Professional Documents
Culture Documents
Vì vậy
p v21 p v22
z1 g + ρ1 + + Eb = z2 g + ρ2 + + Ew (2-3)
1 2 2 2
Chia 2 vế cho g
𝐩 𝐯𝟐 𝐩 𝐯𝟐
𝐳𝟏 + 𝛒 𝟏𝐠 + 𝟐𝐠𝟏 + 𝐇𝐛 = 𝐳𝟐 + 𝛒 𝟐𝐠 + 𝟐𝐠𝟐 + 𝐇𝐰 (2-4)
𝟏 𝟐
Trong đó:
z1, z2: chiều cao của vị trí 1 và 2 so với mặt chuẩn, (m)
p1, p2: áp suất tại 1 và 2, (Pa)
P1, P2: khối lượng riêng của lưu chất khi chảy qua mặt cắt 1-1 và 2-2, (kg/m3)
v1, v2: vận tốc trung bình của dòng chảy tại 1-1 và 2-2, (m/s)
Hw : độ sụt giảm chiều cao cột áp tương ứng với tổn thất năng lượng do ma sát khi
chất lưu chuyển động từ 1-1 đến 2-2, (m)
Hb : chiều cao cột áp do bơm cung cấp bổ sung cho dòng chảy trong đoạn giữa 1-1 và
2-2, m.
Lưu ý theo công thức 2-3 và 2-4, chất lưu bắt buộc phải chảy từ vị trí mặt cắt 1-1 đến mặt
cắt 2-2.
Phương trình Bernoulli, đưa ra lần đầu tiên năm 1738 bởi nhà toán học người Thụy Sĩ
Daniel Bernoulli, là một trong những biểu thức cơ bản của cơ học lưu chất.
Định luật Bernoulli: Trong một dòng chảy ổn định tổng mọi dạng năng lượng trong chất
lưu dọc theo đường dòng là như nhau tại mọi điểm trên đường dòng đó. Đối với ống dòng nằm
ngang, tổng áp suất tĩnh và áp suất động tại một điểm bất kỳ được bảo toàn.
2. Sơ đồ thí nghiệm
Do đường ống nằm trên cùng mặt bàn => z1=z2 => z1 - z2=0
Ống có cùng kích thước cả đường kính trong và ngoài => V1 = V2 => (V12 – V22) = 0; Không có
bơm => Hb = 0
(𝑝1−𝑝2)
=> Hw1-2 = = ΔH = 0,023m
𝑃.𝑔
-Lý thuyết
𝑉2 𝐿 𝑉2
Hw1-2 = Σhc + Σhd = ξ 2𝑔 + λ𝐷 x 2𝑔 ;
4𝑄 4x 5,83.10−5
mà V = 𝜋𝐷2 = 𝜋 .(17,44.10−3 )2
= 0,2438 m/s
𝑉2 1,26 . (0,2438)2
Σhc = ξ 2𝑔 = = 3,812.10-3 m
2.9,81
Ԑ 0 Ԑ
Tỉ số = 17,45 =0; với Re = 4000 và 𝑑 = 0
𝑑
=> Ta tìm được hệ số tổn thất đường dài dựa vào giản đồ MOODY => λ = f = 0,04
𝐿 𝑉2 1,96 0,24382
Σhd = λ𝐷 . 2𝑔 = 0,04 . 17,45.10−3 . = 1,361.10-2 m
2.9,81
- Guồng có thể là dạng hở, nửa kín hoặc kín. Guồng kín có hiệu suất cao nhất do hạn chế
được dòng chảy vòng trong bơm, nhưng chỉ bơm được chất lỏng sạch. Guổng hở hiệu suất bơm
thấp nhưng cho phép làm việc với chất lỏng có cặn bùn, rác ở mức độ vừa phải.
- Hb được gọi là chiều cao cột áp của bơm, là phần năng lượng được bơm cấp thêm cho 1
kg chất lưu, tính bằng mét thế năng tương đương. Trong trường hợp chọn mặt thoáng bể hút A và
mặt thoáng trên S làm chuẩn, do vận tốc mặt thoáng là không đáng kể và đều hở ra khí quyển, ta
có phương trình Bernoulli qua A và S:
- Tổn thất Hw1-2 giới hạn trong khoảng trước và ngay sau bơm chính là tổn thất thủy lực phát sinh
trong bơm trong khi HwA-S là tổn thất trên toàn đường ống.
III.1.2. Chiều Cao Cột Áp
- Khoảng cách từ mặt thoáng hút đến tâm trục bơm gọi là chiều cao hút, từ trục bơm đến mặt
thoáng trên hoặc miệng của ống ra là chiều cao đẩy của bơm. Khi trục bơm cao hơn mặt thoáng
hút, chiều cao hút là số dương Hh > 0, ngược lại nếu trục bơm nằm dưới mặt thoáng ta có Hh < 0.
Khoảng cách giữa mặt thoáng hút và mặt thoáng đẩy là chiều cao hình học mà bơm đã bơm
được, cũng chính là chiều cao cột áp của bơm nếu bỏ qua các tổn thất.
- Có thể thấy rằng áp suất tại miệng hút của bơm p1 nhỏ hơn áp suất mặt thoáng bể hút nếu
chiều cao hút dương, trục bơm đặt cao hơn. Nếu trục bơm đặt thấp hơn mặt thoáng, chiều cao hút
có giá trị âm, khi bơm hoạt động áp suất p1 có thể lớn hơn áp suất mặt thoáng bể hút.
Hình 3.2: Chiều cao hút âm và dương của hệt thống bơm
C hiều cao hút cực đại phụ thuộc vào áp suất mặt thoáng hút và tổn thất trên đường ống hút. Viết
phương trình Bernoulli qua mặt cắt 1 – 1 và 2 – 2 (Hình 3.1) , ta có:
Đối với nước ρ = 1000 kg/m3, nếu v2 và Hw1 – 2 nhỏ, có thể xem Hhút cực đại bằng
Hình 3.3: Sự thay đổi tổng cột áp trên đường ống
Như vậy, chỉ có thể hút nước từ một mặt thoáng hở lên cao tối đa 10,33 m. Chiều cao hút của
bơm không bao giờ có thể vượt chiều cao hút cực đại theo lý thuyết. Thực tế chiều cao hút phụ
thuộc vào áp suất mặt thoáng và nhiệt độ chất lưu, nhiệt độ càng cao khả năng hút càng giảm.
III.2. Công Suất Tiêu Tốn