nó gợi lên hình ảnh
của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn quân. Đó
là một sự lớn mạnh của quân đội trước kẻ thù trong thời điểm lúc bấy giờ, quân và dân ta có
thể đương đầu và đáp trả, đập tan mọi hành động của kẻ thù. Hình ảnh ánh sao đầu súng là một
hình ảnh tràn đầy hiện thực nhưng cũng rất đỗi lãng mạn. Đó có thể là ánh sao trời đang toả
sáng, soi vào đầu súng thép của những người chiến sĩ đang bận rộn trong đêm tối, ánh sáng sao
ấy thật đẹp, thật lung linh. Và ánh sao ấy cũng có thể là ngôi sao trên mũ của con người cách
mạng. Ngôi sao ấy là biểu tượng cho ngôi sao trên lá cờ đầy màu máu của dân tộc Việt Nam.
Hình ảnh ấy càng khiến cho bất cứ ai nhìn thấy, cũng đều tin rằng, một chiến thắng sẽ đến vào
một ngày không xa. Mặt khác, hình ảnh “ánh sao đầu súng” còn biểu tượng cho lý tưởng cách
mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Đồng hành cùng với hình ảnh “đầu súng”, “ánh trăng”
đó là “chiếc mũ”. Chiếc mũ là cách nói hoán dụ về hình ảnh người lính nhưng cũng đồng thời
chỉ tầm vóc vươn lên, có thể chạm tới ánh sao trời. “Chiếc mũ” ấy cũng là ân tình, tình cảm
của đồng bào Việt Bắc gửi ra chiến trường.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Những chiếc mũ mang bao nhiêu ân tình được gửi lại cho những người chiến sĩ. Và ngay tại
hình ảnh này, họ đã nhận được món quà từ hậu phương thân yêu để rồi sử dụng nó trong công
cuộc chiến đấu của mình. Hình ảnh này đồng thời cũng thể hiện sự đồng hành giữa những con
người cùng chung lý tưởng mà chúng ta gọi bằng hai từ thân thương - đồng chí.

Trong bức tranh tổng hợp sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, “khúc hùng ca” đã lại
vang lên, đó là sức mạnh của dân công, sức mạnh của những con người đã cùng với bộ đội để
làm nên chiến thắng huy hoàng của dân tộc:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

36
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Những “dân công” đó là những con người xung phong lên phía trước, mở đường, xẻ núi, lăn
xe… Đó là cả một bộ phận quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến, góp một phần vào
chiến thắng của dân tộc ta. Trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu cũng đã từng
viết:

“Mấy tầng mây gió lớn mưa to

Dốc Pha Đin chị gánh, anh thồ

Đèo Lũng Lô anh hò chị hát

Dù bom đạn xương tan, thịt nát

Không sờn lòng, không tiếc nuối tuổi xanh”

Nói về kháng chiến chống Mĩ với hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong, hay các anh lính
lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, thì nhắc về chiến thắng Điện Biên Phủ ta cũng không thể
quên được hình ảnh những người dân công. Có những thời điểm mà họ phải hát lên những câu
hò kéo pháo bởi Việt Bắc rất hiểm trở, mà công việc họ làm lại rất đỗi khó khăn. Nhưng vì một
đất nước hoà bình, độc lập, họ đã phải cố gắng rất nhiều. Kết hợp tài tình biện pháp đảo ngữ,
không phải “Từng đoàn dân công đỏ đuốc” mà là “dân công đỏ đuốc từng đoàn”. Việc sử dụng
biện pháp tu từ ấy càng làm tăng lên sức mạnh, khí thế của đoàn dân công. Sự trùng điệp hàng
nối hàng, dài tít tắp những người dân công không thua kém bất cứ đội quân nào. Tuy họ không
nổi bật nhưng chiến công của họ lại lớn lao không kể xiết. Bằng một cách nói cường điệu “bước
chân nát đá”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu nước, yêu lý tưởng cách mạng, ý chí quyết
tâm đánh thắng quân thù của người nông dân lao động. Người nông dân lao động là lực lượng
góp phần rất lớn để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này.

Bên cạnh đó, “khúc hùng ca” dù kể về sức mạnh của đội quân và nhân dân Việt Bắc,
nhưng cũng nói về niềm tin bất diệt vào chiến thắng của đất nước:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

37
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Hình ảnh thơ thật hùng vĩ và sự hùng vĩ ấy đã được đo bằng thước đo ánh sáng của chiến thắng.
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” là cụ thể hoá những năm tháng đêm trường nô lệ của dân
tộc. Đất nước ta đã hơn một nghìn năm phải khổ sở, gồng mình, cố gắng chiến đấu. Nhưng đến
câu thơ này, mọi u ám, bóng đen đó đã bị xua đi, nhường chỗ cho ánh sáng tương lai. Đó chính
là sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật giá trị to lớn, ý nghĩa lớn lao của nghìn
đêm kháng chiến. “Bật sáng” là một động từ mạnh, trong đêm tối, ánh sáng được bật lên đột
ngột. Khoảnh khắc ấy bao trùm lên vạn vật xung quanh, xua tan bóng tối. Đó là khoảnh khắc
chói lòa của dân tộc. Mới hôm nào, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rừng sâu, núi thẳm
hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ "thăm thẳm sương dày" để có giờ phút bừng sáng quật khởi
đầy niềm tin chói lọi này. Hình ảnh so sánh chân thực, khẳng định một niềm tin tất thắng vào
lí tưởng và cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta. Niềm vui nối tiếp niềm vui, những tin vui chiến
thắng dồn dập, liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức lòng quân và dân, "đèn pha bật
sáng" để chiếu rọi hình ảnh nhân dân Việt Nam anh hùng trên vũ đài thế giới với những chiến
thắng lẫy lừng:

"Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"

Điệp từ “vui" được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng
này kế tiếp đợt sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng quân
dân cả nước. Hàng loạt các địa danh gắn với chiến thắng vang dội được liệt kê liên tiếp: Hòa
Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, Đèo De, Núi Hồng,... Những chiến
thắng nối tiếp những chiến thắng, chiến thắng sau còn giòn giã hơn cả chiến thắng trước trải
rộng khắp mảnh đất hình tia chớp. Nghe trong câu thơ có cái hào sảng, có niềm tự hào của
những chiến thắng lừng lẫy. Chỉ bằng mười hai câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa được một bức
tranh cả dân tộc ra trận thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống dậy một thời kì hào hùng
của dân tộc ở căn cứ địa Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công "lừng lẫỵ năm châu chấn
động địa cầu" mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Trong mỗi
giai đoạn của cuộc kháng chiến, hình ảnh đồng bào, nhân dân luôn đồng hành cùng bộ đội ta,
đóng góp vật chất và sức lực để làm nên chiến thắng lịch sử cho dân tộc.

38
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Cả hai đoạn thơ về cuộc sống của quân và dân tại chiến khu Việt Bắc và bức tranh đoàn
quân ra trận đều là những gì gắn bó, thân thuộc, là chất keo gắn kết người lính với mảnh đất
Tây Bắc thân thương- sự gắn bó quân và dân, trong sinh hoạt, chiến đấu. Tuy mỗi đoạn mang
một màu sắc riêng, giọng điệu một bên rất đỗi thân mật ấm áp diễn tả tình quân dân nồng đượm,
một bên lại hào hùng khí thế diễn tả hào khí quân dân ra trận nhưng tất cả đều nói lên sự gắn
bó keo sơn của quân và dân, thể hiện tình đoàn kết nồng đượm ân nghĩa.

Những dòng thơ Tố Hữu chắp bút đã gợi cho ta những cảm nhận sâu sắc về quá trình
sống, chiến đấu và làm nên chiến công vang dội của quân và dân ta thời kì kháng chiến chống
Pháp. Trong quá trình ấy, quân và dân rất đỗi thân mật từ trong chiến đấu đến những ngày
tháng sinh hoạt. Hai đoạn thơ khắc họa vẻ đẹp trong thời chiến bằng khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn. Với việc sử dụng các biện pháp điệp âm, điệp thanh hiệu quả, Tố Hữu đã
vẽ lên vẻ đẹp của con người Việt Nam một thời kì đạn lửa. Để làm nên chiến thắng vang dội
năm châu, chấn động địa cầu, quân và dân ta đã phải trải qua những năm tháng gian lao, vất
vả, nếm mật nằm gai. Trên tất cả, tình quân dân, ý chí chiến đấu kiên cường, quyết tâm đánh
bại kẻ thù xâm lược đã đưa dân tộc ta đến ngày chiến thắng. Vẻ đẹp của những con người Việt
Nam ra trận đánh quân thù dẫu biết rằng chỉ toàn mưa bom bão đạn, sự sống tính bằng từng
phút từng giây, đó là vẻ đẹp của những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra, bước ra từ trang
sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Chặng đường nhiều khó khăn nhưng rất đỗi huy hoàng ấy
đã được Tố Hữu khắc họa bằng những vần thơ thiết tha, hào sảng và đậm ân tình, mang đậm
dấu ấn của một thời hoa lửa đã qua.

Qua hai đoạn thơ về cuộc sống của quân và dân tại chiến khu Việt Bắc và khung cảnh
đoàn quân ra trận đã khắc họa rõ nét bức tranh quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến công
vang dội của nhân dân ta thời kì kháng chiến chống Pháp. Với những gì Tố Hữu thể hiện trong
tác phẩm, ông xứng đáng được mệnh danh là “Nhà thơ của lẽ sống cách mạng”, “Nhà thơ của
Tổ quốc Việt Nam”, là “hồn thơ của dân tộc”. “Việt Bắc” của Tố Hữu vừa là khúc hùng ca vừa
có ý nghĩa biểu tượng ca ngợi tinh thần yêu nước, quân dân đoàn kết một lòng, lại vừa là khúc
tình ca về cách mạng, về con người kháng chiến trong sự yêu thương, gắn bó chia sẻ ngọt bùi
bên nhau. Tác phẩm xứng đáng trở thành một bài ca bất hủ trong văn học dân tộc viết về tình
yêu quê hương, đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay để thế hệ trẻ nhìn vào, sẽ thấy ý
thức, trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc – nơi hòa bình, độc lập được đánh đổi bằng máu
xương.

39
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ĐỀ 7: Trình bày cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của quân và dân ta trong kháng chiến
chống Pháp qua đoạn thơ sau:

Những đường Việt Bắc của ta


Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
(Trích “Việt Bắc” - Tố Hữu)

Bài làm

“Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới”
(Targo). Mỗi tác phẩm thơ ra đời không chỉ là tiếng lòng của tác giả mà còn kết tinh ở đó cái
hồn của dân tộc, dù đậm đà hay là sự kín đáo gửi gắm. Phải chăng vì thế mà khi đọc thơ Tố
Hữu người đọc lay động trước từng câu chữ, sáng tạo độc đáo nhưng thấm nhuần hương sắc
đất Việt. Nhà thơ với “tình cảm và trái tim trần” ấy đã kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, thấm
nhuần tư tưởng cách mạng lớn lao để đem đến những trang thơ ngọt ngào, bình dị nhưng cũng
căng tràn niềm tin, khí thế. Và “Việt Bắc” chính là đỉnh cao của đời thơ Tố Hữu. Trong bài
thơ, bạn đọc luôn ấn tượng sâu sắc với vẻ đẹp của quân và dân ta thời kì kháng chiến chống
Pháp, thể hiện qua đoạn thơ:

“Những đường Việt Bắc của ta

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

40
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam và ông cũng được biết tới với
chặng đường thơ song hành cùng chặng đường cách mạng. Mang trong mình giọng thơ trữ tình
chính trị, ông luôn viết về những sự kiện trọng đại của dân tộc trong lịch sử bằng giọng điệu
thủ thỉ, tâm tình. Là một nhà thơ gắn cả cuộc đời mình cùng với chặng đường cách mạng và
luôn tin tưởng vào tương lai đất nước, Tố Hữu đã để lại cho nền văn học Việt Nam rất nhiều
những tác phẩm và một trong số đó, bài thơ được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống
Pháp và cũng được coi là đỉnh cao của đời thơ Tố Hữu chính là bài thơ “Việt Bắc” . Bài thơ
được sáng tác vào năm 1954, lúc quân và dân ta dành được chiến thắng Điện Biên Phủ - lẫy
lừng năm châu chấn động địa cầu. Đó cũng là thời điểm ta buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm
phán và ký hiệp định Giơ-ne-vơ, buộc Pháp rút quân khỏi Việt Nam. Và cũng là lúc cán bộ
cách mạng, cơ quan đầu não Trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc để trở về với thủ đô Hà
Nội - thủ đô sao vàng, nắng Ba Đình. Có lẽ, vì bài thơ được sáng tác vào sự kiện mang tính
lịch sử này và cũng có lẽ, phút chia tay ấy, bao cảm xúc dâng trào đã khiến người đọc chỉ nghe
một lần mà nhớ mãi không quên.

Nhắc đến Việt Bắc, nhắc đến Điện Biên Phủ, thì cũng không thể thiếu hình ảnh những
người lính và dân quân đồng lòng chung sức kháng chiến. Mở đầu đoạn thơ, ta bắt gặp hình
ảnh những con đường ra trận:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Ở ngay câu thơ đầu, Tố Hữu đã khẳng định “của ta” tiếng nói vang lên một cách đầy khảng
khái, chắc nịch, hùng hồn. Vào năm 1938, anh thanh niên trẻ lúc bấy giờ vừa mới bắt đầu gặp
lí tưởng của bản thân mình thì Tố Hữu vẫn luôn xưng “tôi”, chữ “tôi” ấy mang đậm sắc thái cá
nhân của ông. Nhưng bây giờ, ngay tại vần thơ này, Tố Hữu đã sử dụng “của ta”. Chàng thanh
niên trẻ ngày nào bây giờ đã hòa nhập cuộc đời của mình vào cái ta chung của toàn dân tộc, đã
hoà nhập sứ mệnh của bản thân vào sử mệnh của dân tộc. “Việt Bắc” là những con đường trong
suốt cuộc chiến tranh được mở ra để phục vụ chiến đấu. Nhưng cũng có khi con đường ấy
mang ý nghĩa tượng trưng, là ý nghĩa quá trình đi lên của cuộc kháng chiến cách mạng. Con
đường ấy mở lối chiến công, và cũng là con đường ấy dẫn tới sự độc lập, tự do của tố quốc.
Con đường máu lửa ấy đã trở thành con đường chiến thắng của Việt Bắc. Vì thế nên ấn tượng
chung về sức mạnh dân tộc đã được gắn liền với ấn tượng về con đường chiến thắng này.
Không những thế sức mạnh của quân và dân ta còn được đo bằng thước đo sông núi. Từ láy

41
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“đêm đêm”, “rầm rập” thể hiện sự lặp đi lặp lại những âm thanh lớn, đồng loạt, vang dội kết
hợp sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “như là đất rung”. Trong những năm tháng ấy, quân và
dân ta thực hiện chiến lược lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm. Tuy phải hoạt động vào ban
đêm nhưng những bước chân của họ vẫn rất mạnh mẽ, không sờn, không mỏi. Đó chính là sức
mạnh của dân tộc Việt Nam, khí thế chiến đấu thần kì làm rung chuyển đất trời mà không có
gì có thể ngăn cản được:

“Nước Việt Nam từ trong biển máu

Người vươn lên như những thiên thần”

Tiếp tục nối trước hai câu thơ trên, hai câu thơ tiếp theo cũng là vẻ đẹp tràn đầy khí thế
khi Việt Bắc xuất quân

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Hai từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” đi liền ở hai câu thơ rất có sức gợi tả. Nó gợi lên hình ảnh
của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn quân. Đó
là một sự lớn mạnh của quân đội trước kẻ thù trong thời điểm lúc bấy giờ, quân và dân ta có
thể đương đầu và đáp trả, đập tan mọi hành động của kẻ thù. Hình ảnh ánh sao đầu súng là một
hình ảnh tràn đầy hiện thực nhưng cũng rất đỗi lãng mạn. Đó có thể là ánh sao trời đang toả
sáng, soi vào đầu súng thép của những người chiến sĩ đang bận rộn trong đêm tối, ánh sáng sao
ấy thật đẹp, thật lung linh hệ như ánh trăng của thơ Tố Hữu:

“Đầu súng trăng treo”

Và ánh sao ấy cũng có thể là ngôi sao trên mũ của con người cách mạng. Ngôi sao ấy là biểu
tượng cho ngôi sao trên lá cờ đầy màu máu của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy càng khiến cho
bất cứ ai nhìn thấy, cũng đều tin rằng, một chiến thắng sẽ đến vào một ngày không xa. Mặt
khác, hình ảnh " ánh sao đầu súng " còn biểu tượng cho lý tưởng, cách mạng, là ý chí đánh giặc
của người lính. Đồng hành cùng với hình ảnh “đầu súng”, “ánh trăng” đó là “chiếc mũ”. Chiếc
mũ là cách nói hoán dụ về hình ảnh người lính nhưng cũng đời thời chỉ tầm vóc vươn lên, có
thể chạm tới ảnh sao trời. “Chiếc mũ” ấy cũng là ân tình, tình cảm của đồng bào Việt Bắc gửi
ra chiến trường.

42
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Những chiếc mũ mang bao nhiêu ân tình được gửi lại cho những người chiến sĩ. Và ngay tại
hình ảnh này, họ đã nhận được món quà từ hậu phương thân yêu để rồi sử dụng nó trong công
cuộc chiến đấu của mình. Hình ảnh này đồng thời cũng thể hiện sự đồng hành giữa những con
người cùng chung lý tưởng mà chúng ta gọi bằng hai từ thân thương - đồng chí.

Trong bức tranh tổng hợp sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, “khúc hùng ca”
đã lại vang lên, đó là sức mạnh của dân công, sức mạnh của những con người đã cùng với bộ
đội để làm nên chiến thắng huy hoàng của dân tộc:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Những “dân công” đó là những con người xung phong lên phía trước, mở đường, xẻ núi, lăn
xe… Đó là cả một bộ phận quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến, góp một phần vào
chiến thắng của dân tộc ta. Trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu cũng đã từng
viết:

“Mấy tầng mây gió lớn mưa to

Dốc Pha Đin chị gánh, anh thồ

Đèo Lũng Lô anh hò chị hát

Dù bom đạn xương tan, thịt nát

Không sờn lòng, không tiếc nuối tuổi xanh”

Nói về kháng chiến chống Mĩ với hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong, hay các anh lính
lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, thì nhắc về chiến thắng Điện Biên Phủ ta cũng không thể
quên được hình ảnh những người dân công. Có những thời điểm mà họ phải hát lên những câu
hò kéo pháo bởi Việt Bắc rất hiểm trở, mà công việc họ làm lại rất đỗi khó khăn. Nhưng vì một
đất nước hoà bình, độc lập, họ đã phải cố gắng rất nhiều. Kết hợp tài tình biện pháp đảo ngữ,
không phải “Từng đoàn dân công đỏ đuốc” mà là “dân công đỏ đuốc từng đoàn”. Việc sử dụng

43
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

biện pháp tu từ ấy càng làm tăng lên sức mạnh, khí thế của đoàn dân công. Sự trùng điệp hàng
nối hàng, dài tít tắp những người dân công không thua kém bất cứ đội quân nào. Tuy họ không
nổi bật nhưng chiến công của họ lại lớn lao không kể xiết. Bằng một cách nói cường điệu “dấu
chân nát đá”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu nước, yêu lý tưởng cách mạng, ý chí quyết
tâm đánh thắng quân thù của người nông dân lao động. Người nông dân lao động là lực lượng
góp phần rất lớn để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này.

Bên cạnh đó, tác giả còn bày tỏ niềm tin bất diệt vào chiến thắng của đất nước:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng, như ngày mai lên”

Hình ảnh thơ thật hùng vĩ và sự hùng vĩ ấy đã được đo bằng thước đo ánh sáng của chiến thắng.
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” là cụ thể hoá những năm tháng đêm trường nô lệ của dân
tộc. Đất nước ta đã hơn một nghìn năm phải khổ sở, gồng mình, cố gắng chiến đấu. Nhưng đến
câu thơ này, mọi u ám, bóng đen đó đã bị xua đi, nhường chỗ cho ánh sáng tương lai. Đó chính
là sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật giá trị to lớn, ý nghĩa lớn lao của nghìn
đêm kháng chiến. “Bật sáng” là một động từ mạnh, đêm tối, ánh sáng được bật lên đột ngột.
Khoảnh khắc ấy bao trùm lên vạn vật xung quanh, xua tan bóng tối. Đó là khoảnh khắc chói
lóa của dân tộc. Chẳng ai có thể nghĩ rằng một đế quốc to lớn như Pháp lại bị đánh gục bởi đất
nước nhỏ bé như Việt Nam. Chính khoảnh khắc lá cờ tổ quốc tung bay trên cứ điểm A1, đó
chính là lúc Việt Nam tỏa sáng nhất, chiếu sáng bóng đen của chiến tranh.

Để rồi khi ngày mai hòa bình, khi mà :

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng…”.

Ta như nghe văng vẳng bên tai tiếng ca toàn thắng vọng về từ lịch sử, chiến thắng như trải dài
“trăm miền”, từ miền ngược đến miền xuôi, từ miền sâu thẳm trong trái tim mỗi con người
đang hướng về cách mạng. Điệp từ “vui” xuyên suốt bốn câu thơ như muốn lan tỏa và trào
dâng những cảm xúc vỡ òa của quân và dân ta ngày đó. Loạt địa danh nối tiếp nhau dồn dập

44
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

được xướng lên càng làm tăng không khí của ngày đại thắng. Đọc câu thơ, ta như cũng cảm
nhận được niềm vui sướng, hạnh phúc dâng ngập trong lòng.

Chỉ bằng đoạn thơ ngắn gọn nhưng Tố Hữu đã tôn lên vẻ đẹp của “Việt Bắc ra quân” -
một bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí thế. Đằng sau đó là bao khó khăn, hiểm nguy, gian khổ
nhưng chính tinh thần đoàn kết, đồng lòng của quân và dân, niềm tin và tình yêu nước mãnh
liệt đã giúp những con người ấy, trong ngày tháng hào hùng năm nào đã làm nên chiến thắng
vang dội. Thể thơ lục bát, kết hợp cùng những từ ngữ, hình ảnh đậm màu sắc kháng chiến,
giọng thơ sôi nổi, mạnh mẽ, tất cả đã tạo nên một trang thơ say đắm và hào hùng. Quả thật
“Việt Bắc” chính là đỉnh cao mà Tố Hữu đã bước lên” (Xuân Diệu).

Trang thơ “Việt Bắc” khép lại mà vấn vương miền đất ấy vẫn cứ quẩn quanh mãi trong
ta. Giống như Tố Hữu đã từng được mảnh đất ấy, những con người ấy làm cho mê đắm, yêu
thương là một phần gì đó neo đậu mãi trong tâm hồn người thi sĩ này thì có lẽ bản thân mỗi
người chúng ta cũng nên một lần đặt chân đến Việt Bắc để được sống, được cảm nhận, chiêm
nghiệm, được yêu thương, được nhung nhớ và hơn cả là được cùng ngân vang bài ca tự do của
con người, của thiên nhiên miền cực bắc Tổ quốc.

ĐỀ 8: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
(Trích Đất Nước, trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)
Từ đó bình luận về tư tưởng mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Bài làm

Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương
thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ...” Và ai đó cũng đã từng tự hỏi lòng:

45
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có
biết bao hồn thơ cất cánh. Với Nguyễn Đình Thi là hình ảnh của một đất nước đau thương, căm
hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp của đất nước “Tổ quốc tôi như
một con tàu, mũi tàu rẽ sóng Cà Mau”. Đặc biệt vào cuối năm 1971, từ chiến trường Bình Trị
Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài Đất nước qua trích
đoạn: “Đất nước” - Trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích này ghi dấu ấn trong lòng
bạn đọc với một tư tưởng mới mẻ về đất nước: “Đất nước của Nhân dân” được thể hiện qua
chín câu thơ đầu:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó…”

Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ nhà thơ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông xuất thân trong một gia đình trí
thức có truyền thống yêu nước, sớm tham gia cách mạng và từng bị địch bắt giam. Thơ ông có
sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất
nước. Kết tinh cho hồn thơ ấy phải kể đến “Đất Nước” - một trích đoạn thuộc chương V của
trường ca “Mặt đường khát vọng”, viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước
vào giai đoạn ác liệt. Bấy giờ, phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền
Nam ngày càng trở nên mạnh mẽ, sôi nổi tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh của
học sinh, sinh viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác
trường ca “Mặt đường khát vọng” để góp thêm tiếng thơ hay về đất nước, để lay động và thức
tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là của tuổi trẻ đối với quê hương, dân tộc.

Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu trích đoạn thơ của mình bằng lời hồi đáp cho câu hỏi:
“Đất nước có tự bao giờ?”:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Hai chữ “Đất Nước” vang lên trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Độc giả sẽ phát hiện một
điều khác lạ đó là xuyên suốt trong cả đoạn thơ này từ “Đất Nước” đều được viết hoa. Chia sẻ
về lý do tại sao lại trình bày như vậy, Nguyễn Khoa Điềm lý giải với ông đất nước không đơn

46
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

thuần là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là sinh thể có tâm hồn và với cách viết này cũng
đồng thời bài tỏ sự trân trọng của tác giả những tình cảm thành kính, thiêng liêng, trân trọng
dành cho đất nước. Điệp từ “Đất Nước” vang vọng suốt cả trường ca như một khúc nhạc thiết
tha gợi cảm xúc, đưa ta về một miền không gian nối dài từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Hai
từ thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm mà còn “làm bạn” với
rất nhiều thi sĩ khác:

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”

(Nguyễn Đình Thi)

hay

“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu.

Nghe dịu nỗi đau của mẹ.

Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ.

Các anh không về mình mẹ lặng im…”

(Tạ Hữu Yên)

Và đất nước cứ như thế trở thành một danh từ thiêng liêng trong trái tim của bất cứ ai, chỉ cần
trái tim còn đập trong lồng ngực nhỏ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về vấn đề chính luận,
thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô “ta” thể hiện nét tâm tình trò chuyện thân mật giữa
người con trai với người con gái, giữa “anh” và “em” về đất nước. Người con trai ở đây – “ta”
như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh
yêu. Tuy nhiên nếu mở rộng ý thơ, “ta” ở đây cũng có thể coi là tất cả mọi người, là một cách
nói bao hàm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trừu tượng, lớn lao
như đất nước nay trở nên gần gũi, rõ ràng, cụ thể. Điều này thể hiện rất rõ phong cách thơ trữ
tình – chính luận của tác giả. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước qua ba chữ: “đã

47
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

có rồi” khiến cho hình ảnh đất nước bỗng sừng sững, hiện hữu trong lòng người đọc. Theo cách
lý giải của Nguyễn Khoa Điềm thì “đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được
tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi
ta lớn lên đất nước đã có rồi!”. Lời khẳng định này thể hiện sự tự hào mãnh liệt về sự trường
tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất nước cũng như trời và đất, khi ta sinh ra đã có
đất và trời cũng như vậy, ta không biết được đất nước hình thành từ bao giờ, chỉ thấy hiện diện
xung quan ta với những gì thân thương nhất.

Những câu thơ tiếp theo tác giả triển khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra ở câu thơ
đầu: “Đất nước đã có từ rất lâu đời”. Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ của mỗi người lớn lên
trong những lời ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”

Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của đất nước. Bốn chữ “ngày xửa
ngày xưa” đưa chúng ta về một miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình ảnh của cô Tấm dịu
hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông bụt với những phép màu diệu kỳ giúp đỡ cho những
người ở hiền gặp nạn,.. Là người Việt, ai mà không biết tới những câu chuyện gắn liền với tuổi
thơ êm đềm đó. Và đất nước có trong những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước
khi những câu chuyện này có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi những câu chuyện
cổ có mặt trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước
trong đó. Là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện, cổ tích,
truyền thuyết. Chính những câu chuyện và lời ru thân quen thủa nào là nguồn sữa ngọt lành
nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng rất xúc
động khi viết về ý nghĩa của kho tàng truyện cổ:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm

Ở hiền thì lại gặp hiền

Người ngay thì được phật, tiên độ trì.

48
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Mang theo truyện cổ tôi đi

Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa

Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa

Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi.”

Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa” Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi ban đầu
ấy qua một nét sống giản dị trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta đó là phong
tục ăn trầu:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức câu thơ có
vẻ phi lí nhưng lại cực kỳ hợp lý xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao đều được bắt đầu
từ những điều nhỏ bé”. Câu thơ gợi nhắc về truyện cổ tích: “Sự tích trầu cau” được xem là câu
chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính
câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả
4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu
chuyện”. Trải qua thời gian đằng đẵng, miếng trầu trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời
sống tinh thần của người Việt: miếng trầu giao duyên, miếng trầu cưới hỏi,… Và từ đó, hình
ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:

“Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng”

(Hoàng Cầm)

Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước, Nguyễn Khoa
Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh
giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hai chữ “lớn lên” để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ gợi nhắc bạn đọc tới 2 hình
ảnh: cây tre và truyền thuyết “Thánh Gióng”. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ đối

49
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa
với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như:

“Tre xanh

Xanh tự bao giờ?

Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh

Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”

(Nguyễn Duy)

Người Việt Nam giống như những cây tre thẳng tắp, mạnh mẽ, kiên cường. Cây tre ấy cũng
gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường diệt
giặc n khỏi bờ cõi Việt:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân”

(Tố Hữu)

Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường,
bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái con trai sẵn sàng lên đường ra mặt
trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm
ấy và cả những năm tháng sau này, truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết
chảy trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta.

Cùng với đó, đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thuần phong mĩ tục tốt
đẹp. Nhà thơ đã đề cập đến tập tục bới tóc của người phụ nữ Việt Nam qua câu thơ:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu”

50
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc cho gọn
gàng. Lâu dần điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng.
Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới

Để chi dài cho rối lòng anh”

(Ca dao)

Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống, tình cảm
gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy của vợ
chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có
câu:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Muối và gừng vốn là những gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt Nam. Nguyễn Khoa
Điềm mượn câu ca dao, mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng để nói về tình yêu dài
lâu, nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo sơn của vợ và chồng để làm nên một gia
đình chan chứa hạnh phúc, yêu thương. Đó cũng là một truyền thống rất quý báu của nhân dân
ta.

Không chỉ vậy, Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc sống đời
thường. Cội nguồn của đất nước cũng được tác giả cảm nhận từ cách đặt tên giản dị: “Cái kèo,
cái cột thành tên”. Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt nguồn từ việc đặt tên cho những vật
dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, lấy tên của chính những vật dụng ấy để
gọi tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt đã quan niệm đặt tên cho con càng xấu thì càng dễ
nuôi. Hơn thế, là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam
cần cù, chịu khó, gắn với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm
nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá
trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp- nghề trồng
lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng
hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc

51
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng
phất lời ca dao, cũng là lời khuyên răn:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ lao động
của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào trong
hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm
hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.

Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước
với niềm tự hào mãnh liệt nhất:

“Đất Nước có từ ngày đó”

“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Ngày đó không biết chính xác là
ngày nào chỉ biết rất rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu đời. Từ khi có
những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những thuần phong mỹ tục,
truyền thống đánh giặc giữ nước và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ ngàn đời. Những
nét văn hóa đẹp đẽ nhất được Nguyễn Khoa Điềm đưa vào thơ mình một cách tự nhiên, chân
thật để cho mỗi người đọc hiểu rằng văn hóa chính là đất nước và chúng ta cần phải có trách
nhiệm hiểu biết, gìn giữ những giá trị cốt lõi này.

Chín dòng thơ không những thuyết phục bởi tư tưởng chính luận mà còn đi vào lòng
người bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Trong đoạn thơ, cấu trúc câu “Đất Nước đã có”, “Đất
Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” cho phép hình dung cả quá trình sinh
ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kì. Kết hợp với đó là điệp từ “có”
đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách
rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước
như một nét riêng không thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã thật khéo léo khi sử dụng cách nói giản
dị, tự nhiên, đậm đà màu sắc dân gian quen thuộc nhưng trong một thể loại hết sức mới mẻ -
thể loại trường ca.

Nhìn lại bao quát đoạn thơ, ta thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng cấu trúc tổng- phân -
hợp rất chặt chẽ. Đoạn thơ có sự hài hòa giữa chất trữ tình – chính luận, vừa được viết bằng

52
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

chiều sâu trí tuệ, văn hóa, vừa được viết bằng những rung động của cảm xúc, nên rất dễ đi vào
lòng người. Trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ khi nào?”, Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm
nghiệm là lựa chọn những chi tiết, hình ảnh hết sức thân thuộc, trong đời sống gia đình, đời
sống lao động cần lao hàng ngày, trong câu chuyện cổ và tình cảm giữa những người thân yêu
nhất. Lịch sử đất nước ta không được cắt nghĩa bằng những vương triều nối tiếp, những sự kiện
lịch sử trọng đại mà bằng đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn
truyền lại.

Như vậy, từ cội nguồn sâu thẳm của quá trình sinh ra, lớn lên và phát triển, đất nước đã
gắn liền với nhân dân. Do đó, tư tưởng mà chín dòng thơ thể hiện là tư tưởng “Đất nước của
Nhân Dân”- tư tưởng chủ đạo của đoạn trích, đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ
hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. Tư tưởng này không phải đến Nguyễn Khoa
Điềm mới có mà đã có một quá trình dài được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Lật
giở từng trang trong lịch sử dân tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất nước –nhân dân có nhiều
biến chuyển trong mỗi thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất nước gắn liền với kỷ niệm
quân vương: “Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” –Nguyễn Trãi.
Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai trò to
lớn của nhân dân đối với Đất nước.Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách cho vua: “muốn đánh
thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng khẳng
định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc
dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu nước như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng
đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh:
“Dân là nước, nước là dân”, đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng ta
phải biết lấy dân làm gốc” Dù ở thời đại nào, các nhà tư tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức
mạnh của nhân dân đối với Đất nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất nước đi suốt
cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, miền rộng, bờ cõi. Điều này, các
nhà thơ nhà văn hiện đại đã có ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc. Tuy nhiên, để tư tưởng “Đất
nước của Nhân dân” trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của
hình tượng Đất Nước, lại được cảm nhận một cách toàn diện sâu sắc trên nhiều bình diện, thì
đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm thực sự là một viên ngọc sáng.

Thành công khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa
chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng
chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái

53
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian
trong tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng là những câu tục ngữ ca dao, những làn
điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà
Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm và chọn lọc dựa trên vốn hiểu biết am tường và sâu rộng.

Chín câu thơ đầu trong trích đoạn “Đất Nước” của trường ca “Mặt đường khát vọng"
là sự khẳng định về một tư tưởng mới mẻ “Đất nước là của Nhân dân”, là lý giải hoàn hảo cho
những thắc mắc của đọc giả về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?” Một
cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình,
đều là những gì thuộc về đất nước hay sao? Và những câu hỏi thắc mắc về quê hương, đất nước
mình vẫn còn là những điều sẽ còn được nhắc hoài, nhắc mãi, để bạn đọc không ngừng tìm
kiếm những điều mới lạ ấy, sự thú vị ấy trong thơ văn:

“Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều"

ĐỀ 9: Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:

“Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

54
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)

Từ đó bình luận về phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

Bài làm

Giai đoạn những năm 1945-1975 là giai đoạn chứng kiến sự ra đời của biết bao tác
phẩm xuất sắc viết về đề tài đất nước. Trong đó nổi bật có Nguyễn Đình Thi với một đất nước
đau thương mà anh dũng trong thi phẩm “Đất nước”, có một Tạ Hữu Yên với hình tượng đất
nước buồn xót xa "thon thả giọt đàn bầu...đau nỗi đau người mẹ ba lần tiễn con đi, hai lần khóc
thầm lặng lẽ" trong “Đất nước tôi”, một Chế Lan Viên với hình tượng đất nước trầm ngâm,
lắng đọng thấm đượm hơi thở dân tộc trong “Thời sự hè 72 - Bình luận”... Và ấn tượng thay,
lại có một Nguyễn Khoa Điềm với hình tượng đất nước mang âm hưởng sử thi, bắt nguồn từ
những huyền thoại, một đất nước có quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại, một đất nước của
nhân dân và bắt nguồn từ nhân dân. Có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm mà tiêu
biểu đoạn trích:

“Nhưng em biết không

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Đó còn là một minh chứng cho phong cách thơ
trữ tình - chính luận đặc sắc của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ những
năm chống Mĩ, với phong cách thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc trữ tình

55
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- chính luận. Vũ Văn Sỹ từng nhận xét về hồn thơ này: “Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự đóng
góp vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình giàu chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi và cá tính,
một cây bút gắn kết được một cách tài hoa giữa vốn sống, vốn tri thức văn hóa và sự mẫn cảm
của một tấm lòng trước từng trang giấy”. Tấm lòng nhà thơ có khi nào nguôi yên trước vận
mệnh dân tộc, mỗi lần đặt bút viết là mỗi lần trái tim cuộn trào tình cảm thiết tha cùng sự suy
tư, trăn trở, triết luận chặt chẽ và thuyết phục. Minh chứng cho điều đó phải kể đến đoạn trích
“Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được
sáng tác năm 1971 tại chiến trường Bình Trị Thiên. “Đất Nước” được xem là đoạn thơ hay và
độc đáo về đề tài quê hương đất nước của thơ ca Việt Nam hiện đại. Độc đáo ở chỗ nhà thơ đã
tiếp cận đất nước từ nhiều phương diện nhưng nhất quán trong tư tưởng “Đất Nước của Nhân
dân”. Khẳng định, ngợi ca vai trò của nhân dân trong quá trình bảo vệ và dựng xây đất nước,
Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến những trang thơ thấm thía lòng người.

Trong tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước trước tiên là của những con người
vô danh nhưng tươi đẹp vô ngần. Chiêm nghiệm về đất nước từ phương diện lịch sử, nhà thơ
khẳng định vai trò lớn lao của nhân dân:

“Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Như một câu chuyện thủ thỉ tâm tình giữa “anh” và “em”, lời thơ nhẹ nhàng thấm thía trong ta
bước đi của thời gian với sự “sinh ra” và “lớn lên” của đất nước mình. Ở đó, “anh” kể “em”
nghe câu chuyện về “họ” - những con người “giống ta lứa tuổi”, vô danh thôi nhưng lại góp
công sức lớn lao để “làm ra Đất Nước”. “Sống” và “chết” chính là những bình diện quen thuộc
của mỗi con người, làm nên một cuộc đời. Nhân dân được đặt giữa hai bình diện ấy, cả “anh”
và “em” cũng vậy. Nhưng sống như thế nào cho thật sự có ý nghĩa, đấy mới là điều đáng quan
tâm. Và nhân dân đã sống thật “giản dị và bình tâm”, họ cứ thuần phác, đơn sơ, cần cù làm
lụng sau lũy tre làng, gắn bó thân yêu với những “ruộng đồng gò bãi” từ đời này sang đời khác,
không đòi hỏi, không cầu kì, không tính toán thiệt hơn. Họ cứ “lặng lẽ gánh vác phần người đi
trước để lại” rồi lại “dặn dò con cháu chuyện mai sau”. Để đến khi giã biệt cuộc đời bằng cái

56
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

chết bình thản trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian, năm tháng. Đó là một cuộc sống và
cái chết thật sự ý nghĩa. Ý thơ “Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm” nghe sao mà nhẹ
nhàng, thanh thản, giản đơn như một lẽ thường tình khi nhắc về nhân dân. Bình thường nhưng
rất đỗi phi thường, giản dị mà hết sức cao cả, mộc mạc mà trở nên kì vĩ, chính nhân dân đã tạo
dựng, gìn giữ đất nước trải qua bao thời đại:

“Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”

(“Không phải truyền thuyết” - Thanh Thảo)

Cứ thế, nhân dân sống cuộc đời giản dị, hồn hậu. Và cứ thế, nhân dân quật khởi trở thành những
anh hùng. Chính những con người đó đã làm nên đất nước. Điểm mới của Nguyễn Khoa Điềm
trong cái nhìn về đất nước qua thời gian lịch sử là đã thấy được vai trò không thể thay thế của
những con người bình dị, vô danh mặc dù “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ mới là
người “làm nên Đất Nước muôn đời”.

Nếu chỉ dừng lại ở phương diện lịch sử hay phương diện địa lí thì chưa thể có một khái
niệm hoàn chỉnh về đất nước. Do đó tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã được triển khai trên
bình diện thứ ba, bình diện văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm không khai
thác khía cạnh văn hóa theo hướng liệt kê những danh nhân: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn
Thị Điểm, .... mà tác giả đã tìm đến với những giá trị văn hóa của nhân dân, đó là vẻ đẹp của
tâm hồn người Việt:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”

Nhân dân đã có công bảo vệ và truyền lại cho con cháu đời sau những giá trị vật chất, tinh thần,
giúp hình thành và gìn giữ những giá trị đáng quý của đất nước. Điệp từ “họ” cùng với cách
nói: “họ giữ – họ chuyền – họ truyền – họ gánh…” cho thấy được sự đóng góp tích cực của
nhân dân vì sự phát triển của đất nước. Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất: là hạt lúa ta
trồng qua bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm bao căn bếp, là nguồn thủy nông,

57
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

vườn ruộng dồi dào cho con cháu đời sau “trồng cây hái trái”. Không chỉ vậy, họ còn mang
đến những giá trị tinh thần quý báu: họ “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, bảo vệ ngôn
ngữ dân tộc, họ để lại phong tục, tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.

“Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói

Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ

Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa

Óng tre ngà và mềm mại như tơ.”

(Lưu Quang Vũ)

Cội nguồn văn hóa chưa phải là những gì thiêng liêng, cao cả, mà trong tư tưởng của nhà thơ,
cội nguồn văn hóa trước tiên bắt nguồn từ chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, từ
những gì giản dị và thân thuộc nhất như: “giọng điệu”, “tên xã tên làng”...

Không chỉ vậy, nhân dân còn tạo dựng chủ quyền và truyền cho thế hệ sau truyền thống
yêu nước và đánh giặc. Nhân dân là những người không tiếc máu xương, sẵn sàng đứng lên
bảo vệ đất nước trước những biến động lịch sử và hiểm họa xâm lăng:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Dân ta có truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ bao đời nay, hết giặc Tàu 1000 năm lại đến giặc
Tây 100 năm. Ta lại lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi phát xít Nhật để đưa nước Việt Nam
đi đến độc lập thống nhất. Và hôm nay đây, trong chính thời khắc bản trường ca này ra đời, ta
đang chống lại đế quốc Mĩ xâm lược, lời thơ lại càng giục giã và khí thế hơn. Và sức mạnh
nhân dân sẽ là cơn sóng lớn để nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước ấy:

“Sức nhân dân xẻ núi lấp sông

Mồ hôi mặn nhòe bàn tay máu ứa

Con đường mở qua lòng dân rộng mở

Đường vươn dài, dân trải tấm lòng che…”

(Nguyễn Trọng Tạo)

Trận chiến ấy sẽ chiến thắng trong nay mai để mãi mãi:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

58
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu thơ như một chân lý được khẳng định rõ ràng với sự nhắc lại hai lần mệnh đề “Đất Nước
của Nhân dân”. Đến đây, cảm xúc dồn nén, suy ngẫm sâu xa đã bật lên thành vần, thành điệu,
thành chân lý muôn đời. Câu thơ kết tinh tư tưởng của toàn bộ bản trường ca, tư tưởng “Đất
Nước của Nhân dân” mà mỗi khi nhắc đến bạn đọc lại bồi hồi nhắc nhớ những câu thơ của
Nguyễn Khoa Điềm. Chỉ với hai câu thơ, một mệnh đề ngắn gọn nhưng nhà thơ đã xác lập một
tư tưởng quan trọng đã trở thành chân lý về cội nguồn, bản chất và động lực của đất nước. Từ
đó, mỗi chúng ta nhận thức được sợi dây gắn kết bền chặt giữa phần đời mỗi người với vận
mệnh của cả đất nước, dân tộc, cảm nhận được vai trò và trách nhiệm của bản thân trong công
cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước. Chưa dừng lại tại đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn trở về
với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca
dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn, tình cảm của nhân dân qua
bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất
của tâm hồn Việt, bản sắc Việt: thật say đắm trong tình yêu (Dạy anh biết “yêu em từ thuở
trong nôi”), quý trọng tình nghĩa (“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”) và kiên trì,
bền bỉ trong đấu tranh (“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy / Đi trả thù mà không sợ dài lâu”).
Truyền tải những ý niệm sâu sắc đó, Nguyễn Khoa Điềm chọn sử dụng thể thơ tự do mới mẻ
kết hợp cùng chất liêụ văn hóa và văn hoc dân gian thân thuộc. Cảm xúc thơ chân thành, tha
thiết, giọng điệu tâm tình cùng hệ thống ngôn từ, hình ảnh vừa gần gũi quen thuộc vừa mang
tính khái quát đã đem đến những trang thơ đặc sắc, hài hòa giữa chất chính luận và chất trữ
tình, ngọt ngào mà nhẹ nhàng lắng sâu trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ.

Đoạn trích trên đã thể hiện sự kết hợp nhuần nhị giữa hai yếu tố trữ tình và chính luận
trong hồn thơ tác giả. Nguyễn Khoa Điềm với giọng thơ giàu suy tư, vừa dạt dào chất trữ tình
vừa sâu lắng chất chính luận đã ghi dấu một phong cách thơ độc đáo giữa làng thơ chống Mĩ
biết bao phong cách đa dạng. Chất trữ tình nằm trong xúc cảm cá nhân được bộc lộ trong thơ,
thể hiện ở lối thơ tâm sự ngọt ngào đằm thắm giữa “anh” và “em”, thể hiện ở chất dân gian với
những hình ảnh thân thuộc, gần gũi, gợi cảm, là những “hạt lúa”, “hòn than”, “con cúi”, là
“giọng điệu”, “tên xã tên làng”,... vốn luôn hiện hữu quanh ta hàng ngày nay được đưa vào
trong thơ trở thành hình ảnh giàu biểu cảm và ý nghĩa. Kết hợp với đó là chất chính luận thể
hiện ở chiều sâu suy tư và cảm nhận của tác giả về tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, gắn
vận mệnh đất nước với số phận, trách nhiệm của những con người bình dị vô danh. Đó là một
quan điểm có tính thời sự, lớn lao nhưng cũng vô cùng bức thiết trong bối cảnh chiến tranh và
cả trong thời kì hòa bình. Phong cách thơ trữ tình - chính luận cứ thế được thể hiện đặc sắc và
rõ nét ở cả nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Nhìn nhận Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

59
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

từ sự kết hợp giữa hai yếu tố chính luận và trữ tình đã đem đến cho người đọc một góc nhìn
mới mẻ về đoạn thơ nói riêng và bản trường ca nói chung. làm cho tác phẩm có nội dung về
vận mệnh Tổ quốc, khơi dậy ý chí đồng bào nhưng lại hết sức uyển chuyển, không phải lời kêu
gọi giáo điều nhưng có sức tác động mạnh mẽ. Đây cũng là sáng tạo trong phong cách nghệ
thuật nổi bật của tác giả ở đoạn trích này nói riêng và thiên trường ca “Mặt đường khát vọng”
nói chung.

Hình tượng đất nước không phải lần đầu tiên xuất hiện trong thi ca, nhưng cách lý giải
về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại đem tới cho bạn đọc sự thú vị đến bất ngờ. Đó là hình
ảnh của một đất nước gần gũi, dung dị, giống như hình ảnh của những con người đã làm ra,
dựng xây và phát triển - nhân dân. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân" cũng không phải là tư
tưởng lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam, nhưng đây lại là tác phẩm cho người đọc
thấy được tư tưởng về đất nước của nhân dân chân thực và gần gũi nhất. “Họ đã sống và chết /
Giản dị và bình tâm / Không ai nhớ mặt đặt tên / Nhưng họ đã làm nên đất nước...” Những lời
ca ấy, thế hệ sau này sẽ hát hoài, hát mãi và khắc thật sâu trong trái tim, không chỉ bởi sự chân
thành từ trái tim tác giả với đất nước mà còn bởi một phong cách thơ độc đáo mang đậm tính
trữ tình – chính luận của Nguyễn Khoa Điềm.

ĐỀ 10: Phân tích đoạn thơ sau đây trong đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa
Điềm:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

Bài làm

60
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Ở sâu thẳm trái tim của mỗi con người, hình ảnh quê hương, đất nước chắc hẳn là một
điểm tựa cảm xúc không thể phai mờ, giống như ai đó đã từng nói: “Nếu mỗi người không
thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có
rễ...” Có lẽ bởi vậy mà không biết từ bao giờ, hình hài của đất nước đã trở thành một điểm tựa
để viết, để các nghệ sĩ thăng hoa trong cảm xúc của mình. Và cứ như thế đất nước tự bao giờ
trở thành điểm hẹn cho biết bao nghệ sĩ. Xuân Diệu đã từng viết:

“Tổ quốc tôi như một con tàu

Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau”

Hay Chế Lan Viên đã từng bày tỏ trong thi phẩm của mình:

“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng”

Và Nguyễn Khoa Điềm cũng không bỏ lỡ cuộc gặp gỡ với đề tài này bằng tập trường ca “Mặt
đường khát vọng”. Qua đoạn trích “Đất Nước” thuộc chương V của trường ca này, tác giả đã
vẽ nên một “Đất Nước” hoàn toàn của nhân dân qua các bình diện khác nhau, ấn tượng nhất là
tư tưởng Đất Nước của nhân dân qua bình diện không gian địa lý.

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Khoa điềm được biết đến là một nhà
thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trưởng thành cùng thời với nhà
thơ Phạm Tiến Duật. Ông xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và
cách mạng, vì thế mà ông sớm tham gia cách mạng, từng bị địch bắt giữ, sau khi được thả thì
ông bắt đầu làm thơ, bắt đầu viết về đất nước và con người Việt Nam, và thể loại sở trường của
người nghệ sĩ này chính là trường ca - thể loại thơ tự do, ít vần hoặc không vần, nhưng có nhịp
điệu, cấu tứ, tiết tấu và dung lượng dài. Trữ tình và chính trị, cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu
lắng, đỉnh đạc, truyền thống và hiện đại, tinh tế - những khái niệm tưởng chừng rất khác nhau,
đối lập với nhau thì nay lại được kết hợp hài hòa trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm - và đó
cũng là phong cách sáng tác của nhà thơ trong đoạn trích “Đất Nước” của trường ca “Mặt
đường khát vọng”. Tác phẩm được viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước
vào giai đoạn ác liệt, phong trào chống Mỹ của nhân dân diễn ra ngày càng sôi nổi, tiêu biểu là
phong trào xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh viên. Và Nguyễn Khoa Điềm cũng góp
cho phong trào này một bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, có tác dụng lay động và thức

61
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người, đặc biệt là tuổi trẻ đối với Đất Nước. Về hoàn cảnh
sáng tác của đoạn trích “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: Viết những chương này
trong những ngày sau Tết, mưa triền miên - thời kỳ mà đế quốc Mỹ đánh bom liên tục, dữ dội,
ngồi trong hầm cảm xúc cộng hưởng với tiếng bom nổ, nhà thơ đã viết nên “Đất Nước”, có
những trận bom đã làm bản thảo bay tung tóc, lượm lại thì trang còn, trang mất, thế là nhà thơ
lại cùng những người đồng nghiệp ngồi lại viết tiếp, nhà thơ viết rất nhanh, cảm xúc như dồn
tụ từ lâu, giờ chỉ tuôn chảy dưới ngòi bút. Nhà thơ cũng chia sẻ rằng mình chỉ viết những điều
đơn giản của chính tuổi trẻ và những bạn bè đấu tranh trong thành phố.

Tư tưởng đất nước của nhân dân đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử Việt Nam. Lật từng
trang lịch sử dân tộc ta có thể thấy tư tưởng đất nước của nhân dân có nhiều thay đổi và ngày
càng tiến bộ. Đầu tiên là bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt: “Nam quốc sơn
hà Nam đế cư”. Lúc bấy giờ, tư tưởng Đất Nước - nhân dân còn chưa được bộc lộ, mà Lý
Thường Kiệt chỉ vừa nhắc đến non sông, đất nước của quân vương - người có quyền lực tối
cao ở đất nước. Đến bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, hình hài của tư tưởng đất
nước của nhân dân đã được Nguyễn Trãi bộc bạch ra ngoài: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân /
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Chính cái “cốt ở yên dân” đã cho thấy quan điểm tiến bộ của
Nguyễn Trãi: việc “nhân nghĩa” trước hết phải “yên dân”, lo cho dân ăn no mặc ấm, ấm no
hạnh phúc thì đất nước mới có cơ hội đi lên, phát triển. Tiếp sau đó, ngày càng có nhiều quan
điểm về tư tưởng này của các vị quan, các nhà thơ, nhà cách mạng,... Trần Hưng Đạo từng
dâng kế sách cho vua: “Muốn đánh giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”.
Hay Nguyễn Trãi từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân là nước”. Nguyễn Bỉnh Khiêm
cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Rồi đi đến thời cận đại, Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh cũng nhìn ra được vai trò lớn lao của nhân dân trong kháng chiến, trong tạo nên “Đất
Nước”: “Dân là nước, nước là dân”. Đến thời cận đại của Hồ Chí Minh, Người vẫn luôn nhắc
nhở: “Đảng ta phải biết lấy dân làm gốc”. Phải làm như thế, phải lật từng trang, từng trang lịch
sử dân tộc, ta thấy rõ sự chuyển biến tư tưởng đất nước của nhân dân theo thời gian. Nếu như
ở giai đoạn đầu, đất nước, dân tộc chỉ mới của vua thì dần dần vị trí nhân dân được nâng lên
đáng kể và cho đến hôm nay, nhân dân đã làm nên đất nước, đất nước chính là của nhân dân.
Bởi lẽ suốt dọc dài lịch sử, nhân dân luôn có vai trò quan trọng trong các cuộc trường chinh
cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, biển rộng, bờ cõi. Điều này đã được thể hiện ngày
càng rõ nét trong các dấu ấn văn chương, nhưng mãi cho đến Nguyễn Khoa Điềm thì tư tưởng
đất nước của nhân dân mới được lý giải một cách toàn diện, sâu sắc trên các bình diện: địa lý,
lịch sử và văn hóa.

62
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Nguyễn Khoa Điềm đã có một sự phát hiện và đóng góp mới mẻ vào tư tưởng Đất Nước
của nhân dân: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân trên bình diện địa lý không gian. Nhà thơ đã
gửi ánh nhìn của mình vào tất cả các danh lam thắng cảnh của đất nước, mà mỗi địa danh đều
có những câu chuyện riêng, những tâm hồn riêng:

“Những người vợ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”

Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái không chỉ còn là những địa danh góp nét đẹp cho dáng núi,
dòng sông mà chúng tự bao giờ đã hóa thành những câu chuyện trong thơ Nguyễn Khoa Điềm:
Câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào núi Vọng Phu, vào sông núi quê hương làm nên
một đất nước thuỷ chung, tình nghĩa; câu chuyện của những cặp vợ chồng yêu nhau làm nên
hòn Trống Mái, làm nên Đất Nước nồng thắm, nhân tình. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất
Nước còn hiện lên cùng những truyền thuyết, những hình ảnh người anh hùng Việt Nam:

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương”

Hai câu thơ đã giúp chúng ta liên tưởng đến khí phách của con người Việt Nam: “gót ngựa
Thánh Gióng”, “chín mươi chín con voi” - Hình ảnh thấm đậm tinh thần yêu nước đã được tác
giả sử dụng kết hợp với “đi qua”, “để lại”, “góp mình” tạo nên một nét tự hào rất riêng, rất
thiêng liêng về sông núi, về khí phách, sức mạnh đậm chất Việt Nam và tự hào cả về truyền
thống văn hoá:

“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp đất nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc lại về sự tích của Tháp Bút, Non Nghiên, nhắc lại người
học trò nghèo đã vẽ nên núi Bút, non Nghiên để làm rõ cho truyền thống hiếu học, truyền thống
văn hiến lâu đời của dân tộc - đó là những biểu tượng của vẻ đẹp trí tuệ, đạo đức và cả đời sống
tâm linh của con người Việt Nam. “Con cóc”, “con gà” - những con vật tưởng chừng nhỏ bé,

63
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

bình thường nay cũng góp một phần hồn cho vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Đất Nước. Và từ
bao giờ, trên đất nước ta mọc lên vô vàn ngọn núi mang tên Bà Đen, Bà Điểm, Ông Trang,
Ông Đốc hay mang tên của những người dân khác nữa - đó là những con người đã hóa thân tạo
nên Đất Nước hôm nay.

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”

Đoạn thơ một lần nữa đã khẳng định bản đồ Đất Nước chính được họa từ Bắc chí Nam trở
thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi khai thác tâm hồn ước mơ khát vọng của nhân
dân. Trên khắp không gian địa lý này, dù đi đâu, về đâu ta cũng có thể thấy được “những cuộc
đời đã hóa núi sông”, mỗi nơi đều là một địa chỉ văn hóa được tạo nên bởi nhân dân. Chính
nhân dân là người nghệ sĩ đã tạo nên mọi giá trị tinh thần làm đẹp cho dải đất hình chữ S này.
Qua đó mới thấy được Đất Nước chúng ta có rừng vàng, biển bạc, nhưng không hoàn toàn là
thiên tạo, đó là sự hóa thân, sự bất công của nhân dân. Chính nhân dân đã góp hồn cho những
địa danh, đưa chúng vào đời sống dân tộc tự bao giờ!

Đoạn thơ trên đã góp phần thành công trong việc vẽ nên một bản đồ văn hóa. Điệp từ
“góp” - “góp” cho Đất Nước những núi Vọng Phu, “góp nên hòn Trống Mái ”, góp mình dựng
đất tổ Hùng Vương”... đã nhấn mạnh sự đóng góp của nhân dân ta suốt dọc dài địa lý. Qua đó
còn cho thấy sự hiểu biết sâu rộng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, bởi chỉ có một kiến thức
nhiều như thế thì tác giả mới khai thác được những hình ảnh phong phú chỉ với vài câu thơ.
Hơn nữa, một điểm cộng lớn nhất cho đoạn trích chắc hẳn là sự vận dụng sáng tạo các chất liệu
văn hóa dân gian: những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết của dân tộc,... Như vậy, bằng tài
hoa và sự khéo léo của mình Nguyễn Khoa Điềm không chỉ vẽ lên bản đồ địa lý Việt Nam
bằng những thắng cảnh mà còn kín đáo ca ngợi quê hương, ngợi ca những truyền thống văn
hóa của Đất Nước.

Có một tư tưởng về Đất Nước đã được vẽ lên từ những điều giản dị. Có một hình ảnh
Đất Nước được lý giải bằng những câu chuyện cổ tích. Có những không gian địa lý được hiện
lên từ sự hóa thân của nhân dân,... Và tất cả những điều đó đều được gói gọn trong đoạn trích

64
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

lý giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân trên bình diện địa lý trong bài thơ “Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm. Những vần thơ đẹp ấy của Nguyễn Khoa Điềm đã khơi dậy tình yêu và
trách nhiệm của mỗi người về ý thức bảo vệ và phát triển những di tích thắng cảnh của dân tộc
như một tài sản vô giá mà chúng ta đã được thừa kế.

ĐỀ 11: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của những đoạn thơ sau: (5 khổ thơ đầu)
(Trích “Sóng” - Xuân Quỳnh)

Bài làm

Tôi vẫn còn nhớ như in có một bận, Xuân Diệu đã từng thủ thỉ trong tác phẩm của mình:

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào”

Con người ta vẫn thường vì tình yêu mà si mê nhiều như thế! Người thường đã vậy, thi sĩ hẳn
sẽ nhạy cảm hơn, đó cũng là lí do vì sao giữa muôn nẻo của thơ ca Việt Nam, những bài thơ
viết về tình yêu, những nhà thơ viết về tình yêu vẫn thường được bạn đọc chú ý bằng cái nhìn
đầy trìu mến. Và bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng là một tác phẩm như thế. Đọc thi
phẩm“Sóng” điều đọng lại trong lòng mỗi độc giả không chỉ là tình yêu thủy chung, khát vọng
hóa thân của hình tượng “sóng” hay cũng chính là hình tượng “em” mà còn gây ấn tượng về
những thông điệp mới mẻ trong tình yêu mà Xuân Quỳnh đem lại. Điều đó được thể hiện rất
rõ trong năm khổ thơ đầu bài.

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời
kháng chiến chống Mỹ. Những dòng thơ của tác giả thể hiện trái tim phụ nữ đôn hậu, chân
thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha cùng khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh
liệt luôn gắn liền với những dự cảm, lo âu. Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Xuân
Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của
cuộc đời ...” Và quả thực, những vần thơ của Xuân Quỳnh là vậy. Với chị, mỗi dòng thơ hệt
như những dòng nhật kí bỏ ngỏ xuất phát từ trái tim về những khát khao, những cảm xúc,
những suy nghĩ lo âu của người phụ nữ khi đứng trước bao lo toan, hạnh phúc đời thường. Để
rồi cứ thế, “Sóng” của Xuân Quỳnh lặng lẽ đi vào lòng người như một “ nốt nhạc xanh giữa
thời kì lửa cháy” với bao khát vọng về tình yêu và tuổi trẻ. Tác phẩm là một bài thơ đặc sắc
viết về tình yêu, tiêu biểu cho phong cách thơ của nữ sĩ, được sáng tác năm 1967 trong chuyến

65
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Bài thơ được in trong tập ''Hoa dọc chiến hào''.
Qua hình tượng sóng và trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa ''sóng'' và ''em'', bài
thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách
của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, bạn đọc cảm nhận được tình yêu là một tình
cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.

Viết về đề tài tình yêu, đặc biệt khi lựa chọn hình tượng sóng làm hình tượng chính cho
tác phẩm của mình, Xuân Quỳnh không phải là người nghệ sĩ đầu tiên nhưng lại là người nghệ
sĩ vô cùng tinh tế, viết về sóng để gửi gắm tình yêu của trái tim người phụ nữ. Điều này được
thể hiện rõ qua những vần thơ:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Tôi đã nhìn thấy những con sóng ngoài đại dương rồi! Tôi cũng đã từng tìm về biển với những
mong mỏi được trải lòng và tôi cũng hiểu tại sao, khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn
trùng con sóng vỗ bạc đầu, người nghệ sĩ lại có trong mình nhiều rung cảm đến vậy, để cho tới
tận bây giờ, biển vẫn hát khúc ca của đại dương, và chúng tôi, độc giả của những năm tháng
này, vẫn ru hoài giấc mơ qua những thi phẩm khởi nguồn từ con sóng. Trong khổ thơ này, nghệ
thuật đối đã được sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập: “Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào
– lặng lẽ” là biểu hiện rõ ràng nhất cho những trạng thái đối cực của con sóng ngoài đại dương.
Khi đại dương hiền hòa, những con sóng thật nhẹ nhàng, êm dịu, khi có bão đi ngang biển động
sóng mạnh mang theo bao bão tố, phong ba. Những trạng thái đối cực của sóng cũng chính là
những trạng thái đối cực của tình yêu, có những khi rất bình yên, nhưng cũng có những ngày
bão tố. Ta cũng có thể hiểu hai câu thơ này theo một trường nghĩa khác, với trạng thái đối cực
của trái tim người phụ nữ khi yêu, một người phụ nữ khao khát tình yêu. Khi vui, khi buồn, khi
giận hờn, khi trách móc, khi hạnh phúc, khi tổn thương,… những cung bậc cảm xúc của tình
yêu quả thật rất diệu kỳ bởi một lẽ:

“Vì tình yêu muôn thủa

Có bao giờ đứng yên”

66
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Ý thơ chưa dừng lại ở đó, bởi nội tâm của người phụ nữ vốn dĩ sâu sắc hơn những gì ta tưởng
tượng. Hai câu thơ này còn diễn tả sự yếu đuối tất yếu bên trong của người phụ nữ khi có những
mạnh mẽ che phủ bên ngoài. Suy cho cùng, sau tất cả những hỉ, nộ, ái, ố của cuộc đời, những
trái tim ấy vẫn thuộc về trọn vẹn tâm hồn phái yếu.

Chuyển đến hai câu thơ tiếp theo, ta nhìn thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân Quỳnh:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp, hình ảnh của dòng sông, của con sóng và của “bể”, ở đây
có thể hiểu là biển, là đại dương. Trăm suối đổ về một sông, trăm sông đổ về biển lớn, sóng
không chấp nhận giới hạn nhỏ bé tầm thường, sóng chuyển mình ra biển lớn, tìm về đại dương,
tìm đến nơi thuộc về. Ở hai câu thơ này, mạch sóng như bứt phá ra khỏi một không gian chật
hẹp để tìm đến những điều lớn lao. Cũng giống như trái tim tình yêu của những người phụ nữ,
vượt qua những giới hạn nhỏ bé tầm thường, để tìm đến với tình yêu đích thực của cuộc đời
mình. Có thể thấy rằng, đây cũng chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh,
cũng là góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ hiện đại, dám đấu tranh vì tình yêu,
vượt qua những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc đời mình. Nếu
như trong bài “Hương thầm” nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn từng viết:

“Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay

Cô gái ngượng ngùng sang nhà hàng xóm

Bên ấy có người ngày mai ra trận

Bên ấy có người ngày mai đi xa”

Để rồi họ chia tay mà chẳng dám nói với nhau điều gì. Xuân Quỳnh thì không như vậy, chị
luôn quan niệm không chỉ riêng con trai có thể chủ động trong tình yêu, mà người phụ nữ cũng
vậy, phải chủ động tìm đến tình yêu để sống được là chính mình. Đây chính là thông điệp mới
mẻ mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm đến bạn đọc qua khổ thơ này.

Hơn cả những gì anh nghĩ, dẫu đó thực chất là trái tim mềm yếu của em thì em vẫn
muốn dùng sự mạnh mẽ của chính mình để hướng tới, để theo đuổi tình yêu duy nhất trong
cuộc đời của mình. Những điều em muốn nói cùng anh là những điều không thể nào ngăn cách,

67
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

bao mong mỏi, bao buồn vui đau khổ cuộc đời cũng không thể ngăn nổi trái tim mềm yếu
hướng tới tình yêu. Bởi duy nhất chỉ có phương anh mới khiến trái tim em thổn thức. Thế nên
Xuân Quỳnh mới viết:

“Tôi ghét bầu trời sau khung cửa bình yên

Con đường vắng người đi và hàng cây lộng gió

Tôi yêu dòng sông mùa nước lũ

Sông phá phách ngàn đời nhưng đỏ lặng phù sa”

Xuân Quỳnh viết “Sóng”, chị đang hát những khúc hát về tình yêu để đến bây giờ, biết
bao nhiêu thập kỷ trôi qua rồi, những độc giả vẫn dành biết bao nhiêu tình yêu của mình cho
một mảnh “tình thơ” đã cũ. Và tình yêu trong “Sóng” – mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của
lứa đôi:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Thán từ “ôi” được sử dụng, bộc lộ mạnh mẽ những trạng thái cảm xúc đang trào lên trong lòng.
Cặp từ đối “ngày xưa” – “ngày sau” khiến cho người đọc có biết bao nhiêu liên tưởng. Đó là
thời gian chỉ quá khứ, quá khứ nối dài đến hiện tại, tương lai để nhắc nhở người trẻ chúng ta
về thông điệp ý nghĩa. Trải qua hàng ngàn hàng vạn năm, từ khi đại dương xuất hiện, những
con sóng cũng ra đời. Và dẫu cho thời gian mãi là một dòng tuyến tính không bao giờ quay trở
lại thì sóng vẫn cứ mãi hát khúc ca của đại dương bất diệt, vẫn cứ là mình, vẫn “dữ dội, dịu
êm, ồn ào, lặng lẽ”. Cũng giống như tình yêu, những khát khao về tình yêu luôn luôn là những
hoài bão đang đập nhanh trong trái tim của những người trẻ. Câu chuyện tình yêu vốn dĩ không
phải câu chuyện của riêng ai mà đó là câu chuyện của tôi, của bạn, của chúng ta, của quá khứ,
hiện tại và muôn đời sau sẽ còn nhắc mãi, nhắc hoài. Còn đại dương là còn sóng, còn những
trái tim đang đập trong lồng ngực là còn khát vọng tình yêu. Điều này thật giống với ý thơ
trong “Bài thơ tuổi nhỏ” của ông hoàng thơ tình Việt Nam – Xuân Diệu:

68
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ, không thương một kẻ nào...”

Có những khoảnh khắc, bản thân mình rất muốn tìm một nơi nương náu cho những
trầm tư của chính mình. Không phải vì bản thân yếu đuối mà chỉ bởi trái tim sau những lần
cứng cỏi rất muốn có một khoảng dừng chân để suy nghĩ, chiêm nghiệm về tình yêu mình đã
đi qua. Và “em” đã chọn cho mình một khoảng trầm tư bình yên như thế khi đứng trước đại
dương bao la, trước muôn ngàn con sóng vỗ bạc đầu.

“Giữa muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên”

Đến khổ thơ này, em tách mình khỏi sóng, để hạ lời thì thầm hai tiếng “em – anh”. Khi đứng
trước đại dương bao la, trước muôn ngàn những con sóng đang gối lên nhau chạy xa tít tắp tới
đường chân trời, em nghĩ về anh, nghĩ về bản thân mình, em nghĩ về tình yêu của chúng ta.
Cảm giác nhỏ bé trước khoảng không bao la vốn dĩ là cảm xúc bình thường có được. Thế nên:

“Đừng ví em là biển

Sâu thẳm và bao la

Thuyền nan em bé nhỏ

Không xa được bến bờ...”

Trước khoảng không vô tận và đối diện với trái tim, em tự đặt ra một câu hỏi cho lòng mình,
để truy tìm căn nguyên của sóng nhưng cũng chính là lúc em muốn truy tìm căn nguyên của
tình yêu.

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

69
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Khi nào ta yêu nhau?”

Em đang trên chuyến hành trình truy tìm căn nguyên của tình yêu. Em không thẳng thẳn nói
ngay vào điều đó, mà em muốn thông qua hình ảnh sóng để trải lòng mình. Theo khoa học,
sóng sinh ra từ gió. Thơ Xuân Quỳnh vốn không thường viết về những điều khô khan như thế,
tác giả bẻ ngay “cuống lái” về những nốt nhạc của trái tim. Vậy thì gió bắt đầu từ đâu? Em suy
hoài, nghĩ mãi nhưng cuối cùng lại chẳng tìm được câu trả lời. Và rồi để bao biện cho sự thất
bại trong cuộc truy tìm của mình, người con gái ấy buông nhẹ một cái lắc đầu đáng yêu: “Em
cũng không biết nữa”. Và gửi lời tới “anh” một câu hỏi rất nhẹ nhàng: “Khi nào ta yêu nhau?”.
Trái tim “em” luôn muốn tìm sự lý giải, cắt nghĩa tình yêu, truy tìm căn nguyên tình yêu của
chính mình: “Chúng ta yêu nhau từ bao giờ, chúng ta yêu nhau vì điều gì...” Tất cả đều là những
câu hỏi rất khó để trả lời, hoặc là sẽ chẳng thể nào tìm ra được một câu trả lời nào trọn vẹn cả.
Xuân Quỳnh đã thất bại trong cuộc truy tìm, cắt nghĩa tình yêu nhưng lại ghi được ấn tượng
sâu đậm trong lòng đọc giải từ cách lý giải đầy nữ tính. Lý giải về tình yêu vốn dĩ là một hành
trình rất thú vị, gây được sự hấp dẫn với viết bao cây bút tài hoa, nếu như Xuân Diệu – ông
hoàng thơ tình Việt Nam từng lý giải tình yêu bằng một buổi chiều nắng cắt:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có khó gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”

Thì Nguyễn Bính lại khiến lòng người rạo rực khi lý giải chữ yêu bằng cảm xúc “ghen tuông”:

“Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi

Thế nghĩa là yêu quá mất rồi

Và nghĩa là cô là tất cả của riêng tôi!”

Nhìn nhận trong cách truy tìm căn nguyên, cắt nghĩa về tình yêu của những người nghệ sĩ mới
thấy được, Xuân Quỳnh đã tự lý giải tình yêu cho bản thân mình một cách rất riêng, rất nữ tính,
rất trực cảm. Em không biết tình yêu có từ đâu cả. Cũng chính vì sự không rõ ngọn ngành này
mà đã biết bao nhiêu thế kỷ trôi qua rồi, con người vẫn cữ phân vân đi tìm câu trả lời cho tình
yêu, say mê trong tình yêu, dành trái tim của mình để sẵn sàng đập nhanh hơn vì một người.

70
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Có một quy luật của tình yêu đó là chẳng có quy luật nào cả và em vẫn sẽ can đảm bên cạnh
anh, yêu anh bằng tất cả đủ đầy những cảm xúc của riêng mình. Tình yêu vốn dĩ là một ẩn số
giữa hai tâm hồn chứa đầy bí mật:

“Dù tin tưởng chung một đời một mộng

Anh là anh mà em vẫn là em

Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành

Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật”

Và những tâm hồn bí mật ấy vẫn luôn khao khát được giao hòa cùng nhau, khám phá những
điều mà cả cuộc đời cũng chẳng thể nào lý giải nổi. Bởi tình yêu là bài toán chẳng thể nào đưa
ra được một đáp số đúng nhất, cũng chính vì thế mà nó luôn mới mẻ, luôn hấp dẫn, luôn là
khởi nguồn cho rất nhiều những tác phẩm hay.

Tiếp tục với hành trình nghĩ suy và chiêm nghiệm, Xuân Quỳnh, với những dòng thơ
trong “Sóng”, đã không thể nào bỏ qua một cung bậc cảm xúc tất yếu của tình yêu - nỗi nhớ.
“Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó. Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ
nhung, cứ thế mà thức dậy, mà da diết.” Cội nguồn của tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ, “đặc
tính” của tình yêu cũng gắn với nhớ nhung. Lấy cảm hứng thơ từ điều này nên Xuân Quỳnh
viết:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Năm tháng trôi qua nhanh, để tình yêu ở lại. Tình yêu hiện hữu trong cuộc sống, ở mỗi con
người và được bộc bạch qua trạng thái đầu tiên đó là nỗi nhớ. Tình yêu xưa nay luôn gắn liền
với nỗi nhớ, một trái tim đang yêu là một trái tim đang nhớ, một trái tim ngừng nhớ là dấu hiệu

71
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

chắc chắn của một trái tim ngừng yêu bởi mấy ai yêu mà không một lần thương nhớ. Những
câu thơ của Xuân Quỳnh đã chạm tới nơi sâu thẳm nhất của trái tim tình yêu mang theo một
thông điệp thật tình tứ, mến thương: Sóng nhớ bờ và em nhớ anh.

Có một điều đặc biệt trong khổ thơ này đó là đến đây, biên độ của khổ thơ đã được mở
rộng từ bốn câu lên sáu câu, phá vỡ những quy luật về độ dài của một khổ trong cả bài. Phải
chăng, chỉ khi mở rộng biên độ khổ thơ mới có thể diễn tả cho thỏa, cho đạt sự ngút ngàn của
nỗi nhớ. Một nỗi nhớ bao trùm không gian, choán luôn cả thời gian, khoảng cách. Việc phá vỡ
biên độ của khổ thơ thêm một lần nữa chứng minh cho phong cách nghệ thuật đôi khi “bất tuần
theo những quy luật nghề thơ” của Xuân Quỳnh. Quan trọng nhất trong những vần thơ của chị
là được bày tỏ, được sẻ chia, được thấu hiểu. Bởi “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ;
sáng tạo và cách tân, tất tật là nhất thể. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ, chế
tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn nhiên
viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ
Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh
đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật
điển hình cho qui luật: Thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân
Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.” (Chu Văn Sơn)

Trong khổ thơ này có sự xuất hiện của cả hai hình tượng “sóng” và “em” đan xen với
nhau, bốn câu thơ trước em ẩn mình trong sóng bộc lộ những cảm xúc trong lòng mình, hai câu
thơ sau em tách mình khỏi sóng, hạ lời thì thầm hai tiếng “em – anh”. Các cặp từ đối lập được
sử dụng rất tinh tế ở đoạn thơ này: “lòng sâu – mặt nước” – cụm từ diễn tả về không gian;
“ngày – đêm” – diễn tả về thời gian, một nỗi nhớ thường trực, choán hết cả không gian, thời
gian tầm sâu bề rộng. Nỗi nhớ ấy không chỉ xuất hiện trong ý thức, trong tiềm thức mà còn
xuất hiện cả trong vô thức, phá vỡ mọi giới hạn về thời gian và không gian:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Xuân Quỳnh tinh tế lắm khi sử dụng cụm từ “lòng em” – là nơi thẳm sâu nhất trong tâm hồn
người nghệ sĩ. Khi chị nói “lòng em nhớ đến anh” có nghĩa là em đang dốc cả tâm can của
mình để trao gửi nỗi nhớ thương ấy đến anh – tình yêu đích thực trong cuộc đời mình. Vị ngọt
ngào, mê đắm của tình yêu lan tỏa trong một câu thơ thật lạ: “Cả trong mơ còn thức”. Cái thức
trong mơ chính là biểu hiện cao nhất của nỗi nhớ, nỗi nhớ bây giờ không chỉ xuất hiện trong ý
72
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

thức, tiềm thức mà còn xuất hiện cả trong vô thức. Cái thức trong mơ là một trong những nét
nghệ thuật độc đáo ở khổ thơ này, đưa chúng ta đến những góc nhìn mới mẻ hơn về tình yêu,
về nỗi nhớ. Một nỗi nhớ mãnh liệt và sâu sắc, nỗi nhớ ấy cũng đã từng xuất hiện ở một tác
phẩm khác của nữ sĩ Xuân Quỳnh:

“Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu mong nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ”

Năm khổ thơ đầu khép lại đã thể hiện được nỗi băn khoăn, trăn trở của những con sóng
hay cũng là người con gái khi yêu. Con gái khi yêu luôn có những trăn trở suy tư cần được giãi
bày. Nhờ các biện pháp đảo ngữ, tương phản đối lập, thể thơ ngũ ngôn với nhịp thơ linh hoạt,
giọng điệu chân thành, da diết, sự sáng tạo, phá vỡ khuôn khổ của khổ thơ truyền thống. Ngôn
ngữ thơ bình dị, thủ pháp nhân hoá, ẩn dụ, các điệp từ; cặp hình tượng sóng đôi "sóng - em" ,
đoạn thơ đã thể hiện rõ tư tưởng và suy tư khi yêu của em, cũng như của Xuân Quỳnh. “Sóng”
chính là nỗi lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên chiều sâu
nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến
của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly
màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của
người con gái trong tình yêu: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Ta càng
ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn
sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi,
bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Nhận định về bài thơ “Sóng", GS Trần Đình Sử có viết: “Sóng” là một bài thơ về tình
yêu. Có hàng trăm dáng vẻ của thơ tình yêu. Thơ tỏ tình, thơ mong nhớ, thơ hoài niệm, thơ đau
khổ vì thất tình... “Sóng” là bài thơ giãi bày và chiêm nghiệm...” Quả thực là như vậy. Từ cấu
tứ bài thơ, cách gieo vần, nhịp, sử dụng hình ảnh và đôi khi còn bất tuân theo cả những quy
luật của nghề thơ, chỉ với năm khổ thơ đầu nhưng Xuân Quỳnh đã đưa người đọc từ cung bậc
này tới cung bậc khác trong tình yêu, để người đọc thêm một lần chìm đắm và suy ngẫm về

73
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tình yêu của chính mình. “Sóng” đã tự nhiên, trở thành tiếng hát, tiếng lòng của biết bao nhiêu
người trẻ khát sống, khát yêu, hệt như Xuân Quỳnh.

ĐỀ 12: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong trích đoạn bài thơ
Sóng của nữ sĩ Xuân Quỳnh:

Dẫu xuôi về phương bắc


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Ở ngoài kia đại dương


Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Theo SGK Ngữ văn 12, tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.2016)
Bài làm

Tình yêu là đề tài muôn thuở trong thi ca. Trên thế giới đã có biết bao nhà thơ thành
công với đề tài này. Ở Việt Nam, nhắc đến đề tài tình yêu ta không thể bỏ qua “ông hoàng của
thơ tình yêu” – nhà thơ Xuân Diệu. Bên cạnh đó vẫn phải nhắc đến một nữ sĩ từng làm náo nức
lòng người đọc với những dòng thơ nữ tính, dịu dàng - thi sĩ Xuân Quỳnh. Có một sự trùng
hợp đặc biệt giữa đặc tính của sóng biển và tình yêu của con người, một sự đồng điệu giữa
thiên nhiên và tâm hồn con người đã là nguồn cảm hứng cho nữ sĩ này chấp bút viết nên bài
thơ “Sóng”. “Sóng” đã khắc họa thành công những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tình

74
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

yêu, đem đến hình tượng nhân vật trữ tình thật gần gũi và cũng thật độc đáo, đặc biệt trong bốn
khổ thơ cuối bài.

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kì
kháng chiến chống Mỹ. Những dòng thơ của tác giả thể hiện trái tim phụ nữ đôn hậu, chân
thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha cùng khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh
liệt luôn gắn liền với những dự cảm, lo âu. Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Xuân
Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của
cuộc đời ...” Và quả thực, những vần thơ của Xuân Quỳnh là vậy. Với chị, mỗi dòng thơ hệt
như những dòng nhật kí bỏ ngỏ xuất phát từ trái tim về những khát khao, những cảm xúc,
những suy nghĩ lo âu của người phụ nữ khi đứng trước bao lo toan, hạnh phúc đời thường. Để
rồi cứ thế, “Sóng” của Xuân Quỳnh lặng lẽ đi vào lòng người như một “ nốt nhạc xanh giữa
thời kì lửa cháy” với bao khát vọng về tình yêu và tuổi trẻ. Tác phẩm là một bài thơ đặc sắc
viết về tình yêu, tiêu biểu cho phong cách thơ của nữ sĩ, được sáng tác năm 1967 trong chuyến
đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình) và được in trong tập ''Hoa dọc chiến hào''. Qua
hình tượng sóng và trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa ''sóng'' và ''em'', bài thơ
diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của
thời gian và sự hữu hạn của đời người.

Một điểm đặc sắc của thi phẩm “Sóng” là ở hình tượng nhân vật trữ tình khi bộc bạch
nỗi niềm trong tâm khản với sự giao hòa tuyệt vời giữa đặc tính của sóng biển thiên nhiên và
tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Sau những mãnh liệt của khát vọng tự do và những da diết của
nỗi nhớ niềm thương, ta bắt gặp trong “Sóng” một nhân vật trữ tình ngọt ngào bộc lộ sự thủy
chung:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Nếu phương Bắc, phương Nam gợi những không gian xa xôi, cách trở, những không gian
thường được lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, trong cuộc đời thì các động từ
ngược hướng như xuôi, ngược lại thể hiện những vất vả gian khó, truân chuyên… Có một sự
khác biệt trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh so với quy ước cũng như tâm thế thông thường:
không phải ngược Bắc, xuôi Nam mà là xuôi Bắc, ngược Nam… sự khác biệt ấy hình như đã
hé mở những éo le, trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung, trong tình yêu của nữ sĩ

75
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nói riêng. Điệp từ “dẫu” kết hợp với cách viết lạ hóa “xuôi Bắc”, “ngược Nam” như một sự
khẳng định chắc chắn thứ tình cảm bền chặt “em” dành cho “anh”, dù biên độ không gian và
thời gian mở ra mênh mông, vô tận. Và riêng với Xuân Quỳnh, khó khăn trong tình yêu hình
như không chỉ là những gian truân, vất vả mà còn là những trắc trở éo le. Ý thơ của Xuân
Quỳnh có lẽ còn chứa đựng một hàm ý: không dễ dàng để tới được bến bờ của hạnh phúc,
nhưng khi con người có thể vượt qua những thử thách, khó khăn thì tình yêu lại càng bền vững,
bến bờ hạnh phúc của tình yêu sẽ càng thêm quý giá. Xuân Quỳnh đã cho thấy một quan niệm
thật đẹp khi khẳng định tình yêu đích thực không phụ thuộc vào những không gian Nam, Bắc,
những phương hướng ngược xuôi, trái tim chỉ biết yêu thương mà không bận tâm đến những
logic khách quan của cuộc đời.

Hai câu thơ tiếp theo đã làm hiện ra trọn vẹn bản lĩnh của người phụ nữ trong tình yêu,
đó là sự thủy chung son sắt bất chấp mọi thử thách, mọi khó khăn trắc trở:

“Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương”

Từ cuối cùng của khổ thơ lại là từ “phương”, một từ chỉ hướng trong không gian. Tình yêu của
người phụ nữ đã đem đến một sáng tạo mới mẻ, độc đáo cho ngôn từ: với tình yêu, không có
phương Nam hay phương Bắc, mọi không gian khách quan đều vô nghĩa trước không gian kì
diệu của tình yêu, người phụ nữ son sắt thủy chung chỉ duy nhất hướng về “phương anh”,
phương có người yêu dấu – giữa cuộc đời rộng lớn, giữa vũ trụ bao la, anh là bến bờ hạnh phúc
duy nhất để lòng em hướng tìm. Nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu khiến vũ trụ không
còn Nam Bắc Đông Tây mà như được chia đôi: phương trời anh đẹp đẽ, ấm áp, tươi sáng; mọi
phương không có anh đều trở nên lạnh lẽo, u buồn:

“Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại

Ngọn gió buồn vẫn thổi phải không anh.”

(Xuân Quỳnh)

Nếu ở khổ thơ thứ năm, nhà thơ bộc lộ nỗi nhớ nồng nàn, sâu đậm trong tình yêu thì ở khổ thơ
sáu, sắc thái cảm xúc cơ bản vẫn là nỗi nhớ khi người phụ nữ một lòng thủy chung, tha thiết
hướng về anh, nhưng thay cho từ “nhớ” đã là “nghĩ” – trong “nghĩ” có cả yêu thương, cả mong
nhớ, cả trăn trở, lo âu, cả giận hờn, buồn bã…, Không chỉ là nỗi nhớ bất chợt, anh đã trở thành
ý nghĩ luôn canh cánh, thường trực trong lòng em. Nếu nhớ là xúc cảm tự nhiên, cảm tính thì
nghĩ là tình cảm lâu bền, lắng đọng những suy tư sâu sắc, chín chắn… Với sự tinh tế trong
ngôn từ biểu đạt như thế, Xuân Quỳnh đã thể hiện thành công những khát vọng tình yêu sôi

76
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nổi, cháy bỏng, cách bày tỏ vừa mạnh mẽ, táo bạo, vừa chân thành, nữ tính, qua đó làm hiện
lên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ vừa hiện đại, vừa truyền thống.

Tiếp mạch cảm xúc tha thiết trong tâm khản, đoạn thơ tiếp theo đem đến sự chiêm
nghiệm của nhân vật trữ tình hết sức tinh tế về hành trình của sóng và cũng là hành trình của
tình yêu:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở.”

Trước những thử thách, nghịch lý của cuộc đời, em chọn việc cố gắng theo đuổi, quyết tâm
theo đuổi anh, bởi em hiểu rằng, giống như con sóng ngoài đại dương, dẫu cách trở chừng nào,
cuối cùng cũng sẽ ôm vào bờ cát trắng, em nhất định cũng sẽ đến được với anh – tình yêu đích
thực trong cuộc đời của mình. Tứ thơ trước tiên đi từ quy luật của tự nhiên, những lẽ thường
tình ai ai cũng công nhận. Và từ tâm thế được thuyết phục như vậy, người ta cũng dễ dàng thấm
thía hơn khát khao thủy chung của nhân vật trữ tình. Đi từ những điều bình dị, từ lẽ tất yếu để
rồi bộc bạch suy tư, đó phải chăng đã trở thành phong cách riêng của nữ sĩ mang trong mình
sứ mệnh sinh ra để yêu và làm thơ:

“Chỉ có thuyền mới hiểu

Biển mênh mông nhường nào

Chỉ có biển mới biết

Thuyền đi đâu, về đâu

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau - rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố”

(Xuân Quỳnh)

77
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Trở về với nhân vật trữ tình trong khổ thơ của “Sóng”, cấu trúc đảo và đặc biệt câu kết đoạn
“Dù muôn vời cách trở” như một lời khẳng định chắc chắn về niềm tin trong tình yêu của nhân
vật trữ tình, về một kết thúc có hậu và bình ổn. Nhưng câu thơ ấy cũng như một nói thêm tự
dặn lòng, tự nhắc mình đừng mất niềm tin nhưng cũng đừng ngây thơ, ảo tưởng vào sự dễ dàng
trong tình yêu. Và cũng chính vì sự nếm trải ấy mà niềm tin của người phụ nữ vào tình yêu
càng đáng quý, đáng trân trọng.

Không dừng lại ở niềm tin vào tình yêu như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm giàu
suy tư của Xuân Quỳnh tiếp tục mở ra những trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những hình
ảnh của thời gian và không gian:

“Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Thời gian và không gian được đặt trong hai bình diện đối lập: cuộc đời và năm tháng; biển cả
và mây trời. Cuộc đời chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp người, năm tháng là hoán dụ
cho dòng thời gian vô thủy vô chung; biển cả là một không gian mênh mông nhưng vẫn chỉ là
hữu hạn, còn mây trời lại gợi sự phiêu du trong vũ trụ vô cùng vô tận. Cuộc đời tuy dài, biển
cả tuy rộng nhưng năm tháng sẽ đi hết cuộc đời như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ đến với
những không gian bao la trong vũ trụ không cùng. Thông điệp sâu sa ấy được gửi gắm qua
phép đối và điệp từ “vẫn”. Đến với khổ thơ thứ tám này, liên tiếp vẫn là những chiêm nghiệm
về quy luật của tự nhiên trong mối tương quan với quy luật của đời người. Nhân vật trữ tình
trong khổ thơ không xuất hiện trực tiếp để cất lời thương yêu nhưng ở đây ta cảm nhận được
chiều sâu tâm hồn với bao lo âu, trăn trở đầy nữ tính. Đó là nỗi lo về những mong manh của
tình yêu và sự hữu hạn của kiếp người.

Để rồi, biến lo âu thành khát vọng, biến sự hữu hạn của kiếp người tưởng chừng chẳng
thể đổi thanh thành sự vĩnh cửu hóa một cách chắc chắn và lâu bền, nhân vật trữ tình trong khổ
thơ cuối cùng đã bày tỏ:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.”

78
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu thơ đầu tiên với từ “làm sao” mang sắc thái cầu khiến để diễn tả nỗi khát khao bất tử hóa
tình yêu của tác giả. Nếu như Xuân Diệu khát khao “tắt nắng”, “buộc gió” đễ giữ lại cho riêng
mình màu thắm của hoa, nồng nàn của hương và cũng là để giữ lại tuổi trẻ, thì Xuân Quỳnh đã
tìm ra một phương cách đầy nữ tính, đó là hi sinh, dâng hiến cho tình yêu mãi trường tồn. Xuân
Quỳnh ước mình có thể trở thành “trăm con sóng nhỏ”. Đó là khát vọng hóa thân, hóa thân
thành trăm nghìn con sóng nhỏ để “tan ra”, để ngày đêm và ngàn năm sau còn vỗ. “Trăm con
sóng nhỏ” là hình ảnh biểu trưng cho tình yêu cá nhân nồng cháy, tha thiết, cồn cào muốn hòa
mình vào “biển lớn tình yêu” để bất tử hóa thứ tình yêu ấy. Hàng ngàn, hàng vạn năm nay, biển
vẫn tồn tại, vẫn vô tận như thế và sóng vẫn cứ “mạnh mẽ”, “lặng lẽ”, “dịu êm”, “ồn ào” xô vào
bờ. Con sóng gắn với đời, còn đời, còn biển là còn những con sóng. Xuân Quỳnh muốn hóa
thân thành những con sóng nhỏ là cũng bởi lẽ đó, để hòa mình vào cuộc đời, để sống mãi với
tình yêu. Đặt vào trong thời điểm ra đời bài thơ, đây cũng chính là mong muốn mang tình yêu
cá nhân của mình hòa vào tình yêu Tổ quốc của nữ thi sĩ. Khao khát cháy bỏng, cao cả trong
tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành, táo bạo mà cũng thật nhân hậu, vị tha. Ngay trong
cái hữu hạn, mỏng manh của đời người, tình yêu đã được vĩnh cửu hóa, tình yêu được nâng
tầm thành những sự hi sinh, dâng hiến hóa thân, hòa mình hết sức cao cả. Cảm xúc ấy cũng
đồng điệu với những vần thơ trong “Thơ tình cuối mùa thu” của nữ tác giả:

“Tình ta như hàng cây

Đã qua mùa gió bão

Tình ta như dòng sông

Đã yên mùa thác lũ

Thời gian như là gió

Mùa đi cùng tháng năm

Tuổi theo mùa đi mãi

Chỉ còn anh và em.”

Từ khát vọng thủy chung đến ước mong vĩnh cửu hóa tình yêu cao đẹp, bốn khổ thơ là
những cung bậc cảm xúc phong phú, hết sức bình dị nhưng cũng vô cùng sâu sa trong tâm khản
người phụ nữ đang yêu. Thể thơ năm chữ tạo nhịp điệu dạt dào như sóng vỗ, biện pháp đối và
những cặp từ sóng đôi đã tạo nên âm hưởng vừa mãnh liệt vừa dịu êm, thấm thía, góp phần thể
hiện thành công vẻ đẹp của nhân vật trữ tình. Đó là vẻ đẹp đến từ tư tưởng vừa mới mẻ, hiện

79
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đại, vừa gần gũi, truyền thống và đặc sắc nhất là khát vọng sống, thủy chung cao cả trong tình
yêu.

“Sóng” – bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Đặc biệt, qua bốn
khổ thơ cuối bài, vẻ đẹp của nhân vật trữ tình lại càng ghi dấu bao ấn tượng khó phai trong
lòng bạn đọc. Bạn đọc yêu “Sóng”, hiểu “Sóng” và đặc biệt là bốn khổ thơ cuối sẽ luôn nhớ về
một Xuân Quỳnh với hình ảnh đôn hậu, gần gũi, dịu dàng cùng với sự sáng tạo khi xây dựng
hình tượng thơ. Xin mượn một lời thơ của nữ sĩ này thay cho lời kết, đây cũng chính là lí tưởng
cả đời chị theo đuổi:

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thường ai chẳng có

Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

ĐỀ 13: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã viết: “ Mặt hắn có một vẻ gì
phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
Từ những câu văn trên và hiểu biết của anh/chị, hãy phân tích sự chuyển biến tâm
trạng nhân vật anh cu Tràng từ khi đón người “vợ nhặt” về nhà. Qua đó hãy làm rõ tư
tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
Bài làm
Còn nhớ sinh thời tác giả của “Bỉ vỏ” - nhà văn Nguyên Hồng từng “phán” về đồng
nghiệp của mình rằng: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần
hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn”. Quả thật không chê vào đâu được lời “truyền thần”
ấy của nhà văn Nguyên Hồng! Sự nghiệp và những quan niệm về văn chương của Kim Lân
qua những tác phẩm của ông đã để lại rất nhiều ấn tượng đẹp trong lòng độc giả, và càng chứng
minh nhận định của nhà văn Nguyên Hồng không thể bỏ đi từ nào được. Đọc “Vợ nhặt”, tác
phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, ta càng hiểu rõ và thấm nhuần hơn điều
này. Tràng là nhân vật chính trong tác phẩm. Qua những cảm nhận về diễn biến tâm trạng của
Tràng từ khi đón người vợ nhặt về nhà, được Kim Lân miêu tả tiêu biểu qua chi tiết: “Mặt hắn
có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp
lánh”, bạn đọc có cơ hội để thấm thía hơn tư tưởng nhân đạo của tác giả.

Kim Lân - nhà văn suốt một đời gắn bó với cuộc sống nông thôn thuần hậu, chất phác
đã mở ra cánh cửa văn chương của mình bằng sở trường viết truyện ngắn. Tuy số lượng tác

80
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

phẩm không nhiều nhưng cũng đủ cho ông có một chỗ đứng vững chắc trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Một trong những truyện ngắn nổi bật của Kim Lân mà người đọc không thể
không nhắc đến đó là “Vợ nhặt”. Ông đã tâm sự trên báo rằng: “Vợ nhặt” ban đầu là một tiểu
thuyết nhưng loay hoay thế nào, kết cục nó lại về lại truyện ngắn.”. “Vợ nhặt” là truyện ngắn
xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí”, với tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ
cư” – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa
bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này. Tác phẩm
đã mang đến những thành công vang dội gắn liền với tên tuổi Kim Lân trong đó nổi bật nhất là
tài năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế, tiêu biểu là sự chuyển biến trong
tâm trạng của nhân vật anh cu Tràng khi đưa người “vợ nhặt” về nhà. Qua đó, những đặc sắc
về nội dung và nghệ thuật ấy đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn.

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà
văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần
hậu phong thủy" ấy. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một
khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi
vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và
bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc
nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ, đặc biệt đối với hình ảnh
nhân vật chính – anh cu Tràng.

Tràng hiện lên là một nhân vật có ngoại hình thô kệch, xấu xí: “thân hình to lớn, lưng
bè như lưng gấu, hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra rung
rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ
tợn”. Vẻ ngoài xấu xí như thể hiện Tràng chính là “sản phẩm được gọt đẽo sơ sài bởi bàn tay
của tạo hóa”. Không chỉ xấu xí, anh ta còn cộc cằn, thô lỗ và ngây ngô “hắn có tật vừa đi vừa
nói lảm nhảm những điều mà hắn nghĩ”. Tràng thường trở thành thú vui, trò cười cho bọn trẻ
con xóm ngụ cư. Tràng xuất thân trong một gia đình nghèo, sống cảnh mẹ góa, con côi và là
dân ngụ cư - vốn là những con người vì nghèo đói mà phải bỏ nhà đi tha hương cầu thực. Có
thể nói ở Tràng hội tụ đủ những điều kiện ế vợ. Thế nhưng, Tràng đã có vợ trong hoàn cảnh
rất đỗi bi hài. Giữa nạn đói thê thảm, tự nuôi thân chưa chắc đã xong mà Tràng lại vô tư đồng
ý đưa thị - một người phụ nữ xấu xí, cũng nghèo khổ, đang ở trong tình cảnh cùng đường vì
thiếu miếng ăn - về làm vợ. “Sính lễ” chỉ có hai lần gặp mặt, bốn bát bánh đúc và một câu nói
tầm phơ tầm phào, thị đã đồng ý theo Tràng, và Tràng từ đây đã có vợ.

81
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Mới đầu, Tràng cũng lo lắng, chợt nghĩ: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết
có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Sau không biết nghĩ thế nào Tràng tặc lưỡi “Chậc, kệ”.
Lòng nhân hậu khiến anh không nỡ từ chối bởi trong cái đói quay quắt thế này, cho miếng ăn
là cho nhau sự sống, gắn thêm miệng ăn vào mình là thêm một nguy cơ chết đói. Thế là Tràng
quyết định “nhặt” vợ trong một tình huống độc đáo, lạ lùng, thêm một chút hài hước. Phải
chăng đằng sau quyết định ấy là một niềm khát khao có được hạnh phúc lứa đôi, điều mà trong
hoàn cảnh bình thường, đó chỉ là mơ ước. Người ta bảo, câu chuyện anh cu Tràng nhặt được
vợ là quyết định liều lĩnh của những kẻ liều lĩnh. Nhưng phải thừa nhận với nhau một điều
rằng, từ sự liều lĩnh như vậy, chúng ta đã có được những thông điệp rất đáng trân trọng được
rút ra.

Chuyện Tràng nhặt được vợ khiến ai nấy đều bất ngờ, ngạc nhiên, bản thân Tràng chính
là người ngạc nhiên nhất. Với bản thân mình cộng với gia cảnh nhà mình, có lẽ anh chưa bao
giờ nghĩ tới việc xảy ra ngày hôm nay. Nhưng chỉ với một lời bông đùa vu vơ, người phụ nữ
đó đã theo anh về thật. Khoảnh khắc cầu hôn đối với mỗi người đều là phút giây đáng trân
trọng, nhưng với anh cu Tràng đó lại là một giây phút, khoảnh khắc ngẫu nhiên không tính toán
trước. Diễn biến tâm trạng của Tràng sau đó khiến người đọc bắt được rất nhiều khoảnh khắc
thú vị, cũng chứng tỏ những người giống như anh ham sống tới nhường nào.

Trên đường về nhà, thái độ của Tràng có nhiều khác lạ. “Mặt hắn có một vẻ gì phớn
phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh.” Nhà văn
Kim Lân đã diễn tả sinh động niềm hạnh phúc và sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của những
người nghèo khổ trong hoàn cảnh tăm tối của những ngày đói kém. Tràng như quên cái đói
khát ghê gớm đang đe dọa, trong lòng chỉ còn tình nghĩa đối với người đàn bà đi bên. Với anh,
tình yêu (hay khởi đầu chỉ là tình thương) gắn liền với trách nhiệm. Đó là cảm giác và biểu
hiện đầu tiên cho thấy Tràng là một người đàn ông tốt, chân thành, đáng quý. Trên đường về,
Tràng cố tìm một khoảnh khắc nào đó để nói với thị một câu cho thật tình tứ sau khi đưa thị
vào chợ mua mấy thứ đồ con con nhưng anh chàng lại không thể ngay lập tức thay đổi bản ngã
thô kệch của mình. Thế nhưng, sự chu đáo quan tâm tới người đàn bà bên cạnh mình cũng đã
được thể hiện khá rõ với việc nhìn thị xem thị đang cảm thấy thế nào, mua 2 hào dầu để tối nay
thắp cho sáng, đùa với thị trên đường về nhà. Khi lũ trẻ trong xóm chạy ra trêu anh, hôm nay
anh không đùa mà nghiêm mặt lại, biết có bao nhiêu ánh mắt đang đổ dồn về thị, anh thấy đó
làm thích chí lắm. Lần đầu tiên đi bên một người đàn bà mà người đó lại là vợ mình khiến
người đàn ông như Tràng vốn dĩ rất trẻ con nay là trưởng thành. Hạnh phúc dường như đang

82
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

chạm khẽ, mơn man trái tim của người đàn ông này sau biết bao tháng năm sống ngày qua ngày
không chút suy nghĩ.

Về đến nhà, anh cu Tràng đứng tây ngây trước khung cảnh cái nhà nằm rúm ró giữa
những bụi cỏ dại lổm nhổm. Khi dẫn thị vào nhà, tâm trạng và thái độ của Tràng cũng có những
diễn biến khá phức tạp. Bắt đầu là “xăm xăm bước vào trong nhà”, dọn dẹp sơ qua, thanh minh
về cảnh nhà bừa bộn vì thiếu tay đàn bà. Rồi Tràng thấy ngượng nghịu “đứng tây ngây ra giữa
nhà một lúc”, chợt thấy sờ sợ, anh lấm lét bước vội ra sân, sốt ruột mong mẹ về. Anh cứ chạy
ra ngoài sân ngóng mẹ rồi lại nhìn vào trong nhà, lòng thắc mắc không hiểu sao thấy thị cứ
buồn buồn như vậy. Anh không dám hỏi, chỉ tự hỏi mình, lòng cứ suy nghĩ vẩn vơ. Tràng hồi
hộp và lo lắng không biết mẹ sẽ nói gì với nàng dâu mới, mong ngóng mẹ trong lòng sốt ruột
như có lửa. Tràng bây giờ, đã trở thành một người đàn ông biết lo lắng những công việc của
mình.

Khi thấy mẹ về, Tràng “reo lên như một đứa trẻ”, trịnh trọng mời mẹ vào nhà, trình bày
mộc mạc câu chuyện lấy vợ đặc biệt của mình và xin ý kiến mẹ. Tràng là người rất lễ nghĩa, ai
dám bảo cái nghèo, cái đói sẽ tiêu diệt được đạo lí của con người. Khi bà mẹ tỏ ý “mừng lòng”,
anh thở phào nhẹ nhõm “bước từng bước dài ra sân”. Niềm hạnh phúc của anh ngỡ như không
phải bây giờ đã biến thành hiện thực. Anh cu Tràng hiện tại đã là một người đàn ông chân
chính của gia đình, anh đã có vợ. Diễn biến tâm trạng từ ngạc nhiên, bất ngờ tới gần gũi, thân
quen, từ lo lắng hồi hộp tới hạnh phúc vỡ òa. Tất cả xảy ra giống như một câu chuyện kỳ diệu
trong cuộc sống, một câu chuyện khó tin nhưng có thật.

Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn hơn và thấy cuộc đời mình từ đây đã thay đổi hẳn.
Tràng cảm thấy “Trong người êm ái lửng lơ như từ trong giấc mơ đi ra.” Tràng ngạc nhiên vì
nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng, mẹ và vợ đang dọn dẹp sân vườn. Từ giây phút này, Tràng đã có
một gia đình mới với bao đổi thay từ những thành viên trong gia đình. Có vợ, nhân cách của
Tràng cũng hoàn thiện hơn, anh bỗng thấy yêu thương, gắn bó với cái nhà của mình hơn: “Bây
giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Tràng rất muốn bây giờ mình có thể cùng với mẹ, với vợ thu dọn và tu sửa, làm một cái gì đó
cho gia đình. Ánh mắt của anh hướng phía người vợ. Bây giờ trước mặt anh là một người phụ
nữ đảm đang đúng mực, một người con dâu hiếu thảo không có vẻ gì là chao chát, chỏng lỏn
như hôm qua anh gặp ngoài chợ. Hạnh phúc khi có một gia đình lan tỏa khiến khoảnh khắc gia
đình chưa bao giờ vui vẻ đến thế. Anh nhẹ nhàng nói năng với mẹ, hiếu thuận ngoan ngoãn,

83
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

mang tâm thế của một người con hiếu thảo, một người chồng có trách nhiệm và một người chủ
gia đình.

Vậy là cuối cùng cuộc sống gia đình thực sự đã đến với Tràng- người đàn ông thô kệch,
nghèo khổ, giữa cơn đói khát, bên bờ vực của cái chết. Có một câu chuyện cổ tích được viết
giữa đời thường, giữa những ngày đói khủng khiếp 1945. Chính vẻ đẹp lung linh tỏa sáng của
tình người đã gắn kết họ với nhau, sống nhân ái, chan hòa, hạnh phúc và nghĩ về tương lai với
bao niềm tin, hi vọng. Bởi như lời của vợ Tràng “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta
không chịu đóng thuế nữa đâu” và Tràng nghĩ đến những người đi phá kho thóc của Nhật với
lá cờ đỏ bay phấp phới, mở đường đến một chân trời mới. Khi được vợ gợi ý về đoàn người đi
phá kho thóc trong bữa cơm ngày đói. Tràng đã bắt đầu mơ hồ một điều gì đó và cảm thấy tiếc
rẻ vẩn vơ. Đây là chi tiết mở cho người đọc có thể hoàn toàn tin tưởng vào sự thay đổi của
Tràng và thị khi được giác ngộ cách mạng.

Bằng cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám,
Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi thương của những
năm tháng này nhưng vẫn ánh lên khát khao hạnh phúc mãnh liệt của người lao động nghèo
khổ. Kim Lân đã không nỡ “giết chết đứa con tinh thần” của mình mà đã gieo vào đó mầm hy
vọng, mang đến hạnh phúc cho họ vào những tháng ngày tăm tối nhất. Tấm lòng cảm thông,
thấu hiểu thể hiện ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật một cách chi tiết, chính xác và hấp dẫn.
Tràng, có lẽ chỉ dưới ngòi bút của Kim Lân mới hiện lên mộc mạc, gần gũi và đáng mến đến
thế. Nhà văn đã khẳng định vẻ đẹp đáng trân trọng của người lao động dù trong hoàn cảnh nào
họ cũng không nguội tắt hy vọng, vẫn vươn lên để sống với một niềm tin vào tương lai tốt đẹp
hơn, thể hiện ở hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới cứ trở đi trở lại trong tâm trí
Tràng ở cuối câu chuyện. Tất cả đó đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả của một nhà văn
đôn hậu, giản dị - nhà văn Kim Lân.

"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Và, "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể
hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn
mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, xây dựng nên một nhân vật anh cu Tràng với diễn
biến tâm lí đầy tự nhiên nhưng cũng thật thấm thía, cảm động, đặc biệt là từ khi đón người vợ
nhặt về nhà, giúp bạn đọc khái quát được tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Đọc xong
thiên truyện, dấu ấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Và nếu để dùng một nhận định khái quát về thiên truyện này, tôi xin được mạn phép mượn lời
văn của tác giả Nguyễn Khải: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ

84
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

những gian khổ, hy sinh. Trên đời không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt
yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua những ranh giới đó.”

ĐỀ 14: Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật trong buổi
sáng hôm sau trong tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân). Từ đó hãy bình luận về tư
tưởng nhân đạo của tác giả.
Bài làm
Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Tố Hữu đã từng cất tiếng thơ tha thiết:
“Còn gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
Quả thật trên đời tình thương yêu giữa người với người là đẹp đẽ nhất và đáng trân trọng nhất.
Đặc biệt trong hoàn cảnh khó khăn khốn cùng, tình thương yêu sẽ toả sáng và là sợi dây diệu
kì gắn kết những trái tim, đưa những phận người cùng nhau vượt qua, đi đến chân trời của hạnh
phúc. Nếu bạn còn băn khoăn về sức mạnh diệu kì ấy của tình thương yêu, bạn hãy đọc “Vợ
nhặt” của Kim Lân. Đây là một truyện ngắn xuất sắc viết về con người trong nạn đói tối tăm
nhưng vẫn giữ trọn hơi ấm của tình thương và niềm hi vọng. Đặc biệt khi đi sâu khám phá, tìm
hiểu diễn biến tâm trạng và hành động của những nhân vật vào buổi sáng hôm sau trong câu
chuyện, bạn đọc càng thêm thấm thía, cảm động, thêm cảm phục tư tưởng nhân đạo của nhà
văn Kim Lân.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân được đánh giá là nhà văn của làng quê
Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho người
nông dân. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường
nhưng chan chứa nghĩa tình. Chẳng thế mà nhà văn Nguyên Hồng từng “phán” về đồng nghiệp
của mình rằng: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu
nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn”. Đến với “Vợ nhặt” - tác phẩm tiêu biểu trong sự
nghiệp sáng tác của Kim Lân, ta càng hiểu rõ và thấm nhuần hơn điều này. Tác phẩm được in
trong tập truyện "Con chó xấu xí", có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", sau hoà bình lập
lại, Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt". Truyện ngắn này
của Kim Lân đã tái hiện lại số phận con người trong nạn đói thê thảm ở nước ta năm 1945,
đồng thời thể hiện được vẻ đẹp tình người và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của cái
chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Đọc “Vợ nhặt”, tôi thường bất giác nhớ tới một ý của I. Bônđarep , theo nhà văn Nga
này thì nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột. Có thể ai đó muốn tranh luận về ý
kiến trên nhưng ít nhất thì nó cũng ứng được với truyện ngắn của Kim Lân mà ta đang nói tới.

85
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh của năm Ất Dậu, cái năm vẫn được nhiều người lớn
tuổi quen gọi là năm đói. Cái nạn đói của năm Ất Dậu không bao giờ quên được ấy có lẽ là tai
họa thảm khốc nhất của một dân tộc mà số phận vốn đã lắm tai nhiều họa. Giữa bao khốn khổ,
cùng cực ấy, một anh cu Tràng - ngờ nghệch, nghèo túng - lại bỗng dưng “nhặt được” vợ, là
một người con gái thô kệch, cũng không có gì trong tay. Hai số phận éo le vì bị dồn vào bước
đường cùng, hay vì tình thương trắc ẩn, đã gặp được nhau và từ nay là đi chung một đường.
Con đường của họ vẫn luôn mấp mé trên ranh giới của sự sống và cái chết. Thế nhưng thay vì
reo rắc vào tâm trí bạn đọc những đau thương, tang tóc, nhà văn Kim Lân lại đem lên trang
giấy ánh sáng và hơi ấm của tình người. Cả ba nhân vật: Tràng, mẹ của Tràng và thị đều có
những biến đổi về tâm lí và hành động thể hiện điều đó rất rõ rệt. Trong buổi sáng hôm sau,
không còn những bất ngờ, ngạc nhiên, dụt dè, tủi hổ, cả ba nhân vật đã có sự gắn kết trong
những suy nghĩ và hành động trách nhiệm hơn, gần gũi hơn, dù vẫn trong không khí nạn đói ê
chề nhưng những trang văn ấy cho phép người đọc hướng về một tương lai hạnh phúc và niềm
vui rồi sẽ mỉm cười với những con người bất hạnh.
Sự thay đổi rõ rệt nhất có lẽ ở nhân vật Tràng. Buổi sáng đầu tiên có vợ, Tràng cảm
nhận có một cái gì mới mẻ “trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”.
Anh chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.” Chắc hẳn là
những xúc cảm lạ lẫm, bởi giờ đây Tràng đã có vợ, trở thành trụ cột gia đình. Bản tính ngờ
nghệch, khờ khạo của Tràng trong buổi sáng nay đã thay đổi hẳn, ta có cảm giác như anh chàng
đã trưởng thành hơn cả trong nếp nghĩ và hành động. Anh biết để ý rồi ngắm nghía quang cảnh
xung quanh căn nhà nhỏ của mình: nhà cửa, sân vườn được quét tước gọn gàng, đống quần áo
vắt bao ngày đã được giặt giũ sạch sẽ mang ra phơi phóng… Người phụ nữ với bộ quần áo rách
như tổ đỉa ngày hôm qua nay đã trở thành người vợ đúng mực hiền lành, đảm đang, chăm chỉ.
Niềm hạnh phúc dâng ngập trong lòng Tràng. Kim Lân quả thực đã rất tài khi miêu tả diễn biến
tâm lí nhân vật. Rằng trong tâm tưởng anh Tràng nay đã khác rồi, biết bao sự thay đổi diễn ra
rất nhanh, là bởi thời gian hay bởi bản tính nhân vật, nhưng tác giả không khiến chúng ta ngỡ
ngàng, choáng ngợp. Mọi thay đổi của Tràng đều được miêu tả đến từng chi tiết nhỏ nhất, tiết
tấu câu chuyện không giật gân, bất ngờ nhưng từng dòng văn lại thấm thía khắc sâu vào tâm
tưởng, kéo lại nụ cười trên môi bạn đọc sau những phút nheo mày ngán ngẩm bởi cái đói cứ
đeo bám dai dẳng còn con người thì chật vật, khốn cùng. Giờ đây, cái đói tuy vẫn còn đó nhưng
những con người đang lay lắt kia nay đã có một nguồn sức mạnh mới, tràn đầy và nhiều hứa
hẹn. Sức mạnh ấy hiển hiện ngay trong cảnh vật xung quanh ngôi nhà nhỏ tuy thật đơn giản,
bình thường nhưng lại khiến Tràng “thấm thía cảm động”. Có lẽ Tràng cũng chẳng thể ngờ câu

86
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nói tầm phơ tầm phào lúc mệt nhọc lại đem đến tổ ấm gia đình cho anh, khiến anh phải nghĩ
đến những điều mà trước đây chưa bao giờ anh mường tượng đến. “Bỗng nhiên hắn thấy hắn
thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Tạm quên đi cảnh nghèo đói thảm
hại đang bủa vây, tình yêu, gia đình đã thắp sáng lên ngọn lửa của bổn phận, trách nhiệm trong
lòng Tràng: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho
vợ con sau này”. Rõ ràng, với tấm lòng khao khát yêu thương, Tràng đã đứng vững để cùng
người vợ ước mơ những điều đơn giản nhất của con người: mái ấm gia đình. Tràng nghiêm túc
muốn là một người chồng tốt, một người con hiếu thảo. Bản nhạc cuộc đời Tràng vốn chỉ toàn
những nốt trầm lặng, ê chề thì giờ đây, nhà văn Kim Lân đã rung lên những thanh âm cao trong
và rộn rã, cho phép bạn đọc chúng ta hi vọng về một tương lai sáng lạn và hạnh phúc hơn đối
với con người này, gia đình này.
Từ những thay đổi tích cực trong nếp nghĩ, Tràng tất yếu có sự thay đổi trong hành
động: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại
căn nhà.” Bởi như nhà văn hí giải: “Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho
quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.” Không biết điều
đó có thành sự thật hay không nhưng niềm hạnh phúc, sự trưởng thành trong Tràng là thật. Tác
giả không kể câu chuyện cổ tích giữa đời thường mà đang đem đến cho bạn đọc sự thật về niềm
hạnh phúc đơn sơ nhưng ý nghĩa đối với những số phận đang lay lắt vì đói vẫn đang bấu víu
vào nhau, vì nhau mà cùng hi vọng về một tương lai hạnh phúc.
Và đúng như vậy, có một đốm lửa đang nhen nhóm, sưởi ấm cho mái ấm gia đình kia.
Đó là đốm lửa được thắp lên từ hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” cứ trở đi
trở lại trong óc Tràng. Một hình ảnh nhân văn quá đỗi. Nhà văn Kim Lân không chỉ thấu hiểu,
cảm thông với những số phận khắc khổ, khốn cùng mà ông còn đem đến cho họ con đường
sống bằng sự đấu tranh, bằng tư tưởng Cách mạng. Hình ảnh xuất hiện trong óc Tràng có lẽ là
nhận thức tất yếu, sau những thay đổi tích cực trong tâm lí và hành động. Những người dân lao
động từ bóng tối hướng lên ánh sáng, giác ngộ lí tưởng Cách mạng. Tràng và thị sau này rất có
thể sẽ trở thành những chiến sĩ cách mạng tiên phong, đứng lên giành lấy cuộc sống tốt đẹp
hơn cho chính bản thân họ. Tràng và người vợ của mình sẽ có đủ dũng khí để đối mặt với
những bão tố của cuộc đời. Bởi lẽ bây giờ, sau một cú rẽ ngang đột ngột, dường như cuộc đời
Tràng đang bước sang một trang mới với nhiều niềm tin, hi vọng và mong chờ.
Người mẹ của Tràng cũng xuất hiện trong buổi sáng hôm sau với những thay đổi trong
suy nghĩ và hành động. Thấy “con giai” đã dậy, bà cụ Tứ ân cần nhắc con dâu: “Anh ấy dậy

87
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.” Nghe sao mà dịu dàng, nghe sao mà gần gũi! Ta cứ
ngỡ như gia đình này đã gắn nó với nhau từ lâu, đã cùng nhau trải qua bao biến cố thì mới có
sự thấu hiểu và tâm lí như thế. Để rồi qua đó, một người mẹ nhân hậu, vị tha hiện lên đầy phúc
hậu và chân chất. Sáng ấy, bà lão “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, “cái mặt bủng beo
u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Dáng vẻ “xăm xắn” của bà trong sáng ngày hôm sau khi cùng
con dâu mới thu dọn, quét tước sân vườn, nhà cửa đã cho thấy ý thức vun đắp cho cuộc sống
gia đình cùng niềm hi vọng mong manh mà mãnh liệt của bà về một sự thay đổi có cơ khấm
khá hơn cho cuộc đời của mấy mẹ con. Bà cũng là người chủ động, nhiệt tình mang lại nhiều
nhất niềm vui cho bữa ăn ngày đói. Mâm cơm lúc đầu, dù trông thật thảm hại khi giữa cái mẹt
rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo nhưng dù sao vẫn là mâm
cơm của con người, và bữa ăn của mấy mẹ con vẫn thật vui vẻ, đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau – từ cách nói dân dã quen thuộc về việc |ngoảnh đi
ngoảnh lại, chẳng mấy chốc có gà mà ăn!” đến cách bà dựa vào một triết lí dân gian đầy sức
thuyết phục để gieo vào lòng các con niềm tin về sự đổi đời bởi theo lẽ “ai giàu ba họ, ai khó
ba đời!” Bà đã động viên các con bằng những dự tính mà ai nhìn vào cũng biết là viển vông,
xa vời trong lúc đó, nhưng nghe cách nói của bà, vẫn thấy náo nức một hi vọng khi nghĩ rằng,
nếu may mắn và cố gắng thì biết đâu, họ vẫn có thể sống, có thể hạnh phúc! Và bà đã gắng
gượng một cách thật dũng cảm khi cái đói hiện ra thê thảm ở nồi cháo cám. Kim Lân đã miêu
tả hình ảnh bà cụ Tứ trong đoạn văn chua chát này bằng rất nhiều động từ: bà “lật đật chạy
xuống bếp”, “lễ mễ” bưng ra một cái nồi bốc hơi nghi ngút, “đặt cái nồi xuống”, “cầm cái môi
vừa khuấy khuấy vừa cười”… rồi múc và đưa cho các con những bát cháo cám! Tất cả những
việc này, bà làm bằng thái độ ân cần, đon đả. Để rồi đến khi không thể kéo dài cảnh đầm ấm ở
nửa đầu bữa ăn, không thể tiếp tục giữ cho các con cảm giác vui vẻ hạnh phúc trong ngày đầu
tiên của cuộc sống chồng vợ, cũng không thể trì hoãn giây phút cay đắng nhất của bữa ăn,
không thể che giấu sự thật phũ phàng đã hiện lên trong bát cháo cám đắng chát, bà lại gắng
gượng an ủi những đứa con đang tủi hổ cắm đầu ăn cho xong lần: “Cám đấy mày ạ, hì! Ngon
đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cắm mà ăn đấy.” Chính sự dũng cảm và
tình yêu thương mênh mông của bà cụ Tứ đã khiến thứ thức ăn của loài vật thấm đẫm tình
nghĩa con người, giúp cho các con thấu hiểu được tình thương, sự gắng gượng đầy bản lĩnh của
mẹ, giúp họ có sức mạnh đối mặt với khốn khổ, vượt lên trên cái đói, cái thê thảm để mà vui,
để mà hi vọng.
Tuy nhiên cái vui ấy, niềm hi vọng ấy dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm
đi trong cái tăm tối hiện tại. Giữa bao nhiêu đắng chát của bữa cơm ngày đói, sự thật thê thảm

88
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

lại len lỏi đe dọa hạnh phúc mong manh bởi tiếng trống thúc thuế, đám quạ đen bay vẩn trên
bầu trời. Bà cụ Tứ dù đã thật cố gắng lạc quan nhưng sau cùng vẫn phải lo lắng trong bất lực.
Bà khóc. Nhưng vẫn cố không để các con nhìn thấy. Bạn đọc xúc động trước những giọt nước
mắt ấy, trân trọng vô cùng trước tình thương yêu mà người mẹ già dành cả đời để vun vén lo
cho các con.
Sự đổi thay cũng đến với người vợ của Tràng nhưng theo một cách có phần hơi khác.
Thị đã mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho những con người từ nay sẽ gắn bó với thị trong
suốt cuộc đời: Tràng thấy một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng, bà
cụ Tứ sung sướng với nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh, rạng rỡ. Đặc biệt, thị còn mang đến cho
ngôi nhà tuềnh toàng, rách nát của Tràng một sức sống mới mẻ, kì diệu: “những đống rác mùn
trong sân đã được hót gọn, dây quần áo vắt khươm mươi niên được phơi khô hong ráo, hai cái
ang bao lâu nay vẫn khô cong bây giờ nước đầy ăm ắp”… Chi tiết thị đón lấy bát cháo cám từ
tay mẹ chồng, “đưa mắt lên nhìn, hai con mắt thị tối lại”, “thị điềm nhiên và vào miệng” cho
thấy người đàn bà này đã hiểu những cố gắng và cả tấm lòng của người mẹ. Thị không chỉ biết
cư xử ý tứ mà còn có một tấm lòng trân trọng nghĩa tình, đặc biệt là một bản lĩnh dũng cảm.
Cử chỉ và thái độ điềm nhiên của thị đã làm vơi dịu đi rất nhiều nỗi cay cực, chua xót, tủi hổ
của người mẹ chồng nhân hậu. Nếu bà cụ Tứ thể hiện tấm lòng người mẹ qua những cử chỉ ân
cần, ấm áp thì người con dâu cũng đã không phụ tấm lòng yêu thương ấy trong cách ứng xử
thật ý tứ, nồng ấm tình người. Hơn nữa, việc thị điềm nhiên chấp nhận miếng cháo cám đắng
chát cũng chứng tỏ thị sẽ chấp nhận đối mặt với tất cả những khó khăn sắp tới bên cạnh những
con người nhân ái từ nay đã là gia đình, là người thân của thị. Trong ba nhân vật của truyện
ngắn, thị cũng là người đầu tiên nhen nhóm niềm hi vọng về sự thay đổi cuộc đời khi nhắc đến
chuyện Việt Minh lãnh đạo nhân dân đi phá kho thóc của Nhật ở Thái Nguyên, Bắc Giang và
câu chuyện kì diệu của những con người cùng ở dưới bầu trời này, trong đất nước này đã gieo
vào lòng người đang ngồi ăn cháo cám niềm hi vọng mãnh liệt về sự đổi đời, về một tương lai
ấm no, tươi sáng.
Vẻ đẹp của từng nhân vật được toát lên qua những trang viết của Kim Lân. Vượt qua
tất cả những khó khăn, những tủi hờn, khổ cực, những người lao động trong xã hội cũ vẫn
nương tựa vào nhau để mà sống, mà hi vọng. Đem lên trang văn khung cảnh một gia đình giữa
nạn đói, Kim Lân đã thật thành công khi xây dựng tình huống truyện, kết hợp với vốn liếng
ngôn ngữ giàu có và đặc sắc. Cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không dễ phỏng theo, giản
dị vô cùng mà sao cứ thấy ánh lên chất hào hoa Kinh Bắc. Như về cách làm cho những tâm
trạng kín đáo nhất phải hiện lên qua những cử chỉ mà chỉ cần thiếu đi một chút tinh tế, người

89
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ta sẽ bỏ qua: tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất, một tiếng khẽ thở dài, những bước
chân bước vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám trong miệng…
Tôi vẫn còn nhớ nhà văn Nguyễn Khải trong tác phẩm “Mùa lạc” đã đúc kết một triết
lí: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh gian khổ, ở đời
này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh đế
bước qua những ranh giới ấy”. Và bạn đọc chúng ta phải lấy làm vui mừng khi những ngòi bút
như Kim Lân đã để cho các nhân vật của mình có đủ sức mạnh để bước qua những ranh giới
cuộc đời. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn thấm thía ở sự thấu hiểu và đồng cảm với những số
phận bất hạnh, thăng hoa ở sự ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn những con người có thể ngoại hình còn
xấu xí, thô kệch, khổ đau. Lật giở từng trang văn thấm đượm tinh thần nhân đạo ấy, người đọc
đã có dịp được cùng khóc, cùng cười, cùng khổ đau, cùng vỡ òa trong hạnh phúc với các nhân
vật. Một hồn văn đôn hậu, giản dị như Kim Lân, với tư tưởng và cách mở nút cho số phận nhân
vật đã có sự sáng tạo và tiến bộ khi đem đến một cái kết đầy hứa hẹn, đầy tươi sáng cho các
nhân vật, gửi gắm trong hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Những phận đời
lay lắt như Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ cuối cùng cũng tìm được ánh sáng của tình người,
của hi vọng. Giá trị nhân đạo của tác phẩm văn chương vẫn luôn chinh phục người đọc theo
cách cảm động và thấm thía như thế.
Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lí tinh tế
của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh
thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy trong khung cảnh buổi sáng hôm
sau đã tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. Thông điệp của Kim Lân
là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Tôi nhớ về ý nghĩ của nhân vật Paven trong tiểu
thuyết nổi tiếng “Thép đã tôi thế đấy”: “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể
chịu được nữa”. Và “Vợ nhặt” là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã "biết sống"
như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt. Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển
hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc
đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ thật cảm động và hấp
dẫn.

ĐỀ 15: Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị như sau:
“Ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi.” (Tô Hoài- Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2015, tr6).

90
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Cảm nhận của anh/chị về những “cái khổ” mà Mị phải trải qua khi về làm dâu nhà thống
lí Pá Tra? Từ sự cảm nhận đó, hãy bình luận về ngòi bút hiện thực và tư tưởng nhân đạo
của nhà văn Tô Hoài.
Phân tích đề:
- Vấn đề NL: Cảm nhận về những “cái khổ” mà Mị phải trải qua khi về làm dâu nhà
thống lí Pá Tra. Từ sự cảm nhận đó, bình luận về ngòi bút hiện thực và tư tưởng nhân
đạo của nhà văn Tô Hoài.
- Dạng đề: phân tích
MB: Dẫn dắt + nêu vấn đề
- Có thể đi từ giá trị hiện thực và nhân đạo trong văn học
- Nhận định về giá trị của văn học
- Phong cách của nhà văn Tô Hoài
TB:
LĐ 1: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí câu văn
- Tô Hoài là “nhà văn của phong tục”. Với đôi mắt quan sát chi tiết và tinh tế, lối văn
viết chân thực mà lôi cuốn, sinh động, nhà văn đã để lại dấu ấn trên văn đàn với biết
bao tác phẩm giá trị.
- Như một sự “trả ân trả tình” đối với đất và người Tây Bắc, Tô Hoài sáng tác tập “Truyện
Tây Bắc” năm 1952. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn nổi bật trong tập truyện này,
viết về những khổ đau, áp bức mà người dân đồng bào H’mông phải gánh chịu trong
chế độ thần quyền, bạo quyền, nhưng quan trọng hơn là sự phản kháng mạnh mẽ của
họ để tìm lại tự do, hạnh phúc mà tiêu biểu là nhân vật Mị.
- Nhà văn Tô Hoài đã đi sâu khám phá đời sống của đồng bào các dân tộc, thấu hiểu được
cảnh ngộ, nỗi đau cùng vẻ đẹp tinh thần của người dân miền Tây Bắc thời kháng Pháp
để khắc họa lên một cô Mị đẹp người đẹp nết nhưng có số phận bất hạnh. Đặc biệt khi
bị ép về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, nhà văn đã khắc họa tình cảnh của Mị “ở
lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
LĐ 2: Cảm nhận nhân vật qua câu văn khái quát
- Câu văn là lời kể, lời bình luận của người kể theo điểm nhìn của nhân vật Mị. Câu văn
đã khái quát lên số phận, cuộc đời, thái độ của nàng dâu gạt nợ và hậu quả của sự áp
bức mà giai cấp thống trị dội lên cuộc đời người phụ nữ.
- Nêu qua vài nét về lai lịch, nguyên nhân Mị về làm dâu nhà thống lí:
+ Mị là cô gái trẻ dân tộc Mèo. Cô hiếu thảo, xinh đẹp, lại có tài thổi sáo.

91
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

+ Đương độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời thì tai họa ập đến với Mị. Do món nợ
truyền kiếp từ thời cha mẹ để lại mà Mị bị ép làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí
Pá Tra - một tên địa chủ độc ác và xấu xa nhất vùng Hồng Ngài.
+ Cuộc đời làm dâu gạt nợ của Mị không gì hơn ngoài những đớn đau, sự tủi cực
mà đáng sợ hơn, dần dần nó làm hao mòn đi sức sống của con người.
- Cảm nhận những “cái khổ” của Mị:
+ Thân phận nàng dâu nhưng thực tế Mị là một nô tì, kẻ tôi đòi nơi nhà thống lí.
Trong tác phẩm, Mị xuất hiện bên cạnh những vật vô tri, có cảm giác như người
con gái ấy cũng không hề có một chút cảm xúc nào. Trước cửa có một tảng đá
đặt cạnh chuồng ngựa, hình ảnh của tảng đá ấy phải chẳng là tảng đá của số
phận đang đè nặng lên Mị. Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một số phận đau
khổ, bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng tò mò về số phận của người con gái
này. => Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi,
âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con
dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Từ
đó nhà văn từng bước đưa người đọc khám phá nguyên do của những nghịch lí
ấy, hay cũng chính là những “cái khổ” mà Mị phải trải qua.
+ Mị bị đày đọa thể xác (lao động khổ sai, bị hành hạ bởi roi vọt của chồng). Dưới
mấy tầng áp bức, Mị phải sống kiếp sống như con vật, thậm chí không bằng con
vật “bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “lúc
nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc làm giống nhau, tiếp nhau vẽ ra mỗi
năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.”
+ Nỗi đau tinh thần (phải sống chịu đựng với người mình không yêu, bị cầm tù
nơi căn phòng tối tăm, thần quyền trói buộc)
● Bị giam hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của nhà thống lí,
Mị đang chết dần, chết mòn theo năm tháng, tâm hồn lạnh lẽo, trống
vắng. Mị bị tê liệt cả lòng yêu đời, sức sống lẫn tinh thần phản kháng,
mất hết ý thức về thời gian, không gian: “ở lâu trong cái khổ Mị quen
khổ rồi”, “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa”.
● Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn
tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng
không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần

92
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi
xuân và sức sống của cô.
=> Những áp bức ấy đã làm cho nhân vật tê liệt, mất đi cảm giác, ý thức, “ở lâu trong cái khổ,
Mị quen khổ rồi”.
- Đặc sắc nghệ thuật: Nghệ thuật miêu tả cử chỉ, điệu bộ của nhân vật, cách miêu tả và
xây dựng bối cảnh mang đậm bản sắc của dân tộc bản địa. Ngôn ngữ miêu tả khách
quan nhưng khiến người đọc xúc động, cảm thương cho nhân vật.
LĐ 3: Bình luận về giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của nhà văn.
- Hiện thực ở giá trị khái quát số phận, cuộc đời của người phụ nữ miền núi sống kiếp
trâu ngựa; thái độ và hành động tàn bạo của giai cấp thống trị. Nhà văn Tô Hoài đã đi
sâu khám phá cuộc sống của người dân, cùng ăn cùng ở để thấu hiểu tâm lí và hoàn
cảnh của người dân nơi đây.
+ Bức tranh đời sống của đồng bảo H’mông hiện lên sinh động, chân thực từ
khung cảnh thiên nhiên đến những phong tục tập quán hàng ngày.
+ Nỗi cơ cực của Mị cũng chính là hiện thực diễn ra ở đất Tây Bắc những ngày
chưa giải phóng. Nhà văn đã khắc họa lại và đem đến trước mắt người đọc tất
cả sự thật ấy.
- Nhân đạo: Tấm lòng xót thương, cảm thông chia sẻ của nhà văn và niềm căm phẫn
trước bất công ngang trái mà giai cấp thống trị đã gieo rắc cho người lao động.
+ Nhà văn thấu hiểu nỗi đau thể xác và tinh thần, đặc biệt là những hủ tục đã ăn
sâu vào tiềm thức của người dân nơi đây để từ đó cảm thông và mong muốn
một cuộc sống tốt đẹp hơn đến với đồng bào miền núi.
+ Diễn tả sự bất hạnh của Mị cũng chính là tiếng nói tố cáo đanh thép của nhà văn
đối với chế độ thần quyền, bạo quyền đã đày đọa và bóc lột con người.
- Nét mới trong cảm quan hiện thực và nhân đạo: Thế giới Tây Bắc hiện ra không xa lạ
trong cái nhìn mỉa mai, định kiện mà trái lại bằng chính cái nhìn nâng niu, bênh vực
của nhà văn dành cho người lao động.
LĐ4: Đánh giá
- Giọng văn chậm rãi như nhịp chảy lê thê, buồn chán về bi kịch của cô gái như Mị; miêu
tả cử chỉ, điệu bộ; tô đậm chi tiết; ngôn ngữ đậm màu sắc phong tục…
- Tấm lòng của nhà văn dành cho đất và người Tây Bắc.
KB: Khẳng định lại vấn đề + liên hệ mở rộng

93
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ĐỀ 16: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ
(“Vợ chồng A Phủ” - Tô Hoài)
Bài làm
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.
Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng
tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm
“Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy. Nhà văn mang đến cho người
đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong
đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ.
Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu sâu rộng
về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình ảnh, từ ngữ rất phù
hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác nhiều ở các mảng đề tài khác
nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về Tây Bắc và viết cả về Hà Nội. Nhà thơ
Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng: “Tô Hoài
là nhà Hà Nội học” bởi những kiến thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào,
một thư viện nào. Sáng tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự quan tâm sâu
sắc cho hình ảnh của người lao động đặc biệt là đồng bào Tây Bắc. Theo như Tô Hoài tâm sự,
vì mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở
lại đây, trả món ân tình bằng một tập “Truyện Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là một
trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến đi thực
tế dài 8 tháng vào năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở đây, được sống, được làm việc, được
tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những
áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những
con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng
A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một trong những phẩm chất cao đẹp của
người lao động – sức sống tiềm tàng.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Cô vốn là một cô gái vùng
cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ
cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa
đày về cả thể xác lẫn tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay
nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà

94
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

thống lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất
hạnh. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống,
mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong
đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị
muốn đi chơi. Sức sống tiềm tàng dưới tác động của bao yếu tố đã dần trỗi dậy mạnh mẽ.
Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử lại một lần nữa dập tắt sức sống của Mị. Dù phải chịu đau
đớn và kết cục ê chề nhưng đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự
sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một
đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị
lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái
khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng
Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa
ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Và cuối cùng, luồng gió ấy
cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về.
Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình.
Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó
đã đạp Mị ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa đối với người con gái này
không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị
trong những năm tháng đầy chai sạn này, mà theo cách lí giải của tác giả Tô Hoài, ấy chính là
phần vô thức của con người: “Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô
vọng của cuộc đời Mị, dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt
cùng”. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - Chàng trai gạt
nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.
Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt ngã.
Nhưng ban đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết là A Phủ ấy,
“Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng
thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm
lí bình thường, hợp lí. Nó hợp lí là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể
xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị
tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình
và cả nỗi đau của người khác. Hơn thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa
lạ ở nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống

95
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính vì vậy họ chẳng
còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.
Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được tâm hồn
Mị nữa rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là dòng nước mắt của A Phủ.
Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải
đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng
giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Quả thật “Khi
tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Mị hiểu cảm giác bị trói
đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói như vậy. Ở
đoạn văn này, tác giả không hề đề cập đến nỗi đau về thể xác của Mị, cũng không hề viết về
nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả đều hiện lên thật rõ. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ
bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn
bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được tội ác
của cha con thống lí một cách cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước đến nay,
ngay cả khi bị trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức về kẻ thù,
căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Nhớ
đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của
mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ
xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ: “cơ chừng
này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc
gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất
hiện thật rõ ý muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt dây
trói đầy dũng cảm.
Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước khi cắt:
Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào đấy...”, rất có thể
Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương người
trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây
mây. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị
trong đêm mùa đông này. Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản kháng cái
ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi
cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy.
Mị thì thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời

96
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong
bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị
rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Bởi theo tập tục của dân tộc
của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng phải chết ở nhà đó, nếu chạy trốn cùng A Phủ thì
Mị không đơn giản chỉ là giải thoát cho mình mà còn là làm trái với tập tục, với truyền thống.
Đây chẳng còn là chuyện về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý niệm.
Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời cái
hình ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi cũng vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn
tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết.
Trong tình huống đó, cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi. Bước chân
của Mị như đạp đổ chế độ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng
tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”.
Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên đã làm quặn
đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm nhận rõ nhất về biết bao khổ cực Mị đã phải
gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất thảy của niềm khao khát sống trong
Mị. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Hai người
rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến, chỉ
biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này.
Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ chính là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời
Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức sống tiềm tàng, âm ỉ đã phát triển
thành sức mạnh giải phóng để thay đổi cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử dụng
nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất
ngờ, thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa ta đến chốn Hồng Ngài đầy dẫy đau thương
nhưng vẫn sáng lên khao khát sống mãnh liệt của con người. Từ hành động cứu người của Mị,
chúng ta nhớ đến sự việc giải cứu linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác
phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm
thay đổi suy nghĩ và tâm tính của một con người triền miên trong cơn say và tội lỗi. Phải chăng
“tình thương là một thứ năng lượng kì diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những phép lạ”. Hay
như sức sống mãnh liệt của những con người đang trên bờ vực chết vì đói trong “Vợ nhặt” của
Kim Lân, sau cùng họ vẫn hướng về ánh sáng của no ấm, tự do, hạnh phúc. Tiềm ẩn trong mỗi
con người vẫn luôn là khát vọng sống lớn lao mà không một khó khăn, không một cường quyền,
bạo quyền nào có thể vùi dập hoàn toàn.

97
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Một loạt câu văn ngắn, nhiều động từ đã được Tô Hoài sử dụng tạo nên tình huống hành
động, giàu kịch tính cho đoạn trích. Khác với những sự kiện ở đoạn trước, tâm lí của Mị được
thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại. Trong sự kiện cuối cùng mang tính chất cao trào này,
nhà văn vừa sử dụng ngôn ngữ độc thoại, vừa xen kẽ những lời thoại ngắn nhằm tạo độ nén,
độ căng cho tác phẩm. Từ đó nhà văn khẳng định sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng
đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi
những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt
Nam nói chung. Nhà văn đã rất cảm thông và xót thương cho số phận tủi cực, không lối thoát
của đồng bào bị áp bức như Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu
thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân
đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời, tác giả Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí
muôn đời: “Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh’’, để chống lại áp bức, con người
có thể dũng cảm vùng lên mạnh mẽ, dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc cảm
đặc biệt. Hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ đã cởi nút thắt cho
bao nhiêu tăm tối và cùng cực của con người, đó nhưng một lời tuyên ngôn về sức mạnh của
tình thương yêu và khát khao sống, khát khao tự do mãnh liệt. Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả
thành công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền
núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh
hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự trở thành “kẻ nâng giấc cho những
con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn
Minh Châu)

ĐỀ 17: Cảm nhận của anh/chị về sự hung bạo của sông Đà trong đoạn trích sau:
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút
nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu… Cái phim
ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy
mình đang lấy gân rồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái
cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
Bài làm

Trong những vần thơ của mình, Nguyễn Đình Thi đã từng viết:

98
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”

Việt Nam - một đất nước với hơn bốn nghìn năm lịch sử, lưng tựa thế núi, mặt trông ra biển
Đông. Một đất nước được tạo hóa ban tặng những phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, cảnh sắc
hùng vĩ, rung động lòng người. Có biết bao nhiêu cảnh đẹp đã bước vào văn học nghệ thuật,
trở thành nguồn cảm hứng bất tận của nhiều áng văn thơ. Một trong số đó ta không thể không
kể đến vẻ đẹp của dòng sông Đà – một trong những kiệt tác của thiên nhiên mà chỉ khi được
viết dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân mới thực sự trở nên chân thực, sống động. Khát khao cống
hiến cho nghệ thuật, khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ, dữ dội, cộng với
chất nghệ sĩ phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân đến với dòng sông Đà để văn học
Việt Nam có thêm hình tượng một con sông, người yêu văn chương có thêm một tác phẩm để
mà yêu dấu, kính trọng – “Người lái đò Sông Đà”. Trong tác phẩm này, nổi bật có thể kể đến
đoạn trích miêu tả con sông Đà hung bạo với những cái hút nước chết người nơi quãng Tà
Mường Vát.

“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong
cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình". Đúng vậy, những
nhà văn, nhà thơ, những người nghệ sĩ luôn sáng tạo nên những sản phẩm nghệ thuật độc đáo
và đúng chất riêng của mình. Về phong cách độc đáo, ta không thể không kể đến Nguyễn Tuân
- người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, người đã tự nhận mình “sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật
bằng hai chữ viết hoa”. Phong cách sáng tác tài hoa, uyên bác cùng đam mê xê dịch đã đưa
Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng miền Tổ quốc, chắp bút cho bao áng văn đặc sắc, điêu luyện.
Và Nguyễn Tuân cứ thế đến với sông Đà như một lẽ tất yếu. Là thành quả chuyến đi gian khổ
và hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 –
1960, tùy bút “Sông Đà” nói chung mà tiêu biểu là đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” đã không
chỉ thỏa mãn niềm khát khao xê dịch của tác giả mà chủ yếu đã tìm được chất vàng trong vẻ
đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của
tâm hồn con người nơi đây trong cuộc sống hằng ngày của họ.

99
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Những hình tượng được xây dựng trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân đều bao chứa
những tính cách đặc biệt. Sông Đà cũng là một hình tượng như vậy. Trải suốt từ trang đầu đến
trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại ở nhiều chiều, nhiều góc độ khác
nhau. Đặc biệt những dòng văn miêu tả cái hút nước trên sông Đà với sự huy động một vốn
hiểu biết phong phú ở nhiều lĩnh vực của Nguyễn Tuân đã đem đến cho bạn đọc những trải
nghiệm văn chương thực thú vị và độc đáo.

Những cái hút nước trên sông Đà là nỗi đe dọa thường trực với bất cứ con thuyền nào
đi ngang qua. Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn
nữa. Về hình thù nó giống như “cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu”. Cách
so sánh của Nguyễn Tuân giúp bạn đọc vừa có sự hình dung khái quát trong góc nhìn từ xa đối
với những cái hút nước ấy, lại vừa khiến cho bạn đọc như đang ngồi trên thuyền mà nhìn trực
diện vào những hút nước đó vậy. Miêu tả về hình thù thôi là chưa đủ, nhà văn còn đưa đến
những âm thanh dữ dội: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nó kêu ặc ặc như
tiếng rót dầu sôi vào”. Những từ tượng thanh kết hợp cùng hình ảnh so sánh chân thực đã tái
hiện thành công thứ âm thanh của một con thủy quái khổng lồ đang bị bóp cổ. Chẳng những
thế, sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ
lừ những cánh quạ đàn” rồi tường thuật: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước
ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh
để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” hay “Có những thuyền đã bị cái hút
nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng
sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Thật là những cái bẫy ghê sợ,
chết người! Từ hình ảnh đến âm thanh, tất cả đều khiến người đọc dễ dàng hình dung ra một
loài thủy quái với tâm địa độc ác. Nguyễn Tuân sử dụng nhiều từ ngữ đặc tả, sử dụng hình ảnh
so sánh thú vị để thể hiện cảm giác mà chính bản thân mình trải nghiệm sau những lần thực tế
trôi thuyền trên sông Đà.

Cứ như thế, để người đọc có thể trực tiếp trải nghiệm cảm giác đáng sợ của những cái
hút nước chết người, Nguyễn Tuân đưa ra một hình ảnh so sánh liên tưởng táo bạo: Cho một
anh quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền thúng mang theo máy quay của mình để lao vào
cái hút nước. Sau đó lia máy quay lên để thu hình cột nước cao vài sải, “cái thuyền xoay tít,
những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plogée lên một cái mặt giếng
mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê
xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Cái hay của nhà

100
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

văn này hay cũng đã trở thành thói quen, phong cách của ngòi bút Nguyễn Tuân, chính là sự
kết hợp rất nhịp nhàng giữa những câu văn thật dài và những câu văn rất ngắn. Tác giả thường
dùng câu văn ngắn để tổng kết cho biết bao những gập ghềnh, trắc trở, hiểm nguy dồn dập
trong câu văn dài đằng trước. Ở đây là tổng kết cho quá trình anh quay phim quay cuồng cùng
hút nước sông Đà để thu về thước phim táo tợn: “Thế rồi thu ảnh.” Hay ở đoạn sau, một câu
văn ngắn cũng được dùng để tổng kết cho trận chiến gian lao người lái đò vật lộn với sóng
nước Đà giang: “Thế là hết thác.” Lối viết “độc tấu” ấy, người đọc thực sự thán phục ở ngòi
bút Nguyễn Tuân. Sự hung bạo độc đáo của sông Đà dường như khiến cho nhà văn này liên
tưởng bao nhiêu, hóa thân bao nhiêu cũng là không đủ. Đặt mình vào vị trí anh quay phim cũng
là chưa thể diễn tả hết cảm giác khi đối diện với hút nước sông Đà, nhà văn còn “lấn sân” sang
tâm thế của người xem phim kí sự: “Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy,
truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân rồi giữ chặt ghế như ghì lấy
mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh
phèn”. Không biết nhà văn đã thỏa mãn với những dòng văn miêu tả này chưa nhưng với bạn
đọc, từ tri giác đến cảm giác đều thấy được sông Đà hung bạo và dữ tợn lắm rồi, chính ở những
cái hút nước mà nhà văn đã dụng công khắc họa ấy. Đọc những dòng văn của người nghệ sĩ
này, người đọc đang trong bất cứ tư thế nào cũng thường tìm tới một điểm để bấu víu. Họ sợ
độ rung, độ xoáy tít, âm thanh dữ tợn mà những cái hút nước tạo ra.

Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, sự hùng vĩ của Đà giang đã hiện ra ở nhiều
dáng vẻ khác nhau mà đáng sợ nhất có thể kể tới là những cái hút nước ở quãng Tà Mường
Vát, tất cả đều toát lên sự hoang dại, sức mạnh kỳ bí, một đối tượng ẩn chứa bao sức mạnh lạ
lùng của thiên nhiên. Con sông độc, lạ đấy thích hợp với ngòi bút độc lạ Nguyễn Tuân: “Sông
Đà quay sóng và câu văn Nguyễn Tuân cũng dậy sóng” (Phan Huy Dũng). Những dòng văn
xuôi trúc trắc gập ghềnh như muốn chạy đua cùng với sóng thác sông Đà. Ở đó ta bắt gặp rất
nhiều phép so sánh liên tưởng thú vị và bất ngờ, ngôn ngữ miêu tả thì không thể nào độc đáo
và tài hoa hơn. Hình tượng dòng sông Đà được tái hiện trong trang văn bằng tất cả tài năng và
tâm huyết của nhà văn, con người ngang tàng đấy, mạnh mẽ đây mà cũng nồng nàn tình cảm
với đất nước, con người quê hương... Văn chương bao giờ cũng là con người tác giả, thể hiện
cái nhìn tác giả trong từng chi tiết, hình ảnh. Nhiều yếu tố tập hợp lại, cho người đọc làm quen
với một con người nhà văn hoàn thiện.

“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến với xứ sở của
cái đẹp” (K.Pautopxki). Với tùy bút “Người lái đò Sông Đà” nói chung và đoạn trích trên nói

101
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

riêng, ngòi bút của Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối diệu kì giữa cái đẹp của ngôn
từ và ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh, dẫn dắt người đọc đến vẻ đẹp hung bạo mà ấn
tượng vô cùng của thiên nhiên Tây Bắc. Văn chương Nguyễn Tuân đã đem đến cho chúng ta
một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó chính là chân trời của cái đẹp, sự tài
hoa và uyên bác.

ĐỀ 18: Nêu cảm nhận của anh/chị về trích đoạn sau:


“... Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo
hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt ... Vút, vút, cửa ngoài,
cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”...
(Trích “Người lái đò Sông Đà” - Nguyễn Tuân)
Từ đó hãy làm rõ “chất vàng của thiên nhiên” và “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của
miền Tây Bắc mà nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa.
Bài làm
Bàn về “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân chia sẻ “ Tùy bút “Sông Đà là thành quả
nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ mà hào hứng
tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên
nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò”. Cuộc thám hiểm của
người nghệ sĩ không phải đến một vùng đất mới mà là nhìn, phát hiện vùng đất đó bằng đôi
mắt mới. Phải chăng Nguyễn Tuân đã nhìn núi sông Tây Bắc với lăng kính riêng, khám phá
được “chất vàng của thiên nhiên” và “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của miền Tây Bắc. Cảm
nhận đoạn trích: “... Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước
thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt ... Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác.” bạn đọc một lần nữa được đắm
chìm trong không gian hùng vĩ, mãnh liệt, tài hoa, hiểu hơn về “chất vàng” và “thứ vàng mười
đã qua thử lửa” mà Nguyễn Tuân đã dụng công khám phá và khắc họa.
Nguyễn Tuân được coi là cây đại thụ của rừng đầu nguồn Văn học Việt Nam thế kỉ XX
với một phong cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo. Vương quốc để Nguyễn Tuân xây lên tòa tháp
nguy nga tráng lệ chính là tùy bút. Ta sẽ gặp trong các thiên tùy bút chân dung của một cái tôi
tài hoa, uyên bác mà mỗi con chữ không chỉ là lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn,
chở nặng tấm lòng của nhà văn với đất nước, con người. Chính tấm lòng yêu con người, yêu
đất nước góp phần làm nên những trang văn thật tài hoa của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân là

102
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nhà văn của núi cao vực sâu, thác dữ, của những phong cảnh tuyệt mỹ. Tác phẩm “Người lái
đò Sông Đà” rút từ tập “Sông Đà” là một trong những tùy bút đặc sắc của nhà văn này. Tác
phẩm ra đời trong khí thế phấn khởi hăng say của miền Bắc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Khi
mà khắp đất nước vang “Tiếng hát con tàu”, sục sôi tiếng ca lao động vọng về từ “Đoàn thuyền
đánh cá”. Chính những âm thanh ấy đã thổi bùng lên nhiệt tình cách mạng, giục giã bước chân
yêu “xê dịch” với chút lãng tử nghệ sĩ của Nguyễn Tuân tìm về với mảnh đất miền Tây của tổ
quốc, để mê say khám phá chất vàng của thiên nhiên và con người nơi đây cũng là gợi về tâm
hồn dân tộc đúc lại trong thiên tùy bút này. Và chính nơi đây, nghệ sĩ đã khám phá được rõ
“chất vàng của thiên nhiên” và “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của miền Tây Bắc. “Chất vàng
của thiên nhiên” đó chính là những giá trị tinh túy, vẻ đẹp của thiên nhiên sông nước, “thứ vàng
mười đã qua thử lửa” để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên
vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Những vẻ đẹp tinh túy ấy được kết tinh trong đoạn trích
diễn tả hành trình vượt thác của người lái đò.
Đoạn trích miêu tả cảnh vượt thác của người lái đò mà ở đó, con sông Đà như một loài
thủy quái biết bày binh bố trận đầy tinh quái còn ông đò như một vị tướng quân lão luyện, dũng
cảm chiến đấu và giành được chiến thắng. Trận thủy chiến diễn ra với ba chặng, ở mỗi chặng
là một nét đẹp gộp lại tạo nên bức tranh với vẻ đẹp hòa hợp “ chất vàng của thiên nhiên” và
“ thứ vàng mười đã qua thử lửa”.
Tại thạch trùng vi thứ nhất, đá sông dàn thạch trận, mở ra năm cửa: bốn cửa tử và một
cửa sinh. Những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Sóng nước thì hò la vang dậy, ùa vào “bẻ
gãy cán chèo”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền” rồi “đội cả thuyền lên”, bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra, đánh miếng đòn hiểm độc nhất. Thác
nước sông Đà mưu mô xảo quyệt tới mức như thể quân liều mạng. Trước thách thức đó, ông
lái đò lúc bấy giờ đã bị thương nhưng vẫn nhất định giữ lấy mái chèo, hai chân kẹp chặt cuống
lái, mặt méo bệch đi nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo. Ông đò thực thụ là một người
chiến sĩ, người chỉ huy vô cùng bản lĩnh, dũng cảm. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào
hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá
bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò
trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc
vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối
phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
Qua được vòng thứ nhất với không ít vất vả, con đò cùng người lái đò tiếp tục vượt
trùng vi thạch trận thứ hai. Tại đây, đá sông tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch sang

103
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

bờ hữu ngạn. “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá, bám lấy thuyền rồi lôi
vào tập đoàn cửa tử”. Với ông đò “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”.
Ông “nắm chặt lấy bờm sóng, đúng guồng rồi ông đò ghì cương lái mà lái miết một đường
chéo về phía cửa đá”. Chinh chiến đã lâu, ông đò thuộc lòng binh pháp của thần sông, thần đá
nơi đây, cho nên ông lão đã vận dụng sáng tạo những chiến thuật của mình để giành lấy chiến
thắng cuối cùng. “Đứa thì ông tránh và rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn chặt đôi ra để mở
đường tiến.” Ông lão ấy đã giao chiến với tướng đá, quân đá thạch trận sông Đà như một dũng
sĩ anh hùng giữa đời thường. Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh “cưỡi”,
“nắm”, “ghì cương”, “lái miết”, “tránh”, “đảo”, “đè sấn”, “chặt đôi để mở đường tiến”... để tập
trung miêu tả những hành động chính xác, điêu luyện, thuần thục của người lái đò. Sông Đà
thì mưu mô, hung bạo, ông đò lại tài trí, dũng cảm. Cuộc vượt thác đẹp như một trận thủy chiến
mà ở đó thử thách nối tiếp thử thách, lòng người luôn phải kiên định và dũng mãnh đến cùng.
Chưa dừng lại ở đó, tiếp nơi trùng vi thạch trận thứ ba, bên phải, bên trái đều là luồng
chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ. Đúng là một đối thủ đáng gờm. Con thủy quái sông Đà
bày binh bố trận cũng nham hiểm lắm, chưa bao giờ là sự nhân nhượng và dễ dàng cho những
tay lái muốn đi qua khúc sông này. Đã hai trùng vi sắp đặt của sinh rất lắt léo, đến trùng vi thứ
ba này được coi như “vòng chung kết” của một trận đấu “cân não” đòi hỏi cả tài trí và sức lực.
Và, vào đến “vòng chung kết” này, ông lái đò hiện lên với sự nhịp nhàng, điêu luyện khi chèo
lái con thuyền: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre
xuyên qua nhanh hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.” Nguyễn Tuân đã đưa
ra một phép so sánh độc đáo và chính xác, gây được nhiều ấn tượng trong lòng đọc giả. Đó là
hình ảnh người lái đò và người lái xe đang lao xuống dốc đèo. Người lái xe khi nguy nan vẫn
còn chỗ để bám víu, đó là phanh tay, có tiến lên, lùi lại được còn đối với người lái đò bây giờ
thì không còn đường lùi “Cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao
đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà úp xuống chứ
không có lùi gì cả”.
Như vậy, với sự miêu tả chi tiết, hình ảnh sống động, kì thú, độ dài câu văn linh
hoạt, từ ngữ đắc địa, độc đáo, đoạn trích đã tái hiện trận thủy chiến trên sông Đà. Trong trận
chiến đó, sông Đà hung bạo và nham hiểm vô cùng, còn ông lái đò như một chiến tướng “tả
xung hữu đột”, phát huy trọn vẹn, đủ đầy tài trí và sự linh hoạt ứng biến của mình. Vượt qua
ba trùng vi thạch trận với rất ít cửa sinh, ông lái đò đã thành công trong việc phá vỡ trùng vi
thạch trận này để giành thắng lợi về cho mình. Ông làm chủ thiên nhiên và tin vào sức mạnh
của chính bản thân mình. Đối với người lái đò, con thuyền là chiến mã, mái chèo là thanh

104
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

gươm, vượt thác là cuộc chiến phải chiến đấu đến cùng để giành chiến thắng. Đối lập với thiên
nhiên sông nước bao la mênh mông, thế nhưng sức vóc của ông không hề nhỏ bé, đơn độc, ông
hiện lên vững chãi, lồng lộng giữa sóng nước Đà giang.
Tóm lại, “chất vàng của thiên nhiên” và “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của miền Tây
Bắc mà nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa làm nổi bật hình tượng thiên nhiên cũng như con
người nơi đây. Nhà văn dùng cách thức so sánh, dùng chữ “vàng” (vẻ đẹp và sự quý giá) để ví
von với vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng cho con sông và vẻ đẹp phẩm chất, khí phách, tài trí của
con người lao động. Nếu vẻ đẹp của thiên nhiên là “chất vàng” thì vẻ đẹp con người là “vàng
mười”, tức là vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ. Nhưng vẻ đẹp và sự quý giá ấy không dễ tìm thấy,
mà nó còn đang ẩn giấu, náu mình trong những vùng đất xa xôi, ở những thứ xù xì thô ráp, ở
trong đời sống hằng ngày. Điều đó đòi hỏi nhà văn phải là người biết tìm kiếm, sàng lọc và
phát hiện ra vẻ đẹp ấy, và thể hiện nó bằng tài năng của mình, Qua đó, tác phẩm là món quà
dâng cho đời, góp nhặt những thứ “vàng mười” đẹp đẽ của thiên nhiên đất nước và con người.
“Chất vàng” của con sông Đà thể hiện ở sức mạnh dữ dội của thác đá, tiềm ẩn trong đó giá trị
về kinh tế, văn hóa, là thử thách và cũng là động lực để con người chế ngự và thể hiện tài trí.
“Thứ vàng mười” được bộc lộ rõ nhất ở tài trí của người lái đò, người lao động bình dị nhưng
là người nghệ sĩ tài hoa thực thụ trong công việc. Người nghệ sĩ chân chính là người cầm bút
với cái Tài và cái Tâm. Nguyễn Tuân với nét bút tài hoa cùng tấm lòng nặng với đất với người,
chính tấm lòng ấy đã góp phần làm nên những trang văn tài hoa trong “ Người lái đò Sông Đà”
và đặc biệt là “chất vàng mười”, “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của vùng đất nơi đây.
“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái
đẹp” (K. Pautopxki). Với tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” và đặc biệt là trích đoạn vượt thác,
ngòi bút của Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hoà phối diệu kì giữa cái đẹp của ngôn từ và
ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh, dẫn dắt người đọc đến với vẻ đẹp hung bạo mà trữ
tình của thiên nhiên Tây Bắc, nhất là vẻ đẹp “vàng mười” nơi tâm hồn con người mà nhà văn
tập trung khắc họa qua hình tượng người lái đò. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến
cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp,
của sự tài hoa và uyên bác...

ĐỀ 19: Anh/chị hãy phân tích câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện
trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu). Từ đó, hãy bình luận về
vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thể hiện qua nhân vật này.
Bài làm

105
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Ai-ma-tốp từng nhận xét: “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức
phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. Văn học và tình
thương luôn gắn bó khăng khít như thế. Để rồi mỗi nhà văn cũng là một “nhà nhân đạo”, biết
rung động, biết viết lên những trang văn, trang đời thấm thía, truyền tải bao thông điệp khó
quên. Về những cây bút chân chính ấy, ta không thể không kể đến Nguyễn Minh Châu. Bởi
với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn này đã đem lên trang giấy số phận của những
con người còn đang lam lũ, vất vả giữ cuộc sống mới với còn đó là bao vấn đề đáng trăn trở,
nghĩ suy. Tác phẩm có nhiều chi tiết ấn tượng, song tiêu biểu nhất có thể kể đến là câu chuyện
của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện. Từ những cảm nhận về câu chuyện đó, bạn đọc
thêm xúc động và thấm thía về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Nguyễn Minh Châu là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Là cây
bút đi tiên phong cho quá trình đổi mới văn học như nhà văn Nguyên Ngọc từng ca ngợi:
“Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của
văn học ta hiện nay”; ông luôn ý thức về ngòi bút của mình, luôn trăn trở, tìm tòi, đổi mới cách
viết cũng như phát hiện những điều mới mẻ, có ý nghĩa trong cuộc sống để thể hiện. Là cây
bút có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, cuộc sống của những người lính ngoài chiến trường
cũng như cuộc sống của những người dân chài sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã dựng
lên một bức tranh góc cạnh có chiều sâu, có sức khái quát cao về cuộc sống đa diện, nhiều
chiều luôn vận động và phát triển. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn
đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn học thời kỳ đổi mới. Truyện xoáy sâu
vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài ở một vùng ven biển miền
Trung. “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983, lúc đầu được in trong tập
“Bến quê”, sau đó có vinh dự được nhà văn dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn xuất bản
năm 1987.

Truyện kể về chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng tại vùng biển miền
Trung để chụp ảnh làm lịch nghệ thuật. Một buổi sáng, Phùng đã chụp được bức ảnh “trời cho”,
đó là ảnh của một chiếc thuyền lưới vó trong buổi bình minh sương sớm. Cùng lúc ấy, Phùng
phát hiện ra câu chuyện kì lạ về gia đình hàng chài sống trên chiếc thuyền ấy: người đàn bà bị
chồng đánh đập tàn nhẫn với thái độ cam chịu. Đó không phải là lần duy nhất bạo lực diễn ra
trong gia đình này. Bởi vậy, người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời của chánh
án Đẩu, người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà khốn khổ ấy từ bỏ lão
chồng vũ phu. Nhưng người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ, chị chịu đau đớn, đánh đổi bằng mọi

106
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

giá để không phải bỏ chồng. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu
chuyện về sự thật cuộc đời. Nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu được nguyên do của
những điều tưởng chừng vô lí.

Bề nổi của câu chuyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đem lên trang truyện hình ảnh một
người đàn bà nhọc nhằn, lam lũ: “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của
đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau
một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Vất vả là vậy nhưng gia
đình lại không mấy yên vui, cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, người chồng
vũ phu. Bạn đọc, cũng giống như Đẩu và Phùng đã rất thương cảm trước tình cảnh nhẫn nhục,
cam chịu của chị. Mọi người đều muốn khuyên nhủ và giúp đỡ chị nhưng tất cả những gì nhận
về lại là sự phản đối, cầu xin không bỏ chồng. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu
người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy
nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề,
quá thê lương trong những năm qua.

Nhưng về sau, trong mong muốn từ chối sự giúp đỡ của mọi người, người đàn bà đã kể
lại câu chuyện về cuộc đời mình và gián tiếp giải thích lí do vì sao chị nhất quyết không thể bỏ
lão chồng vũ phu. Giọng điệu sắc sảo, phong thái chững chạc từng trải bất ngờ thể hiện trong
dáng vẻ của người đàn bà này càng kích thích trí tò mò của những người có mặt tại đó. Nhưng
giây phút ấy không lâu, người đàn bà lại trở về với vẻ lúng túng và sợ sệt, mong muốn được
chia sẻ nhiều hơn. Và mụ bắt đầu kể câu chuyện về cuộc đời mình, đồng thời cũng là mở cánh
cửa nhận thức và chiêm nghiệm cho mỗi chúng ta.

Từ nhỏ đã mang ngoại hình xấu xí: bị rỗ mặt, bị lên đậu mùa, lớn lên gặp được người
con trai cục tính nhưng hiền lành, mở đầu cho câu chuyện là những kỉ niệm có phần hạnh phúc,
người đàn bà thâm trầm và chững chạc hơn. Lắng nghe câu chuyện của chị, cả Đẩu và Phùng
đi từ bất ngờ, phẫn nộ sang cảm thương, xúc động. Suy cho cùng, sự nhẫn nhịn, chịu đựng của
chị đều vì con, vì cái gia đình nhỏ này cần có người chèo chống lúc biển động, phong ba. Chị
hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông:
thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đối với chị, các con chính là
cuộc sống, là lí do để chị sống tiếp. Khi thằng con trai chị xăm xăm con dao trên tay định xông
vào khi chứng kiến cảnh bố đánh đập mẹ. Chị đã nhanh tay ôm lấy nó, khóc lóc van xin nó
đừng làm ra chuyện có lỗi với đạo lí. Chị hy vọng nó đừng đi vào vết xe đổ của cha. Chị thầm
lặng chịu đựng mọi đớn đau khi bị chồng đánh, chị xem điều ấy là lẽ đương nhiên, bình thường

107
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

của cuộc sống đầy cam go. Trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn
ông khỏe mạnh và biết nghề, và quan trọng hơn tất cả vì những đứa con của chị cần được sống
và lớn lên. Vì thế, chị chấp nhận mọi thứ, nhận hết vào mình bao đau đớn về thể xác, nhận hết
những gì vất vả và tủi cực trong tâm hồn. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con
chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho
con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”.

Không chỉ hy sinh tất cả vì con cái, người đàn bà ấy con bao dung, thấu hiểu cho chồng
mình. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Chị nhận hết cái sai về mình. Chị cho
rằng do mình đẻ nhiều, do nghèo đói, do áp lực lên chồng chị mới như vậy. Chị giải thích chồng
mình khi xưa từng là một người hiền lành chăm chỉ, do hoàn cảnh nên mới trở nên hung bạo,
vũ phu. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Ta thấy trong
khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. “Vui
nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”, “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con
cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Niềm vui ấy không phải xuất phát từ những giá trị vật
chất, cũng không phải niềm vui riêng cá nhân của người đàn bà mà đó là niềm vui của một
người mẹ, người vợ. Chỉ cần con cái hạnh phúc là chị cũng cảm thấy hạnh phúc. Những điều
tưởng chừng bình dị ấy – bữa cơm no, tiếng cười vui vẻ của lũ trẻ lại là những điều mà người
đàn bà khát khao và dù niềm vui chỉ “có lúc” nhưng cũng đủ để người đàn bà chấp nhận cam
chịu những đòn roi. Bởi chị không chỉ sống cho riêng mình mà còn sống vì con. Đó là nguyên
nhân mang tính chất quyết định cho việc bà nhất mực không đồng ý ly hôn với chồng. Ẩn sau
sự cam chịu ấy là tâm hồn của một người mẹ với biết bao tình yêu, sự hi sinh đáng nể.

Trong câu chuyện của mình, người đàn bà không đứng trên phương diện của người dân
– chính quyền mà chị đứng trên phương diện của kinh nghiệm và sự từng trải: “các chú đâu
phải người làm ăn …cho nên các chú đâu có biết cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó
nhọc …”, “bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất
vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Ta thấy người phụ nữ ấy còn là
người từng trải, sâu sắc. Chị không còn xưng hô “con – quý toà” mà tự xưng là “chị” và gọi
Phùng, Đẩu là “các chú”. Nguyên nhân của sự thay đổi ấy là vì chị đã cảm nhận được thiện ý
của hai người và có lẽ còn là sự cảm thông của chị cho góc nhìn còn phiến diện của họ. Giờ
đây người đàn bà đã bỏ đi sự sợ sệt khúm núm mà chuyển sang tâm sự chuyện đời mình.

Câu chuyện đã giúp chánh án Đẩu hiểu về người đàn bà hàng chài - một phụ nữ nghèo
khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và

108
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

lòng vị tha; về người chồng của chị - vì nghèo đói bất lực nên bất kể lúc nào thấy khổ quá là
lôi vợ ra đánh; về nghệ sĩ Phùng - sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong
cách nhìn nhận, suy nghĩ và về chính mình - có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh
nghiệm sống chưa nhiều. Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà, thái độ của anh rất
cương quyết. Anh tin ở lời khuyên đúng đắn và đầy sức thuyết phục của mình: “chị không sống
nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”. Nhưng khi nghe xong câu chuyện “một cái gì đó vỡ ra
trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy
suy nghĩ”. Có lẽ giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu áp dụng trong trường hợp của người đàn bà này
là không ổn. Trong hoàn cảnh ấy, cách hành xử của chị ta dường như là không thể nào khác.

Cũng như Đẩu, nghệ sĩ Phùng im lặng sau câu chuyện của người đàn bà. Hẳn rằng,
người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đang trầm ngâm suy nghĩ những gì vừa xảy ra. Lúc này, Phùng
vỡ ra được nhiều điều. Người đàn bà thất học, quê mùa không hề cam chịu một cách vô lí,
không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời.
Trong khổ đau, cơ cực, chị biết chắt chiu từng giọt của hạnh phúc đời thường. Chị luôn sống
với tâm niệm thiêng liêng là: “sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chánh án Đẩu là
người có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng còn xa rời thực tế, chưa thực sự đi vào cuộc
sống nhân dân. Lòng tốt là điều rất quý, luật pháp là điều cần thiết nhưng cả hai vẫn chưa đủ
sức mạnh giúp con người thoát khỏi cuộc sống tăm tối và những hành động man rợ. Tất cả phải
đặt vào hoàn cảnh cụ thể và cần phải có giải pháp thiết thực. Phùng nhận thấy mình đã đơn
giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người. Cũng như người đồng đội Đẩu, anh chỉ nhìn người
một cách phiến diện, nông nổi ngây thơ chẳng khác gì thằng bé Phác: chỉ thấy được một khía
cạnh của người đàn ông hàng chài là độc ác, tàn nhẫn, vì vậy cần phải đấu tranh, lên án. Trong
khi đó, người đàn bà quê mùa, xấu xí, thất học lại có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn. Đối với
người đàn ông độc ác, dữ dằn, chị đau đớn nhưng không oán hận vì chị thấu hiểu nguyên nhân
sâu xa nguyên nhân dẫn đến hành động vũ phu ấy, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn
nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Tuy là nạn nhân của nạn bạo hành nhưng người phụ nữ
ấy đã để lại cho người đọc không chỉ niềm thương cảm về số phận bất hạnh mà còn là sự cảm
phục sâu sắc và đức hi sinh.

Từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện, ta thấy thấp thoáng trong
hình ảnh người phụ nữ ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam. Chị hiện lên với
những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương, chịu khó, cam chịu,
nhẫn nhục, một lòng một dạ vì chồng, vì con, hi sinh hạnh phúc của mình để đổi lấy hạnh phúc

109
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

gia đình; chắt chiu hạnh phúc mong manh nhỏ nhoi để làm động lực cho cho cuộc hôn nhân
không mấy êm đẹp, thấu hiểu và cảm thông cho chồng khi phải vất vả chèo chống một nhà
đông con, hiểu hoàn cảnh gia đình nên không đòi hỏi gì cho mình,... Khám phá và khắc hoạ vẻ
đẹp của người phụ nữ, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con
người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất. Cách phát hiện, miêu tả những phẩm chất đẹp đẽ
của người đàn bà hàng chài gợi trong ta nhiều bài học về cách nhìn con người, đồng thời cũng
bồi đắp ở ta thái độ yêu thương, quý trọng hơn tấm lòng, sự hi sinh của những bà những mẹ
trong cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh người đàn bà hàng chài không đẹp đẽ về ngoại hình
nhưng chính chị lại là viên ngọc quý – là một hạt ngọc bị khuất lấp trong sự lấm láp lem lũ của
cuộc sống mà Nguyễn Minh Châu hằng tìm kiếm.

Tóm lại, qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của
các nhân vật, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc thông điệp: đứng nhìn cuộc
đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối
quan hệ đa diện, nhiều chiều. Từ nhân vật người đàn bà làng chài, người đọc như được nhìn
thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Dù rơi vào hoàn
cảnh nào cũng chịu thương, chịu khó, nhẫn nhục, hi sinh. Sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí
đọc giả về hình ảnh tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn
những đứa con. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa
cho số phận con người bị mà còn thể hiện niềm tự hào cũng như sự trân trọng với những vẻ
đẹp tâm hồn cao quý dù “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

ĐỀ 20: Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là những đường tròn
đồng tâm và tâm điểm chính là con người.” Từ việc phân tích hình tượng nhân vật người
đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa" của nhà văn này hãy làm sáng
tỏ ý kiến trên.

Bài làm

Nếu như trong vở kịch “Vũ Như Tô”, Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định: “Nghệ thuật
mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”, hay trong truyện
ngắn “Giăng sáng”, Nam Cao đã tha thiết: “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” thì với
“Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu cũng góp thêm một cái nhìn về vấn đề mối quan
hệ giữa nghệ thuật đích thực và hiện thực cuộc sống, ông chỉ ra rõ tâm điểm của bức tranh cuộc
sống, văn học đó chính là “CON NGƯỜI”. Bởi lẽ như nhà văn từng quan niệm: “Văn học và

110
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người”. Với tác phẩm của
mình, và cụ thể qua việc miêu tả, khắc họa nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn đã giúp cho người đọc hiểu được hành trình khám phá hiện
thực ở bề sâu và cũng là khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người, khám phá
được tâm điểm của bức tranh văn học - cuộc sống.

Ngay từ trong chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã mong mỏi làm sao để người viết có
thể ôm cho hết vòng tay của mình hiện thực bề bộn của cuộc sống, để mỗi tác phẩm viết ra
người đọc có thể thấy dáng dấp và nhịp sống thực của họ trên trang sách. Khi đất nước đã vắng
tiếng đạn bom, ông vẫn là người ý thức rất rõ về điều này. Mỗi tác phẩm của ông là một sự tiếp
xúc hiện thực ở cự ly gần không gian, trong lòng người. Và với nhân sinh quan sâu sắc, Nguyễn
Minh Châu đào xới ngòi bút của mình gắn chặt với những băn khoăn trăn trở về số phận con
người, đó là những con người bình thường ở trong đời sống bình thường. Giữa văn học và hiện
thực đời sống luôn có sự gắn bó mật thiết mà Nguyễn Minh Châu gọi là “hai vòng tròn đồng
tâm”. Và điều đáng chú ý ở đây là tâm điểm của hai vòng tròn ấy, tâm điểm của khám phá nghệ
thuật đó chính là con người. Với phép so sánh sinh động, thú vị, ta nhận ra con người vừa là
điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học. Đồng
thời con người cũng là hệ quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề trong xã hội, mọi sự
kiện và biến cố lịch sử. Bên cạnh sự khẳng định rất đúng đắn bản chất, thiên chức của văn
chương chân chính, nhà văn còn nhấn mạnh về tư chất của người cầm bút - những người phải
“mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người”. Chính vì
lấy con người làm tâm điểm khám phá nên yêu cầu nhà văn phải là nhà nhân đạo chủ nghĩa.
Những “niềm hân hoan say mê, nỗi đau đớn khắc khoải, mối quan hoài thường trực về số phận
và hạnh phúc của những người xung quanh mình” là cung bậc cảm xúc khác nhau của nghệ sĩ
nhưng chúng đều xuất phát từ tấm lòng nhân hậu cao cả, tình yêu thương sâu sắc của người
cầm bút. Như vậy qua ý kiến này, Nguyễn Minh Châu muốn khẳng định mục đích cuối của văn
chương luôn là con người và những người viết nên trang văn, trang thơ phải là những nhà nhân
đạo thực sự. Quan điểm này hoàn toàn đúng đắn!

Ta biết đến một Nguyễn Minh Châu qua ngòi bút văn chương sắc sảo luôn khơi dậy
trong lòng độc giả nhiều lớp sóng suy tư, băn khoăn, day dứt về cuộc đời, về những người xung
quanh, về chính bản thân mình. Một nhà văn đầy bản lĩnh và kinh nghiệm như thế tất nhiên sẽ
có một nhận thức sâu sắc đầy đủ về mối quan hệ giữa đời sống với văn chương. Và người đàn
bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” có thể nói chính là hệ quy chiếu sáng rõ cho nhận

111
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

định, cho quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn ra đời năm 1983, khi
cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời
thường, từng bước đi lên xây dựng cuộc sống mới. Tại đây, nhà văn đi khám phá về những
tầng bậc sâu xa của cuộc sống, số phận cũng như vẻ đẹp tâm hồn của con người, cụ thể nhìn
đối tượng soi chiếu xoay quanh và kết tinh qua nhân vật người đàn bà hàng chài. Từ câu chuyện
về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn mang đến một
cách nhìn nhận cuộc sống con người với những trăn trở thấm đẫm tinh thần nhân đạo của
Nguyễn Minh Châu.

Sau những năm tháng chiến tranh vất vả, gian lao mà oai hùng vẻ vang, thế hệ những
nhà văn như Nguyễn Minh Châu đi tìm cảm hứng mới cho những sáng tác của mình. Với cảm
hứng thế sự rất gần gũi, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời hậu chiến mang hơi thở
của thời đại, xoáy sâu vào số phận vẻ đẹp con người trong cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn. Đó
cũng là một trong những đặc điểm nổi bật của tinh thần nhân đạo trong ngòi bút nghệ sĩ này.
Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, tinh thần nhân đạo của tác giả được thể hiện rõ
qua số phận éo le, đau thương đầy nghịch cảnh của người đàn bà hàng chài.

Truyện mở đầu trong khung cảnh miền biển đầy thơ mộng với phát hiện quý giá của
nhiếp ảnh gia tên Phùng. Nhưng trớ trêu thay, sau phát hiện về cảnh biển đẹp như bức tranh
mực tàu ấy, Phùng đã phải chứng kiến một cảnh tượng xấu xí, tàn nhẫn. Câu chuyện bắt đầu
và xoay quanh nhân vật chính - người đàn bà hàng chài. Đây là người đàn bà không tên, điển
hình cho những người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng giàu tình thương yêu. Người đàn bà
đó có ngoại hình trạc ngoài 40, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ và tấm lưng áo
bạc phếch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ.
Có lẽ chăng đây chính là chân dung con người có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, sinh ra để
gánh vác công việc, để chèo chống với phong ba! Con người chỉ vì xấu xí nên cơ hội hạnh phúc
ít hơn những người khác. Bệnh đậu mùa khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở
trên phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không nên duyên với ai. Người đàn bà lại có mang với
một anh con trai nhà hàng chài hay đến nhà mua đồ về đan lưới nên họ đã trở thành vợ chồng.
Hoàn cảnh gia đình ấy cũng nghèo khổ và thiếu thốn. Một gia đình đông đúc trên một con
thuyền chật hẹp nghèo túng quanh năm. Những ngày không đi biển được, cả nhà phải ăn xương
rồng luộc chấm muối. Cả nguồn sống của ngần ấy miệng ăn phụ thuộc hoàn toàn vào biển cả
khi dịu êm, khi phong ba bão táp.

112
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Không chỉ vậy, người đàn bà hàng chài còn phải chịu đựng những nỗi đau cả về thể xác
và tinh thần của cảnh bạo lực gia đình. Người chồng của chị vốn hiền lành nhưng cục tính, bị
cái nghèo, cái khổ và nỗi vất vả đè nặng nên biến đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu, thường
xuyên đánh vợ để giải tỏa những khó chịu, ấm ức “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng, cứ khi nào lão thấy khổ quá lại lôi vợ ra đánh, trút giận với những lời lẽ cay độc”. Người
đàn bà chỉ nhẫn nhịn chịu đựng “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách
chạy trốn”. Những khổ sở, dằn vặt về tinh thần: khi phải chứng kiến đứa con căm ghét bố đến
tột cùng mà mình không có cách nào để xóa đi sự thù hằn đó, người đàn bà đã ý thức được sự
nguy hiểm của cái ác và thói côn đồ hình thành trong lòng đứa con. Chị đã cho con về sống với
ông ngoại ở trên rừng nhưng mỗi lần đi cùng ông chở gỗ về miền biển, thằng bé lại không thể
làm ngơ khi mẹ bị đánh. Với sự bồng bột của tuổi trẻ, đứa con đã ném hận thù về phía người
cha và sẵn sàng giấu con dao trong người để giết cha, khiến người mẹ vô cùng đau đớn. Nỗi
đau này lớn hơn nỗi đau thể xác. Có nỗi đau nào đau khổ hơn khi là mẹ mà phải chứng kiến
con hận cha, gia đình tan nát, không có yêu thương chỉ có hận thù?

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tái hiện tất cả đó qua câu chuyện của người đàn bà nơi
tòa án huyện. Người đọc không thể nào quên những hình ảnh một người phụ nữ miền biển
mang trong mình nỗi đau khổ, sự nhẫn nhục của một cuộc đời lam lũ, vất vả đến cùng cực. Nhà
văn đã khơi gợi trong người đọc sự cảm thông sâu sắc với những số phận như người đàn bà
này. Nếu không có một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Minh Châu làm sao có thể viết nên
những trang văn là những trang đời thấm đượm tình người như thế!

Ngòi bút khám phá con người của Nguyễn Minh Châu còn được thể hiện qua sự phát
hiện và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của con người dù sống trong tăm tối khó khăn. Đó là vẻ đẹp của
tâm hồn, phẩm chất của người đàn bà hàng chài. Ẩn sau một số phận nghiệt ngã, những biểu
hiện có phần nhu nhược, yếu đuối lại là một tấm lòng sáng ngời. Người đàn bà hàng chài là
một người vợ thương chồng, một người mẹ thương con. Chị chấp nhận, cam chịu bị đánh không
kêu ca, không trốn chạy bởi chị hiểu trong cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ trên con thuyền
rất cần người đàn ông dù người đàn ông ấy có man rợ, tàn bạo. Vì cuộc sống của những đứa
con, chị thà bị đánh chứ không chịu bỏ chồng. Chị đã từ chối lời đề nghị giải thoát khỏi lão
chồng vũ phu với lí lẽ: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống
cho mình như trên đất được”. Đây là cách ứng xử thể hiện tình yêu thương con vô bờ. Tấm
lòng người mẹ còn ôm ấp nghẹn ngào, gọi con, ôm chầm lấy con, đau đớn khi con đã chứng
kiến cảnh bạo lực gia đình. Người phụ nữ sống vì gia đình ấy là hiện thân cho một tấm lòng

113
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nhân hậu, vị tha. Chị có một cái nhìn rất thương cảm với chồng. Nếu nghệ sĩ Phùng nhìn người
đàn ông dưới góc độ lí lịch, thành phần, chánh án Đẩu nhìn người đàn ông dưới góc độ pháp
luật, thằng Phác nhìn người đàn ông dưới con mắt trẻ thơ thì chỉ duy nhất người phụ nữ - nạn
nhân của bạo hành gia đình lại nhìn anh ta dưới con mắt thương cảm bởi chị hiểu lí do vì sao
người chồng lại trở nên độc ác như vậy. Đó là vì cái đói cái nghèo, vì gánh nặng mưu sinh đã
ghì con người ta xuống sát đất, biến đổi cả tâm tính con người. Trong khi mọi người nhìn người
đàn ông như một ác nhân thì người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân. Chị luôn chắt chiu,
trân trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường: vui nhất khi nhìn đàn con được ăn no,
khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hòa thuận. Người đàn bà hàng chài dường như không biết
nghĩ đến mình, đối xử với mọi người bằng tình thương và sự đồng cảm.

Chị tuy thất học nhưng có cái nhìn sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, thấu tình đạt lí. Chị xuất
hiện ở tòa án huyện trong tâm thế bị động, không tự nguyện và cũng không muốn viết đơn bỏ
chồng. Khi mới bước chân đến tòa án, chị tỏ ra rất lúng túng và sợ sệt, xưng hô lễ phép “con”
- “quý tòa” và nhìn xung quanh với ánh mắt lo sợ. Nhưng khi nghe lời khuyên và hiểu thiện
chí của Đẩu, của Phùng, chị thay đổi thái độ: từ chối lời đề nghị giúp đỡ, đau đớn đánh đổi mọi
giá để không phải bỏ chồng, đưa ra những lí do bằng việc kể lại câu chuyện về cuộc đời mình.
Qua câu chuyện ta thấy được trong sự cam chịu, nhẫn nhục đầy vô lí ấy lại chứa đựng cái lí
của sự hi sinh. Có thể thấy sự sắc sảo, hiểu biết, thấu hiểu lẽ đời ở người phụ nữ này không bộ
lộ, hiển hiện ở bên ngoài mà được cất giữ, giấu kín ở bên trong. Đây là người phụ nữ khiêm
nhường, dù biết tất cả nhưng không chọn cách sống cho riêng mình.

Đã có những sự thay đổi trong cách nhìn nhận cuộc sống để nhà văn phát hiện và ca
ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ này - cách nhìn đa chiều, không dễ dãi, giản đơn và thấm đượm
tình người. Tất cả đó xuất phát từ tinh thần nhân đạo trong trái tim người nghệ sĩ Nguyễn Minh
Châu.

Cùng với việc thể hiện thế giới quan của mình về cuộc sống, con người, toát lên từ trang
văn ấy, ta còn nhận được một điều gì cao cả hơn như vậy, phải chăng chính là tư tưởng của
Nguyễn Minh Châu qua sự khám phá đó. Đó là một tấm lòng cảm thông sâu sắc với nỗi đau
khổ, bất hạnh của người phụ nữ; đau đớn trước tình trạng bạo hành gia đình, trước những bi
kịch của con người trong cuộc sống thời bình.

Bên cạnh đó tác phẩm còn thẫm đượm hồn văn của một trái tim luôn khắc khoải, băn
khoăn, trăn trở, suy tư sâu lắng về những vấn đề của đời sống nhân sinh, của nghệ thuật. Đời

114
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

sống vốn phức tạp, đầy bí ẩn, chứa đựng vô vàn những nghịch lý nên liệu có thể nhìn cuộc đời
bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi, xuôi chiều? Chiến tranh đã qua đi nhưng cuộc đời của những
con người lao động nghèo khổ sẽ như thế nào, liệu có tươi sáng hơn? Tương lai của những đứa
trẻ như thằng Phác sẽ ra sao? Phải chăng cuộc chiến chống đói nghèo, tăm tối còn gian nan,
quyết liệt hơn cả cuộc đấu tranh chống ngoại xâm? Phải chăng đã đến lúc chúng ta phải chiến
đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn; đã đến lúc văn
học phải viết về con người, trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống?
Người nghệ sĩ cần ứng xử như thế nào về mối quan hệ giữa hiện thực đời sống và văn chương
nghệ thuật? Nghệ thuật tiếp cận hiện thực ra sao để không bỏ quên số phận con người? Phải
chăng tác phẩm là một lời nhắc nhở hay là một niềm tin sâu xa của Nguyễn Minh Châu về sứ
mệnh cao quý của người cầm bút? Lí giải cho tất cả những băn khoăn, trăn trở ấy, Nguyễn
Minh Châu chính là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất”, chọn cho mình tư tưởng sáng
tác hướng về con người. Tâm điểm của văn học và cuộc sống chính là con người và người vẽ
nên chiếc “tâm” của những “đường tròn đồng tâm” kia sao cho trọn vẹn nhất lại phụ thuộc vào
chính cái “Tài” và cái “Tâm” của một người nghệ sĩ chân chính.

Câu nói của Nguyễn Minh Châu ngắn gọn mà ý nghĩa rất hay, rất sâu, rất đáng nghĩ.
Văn học – cuộc sống mãi mãi không thể tách rời nhau và cả hai đều xuất phát, đều hướng về
tâm điểm duy nhất: Con người. Luôn hướng con người tới chân thiện mỹ, gột rửa những xấu
xa của cuộc đời phức tạp, góp phần thanh lọc tâm hồn con người để cuộc sống tốt đẹp hơn, đó
chính là sứ mệnh cao cả của văn chương, của nền nghệ thuật vị nhân sinh. Với “Chiếc thuyền
ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã cho thấy rõ đối tượng mà ngòi bút của mình quan tâm hướng
đến, đó là cuộc sống mà trung tâm bức tranh đó chính là con người - người đàn bà hàng chài
với toàn bộ những khía cạnh số phận cuộc đời và cả những nét đẹp ẩn giấu trong con người
lam lũ ấy. Cách xây dựng tình huống truyện và nghệ thuật kể chuyện độc đáo, chân thực, nghệ
thuật xây dựng nhân vật sống động, đào sâu tâm lý để nhân vật tự đối diện và trải lòng mình,
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện thành công những suy tư của mình về con người và cuộc đời.
Như Tô Hoài nhận xét “Những cái tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày,
dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có
tầm triết lý”. Qua việc phản ánh thế giới quan của mình, nhà văn thể hiện rõ cái “Tài” và “Tâm”
của một nhà văn chân chính, dùng ngòi bút để phản ánh và làm cuộc sống trọn vẹn hơn.

Tóm lại, ý kiến của Nguyễn Minh Châu là phù hợp và đúng đắn đối với văn học nghệ
thuật ở mọi thời. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” với tình huống truyện độc đáo và những

115
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khóa 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nhân vật điển hình như người đàn bà hàng chài chính là minh chứng rõ nhất cho tư tưởng đó.
Chúng ta, những người tiếp nhận văn học và cũng là cái đích hướng tới của văn học hãy biết
trân trọng những lao động nghệ thuật chân chính, tìm hiểu và tiếp thu những bài học nhân sinh
được gửi gắm qua tác phẩm để từ đó hiện thực ước muốn trân quý của nhà văn. Có như vậy,
“tâm điểm” của “hai đường tròn đồng tâm” văn học và cuộc sống mới luôn tỏa sáng, đứa con
tinh thần thấm đượm tinh thần nhân đạo của người nghệ sĩ chân chính như Nguyễn Minh Châu
mới trường tồn mãi với thời gian.

116

You might also like