Professional Documents
Culture Documents
Hệ thống TL và NN VHTĐ VN
Hệ thống TL và NN VHTĐ VN
I. Khái niệm, đặc trưng, phân loại thể loại văn học
1. Khái niệm
2. Đặc trưng
3. Phân loại
II. Hệ thống thể loại VHTĐ VN
1. Phân loại
2. Đặc trưng
3. Quá trình phát triển
III. Ngôn ngữ VHTĐ VN (chính)
1. Chữ Hán
2. Chữ Nôm
I. Khái niệm, đặc trưng, phân loại thể loại văn học
1. Khái niệm
- Thể loại (genre) là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Pháp, có nguồn gốc latinh
(genrus), được dùng để chr sự phân loại văn học. Nó được sử dụng tương thông
với các hình thái cụ thể của tác phẩm văn học, tồn tại tương đối ổn định, gắn liền
với cách thức tổ chức tác phẩm được quy định bới phương thức chiếm lĩnh và phản
ánh hiện thực mang tính đặc thù
- “Thể loại tác phẩm văn học” (TPVH) là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác
phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất
định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” (dẫn theo Giáo trình Lí
luận văn học, tr339)
Ngâm khúc là nỗi niềm tâm sự quyền sống, quyền hạnh phúc của mình (người
phụ nữ, người tù) đều là những người có khao khát về cuộc sống hạnh phúc nhưng
hiện tại lại không như vậy
Thể thơ song thất lục bát thể hiện sự miên man, bất tận, thể hiện sắc thái tình
cảm trở đi trở lại biểu đạt nỗi niềm khao khát hạnh phúc
2. Đặc trưng
2.1. Tính lịch sử: thể loại là hiện tượng mang tính thời đại, sự xuất
hiện và vị thế của các thể loại chịu sự quy định của bối cảnh lịch
sử, nhu cầu xã hội, kinh nghiệm sáng tác của nhà văn
Tiểu thuyết chương hồi: của Việt Nam xuất hiện (Hoàng Lê nhất thống chí) vào thế
kỷ XVIII có nguồn gốc từ Trung Quốc (xuất hiện từ TK XIII), nhà văn phải nắm bắt
thuần thục các kỹ thuật tự sự
2.2. Tính dân tộc: thể loại gắn liền với ngôn ngữ, tâm lí và truyền
thống văn hóa dân tộc. Thể hiện việc tiếp nhận thể loại, việc sáng
tạo thể loại
3. Phân loại
- Ở Phương Tây: Nghệ thuật thơ ca (Aristotle) – cuốn lí luận văn học, nghệ thuật
đầu tiên của Châu Âu đề cập đến 3 loại hình thơ ca (văn học) căn cứ vào 3 phương
thức mô phỏng hiện thực (đồng thời là 3 phương thức sáng tạo hình tượng nghệ
thuật): tự sự, trữ tình, kịch
- Ở Trung Quốc: Ban Cố (Thiên Nghệ văn chí, sách Hán thư); Nhâm Phảng (Văn
chương duyên khởi), Lưu Hiệp (Văn tâm điêu long), Tiêu Thống (Văn tuyển)… đề
xuất cách phân chia dựa vào thể văn, đề tài, chức năng, công dụng
- Ở Việt Nam
+ Trước thế kỉ XVIII, việc phân chia thể loại chỉ dừng lại ở một số kiến giải riêng
lẻ về đặc điểm, bản chất của số ít thể loại, chủ yếu là thi ca
+ Thế kỉ XVIII-XIX: các thi tuyển, văn tuyển: Việt âm thi tập, tinh tuyển chư gia
luật thi, Trích diểm thi tập, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển,…; Các công
trình biên khảo về thư tịch của Lê Quý Đông (Hiến chương – Thi văn – Truyện kí
– Phương kĩ), Phan Huy Chú (Hiến chương – Kinh sử - Thi văn – Truyện kí),…
+ Thời hiện đại: sách của Phan Kế Bính, Bùi Kỉ, Dương Quảng Hàm,…; Sách của
học giả miền Nam trước năm 1975; Phạm Thế Ngữ, Thanh Lãng,…; Sách của học
giả miền Bắc: nhóm Lê Quý Đôn, nhóm ĐHSPHN,…
Một số hướng phân chia thể loại
- “Chia ba” căn cứ vào phương thức phản ánh hiện thực của tác phẩm: Quan niệm
thể loại văn học phương Tây: trữ tình (thơ) – tự sự (tiểu thuyết) – kịch
- “Chia bốn” căn cứ hình thức lời nói, cấu trúc văn bản: Quan niệm thể loại văn
học Trung Hoa (Lục Cơ, Tiêu Thống, Lưu Hiệp,…): Thơ ca (thơ trữ tình, thơ tự
sự) – Văn xuôi (tản văn) – Tiểu thuyết (tác phâm tự sự có cốt truyện hư cấu và
nhân vật) – Kịch (có mặt trong bảng phân loại muộn, vào cuối thời Thanh)
- “Chia năm” quan niệm văn học Việt Nam: Thơ ca – Truyện và Tiểu thuyết –
Kịch – Kí – Tác phẩm chính luận (cáo, chiếu, biểu, tuyên ngôn độc lập thư, văn
bia, văn tiểu phẩm…)
Các mô hình mang tính khái quát, chưa phản ánh đúng hoàn toàn thực tế sáng
tác của các nền văn học trên thế giới
4. Ý nghĩa của thể loại đối với việc tiếp nhận văn học, phê bình văn
học , sáng tạo văn học
- Tiếp nhận: dựa vào những quy phạm hình thức thẩm mỹ của thể loại văn học để
tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm
- Phê bình văn học: dựa vào đặc điểm của thể loại văn học, để đánh giá thành tựu
tác phẩm, sự phù hợp với quy phạm thẩm mỹ của thể loại cũng như những đột phá,
cách cách tân của nhà văn
- Sáng tác văn học: nắm vững được hình thái ổn định và quy phạm hình thức thẩm
mỹ của thể loại để tiến hành lựa chọn tài liệu, cấu tứ và cách thức biểu đạt phù hợp
với nội dung phản ánh
II. Hệ thống thể loại văn học trung đại Việt Nam
1. Phân loại
- Nguồn gốc: Thể loại văn học có nguồn gốc ngoại lai – Thể loại văn học dân tộc
- Văn tự: Thể loại văn học gắn với văn tự Hán – Thể loại văn học gắn với văn tự
Nôm
- Mục đích sáng tác: (phương thức tư duy nghệ thuật): Thể loại văn học chức
năng (hành chính – lễ nghi – tôn giáo) – Thể loại văn học nghệ thuật
- Hình thức lời văn: Thể loại thơ ca – Thể loại văn xuôi
- Phương thức định hình văn bản: Văn bản chép tay – Văn bản khắc – Văn bản
in
- Phương thức phản ánh, hình thức lời văn: Thơ – Văn – Truyện; hoặc Vận văn
– Biền văn/ tản văn/ văn xuôi – Kịch bản văn học
2. Đặc điểm
a. Phản ánh đặc thù của nền văn học trẻ
- Bên cạnh những nỗ lực tự thân tiếp nhận những ảnh hưởng của nền văn học
già
- Có một số nền văn học được xem là nền văn học già: Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp
- Gắn với văn tự Hán và các thể loại tiếp thu từ Trung Hoa (đặc điểm này diễn ra
trong suốt tiến trình văn học trung đại Việt Nam)
- Quá trình tiếp thu thể loại song hành cùng quá trình Việt hóa, dân tộc hóa thể loại
- Thể loại văn học dân tộc gắn với chữ Nôm và văn học/ văn hóa dân gian ra đời,
phát triển muộn hơn, có nhiều thành tựu lớn
Đặc điểm tiến trình văn học theo tiến trình thể loại
- Giai đoạn đầu: tiếp thu thể loại từ Trung Quốc; chiếm ưu thế là những thể loại
văn học chức năng
- Giai đoạn tiếp theo: tiếp thu thể loại và Việt hóa thể loại; thể loại văn học chức
năng và thể loại văn học nghệ thuật có vị trí cân bằng
- Giai đoạn cuối: tiếp thu thể loại, Việt hóa thể loại, sáng tạo thể loại. Thể loại nội
sinh, thể loại văn học nghệ thuật giữ vị trí ưu thắng
b. Đa dạng, phong phú, mang tính loại hình đậm nét, phản ánh những đặc
trưng của văn học trung đại Việt Nam
Đa dạng, phong phú: Số lượng phong phú; Nguồn gốc, hình thức đa dạng
Mang tính loại hình đậm nét: khuôn mẫu, công thức, quy phạm chặt chẽ
(quy phạm = khuôn mẫu mà văn học phải tuân theo, xu hướng hướng tới những đề
tài cao cả, hình tượng mang tính chất tượng trưng, ước lệ)
Phản ánh những đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam
- Thể hiện quan niệm rộng về văn học: bao gồm tất cả các thư tịch, trước tác (văn
học chức năng và văn học nghệ thuật)
- Thể hiện tính chất văn – sử - triết bất phân (tính nguyên hợp, tính đa chức năng):
“tất cả các thể loại văn học trung đại, không một thể loại nào mang tính chất thuần
túy văn học…; mặc khác, không thể loại nào là không thể đạt tới chất văn học”
(Trần Đình Sử)
- Đề cao chức năng giáo huấn
- Sự giao thoa giữa các thể loại văn học chức năng và văn học nghệ thuật, truyện –
sử, truyện – kí, thi – kệ,…
+ Các thể loại không đứng riêng, không biệt lập, học hỏi các kinh nghiệm từ thể
loại khác để gia tăng sức mạnh biểu cảm
+
- Sự đan xen thể loại trong văn bản tác phẩm: thể hiện ở cả quy mô tập tác phẩm và
tác phẩm văn học
+ Tập tác phẩm có nhiều thể loại khác nhau
+ Văn bản tác phẩm: truyện truyền kì hình thức lời văn có sự đan xen giữa
truyện và thơ. Các tác giả đã dung nạp vào những hình thức của thơ trữ tình
3. Các nhóm thể loại văn học trung đại Việt Nam
Các thể loại vận văn
- Vận văn: văn vần, thơ ca
Chữ viết
- Chữ Hán
+ Người Việt tiếp xúc với chữ Hán từ thời Bắc thuộc, đến thế kỉ X, đã nắm vững
và sử dụng thành thục chữ Hán trong các văn bản hành chính, tôn giáo, văn hóa
+ Các triều đại phong kiến thời độc lập chọn chữ Hán làm chữ viết chính thức
(chính trị, xã hội, bang giao,…)
+ Từ thế kỉ X trở về trước: tiếng Hán, chữ Hán là ngoại ngữ. Từ thế kỉ X trở về
sau: chữ Hán là một văn tự (cách đọc chữ Hán của người Việt khác với người
Trung Hoa)
- Chữ Nôm
+ Chữ viết được cấu tạo từ chữ Hán, dùng để ghi âm tiếng Việt
+ Thời điểm hình thành: thế kỉ IX-XIII
+ Thời điểm được sử dụng trong sáng tác văn học: thế kỉ XIII
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
- Sự khác nhau giữa chữ Hán và chữ Nôm
+ Chữ Hán: ghi âm Hán Việt
Được chuẩn hóa, thống nhất hóa, sử dụng chính thức trong điều hành chính
quyền
Nghiêng về sắc thái cổ xưa, cổ kinh; cao cảm tao nhã; trừu tượng, khái quát;
… (được tiếp thu qua thư tịch, kinh sử, văn chương,…)
Nghiêng về tính quy phạm
+ Chữ Nôm: ghi âm tiếng Việt
Chưa được chuẩn hóa, điển phạm hóa, ít được sử dụng trong điều hành
chính quyền
Nghiêng về sắc thái đời thường, gần gũi, bình dị, dân tộc; cụ thểm chi tiết
Nghiêng về tính bất quy phạm
2. Bộ phận văn học chữ Hán và bộ phận văn học chữ Nôm
Bộ phận văn học chữ Hán
- Hình thành sớm, tồn tại trong suốt tiến trình văn học trung đại Việt Nam
- Lực lượng sáng tác: tầng lớp trí thức phong kiến
- Phạm vi nội dung: chính sự, lí tưởng, luận lí, đạo đức, tôn giáo, lịch sử,… (biểu
đạt cái cao cả, tao nhã)
- Thể loại: thể loại văn học ngoại nhập; thể loại văn học chức năng chiếm ưu thế;
thể loại đa dạng, cả thơ lẫn văn xuôi
- Phạm vi phổ biến: tầng lớp tri thức
- Đặc điểm: thiên về tính quan phương chính thống, tính giáo huấn, nói chí tải đạo
3. Tính chất song ngữ của văn học trung đại Việt Nam
Sự tồn tại song song hai dòng văn học Hán và Nôm
Sự xâm nhập, pha trộn của văn Hán và Nôm: nhan đề - nội dung; đan xen
ngôn ngữ trong văn bản;…
GIỚI THIỆU CHUNG MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM
Xét theo nguồn gốc thể loại
Tiếp thu thể loại Tiếp thu + Việt hóa thể loại
Tiếp thu + Việt hóa + Sáng tạo thể loại
I. Chiếu
1. Khái niệm
- Chiếu (còn được gọi là chiếu thư, chiếu chỉ, chiếu lệnh, chiếu dụ,…) là loại văn
bản công văn hành chính thời phong kiến, được vua dùng để ban lệnh xuống cho
thân dân
2. Đặc điểm
- Nội dung: những vấn đề được đề cập đến trong chiếu rất rộng, bao quát mọi lĩnh
vực đời sống, từ những vấn đề chính trị - xã hội trọng đại đến những công vvieejc
hành chính cụ thể
- Thể thức
+ Được viết bằng văn xuôi hoặc đan xen văn xuôi và văn biền ngẫu
+ Chủ yếu viết bằng chữ Hán, một số văn bản chiếu được viết bằng chữ Nôm (thời
Tây Sơn)
+ Về văn phong, lời văn của chiếu trang nghiêm, tao nhã, ngắn gọn, khúc chiết,
lập luận chặt chẽ, lí lẽ xác đáng
+ So với thể chiếu ở Trung Quốc, các văn bản chiếu ở Việt Nam thường mang
đậm tính trữ tình
Ví dụ:
“Việc tang thì sau ba ngày nên bỏ áo trở, thôi khóc than, chôn cất thì nên
theo cách kiệm ước của Hán Văn Đế, không cần xây lăng tẩm riêng, hãy để
trẫm ở cạnh tiên đế. Than ôi, mặt trời đã xế, tấc bóng khôn dừng, trăng trối
mấy lời, ngàn năm vĩnh quyết”
Lâm chung di chiếu – Lý Nhân Tông
“Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời,
không noi theo dấu cũ của Thương Chu, cứ đóng yên đô thành nơi đây,
khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao
tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể
không dời đổi”
Thiên đô chiếu – Lý Thái Tổ
+ Thường mở đầu và kết thúc bằng một số công thức
3. Một số tác phẩm tiêu biểu: Thiên đô chiếu (Lý Thái Tổ), Lâm chung di
chiếu (Lý Nhân Tông), Cầu hiền tài chiếu (Lê Thái Tổ), Cầu Hiền chiếu
(Quan Trung), Cần Vương chiếu (Hàm Nghi)
II. Cáo
1. Khái niệm
- Cáo là loại văn hành chính thời cổ, được vua sử dụng để trình bày một chủ
trương, ban bố các chính sách đến đông đảo dân chúng. Nếu chiếu là mệnh lệnh
của vua thì cáo thiên về tổng kết, trình bày, tuyên bố để thần dân biết
Bài cáo cổ nhất là Thang cáo, ghi lại lời tuyên bố chiến thắng của vua Thang
sau sự kiện diệt vua Kiệt nhà Hạ thành công
Ở Việt Nam, chỉ duy nhất có tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi viết
theo thể này
2. Đặc điểm
- Về nội dung: cáo thường trình bày một sự kiện trọng đại của triều đại, bác bỏ
những thông tin, luận điệu sai trái, đưa ra các chủ trương, quy định, quan điểm
chính thống và kêu gọi người dân nghe theo, làm theo
- Về thể thức: cáo không có một thể thức cụ thể
+ Ban đầu cáo là những lời tuyên bố miệng được ghi chép lại, sau đó cáo được
viết bằng văn xuôi hoặc văn biền ngẫu
+ Về văn tự, cáo được viết bằng chữ Hán
+ Về văn phong, cáo có sự kế hợp giữa tính nghiêm trang, chuẩn mực của văn
hành chính với tình hùng biện, trữ tình, hình tượng của văn nghệ thuật
III. Hịch
1. Khái niệm
- Hịch là một thể văn dùng để tuyên bố và kêu gọi quần chúng, thường dùng trong
lĩnh vực quân sự
- Hịch còn có tên gọi là nhị tắc thư (thư hai thước), lộ bố văn (văn thư không dán
kín, thư ngỏ)
- Hịch có thể được sử dụng để hiệu dụ, răn dạy thần dân, người dưới quyền nhưng
thường gắn với mục đích cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống giặc
2. Đặc điểm
- Về nội dung: Hịch với tư cách một thể văn chiến đấu thường có hai nội dung
song trùng: lên án, tố cáo kẻ thù; kêu gọi sự ủng hộ của mọi người
- Về thể thức: hịch không có quy định rõ ràng về hình thức
+ Hịch có thể được viết bằng văn xuôi, văn biền ngẫu hoặc kết hợp cả hai
+ Văn hịch có sự kết hợp giữa tính chất nghị luận (lập luận, lí lẽ, dẫn chứng) và
tính biểu cảm. Hịch sử dụng rỗng rãi các biện pháp khoa trương, so sánh, châm
biếm,…
+ Ở Việt Nam, hịch không chỉ được viết bằng chữ Hán mà còn cả chữ Nôm
+ Kết cấu thông thường thường có thể chia thành 4 phần
Nêu vấn đề
Nêu truyền thống để tạo lòng tin tưởng
Nhận định về tình hình ta và địch, ưu – khuyết của ta, tội ác của địch để khơi
gợi lòng căm thù
Đề ra chủ trương, kêu gọi đoàn kết đấu tranh
IV. Thơ kệ
1. Khái niệm
- Thơ kệ là loại hình văn học chức năng lễ nghi – tôn giáo, ra đời từ Ấn Độ, gắn
liền với nghi thức truyền thừa Phật giáo
- Kệ bao gồm kệ Gia đà (bài kệ bằng văn vần) và kệ Kì dạ (bài kệ gồm phần văn
xuôi và văn vần). Thơ kệ là những bài kệ bằng văn vần (kệ Gia đà)
- Thơ kệ còn có thể được gọi chung là kệ hoặc thơ Thiền
2. Đặc điểm
- Nội dung: Kệ trực tiếp trình bày triết lí, quan niệm Phật giáo, nghiêng về tính
chất đạo lí hoặc có sự kết hợp giữa tính chất triết lí và trữ tình
- Hình thức
+ Số câu thơ: không cố định, thường ngắn gọn
+ Số chữ trong câu: đa dạng
+ Vần: có thể có vẫn hoặc không vần
+ Ngôn ngữ: sử dụng nhiều thuật ngữ Phật giáo, nhiều hình ảnh tượng trưng, so
sánh, nhiều ẩn dụ, biểu tượng tôn giáo
- Nội dung tôn giáo: thể hiện qua những hình ảnh biểu tượng: xuân, bách hoa,
khai, lạc, nhất chi mai
- Rung cảm thẩm mĩ và ý nghĩa nhân sinh
KẾT LUẬN
Văn học chức năng hành chính
- Những thể loại văn học có chức năng thực thi các công việc mang tính chất hành
chính nhà nước
- Tiền đề: quan niệm rộng về văn học; sự coi trọng giá trị thực tiễn của văn học;
tính chất văn – sử - triết bất phân
- Nguồn gốc: được tiếp thu, kế thừa từ văn học Trung Quốc
- Đặc điểm: tính quan phương, chính thống; tính công thức chặt chẽ; tính đơn
phương một chiều; chủ yếu là văn có tính chất nghị luận
- Phân loại: Theo chủ thể sáng tác: (1) Chủ thể là thiên tử hoặc chủ tướng, có các
thể chiếu, cáo, sách, hịch, dụ,… (2) Chủ thể là thần tử, có các thể tấu, nghị, biểu,…
b. Diễn tiến của thơ ca trung đại Việt Nam (nhìn từ nguồn gốc thể
loại)
c. Diễn tiến của thơ ca trung đại Việt Nam (nhìn từ vị trí các thể
loại)
- Giai đoạn thứ nhất: thể loại văn học chức năng giữ vai trò trung tâm, thể loại
nghệ thuật ở vị trí ngoại biên
- Giai đoạn thứ hai: thể loại văn học chức năng và thể loại văn học nghệ thuật phát
triển song song
- Giai đoạn thứ ba: thể loại văn học nghệ thuật giữ vai trò trung tâm, thể loại văn
học chức năng bị đẩy dần ra ngoại vi hệ thống văn học
3. Một sống đặc điểm chung của thơ ca trung đại Việt Nam
- Thơ trung đại là thơ kết hợp bày tỏ ý chí và tình cảm
+ Quan niệm thi ngôn chí. Chí: tình cảm đạo lí + cảm xúc tự nhiên
+ Thơ bộc lộ “ý chí”, “chí hướng” đậm màu sắc lí tính thường chiếm phần ưu trội
+ Bên cạnh nhu cầu tự bộc lộ nỗi lòng, tâm trạng trữ tình trong thơ thường gắn với
những hoàn cảnh, yêu cầu cụ thể: đưa tiễn, ngoại giao, dạy học, dân lên bề trên,
đọc trong chiến trận, bói toán, đánh giặc,…
- Tiếng nói trữ tình trong thơ trung đại thường là tiếng nói đại diễn cho tập thể,
cộng đồng
+ Tác giả (chủ thể trữ tình) ít xuất hiện trực tiếp qua những đại từ nhân xưng “tôi”,
“ta”,…
+ Câu thơ trung đại thường là những câu thơ tỉnh lược chủ ngữ
Dấu ấn cá nhân, tiếng nói cá thể mờ nhạt
Tiếng nói trữ tình mang tính phổ quát
Người đọc dễ dàng nhập vai vào nhân vật trữ tình
- Phương thức trữ tình trong thơ trung đại thiên về kể, thuật, biểu đạt gián tiếp tình
cảm, cảm xúc
+ Kiểu câu phát ngôn trực tiếp, giãi bày trực tiếp xuất hiện ít
+ Kiểu câu kể, nhà thơ bộc lộ nỗi lòng bằng cách kể lại những biểu hiện bên ngoài
của nỗi lòng đó chiếm ưu thế
+ Phương thức trữ tình phổ biến là “tả cảnh ngụ tình”
- Thơ trung đại thường tuân theo những quy phạm hình thức chặt chẽ
+ Mỗi thể thơ có luật riêng
+ Các kết cấu không gian (xa-gần, cao-thấp,…); kết cấu tương phản, đối lập; kết
cấu “đề-thực-luận-kết”; “khai-thừa-chuyển-hợp”; khái quát, luận đề > cụ thể, hiện
tượng (và ngược lại); cảnh > tình (và ngược lại)
2. Phân loại
- Theo số chữ trong câu: ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn
- Theo số câu trong bài: tứ tuyệt (tuyệt cú), bát cú (luật thi), bài luật (từ mười câu
trở lên)
- Theo số chữ trong câu và số câu trong bài: ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ
tuyệt, ngũ ngôn bát cú, thất ngôn bát cú
3. Đặc điểm
- Vần
+ Thường dùng vẫn bằng (chữ có dấu huyền hoặc không dấu)
+ Chỉ được gieo một vần (độc vần)
+ Vị trí: vẫn được gieo ở cuối câu 1-2-4-6-8 (bát cú), ở cuối câu 1-2-4 hoặc cuối
câu 2-4 (tứ tuyệt)
+ Kiểu loại: chia thành 2 loại: vần chính (giống nhau hoàn toàn); vẫn thông (gần
giống nhau)
- Đối: bao gồm đối ấm và đối ý. Phạm vi: hai dòng thơ
+ Về hình thức: thanh điệu, số từ, loại từ, vai trò ngữ pháp của các từ ở hai dòng
thơ như nhau
+ Về nội dung: tương hỗ hoặc tương phản nhau
+ Quy tắc: câu 3-4; 5-6 bắt buộc đối
Thời lai đổ điếu thành công dị, Chỉ phấn hữu thần liên tử hậu,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Gặp thời thì anh hùng thịt, người câu cá (Son phấn có linh hồn, sau khi chết vẫn
cũng dễ thành công, khiến người ta phải xót thương,
Thời vận đã qua thì anh hùng cũng chỉ Văn chương không có số mệnh mà cũng
uống hận) bị liên lụy, đốt đi còn lại một vài bài)
- Luật
+ Cách sắp xếp các chữ bằng trắc ở mỗi dòng thơ. Luật thơ được tính từ chữ thứ
hai của câu thơ đầu: chữ thứ hai là thanh trắc thì bài thơ theo luật trắc: chữ thứ hai
là thanh bằng thi bài thơ theo luật bằng. Luật trắc được coi là chính thể, luật bằng
được coi là biến thể
+ Luật còn liên quan đến phối nhanh (cách sắp xếp các chữ bằng – trắc trong câu
thơ), tuân thủ quy định: nhất – tam – ngũ bất luận, nhị - tứ - lục phân minh (thanh
điệu ở chữ thứ tư đối với thanh điệu ở chữ thứ 2 và 6)
- Niêm: Sự kết dính giữa dòng thơ trên với dòng thơ dưới về âm luật. Hai dòng thơ
niêm với nhau thì cùng theo một luật (cùng bằng hoặc cùng trắc). Niêm trong thơ
luật Đường, bắt buộc ở câu 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 (tính từ chữ thứ hai của mỗi câu); Với
thơ tứ tuyệt, niêm giữa câu 1-4, 2-3
- Kết cấu
+ Một bài thơ thất ngôn bát cú có thể chia làm 4 cặp câu
Cách gọi tên
o Ở Trung Quốc: (1) Đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên; Khởi (khai),
Thùa, Chuyển, Hợp
o Ở Việt Nam: Đề - Thực – Luận – Kết
Cách đặt câu
o Câu đầu: phá đề (mở đề)
o Câu 2: thừa đề (chuyển tiếp ý từ câu 1)
o Câu 3-4: thực (cắt nghĩa câu đề)
o Câu 5-6: luận (bày tỏ suy nghĩ, tình cảm của người viết, mở rộng nội
dung 2 câu thực)
o Câu 7-8: kết (khái quát lại vấn đề)
+ Cách phân chia khác
2/4/2 (2 câu đầu và 2 câu cuối thiên về ý khái quát; 4 câu giữa diễn giảng cụ
thể)
6/2 hoặc 4/4 (cảnh – tình)
+ Kết cấu bài thơ Đường luật Hán liên quan mật thiết với việc “lập ý” (đặt ý, dựng
ý) của nhà thơ. Một số mô hình kết cấu thường gặp trong thơ trung đại
Kết cấu theo thời gian (tuyến tính)
Kết cấu theo không gian (xa – gần, cao – thấp,…)
Kết cấu tương phản, đối lập
Kết cấu “đề - thực – luận – kết”; “khai – thừa – chuyển – hợp”
Khái quát, luận đề cụ thể, hiện tượng (hoặc ngược lại)
Cảnh – tình (hoặc ngược lại)
- Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, theo luật bằng, sử dụng
vần chính, đảm bảo sự cân xứng, hài hòa về thanh băng, thanh trắc và yêu cầu chặt
chẽ về đối (thanh điệu, từ loại, cấu trúc ngữ pháp, ý)
- Độc Tiểu Thanh kí có những yếu tố nghệ thuật đáng chú ý, ít nhiều mang tính
chất “lệch chuẩn” so với quy cách thơ Đường luật
- Chủ thể trữ tình không ẩn danh mà khẳng định sự hiện hữu bằng đại từ nhân
xưng ngôi thứ nhất (ngã), bằng danh xưng (Tố Như)
- Hai câu thơ cuối với những tín hiệu nghệ thuật lạ: hiện tượng thất niêm so với
quy chuẩn thơ Đường; Sự xuất hiện của con số “ba trăm năm lẻ” đầy bí ẩn; hiện
tượng tác giả tự xưng tên mình; kiểu câu thơ kết: câu hỏi nỗi niềm tâm sự không
bình an của con người cá nhân cảm thấy cô độc giữa không gian, thời gian, của
người nghệ sĩ thấu hiểu sâu sắc bi kịch của thân phận con người
- Vai trò
+ Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn thể hiện nhu cầu phá cách thơ Đường luật, tìm
tòi lối đi riêng cho thơ ca Việt
+ Những thể nghiệm về hình thức như kết hợp câu thơ lục ngôn và thất ngôn,
kết hợp vần chân và vần lưng, vần bằng và vần trắc, cách ngắt nhịp chẵn đã đặt
nền móng cho các thể thơ dân tộc như lục bát, song thất lục bát, thơ hát nói
(những thể thơ nhất thiết sử dụng câu lục ngôn, cách hiệp vần lưng và cách ngắt
nhịp chẵn)
Thực hành
Bảo kính cảnh giới (bài 43) – Cảnh ngày hè
Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
(Theo Nguyễn Trãi toàn tập)
- Đề tài: Thiên nhiên và ngôn chí (nói chú, đề tài truyền thống quen thuộc của thơ
ca trung đại nói chung, Đường luật nói riêng)
- Các yếu tố của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật: vần chính (vị trí câu 1, 2, 4,
6, 8), đối âm và đối ý ở vị trí câu 3-4, 5-6, các câu thất tuân thủ niêm, bố cục
6/2 (cảnh/ tình)
- Chủ thể trữ tình: con người vơi niềm ưu dân ái quốc
+ Chủ thể Nôm
Thể thơ: thất ngôn xen lục ngôn, cách ngắt nhịp chẵn ở vị trí câu 3, 4
Đề tài: thiên nhiên mùa hè và khung cảnh cuộc sống đời thường ở làng
quê
Bút pháp: thiên về tả, tái hiện bức tranh thiên nhiên ngày hè ở làng quê
với màu sắc tươi sáng, âm thanh rộn ra đầy sinh động, rực rỡ và khỏe
khoắn
Ngôn ngữ: sự kết hợp giữa lớp từ Hán Việt và từ Thuần Việt (từ láy)
Hình ảnh: hình ảnh không mang tính tượng trung ước lệ mà bắt nguồn từ
hiện thực cuộc sống: hòe, thạch lựu, sen, ve, chợ cá (trạng thái đang vận
động, căng tràn sức sống)
Chủ thể trữ tình: con người thiết tha với cuộc sống, với cái đẹp
Tên gọi một thể thơ (còn Tên gọi một giai đoạn trong lịch Tên gọi một thể thơ xuất hiện
được gọi là thơ cổ thể) sử thơ ca Trung Quốc (618-907) từ thời nhà Đường, có quy
định chặt chẽ về niêm, luật
(còn được gọi là thơ cận thể)
Giống nhau - Đều là thơ Đường luật, tuân thủ những quy định về hình thức của thơ
Đường luật
- Mang những đặc trưng của thơ Đường luật; hàm súc, ước lệ, đối xứng
hài hòa, cấu tứ chặt chẽ,…
- Nội dung phong phú, tình cảm dồi dào; đất nước, xã hội, thiên nhiên,
con người,…
1. Khái niệm
- Khúc ngâm song thất lục bát còn được gọi là Ngâm, Ngâm khúc
- Một số khái niệm
+ Ngâm là một bài văn vần tả những tình cảm ở trong lòng, thứ nhất là tình
buốn, sầu, đau, thương. Các khúc ngâm trong văn ta vẫn làm theo thể song thất
lục bát, thường gọi tắt là song thất. (Dương Quảng Hàm (1968), Văn học Việt
nam, Bộ giáo dục, Sài gòn)
+ Ngâm là văn bản làm theo thể song thất lục bát hoặc xen lẫn câu dài, câu
ngâm, có khi giống hệt thể ca, chỉ khác ở ý nghĩa (buồn than) và ở cách đọc
(ngâm nga trầm lặng). (Lê Văn Hòe (1954), Cung oán Ngâm khúc, Quốc học
và Nhân dân xuất bản, Hà Nội)
+ Ngâm là những bài thơ có vần, có điệu đọc ra với giọng than vãn. (Hoàng
Xuân Hân (1953) Chinh phụ ngâm bị khảo, NXB Văn học, Hà Nội)
Nhấn mạnh sắc thái cảm hứng (trữ tình, buồn thương) và hình thức thể thơ
(song thất lục bát)
- Ngâm là một thể loại văn học hình thành và phát triển mạnh ở thế kỉ XVIII và
XIX. Nó là những tác phẩm trữ tình trường thiên - có thể gọi là những trường
ca trữ tình - được viết theo thể song thất lục bát. (Lê Trí Viên (2006), Một đời
viết văn, dạy văn, NXB Giáo dục, Hà Nội)
- Ngâm khúc là những ca khúc trữ tình dài hơi phản ánh tâm trạng bị kịch của
con người đã có ý thức về quyền sống, về hạnh phúc cá nhân ở trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, được viết bằng ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm) và thể thơ
dân tộc song thất lục bát. (Ngô Văn Đức (2001), Ngâm khúc, quá trình hình
thành, phát triển và thi pháp thể loại, NXB Thanh Niên, Hà Nội)
- Ngâm khúc là những tác phẩm trữ tình trường thiên, chúng không như những
bài thơ trữ tình nho, thường được viết bằng thể thơ Đường luật. Ở đây , không
phải chỉ có một cảm xúc, một suy tư đơn nhất, riêng lẻ, thoảng qua mà là có
một chuỗi tâm trạng phức tạp và phong phú ngưng tụ lại. (Phan Diễn Phương
(1998), Lục bát và song thất lục bát (Lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại),
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội)
- Định nghĩa
+ Khúc ngâm song thất lục bát (còn gọi là Ngâm Khúc) là một thể loại trữ tình
có quy mô trường thiên, phản ánh tâm trạng bi kịch của con người đã có ý thức
về quyền sống, về hạnh phúc cá nhân, được viết bằng thể song thất lục bát, và
bằng ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm, chữ quốc ngữ)
+ Sự liên hệ giữa Ngâm khúc với các thể thức trữ tình đã có mặt từ lâu trong
văn học Trung Quốc cũng như văn học Việt Nam như: ngâm, khúc, ca, hành,
thán, văn, từ…
+ Tiêu chỉ nhận diện thể loại
+ Nhan để tác phẩm Ngâm khúc và chi dẫn thể loại
+ Nhận diện một số tác phẩm có được điểm tương đồng với tác phẩm Ngâm
khúc
2. Đặc điểm
2.1. Về mặt hình thức
01.Văn tự
02.Thể thơ
03.Ngôn ngữ
04.Hình tượng trữ tình
05.Kết cấu
- Văn tự: chữ nôm, chữ Quốc ngữ
- Thể thơ: song thất lục bát
- Mỗi khổ thơ gồm 28 tiếng, chia làm 4 dòng với số âm tiết 7-7-6-8, dòng thơ có
số tiếng cả lẻ và chẵn
- Mỗi khổ thơ gồm có 7 vần, bao gồm 3 vần lưng và 4 vần chẵn, cả vần bằng lẫn
vần trắc, vần liên kết giữa các câu thơ trong khổ, giữa 2 khổ liền kề
- Nhịp: hai câu thất thường ngắt nhịp chẵn ¾: câu lục bát: nhịp thông thường như
trong thể lục bát hoàn chỉnh
- Thanh: Tiếng thứ 3, 5, 7 ở hai dòng thất, cả tiếng chẵn ở 2 dòng lục bát được
quy định chặt chẽ về mặt thanh điệu, các tiếng còn lại thì được tự do
Thể thơ song thất lục bát
Vần Phối điệu
Liễu, sen là thức cỏ cây,
Đôi hoa cùng dính, đôi dây cùng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thể,
Sao kiếp người nỡ để đầy, đây? x x T x B x T,
Thiếp xin muôn kiếp sau này, x x B x T x B (bổng).
Như chim liền cánh, như cây liền cành. x B x T x b,
Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy, x B x T x B x B.
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
(Chinh phụ ngâm khúc)
Ưu thể của thể thơ song thất lục bát với việc trữ tình/ kể lể tâm sự
- Phong phú về số âm tiết trong một dòng, phong phú hơn về vần điệu, nhịp, phối
điệu so với các thể thơ khác, có khả năng biểu hiện những cung bậc cảm xúc
trong thế giới tâm trạng của con người
- Sự kết hợp giữa cặp thất câu lục bát tạo ra ấn tượng độc đáo; hai dòng nhất là
những lớp sóng cuộn lên, hai dòng lục bát là những đợt sóng tan ra dần, thích
hợp với việc phản ánh tâm trạng ngưng đọng, day dứt, dồn nén
- Song thất lục bát với chu kì 4 dòng, các khổ thơ có cấu trúc giống nhau tạo cảm
giác về sự lặp lại, khiến tốc độ luân chuyển các câu thơ chậm vừa biểu đạt
trạng thái triền miên, ngưng đọng trong nỗi sầu não vừa phù hợp để kể lể, giãi
bày (tự tình)
- Song thất lục bát có cấu trúc phù hợp để thiết lập các thủ pháp đối (tiểu đối,
bình đối, đối giữa hai khổ, đối cách đoạn), điệp (điệp từ, điệp câu, điệp khổ),
thể hiện được sự trăn trở giằng xé và cảm giác ngột ngạt, tù túng trong thế giới
nội tâm con người
- Ngôn ngữ: sự kết hợp giữa ngôn ngữ điển nhã và ngôn ngữ đời sống (khẩu
ngữ), giữa từ Hán Việt và từ ngữ thuần Việt, trong đó chiếm ưu thế là từ ngữ,
cú pháp, cách diễn đạt ngôn ngữ Việt
- Hình tượng nhân vật trữ tình: cái “tôi” tự giãi bày, tự bộc lộ cảm xúc cá nhân,
nỗi niềm riêng tư
+ Mỗi khúc ngâm chỉ có một nhân vật trữ tình
+ Nhân vật trữ tình đồng nhất với tác giả hoặc do tác giả hư cấu
+ Nhân vật bộc lộ nỗi lòng bằng cách kể lại những biểu hiện, việc làm thể hiện
nỗi lòng (tự tình – kể lể tình cảm)
- Kết cấu: theo dòng tâm lí nhân vật
+ Vừa đối lập, vừa đồng hiện quá khứ - hiện tại – tương lai (đặc biệt quá khứ -
hiện tại)
+ Các trạng thái tâm lí ít biến động, lặp đi lặp lại tạo ấn tượng bi kịch, giằng xé
3.2. Sự phát triển của Ngâm khúc qua các giai đoạn
a. Trước thế kỉ XVIII
- Giai đoạn tìm tòi, thể nghiệm về nội dung và hình thức để chuẩn bị cho sự ra
đời của Ngâm khúc
+ Thể thơ: song thất lục bát
+ Cảm hứng: tự tình (ở quy mô tác phẩm thường niên)
+ Đề tài, chủ đề: thân phận con người
b. Thế kỉ XVIII-XIX
- Giai đoạn Ngâm khúc chính thức ra đời và phát triển đến đỉnh cao
- Số lượng tác phẩm
- Sự định hình đặc trưng thể loại (thể thơ, nhân vật trữ tình, nội dung trữ tình)
- Sự chuyển biến của thể loại
- Sự kết tinh thành tựu thể loại
Ngâm khúc thế kỉ XVIII
- Tác phẩm: Chinh phụ ngâm khúc (Hán và Nôm: Đặng Trần Côn, Đoàn Thị
Điểm) (408 dòng), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều) (356 dòng) và Ai
tư vãn (Lê Ngọc Hân) (164 dòng)
- Đặc điểm nội dung
+ Phản ánh tâm trạng số phận bi kịch và những trăn trở về hạnh phúc của người
phụ nữ: người chinh phụ, người cung nữ, người vợ mất chồng
+ Sự chuyển biến của nhân vật trữ tình: (1) kiểu nhân vật trữ tình: từ nhân vật
trữ tình nhập vai đến nhân vật trữ tình là chính tác giả, từ phương thức mượn
giọng đến phương thức mượn thể; (2) mức độ ý thức về giá trị cá nhân
- Đặc điểm hình thức
+ Thể hiện những đặc trưng thể loại: nhân vật trữ tình, phương thức trữ tình,
giọng điệu trữ tình, kết cấu, ngôn ngữ, thể thơ,…
+ Phản ánh những bước tiến của thể loại
Ngâm khúc thế kỉ XIX
- Tác phẩm: Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận) (chữ Hán và Nôm) (136
dòng) và Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ) (608 dòng). Ngoài ra, có thể kể đến một số
tác phẩm khác: Hoài cổ khúc (Miên Bửu) (100 dòng), Bần nữ thán (Khuyết
danh; Phan Huy Thực?) (216 dòng); Quả phụ ngâm (Khuyết danh)
- Đặc điểm nội dung
+ Chủ thể trữ tình đa phần là tác giả của những khúc ngâm
+ Sự xuất hiện tiếng than vãn, tự tình của những nhân vật nam giới gặp cảnh
ngộ oan trái, bi thương. Họ không chọn cách nhập vai, thác ngụ tâm sự qua
nhân vật khác, cũng không ngụ ý một cách kín đáo tâm sự sâu kín của bản thân
mà có nhu cầu được trần tình, giãi bày, được lắng nghe, thấu hiểu và chia sẻ
+ Điểm khác biệt của nhân vật trữ tình là nữ giới so với Ngâm khúc thế kỉ
XVIII
- Đặc điểm hình thức
+ Duy trì đặc trưng thể loại
+ Xuất hiện hình thức song thất lục bát biến thể (Hoài cổ khúc)
+ Xuất hiện khúc ngâm song thất lục bát song ngữ
+ Sự có mặt của tác phẩm Ngâm khúc có quy mô lớn nhất
Ngâm khúc nửa đầu thế kỉ XX
- Tác phẩm : Hàn nho thán (Bùi Huy Đức), Xà lim oán (Vũ Văn Cảo), Hàn sĩ
thán, Biệt xứ tù ngâm (Bùi Hữu Diên), Việt Tiên ngâm khúc (Nguyễn Bá Cảnh),
Thánh Kiều (Chu Ngọc Chi), Lý thị vọng phu ngâm (Xuân Lan), Chinh phụ dạ
tĩnh ngâm khúc (Ngô Văn Triện), Quả phụ ngâm (Nguyễn Thúc Khiêm), Quá
xuân nữ thán (Chu Ngọc Chi), Khúc thu hận (Tương Phố), Quá xuân khuê nữ
thán, Thiếu nữ hoài xuân ngâm khúc, Hương thôn nữ thán, Tù phụ ngâm, Chinh
phụ ngâm khúc
- Đặc điểm nội dung
+ Nhân vật trữ tình đa dạng: nhập vai – là chính tác giả; nam – nữ; xuất thân
thuộc nhiều tầng lớp; mang nhiêu cảnh ngộ; chinh phu, chinh phụ, quả phụ, bần
nữ, hàn nho, người tù, người chiến sĩ cách mạng,…
+ Bên cạnh việc phản ánh những vấn đề thuộc đời sống tình cảm riêng tư,
Ngâm khúc còn biểu đạt những tâm sự về đất nước, dân tộc
- Đặc điểm hình thức
+ Suy trì những đặc điểm của thể loại Ngâm khúc: hình tượng nhân vật trữ tình,
kết cấu, thể thơ
+ Biến đổi về thể thơ, ngôn ngữ, bút pháp nghệ thuật
Ví dụ: Sự kết hợp giữa ngôn ngữ điển nhã và ngôn ngữ thông thường, sự kết hợp
giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt
Giếng vàng một tiếng thu rơi,
Quan san nghìn dặm, mấy hồi tương tư.
Rắp mượn cá đem thư thăm hỏi,
Thoắt nghe tin tựa gối ngẩn ngơ.
Trông hoa luống nặng tình xưa,
Tiếc hoa luống nặng nắng mưa dãi dầu.
Dễ khuây khỏa trăm sầu ngàm giận,
Những sụt sùi thở ngắn than dài.
Biệt ly ai kể xiết lời,
Vì hoa cách mặt cho người thương tâm.
(Tự tình khúc)
Ví dụ: Sự tinh tế trong ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, ngoại hình, ngoại vật
Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây,
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.
b. Hạnh phúc gắn liền với tuổi trẻ và chỉ có ý nghĩa trong hiện
tại
- Quan niệm về hạnh phúc trong Chinh phụ ngâm khúc gắn liền với ý thức thời
gian và cái nhìn trân trọng tuổi trẻ
- Thời gian trôi, đồng nghĩa với tuổi trẻ và nhan sắc tàn phai: Nghĩ nhan sắc đang
chừng hoa nở/ Tiếc quang âm lần lữa gieo qua/ Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa/
Gái tơ mấy lúc xảy ra nạ lòng
- Phủ nhận ý niệm về hạnh phúc trong giấc mộng, trong kiếp lai sinh: Khi mơ
những tiếc khi tàn/ Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không; Đành muôn
kiếp chữ tình là vậy/ Theo kiếp này hơn mấy kiếp sau
Thuở lâm hành (1) oanh chưa hót liễu (2) Hẹn nơi nao, Hán Dương (150 kiều (16) nọ,
Hỏi ngày về, ước nẻo (3) quyên (4) ca Chiều lại tìm, nào có tiêu hao (17)?
Nay quyên đã giục oanh già (5) Ngập ngừng, gió thổi chéo bào (18),
Ý nhi (6) lại gáy trước nhà líu lo Bãi hôm, tuân dậy (19) nước trào, mênh
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió (7) mông.
Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông Tin thường lại, người không thấy lại,
Nay đào đã quyến (8) gió đông Gốc hoa tàn đã rải rêu xanh,
Phù dung lại rã (9) bên sông, ba xòa (10) Rêu xanh mấy lớp xây (20) quanh,
Hẹn cùng ta: Lũng Tây (11) sầm (12) ấy, Thư thường tới, người chưa thấy tới,
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm? Bức rèm thưa lần giại (21) bóng dương,
Ngập ngừng (13), lá rụng cành trâm, Bóng dương mấy buổi xiên ngang,
Thôn trưa, nghe dậy tiếng cầm (14) lao xao. Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai?
Đặc trưng
- “Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ” Gọi trực tiếp trạng thái cảm xúc của
nhân vật
- Tâm trạng, trạng thái của nhân vật thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên, qua hành
động của nhân vật hay câu hỏi (lời trách cứ)
- Nội dung: tâm trạng cảm xúc nghiêng về nỗi sầu muộn của nhân vật, tâm trạng
buồn đau, đầy bi kịch (hi vọng rồi lại thất vọng, cô đơn, lẻ loi, nhớ thương, oán
trách, thể giới nội tâm buồn đau, đầy bi kịch) Sự ngóng trông, chờ đợi
khao khát yêu thương, đoàn tụ của người chinh phụ; ai oán…
- Nghệ thuật
+ Hình tượng trung tâm: tâm trạng của nhân vật
+ Hình thức thể thơ: thể thơ song thất lục bát, nhịp điệu luyến láy
+ Kết cấu: trùng điệp với những phép điệp được thực hiện nhiều mức độ: láy từ,
cấu trúc câu, láy cấu trúc đoạn Tác dụng: nhấn đi nhấn lại tâm trạng, cảm
xúc của nhân vật, biến động trong đời sống nội tâm của nhân vật
- Sự hi vọng rồi lại thất vọng của người chinh phụ và sự lỡ hẹn của người chinh
phu. Câu hỏi ở khổ thơ thứ hai là hướng tới sự oán trách, trách cứ người chinh
phu
- Thủ pháp điệp miêu tả không gian tù túng, không lối thoát. Ngoài ra còn thể
hiện bước chuyển trong đời sống nội tâm của nhân vật
- Bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật đều khá phong phú, đa dạng. Gọi tên trực tiếp
tâm trạng của nhân vật, tả cảnh ngụ tình
- Tượng trưng, ước lệ: oanh, liễu, đào, quyên
- Cả đoạn trích là dòng độc thoại nội tâm nhân vật, giả đối thoại (đối thoại với
người chinh phu: người chinh phu hẹn ngày về, lời trò chuyện, tâm sự (tuy
nhiên người đối thoại không hiện diện phơi bày rõ nét hơn sự cô đơn, bi kịch
của người chinh phụ không được giãi bày)
- Giọng điệu trong bài thơ: tự thương chính mình
- Không gian, thời gian, cấu trúc của thể thơ song thất lục bát cho thấy tâm trạng
quẩn quanh bế tắc của người chinh phụ. Không chỉ là nỗi buồn đau mà còn có
thể thấy những thay đổi, biến động trong tâm lý của nhân vật. Ví dụ: với những
câu thơ biểu đạt trực tiếp của người chinh phụ (câu thơ lặp lại cấu trúc thuở…
thuở, hẹn… hẹn)
- Sự tinh tế của tác giả khi biểu đạt tâm trạng của nhân vật
- Nội dung: phơi bày nỗi đau khổ (cảm giác bất an, sợ hãi, hoảng sợ, căm giận,
chua xót,… nỗi buồn đau, ai oán, khao khát hạnh phúc) Hai cảm xúc này
luôn song hành cùng nhau
- Nếu những câu thơ nhân vật giãi bày trực tiếp thì không có nhiều nhưng qua
những câu hỏi, qua những câu thơ về thiên nhiên thì lại được sử dụng nhiều để
thể hiện tâm trạng của nhân vật
- Biểu đạt cảm xúc của nhân vật: tả cảnh ngụ tình, không gian, hành động của
nhân vật
Một số tác phẩm văn xuôi tự sự trước thế kỉ XVI: Việt điện u linh tập
(Lý Thế Xuyên), Lĩnh Nam chích quái lục, Thiền uyển tập anh ngữ lục,
Tam tổ thực lục, Nam ông mộng lục (Hồ Nguyên Trừng), Thánh Tông di
thảo (tập bản thảo còn sót lại của Thánh Tông),…
Tác phẩm tự sự bằng thơ: diễn ca lịch sử có Thiên Nam ngữ lục
3. Phân loại
- Theo tác giả: Truyện Nôm hữu danh, truyện Nôm khuyết danh
- Theo hình thức thể thơ: Truyện Nôm Đường luật, truyện Nôm lục bát
- Theo đề tài, chủ đề: truyện Nôm tình yêu (truyện Nôm lãng mạn); truyện Nôm
thế sự (truyện Nôm hôn nhân gia đình); truyện Nôm lịch sử; truyện Nôm tôn
giáo; truyện Nôm luân lý đạo đức
- Theo nguồn gốc cốt truyện: truyện Nôm dựa trên cốt truyện văn học dân tộc;
truyện Nôm dựa theo cốt truyện Trung Hoa; truyện Nôm được sáng tác trên cơ
sở chất liệu hiện thực
- Theo nội dung và hình thức nghệ thuật
Thực hành
Phân tích, làm sáng tỏ những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật cỉa truyện thơ
Nôm qua đoạn trích sau
Nàng nghe ngấn ngọc (1) thấm bào Thơ nào kẻ họa vần quê
Phần đành là thế dù sao cũng đành Giấy kia dù xướng nên đề ai liên (4)?
Rối lòng tính quẩn toan quanh Vẽ nào kẻ nhận né truyền
Lẽ gì mình tỏ cho mình chút vay Bút kia dù trạng (5) nên phiền ai xem?
Buồng riêng thức thức phô bày Nào gương, nào chỉ, nào kim
Lòng nào vui nhưng vật này với ai Nào ai mà để chi thêm bận bùng (6)!
Cầm (2) nào kẻ biện thiêng tai (3) Sạch sanh phó trận lửa nồng
Dù say ai với ai nài điệu say? Dành chơi tiên thệ (7) ghi lòng để sau
Cờ nào kẻ đấu ngang tay
Dù mê ai với ai vầy cuộc mê? Nguồn: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện,
Truyện hoa tiên (Đào Duy Anh khảo đính,
chú thích, giới thiệu), câu 937-954, NXB Văn
học, 1987
I. Khái niệm
1. Nguồn gốc khái niệm
2. Khái niệm
- Truyện truyền kì là loại hình truyện ngắn trung đại có nguồn gốc Trung Quốc,
dùng yếu tố kì làm phương thức phản ánh đời sống, tạo nên thế giới nghệ thuật
đặc thù với sự kết hợp cái kì – cái thực, cái hoang đường – cái nhân bản, cái
khác lạ - cái quen thuộc
- Yếu tố kì
+ Vừa là nội dung, vừa là đặc trưng nghệ thuật của thể loại
+ Bao gồm cái hoang đường, siêu thực (kì ảo) và cái khác thường, dị biệt (kì lạ)
+ Gắn liền với tưởng tượng, hư cấu, với chú ý sáng tạo của nhà văn
3.2. Vừa hướng đến những chủ đề phi chính đạo, vừa ngụ ý giao
huấn đạo đức
- Sử dụng yếu tố kì, đặc biệt yếu tố kì để phản ánh đời sống, truyện truyền kì có
thế mạnh trong việc phản ánh những phạm vi hiện thực mang tính “cấm kị”: sự
tha hoa của giái cấp cầm quyền, những ràng buộc khắt khe của giáo lí Nhi giáo,
khát vọng bản năng của con người,…
- Truyện truyền kì là tiếng nói của tầng lớp nho sĩ phê phán xã hội đương thời,
khẳng định và bảo vệ những chuẩn mực đạp đức lí tưởng, hướng tới xã hội tốt
đẹp. Đặc điểm này vừa được quy định bởi đặc điểm lại hình tác giả nhà nho vừa
thể hiện xu hướng đưa truyện truyền kì từ một thể loại ngoại biên đến gần với
văn chương chính thống
3.3. Gắn liền với hư cấu, sáng tạo của nhà văn
Truyện truyền kì đỉnh cao của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam
- Cốt truyện: li kì, biến ảo; nhiều mô hình cốt truyện đa dạng
- Nhân vật: hệ thống nhân vật phong phú, trung tâm là con người đời thường;
nhân vật được tiếp cận từ nhiều góc độ, đời sống nội tâm nhân vật được quan
tâm; xuất hiện những kiểu nhân vật phức tạp;… Truyện truyền kì cho thấy
những thay đổi trong cách nhìn, cách tiếp cận con người
- Lời văn: kết hợp nhiều hình thức ời văn; ngôn ngữ giàu giá trị văn chương
Note
- Sa đà vào giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nêu đặc điểm truyện thơ Nôm và phân tích đặc điểm truyện thơ Nôm trong
đoạn trích (sa đà phân tích chủ đề tình yêu trong đoạn trích)
- Phân bố thời gian không hợp lí
- Thành tựu nghệ thuật: không khái quát tất cả các thành tựu nghệ thuật của
truyện thơ Nôm (kết cấu)
- Thành tựu nội dung: không đề cập; không liên quan: khát vọng công lí, tự do,
tình yêu; bi kịch, thân phận con người; sự tàn nhẫn của xã hội phong kiến
- Sao chép diễn đạt: “cô đươn và nỗi đau là gánh nặng,…”, “nỗi buồn tạo nên vóc
dáng của Thúy Kiều”, buông và nhớ như cặp song sinh, so sánh với Kiều ở lầu
Ngưng Bích; hình tượng hóa nỗi nhớ
- Phụ thuộc vào tài liệu, phân tích cả những câu thơ không có trong ngữ liệu
- Gạch đầu dòng; nhầm lẫn về nội dung: nhớ Kim Trọng – nhớ Từ Hải; nhớ cha
mẹ - lo lắng tuổi già
Giải nghĩa:
- Châm biếm: những thứ không lợi cho mình giả điếc
- “Lối điếc ấy sau này em muốn học”- Anh giả điếc chính là hình ảnh của bản
thân Nguyễn Khuyến, con người sống giữa thời loạn, quay lưng với thời cuộc
không phải đau đớn với tình cảnh trái ngang, không bị ảnh hưởng chi phối
bởi xã hội
Phúng dụ ẩn dụ
Trào lộng, châm biếm thế sự: tiếng nói tự trào, thế trào trong hát nói Cao Bá
Quát, Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Dương Khuê. Nội
dung trào lộng, châm biếm thế sự trong hát nói không nhiều, cũng thật rõ nét
đối tượng châm biếm như thơ Đường luật hoặc truyện, kí
Tuyên truyền, cổ động cách mạng: tập trung trong hát nói đầu thế kỉ XX, với
các tác giả tiêu biểu: Phan Bội Châu, Trần Tuấn Khải. Giọng điệu ngang tàng,
hào mại đặc trưng của hát nói, có sự tương đồng gần gũi nhất định với nhu cầu
cổ động thôi thúc thơ ca yêu nước cách mạng
“Một lối văn hợp nhiều lối văn khác mà thành rồi tự gây lấy được một cái đặc
tính riêng, một lối văn vượt cả khung khổ mà vẫn đủ khung khổ, ra ngoài thể
cách mà vẫn giữ được thể cách, một lối văn như thế, thật kể là một lối văn hiếm
có” (Nguyễn Văn Ngọc)
So với thơ cách luật, hát nói có hình thức tự do hơn, niêm luật không chặt chẽ,
số chữ trong câu và số câu trong bài cũng không có hạn định nghiêm ngặt
1, 2 tổng mạo
3, 4 thừa đề
5, 6 là đại ý toàn bài
7, 8, 9, 10 theo ý của câu 5, 6 mà phô diễn thêm
11 là tổng kết ý toàn bài
Ví dụ:
Hồng Hồng Tuyệt Tuyết (Dương Khuê)
Ví dụ:
Hỏi gió (Tản Đà)
Cát đâu ai bốc tung giời? Thử thị Đà Giang phi Xích Bích,
Sóng sông ai vỗ? Cây đồi ai rung? Dã vô Gia Cát dữ Chu Lang.
Phải rằng dì Gió hay không? Ai cầu phong? mà gió tự đâu sang?
Phong tình đem thói lạ lùng trêu ai? Hay mải khách văn chương tìm kết bạn?
Khoái tai phong dã! Gió hỡi gió! phong trần ta đã chán,
Giống vô tình gỗ đá cũng mê tơi. Cánh chim bằng, chín vạn những chờ mong.
Gặp gió đây, hỏi một đôi lời: Nên chăng, Gió cũng chiều lòng.
Ta hỏi gió quen ai mà phảng phất?