Professional Documents
Culture Documents
Bài 3 Và Thư NG Hóa
Bài 3 Và Thư NG Hóa
I. Giới thiệu
Ủ là một công nghệ bao gồm nung thép lên trên nhiệt độ tới hạn, giữ
nhiệt một thời gian để đồng đều hóa và các chuyển biến xảy ra hoàn
toàn, sau đó làm nguội chậm cùng lò.
Tính chất của ủ:
Khi nung và giữ nhiệt, thép có chuyển biến Pearlite thành
Austenite, còn khi làm nguội chậm cùng lò sẽ có chuyển biến
Austenite thành Pearlite.
Độ cứng thấp, độ dẻo cao.
Mục đích:
Bước 1:
Bật cầu dao điện.
Bước 2:
Bật nguồn cho lò bằng cách kéo cần gạt hướng lên (cần gạt nằm bên
trái bộ điều khiển).
Bước 3: Vặn công tắc ON/OFF theo chiều kim đồng hồ, tay cầm của
công tắc hướng xuống là đang tắt, tay cầm nằm ngang là đang bật.
Bước 4: Điều chỉnh nhiệt độ bằng nút tăng và giảm ở dưới màn hình
LED, khi đạt nhiệt độ yêu cầu, vặn nút OUT để lò nung bắt đầu khởi
động.
Bước 1: Khởi động lò, tăng nhiệt độ cho đến khi đạt 760 0C thì mở lò
ra cho 2 mẫu vào và đóng lò lại.
Bước 2: Nâng nhiệt độ lên 8600C và giữ nhiệt độ này trong vòng 30
phút.
Bước 5: Tiến hành đem mẫu đi mài nhẵn, đánh bóng và tẩm thực bề
mặt mẫu để tiến hành soi kim tương. Sau khi soi kim tương lại đem
mẫu đi mài nhẵn để đo độ cứng HRC.
Nhóm
1 2 3 4 5 Kết quả
Mẫu
12 13 14 12 10
13 14 13 14 12
9 9 9 10 9
8600C, 30 phút,
8 10 8 9 9 9,067 ± 0,153
trong lò (Ủ)
9 9 9 9 10
13 13 13 15 15
7600C, 30 phút,
không khí (Thường 14 13 14 14 14 13,867 ± 0,165
hóa)
14 14 14 14 14
14 17 14 17 17
8600C, 30 phút,
không khí (Thường 16 16 18 18 17 15,933 ± 0,396
hóa)
14 16 17 14 14
13 15 13 14 14
8600C, 60 phút,
không khí (Thường 15 14 14 15 15 14,133 ± 0,192
hóa)
14 13 14 15 14
16 15 15 16 15
9600C, 30 phút, 15,333 ± 0,126
không khí (Thường
15 15 15 16 16
hóa)
15 16 15 15 15
Mẫu ủ 860 độ
d2 (mm) 4,452 4,453 4,557 4,427 4,236
C, 30 phút
Mẫu ủ 860 độ
d2 (mm) 18,26 18,26 17,44 18,53 20,29
C, 30 phút
18.072
Trung bình
18.072±0.567
HB
III.2tổ chức tế vi các mẫu thí nghiệm
Hình 3.2.1 và 3.2.2: Ảnh tổ chức tế vi mẫu trước nhiệt luyện ở hai độ
phóng đại 150x (trái) và 600x (phải)
Hình 3.2.3 và 3.2.4: Ảnh tổ chức tế vi mẫu ủ ở hai độ phóng đại 150x
(trái) và 600x (phải)
Hình 3.2.5 và 3.2.6: Ảnh tổ chức tế vi mẫu thường hóa (860 0C, 30 phút,
không khí) ở hai độ phóng đại 60x (trái) và 150x (phải)
Hình 3.2.7 và 3.2.8: Ảnh tổ chức tế vi mẫu thường hóa (860 0C, 60 phút,
không khí) ở hai độ phóng đại 60x (trái) và 150x (phải)
Hình 3.2.9 và 3.2.10: Ảnh tổ chức tế vi mẫu thường hóa (960 0C, 30 phút,
không khí) ở hai độ phóng đại 150x (trái) và 300x (phải)
Phương
Lý thuyết Thực nghiệm So sánh
pháp
Mẫu ủ 860
độ C, 30
phút khá
giống với
Ủ lý thuyết
Thường Mẫu
hóa thường hóa
760 độ C,
30 phút có
khá nhiều
perlite và ít
ferrit hơn lí
thuyết
Mẫu
thường hóa
860 độ C,
30 phút
khá giống
với lý
thuyết
Mẫu
thường hóa
860 độ C,
60 phút có
các hạt
perlite to
và các hạt
ferrit nhỏ
hơn so với
lí thuyết
Mẫu
thường hóa
960 độ C,
30 phút có
các hạt
ferrit to
hơn lí
thuyết
Nhận xét:
Độ cứng:
Độ cứng của ủ giảm so với trước nhiệt luyện.
Độ cứng của các mẫu thường hóa đều tăng so với trước khi nhiệt
luyện.
Giữa các mẫu thường hóa:
-Mẫu 760 độ C, 30 phút là có độ cứng nhỏ nhất (13,867
HRC).
-Mẫu 860 độ C, 30 phút là có độ cứng lớn nhất (15,933
HRC).
-Mẫu 960 độ C, 30 phút (15,333 HRC) có độ cứng lớn hơn
mẫu 860 độ C, 60 phút (14,133 HRC).
Như vậy sau khi ủ thì độ cứng giảm so với mẫu trước nhiệt luyện
nhưng thường hóa lại có độ cứng lớn hơn mẫu trước nhiệt luyện.
Việc độ cứng của thường hóa lớn hơn so với trước nhiệt luyện là sai
so với lí thuyết, lí do có thể là do máy đo gặp vấn đề nên dẫn đến kết
quả đo sai.
Tổ chức tế vi:
Tổ chức tế vi của mẫu ủ có cấu trúc hạt khá đồng đều, trong tổ chức
tế vi vẫn còn nhiều ferrit và các hạt perlite bao xung quanh. Kích
thước các hạt ferrit và perlite tăng lên và kích thước của các hạt ferrit
tăng lên nhiều nhất.
Tổ chức tế vi của mẫu thường hóa 760 độ C, 30 phút và 860 độ C,
30 phút cũng giống với ủ là có các hạt khá đồng đều nhưng số lượng
perlite lại nhiều hơn ferrit.
Các mẫu thường hóa 760 độ C và 860 độ C, 30 phút thấy được kích
thước các hạt ferrit và perlite tăng lên không nhiều so với mẫu trước
nhiệt luyện.
Còn mẫu thường hóa 860 độ C, 60 phút có các hạt perlite to hơn so
với hai mẫu trên và cả mẫu trước nhiệt luyện.
Mẫu 960 độ C, 30 phút thì ngược lại nó có các hạt ferrit to hơn các
mẫu trước đó.
Tóm lại kích thước của cả pha “tối” và pha “sáng” đều tăng ở cả hai
phương pháp ủ và thường hóa.
Trên lí thuyết thì độ cứng của thép C45 theo HRC là lớn xấp xỉ 23
HRC. Nhưng do máy đo của phòng thí nghiệm gặp vấn đề nên độ
cứng bị giảm rất nhiều dẫn tới độ cứng của mẫu trước nhiệt luyện lại
thấp hơn mẫu sau khi thường hóa.
Ủ và thường hóa tốn nhiều thời gian do quá trình tăng giảm nhiệt độ
trong lò để đạt yêu cầu và do việc ủ phải chờ cho mẫu được làm
nguội trong lò xuống đến nhiệt độ môi trường khác lâu, nhưng việc
xem cấu trúc tế vi và đo độ cứng thì khá là nhanh.