You are on page 1of 35

NGHỊ LUẬN VỀ THƠ

ĐỀ 1 Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”


Mở bài:
- Thanh Hải là một nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
- Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: năm 1980 –
lúc nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, chỉ một tháng sau, nhà thơ qua đời.
- Bài thơ thể hiện những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm
“một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời.
Thân bài
1.Khái quát chung
“Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải . Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt : đất
nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách Thanh Hải lúc đó đang nằm trên
giường bệnh, sống những ngày cuối cùng của cuộc đời . Có lẽ vì vậy, bài thơ như một lời tâm niệm, chất chứa bao cảm
xúc, suy tư của nhà thơ trọn đời gắn bó với cách mạng, đất nước.
Lđ 1: Khổ thơ đầu tiên là mùa xuân của thiên nhiên, đất trời
- Trích : Mọc giữa dòngsông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
- Khổ thơ là bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, gợi cảm, tràn đầy sức sống, tươi vui rộn rã được gợi lên qua các
hình ảnh thơ đẹp: Bông hoa tím biếc, dòng sông xanh, tiếng chim chiền chiện. Bức tranh ấy có không gian cao rộng
với dòng sông, mặt đất, bầu trời bao la, có màu sắc tươi thắm: Màu xanh lam của dòng sông hương hoà cùng màu tím
biếc của bông hoa, là những màu sắc đặc trưng của xứ Huế, có âm thanh thật sống động, vui tươi của tiếng chim chiền
chiện.
- BP Đảo cấu trúc câu: Động từ “mọc” đặt ở đầu khổ thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả nhằm khắc sâu ấn tượng
về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, mọc lên, vươn lên, xoè
nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
- Biện pháp Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Ở đây ta có thể hiểu giọt long lanh là giọt mưa mùa xuân, cũng có thể là giọt âm thanh của tiếng chim. -> Qua đó đã
diễn tả cảm xúc say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân.
Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.
- Lời gọi «ơi», lời hỏi «chi mà»khiến câu thơ trở thành lời trò chuyện trực tiếp với thiên nhiên, đó là cách nói dịu ngọt
thân thương của xứ Huế thể hiện sự ngạc nhiên xúc động của tác giả trước vẻ đẹp mùa xuân.
Lđ 2: Từ mùa xuân thiên nhiên đất trời, nhà thơ cảm nhận về mùa xuân đất nước được thể hiện qua khổ thơ 2
Trích: “Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
- Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả và gian lao đang đi lên phía trước .
Nhà thơ đã sáng tạo cặp hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân để nói về hai lực lượng chủ yếu
của cách mạng, hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Đó là người chiến sĩ và người lao động – bảo vệ và xây dựng
Tổ quốc, quê hương. Từ “lộc” được dùng với hai lớp nghĩa : tả thực chồi non, nhành biếc và ẩn dụ cho sức sống, thế
vươn lên, sức phát triển mới, thành quả tốt đẹp là mùa xuân. “Lộc” trên cành lá ngụy trang theo bước chân người cầm
súng ra trận,“lộc” trải dài trên những nương mạ theo bàn tay người ra đồng. Như thế, người chiến sĩ, người lao động
đã đem mùa xuân, gieo mùa xuân đến mọi miền đất nước. Họ trở thành những con người làm ra mùa xuân, bảo vệ mùa
xuân. Và họ đã làm nên cái giai điệu chính của bản hợp xướng mùa xuân, tạo nhịp điệu hối hả, hào hùng:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”

1
Lời thơ giản dị có cụm từ so sánh “tất cả như” vận dụng theo hình thức một điệp ngữ đặt trong nhịp thơ nhanh gấp của
nhân dân tạo nên sự thống nhất trong suy nghĩ và hành động của mọi người. Bởi vì từ “tất cả” gợi lên hiện thực đồng
lòng, nhất trí trong cả một cộng đồng. Bên cạnh đó, từ láy “hối hả” mang tính gợi hình cao, nó gợi lên hình ảnh mọi
người đang say sưa, khẩn thương, tấp nập trong công việc. Còn từ láy “xôn xao” thì gợi âm thành cuộc sống, vừa thể
hiện chiều sâu của cộng đồng đang phát triển, vừa là tiếng reo vui trong lao động, trong tư thế làm chủ đất nước của
con người. Hơn nữa, cách ngắt nhịp 2/1/2 làm cho câu thơ vang lên một nhịp điệu tươi vui, mạnh mẽ. Đó là hành khúc
mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh.
Trước vẻ đẹp của mùa xuân đất nước, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm
dân tộc:
Trích “Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
- Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất
nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ
- Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc“Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”. Sao
là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So
sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp
ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi
lên không gì có thể ngăn cản được. Khổ thơ đã khép lại nhưng cảm xúc cuộn trào mãi không thôi
Lđ 3: Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước tác giả đã bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình
qua khổ thơ 4 và 5.
- trích thơ: Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
+ Đến đây nhân vật trữ tình “ta” trực tiếp bộc lộ tâm niệm của mình đó là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của
đất nước, cống hiến phần tốt đẹp của mình dù nhỏ bé cho cuộc đời chung được thể hiện một cách chân thành trong
những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp.
+ Nhà thơ muốn làm một con chim để dâng tiếng hót cho đời, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương sắc,
một nốt nhạc trầm để nhập vào bản hòa ca làm hoàn thiện khúc hát của nhân dân….
+ Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác họa hình ảnh màu xuân bằng các chi tiết bông hoa và tiếng chim hót đến đây
được lặp lại …mang ý nghĩa mới đó là mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên nhưng mà
vẫn giữ được nét riêng của mỗi người. Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành
+ Biên pháp điệp ngữ “ta làm” và liệt kê con chim, cành hoa, nốt trầm nhấn mạnh ước nguyện chân thành của nhà
thơ. Cách thay đổi đại từ xưng hô tôi – ta cho thấy đó không chỉ là cảm xúc cá nhân cuả tác giả mà còn là khát vọng
chung của nhiều người
- Trích : Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
+ Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ” thể hiện khát khao mong muốn được cống hiến một mùa xuân nho nhỏ của tác
giả vào mùa xuân lớn của dân tộc.
+ Từ láy nho nhỏ, lặng lẽ như muốn nói sự cống hiến đó không khoa trương, ồn ào mà chỉ âm thầm, khiêm tốn “Lặng
lẽ dâng cho đời”.
+ Điệp ngữ “dù là” cùng hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc” cho thấy khát vọng cống hiến hết mình, trọn
đời của nhà thơ. Nó như một lời tự khẳng định, tự nhủ với lương tâm : dù khi còn trẻ trung căng tràn nhựa sống hay
tóc đã bạc vẫn mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương, đất nước..
+ Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn: tâm nguyện của nhà thơ cũng chính là tâm nguyện của
nhiều người đang ngày đêm đóng góp sức mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để biết sống đẹp, sống có ý nghĩa.

2
* Kết thúc bài thơ là Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu “Nam Ai, Nam Bình”: 1 làn điệu dân ca êm dịu, ngọt
ngào, quen thuộc của xứ Huế, thể hiện tình yêu mến với di sản văn hóa phi vật thể. “Mùa xuân ta xin hát”: không chỉ
mở ra không gian nó còn mở ra niềm tự hào về lối sống nghĩa tình của cha ông. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm
nhà thơ Thanh Hải mới có thể hát lên trong hoàn cảnh đang ốm nặng như vậy Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ
nhạc thành bài hát quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.
Lđ 4: Đánh giá về nghệ thuật:
- Với thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca, nhẹ nhàng đi vào lòng người một cách tự
nhiên.
- Đoạn thơ có nhiều hình ảnh thơ đẹp, giản dị, gợi cảm giàu ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt, một số hình ảnh cành hoa,
con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng.
-. Tác giả sử dụng nhiều so sánh và ẩn dụ, hoán dụ sáng tạo làm nên sức hấp dẫn của bài thơ.
Mở rộng=> Khát vọng sống có cống hiến, dù chỉ là phần nhỏ bé nào không chỉ có trong thơ Thanh Hải, hay Tố Hữu
mà nhà văn Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa ” cũng đã khắc họa nên bức chân dung nhân vật
anh thanh niên cùng nhiều nhân vật khác. Họ chính là minh chứng sinh động nhất của hình ảnh “ mùa xuân nho nhỏ ”
mà Thanh Hải gửi gắm đến chúng ta qua bài thơ cuối đời của ông.
Kết bài:
- Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đem đến những cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp
của một tâm hồn trong sáng.
- Liên hệ: Đọc bài thơ trái tim ta dường như cũng xao xuyến cũng muốn cùng con chim chiền chiện hót lên khúc ca
ngọt ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để hiến dâng cho đất nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa
xuân cuộc đời thêm đẹp.

Đề 2 Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Mở bài:
- Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu có nhiều đóng góp quan trọng trong nền thơ hiện đại Việt Nam.
- "Đoàn thuyền đánh cá" là 1 tác phẩm nổi tiếng được Huy Cận sáng tác giữa năm 1958 trong chuyến đi thực tế dài
ngày ở Quảng Ninh.
- Bài thơ là một khúc ca phơi phới, hào hùng, về thiên nhiên đất nước giầu đẹp và con người lao động mới trong
những năm đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Thân bài:
Bài thơ được sáng tác trong chuyến đi công tác của Huy Cận tới vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Ninh năm 1958 và được
in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”. Bài thơ có bảy khổ, bố cục bài thơ theo trình tự một chuyến ra khơi của đoàn
thuyền đánh cá, đồng thời cũng là sự vận động của tự nhiên theo thời gian vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh trong đó
có nhiều bức tranh đẹp, lộng lẫy trong không gian rộng lớn của trời biển.
LĐ1: Cảnh hoàng hôn trên biển và tâm trạng náo nức của người đi biển.(k1,2)
Khổ 1
* Cảnh hoàng hôn trên biển được diễn tả qua hai câu thơ đầu:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”.

3
- Phép nhân hóa, so sánh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”: mặt trời giống như hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn
xuống biển. Gợi không gian mặt biển lúc hoàng hôn buông xuống tráng lệ, kì vĩ.
- Hình ảnh nhân hoá “Sóng đã cài then đêm sập cửa”: vũ trụ bao la là ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là tấm cửa
khổng lồ, những con sóng lăn qua lăn lại trên mặt biển như những chiếc then cài cửa -> thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng
thái nghỉ ngơi,thì con người bắt đầu công việc ra khơi đánh cá. * Cảnh ra khơi và tâm trạng náo nức của con người:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
- khi hoàng hôn buông xuống, vũ trụ, đất trời chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại con người bắt đầu một
chuyến ra khơi, chủ động mở cửa vũ trụ đi trong biển đêm như đi trong ngôi nhà thân thuộc của mình -> qua đó làm
nổi bật tư thế, tinh thần lao động hăng say nhiệt tình của con người .
- Chữ “lại” chỉ nhịp điệu lao động đều đặn như một nhịp sống đã quen thuộc của người dân nơi đây.
- Họ ra khơi trong tiếng hát tràn ngập niềm vui, hào hứng, tinh thần lạc quan, phấn chấn: “Câu hát căng buồm cùng
gió khơi”. Hình ảnh câu hát, cánh buồm, gió khơi hòa vào nhau trong 1 câu thơ thể hiện trí tưởng tượng phong phú,
tâm hồn lãng mạn của những người đánh cá.
Khổ 2 Câu hát của người lao động còn mang theo một niềm mong mỏi tha thiết :
+ trích thơ: Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
+ Ngắt nhịp phá cách 2/5, ba câu thơ dưới nhịp 4/3 cổ điển, tạo âm hưởng vừa trang trọng vừa khỏe khoắn.
+ Với hình thức liệt kê hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người đọc thấy sự giàu có của biển Đông.
Biển Đông có rất nhiều cá và đang chờ mọi người tới khai thác.
+ Hình ảnh so sánh, nhân hóa đẹp, độc đáo: “ Cá thu biển Đông như đoàn thoi” -> ngợi ca vẻ đẹp và sự giàu có của
biển cả
+ Họ hy vọng, những đàn cá “đêm ngày dệt biển” ấy sẽ vào dệt lưới của đoàn thuyền “Đến dệt lưới ta đàn cá ơi !”.
Vần “ơi” kết hợp với dấu chấm cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động, thật
gần gũi thân thiết với con người.=> Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi là một bức tranh đẹp, tráng lệ đầy hào hứng
phấn chấn của những người đi chinh phục biển khơi.
LĐ2: cảnh đánh cá trên biển và cảnh biển đêm được tác giả miêu tả bằng nhiều hình ảnh đẹp, lãng mạn (4 khổ
thơ tiếp )
Khổ 3 Hình ảnh đoàn thuyền được nhà thơ miêu tả
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
- Nhà thơ Huy Cận dùng bút pháp khoa trương với trí tượng tượng phong phú, bay bổng, hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn
và nghệ thuật nhân hóa để khắc họa con thuyền với hình dáng, cấu tạo thật đặc biệt: bánh lái làm bằng gió đại dương
và cánh buồm làm bằng trăng. Con thuyền mang một vẻ đẹp kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ.
- Bức tranh không gian của biển cả được mở rộng ra ba chiều: chiều cao của mây, chiều sâu của bụng biển và chiều
rộng của biển khơi có tác dụng tôn thêm tầm vóc lớn lao của con thuyền và người lao động.
- Các động từ được sử dụng dày đặc: “lái”, “lướt”, “đậu”, “dò”, ‘dàn đan”, “vây giăng” có tác dụng diễn tả hành
động đánh cá rất nhanh, rất khẩn trương của những đoàn thuyền đná cá trên biển.
- Hình ảnh “dàn đan thế trận” là một hình ảnh ẩn dụ đánh cá nhưng cũng cần phải bày binh bố trận, có chiến thuật,
chiến lược thì mới có thể bắt được nhiều tôm cá. Chính vì thế, họ đã đưa con thuyền tiến ra tận khơi xa, dò bụng biển
để tìm nguồn cá lớn.
-> Con thuyền hoà cùng thiên nhiên, mây nước của biển cả, làm chủ tầng cao, chiều rộng, chiều sâu trong tư thế chế
ngự tiến công.
Khổ 4 Hình ảnh biển cả
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
4
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long”
- Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song để liệt kê các loài cá quý ở biển giúp ta
thấy biển Đông rất giàu có, trù phú, nổi tiếng với các loài cá. Đó là nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên, tạo hoá
ban tặng cho chúng ta.
- Hình ảnh ẩn dụ “ đuốc đen hồng”, nhân hóa “Cái đuôi em quẫy” cùng các tính từ chỉ màu sắc (đen, hồng) và từ láy
“lấp lánh” đã đặc tả con cá song với màu sắc rực rỡ, lung linh, cử động mềm mại uyển chuyển.
- Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo: “ Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”: thủy triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm.
Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng đập vào bãi cát được ví như: "lùa nước
Hạ Long". Đây một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động, hấp dẫn. Thiên
nhiên thơ mộng không chỉ là nơi diễn ra công việc lao động mà còn giúp sức lao động cùng con người, hoạt động của
con người nhịp nhàng cùng thiên nhiên vũ trụ.
Khổ 5 Nổi bật nhất là hình ảnh con người lao động trong tư thế lớn lao kì vĩ ngang tầm với vũ trụ
- Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và bây giờ tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới:
Ta hát hài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
- Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm
vui phơi phới, niềm vui lao động, niềm vui được hòa nhập gắn bó thân thiết với thiên nhiên.
- Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, nhưng đây ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ như gõ nhịp vào
mạn thuyền xua cá. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà
thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào
biển cả.- Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có và nhân
hậu:“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
- Biển ở đây được Huy Cận ví như một người mẹ luôn hào phóng với chúng ta. Đây là một hình ảnh so sánh thật tài
tình, mang đầy lòng biết ơn của Huy Cận với mẹ biển cả, với sự hào phóng của thiên nhiên.
- Biển đã cho ta, nuôi ta lớn khôn từ những ngày ta còn thơ bé, nuôi lớn chúng ta qua bao thế hệ con người. chúng ta
phải cảm tạ biển cả mênh mông đã cho ta của cải, nuôi lớn ta, giúp ta làm giàu cho quê hương đất nước. Đó là lời cảm
ơn, lời biết ơn sâu sắc gửi tới biển. Con người luôn có khát vọng chiến thắng, làm chủ thiên nhiên nhưng cũng vô cùng
biết ơn thiên nhiên.
Khổ 6 Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, đến đây là tiếng hát niềm vui thu hoạch:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
- “Sao mờ” là khoảng thời gian chuẩn bị trời đã bắt đầu rạng sáng, đó cũng chính là lúc công việc của người ngư dân
càng trở nên khẩn trương, mau lẹ để kéo lưới cho kịp trời sáng.
- Cảnh lao động hiện lên như một bức tranh sống động với những nét tạo hình đầy khỏe khoắn, gân guốc với hình ảnh
trung tâm là con người lao động.
- Cụm từ “kéo xoăn tay” không chỉ cho thấy những mẻ cá bội thu, nặng trĩu mà đây còn là một nét vẽ tạo hình với
những bắp thịt săn chắc của những chàng thanh niên ngư dân cuồn cuộn nổi lên để kéo cá vào khoang thuyền. Từ đó
khiến ta chợt nhớ tới câu thơ của nhà thơ Tế Hanh trong bài Quê hương khi cũng viết về dân chài lưới quê mình:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”
- Ánh nắng hồng của bình minh hòa cùng với sắc màu của cá “bạc”, “vàng” có tác dụng tô đậm thêm sự giàu có của
biển cả mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
- “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” cũng là lúc đoàn thuyền trở về đón bình minh, kết thúc một ngày lao động vất
vả, mệt nhọc. Hình ảnh “nắng hồng” ở cuối khổ thơ biểu tượng cho niềm vui, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai,
sự hồi sinh mới mẻ của đất nước sau chiến tranh.
-> Những câu thơ cho thấy hình ảnh người lao động mang một vẻ đẹp khoẻ khoắn tươi vui đầy sức sống đó là vẻ đẹp
của những con người lao động trong những năm đầu miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, họ ngày đêm miệt
mài hăng say lao động để xây dựng quê hương đất nước.
5
LĐ 3:(Khổ 7) Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong cảnh bình minh một ngày mới rực rỡ huy hoàng:
- Trích thơ: Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Nếu khổ thơ đầu là cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” thì ở khổ cuối đối xứng là cảnh “Mặt trời đội biển nhô
màu mới” -> biểu hiện nhịp tuần hoàn của vũ trụ.
- Lặp lại dòng thơ “ Câu hát căng buồm cùng gió khơi” chỉ đổi chữ “cùng” thành chữ “với”. Tiếng hát của người dân
chài xuất hiện trong toàn bài thơ: từ lúc ra khơi, trong khi đánh cá cho đến lúc trở về. Chữ “hát” xuất hiện bốn lần
trong bài thơ, đem lại âm điệu tươi vui, khỏe khoắn của một khúc ca lao động đầy hào hứng say mê.
- Phép nhân hóa " Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời ": Đoàn thuyền biểu tượng cho người lao động, Mặt trời biểu
tượng cho thời gian. nghĩa là người lao động đang chạy đua cùng thời gian để lao động, cống hiến, dựng xây đất nước.
- Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn, kết thúc bài thơ là cảnh bình minh “ Mặt trời đội biển nhô màu mới”. Vẻ đẹp
tráng lệ của bình minh trên biển được nhà thơ miêu tả qua nghệ thuật nhân hóa “mặt trời đội biển” gợi cảm giác thần
thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, dường như nó đang đội biển mà lên
- Đặc biệt câu thơ cuối cùng gợi ra hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào trên khoang cũng đầy ắp cá.
Ánh mặt trời chiếu vào mắt cá khiến cho mỗi mắt cá như một mặt trời nhỏ, lấp lánh. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng”
vừa là thành quả lao động, vừa gợi ra niềm vui, niềm tự hào của những người lao động và cuộc sống mới đầy tốt đẹp
đang mở ra trước mắt. Đó là một hình ảnh đầy sáng tạo và lãng mạn.
LĐ 4: Đặc sắc nghệ thuật
- Thể thơ 7 chữ, Cách gieo vần linh hoạt, nhịp điệu kết hợp cổ điển và phá cách tạo âm điệu sôi nổi, phơi phới khiến
bài thơ như một khúc tráng ca khỏe khoắn, vui tươi.
- Bài thơ là sự thống nhất hài hòa giữa hai nguồn cảm hứng: cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ với cảm hứng về người
lao động đã tạo ra những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài.
- Tác giả thành công với các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa …cùng những hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng
mạn được xây dựng bằng bút pháp khoa trương, sự liên tưởng, tưởng tượng phong 1 giặc Mỹ xâm lược, là hậu phương
vững chắc bảo vệ Tổ quốc thân yêu
Kết bài:
- “ Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc tráng ca về lao động và thiên nhiên đất nước giầu đẹp. Với việc ghi lại hành
trình của một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá ngư dân vùng biển Quảng Ninh, Huy Cận đã làm sống dậy
không khí lao động hăng say đầy hào hứng phấn khởi của những người lao động mới trên miền Bắc những năm đầu
giải phóng.
- Đồng thời bài thơ cũng bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống mới.
- Liên hệ: Từ nội dung của bài thơ chúng ta càng thêm yêu cuộc sống, hăng say lao động làm giàu cho quê hương, đất
nước...

6
Đề 3 Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương
Mở bài:
- Y Phương là người dân tộc Tày, quê ở tỉnh Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng,
cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao. Tiêu biểu cho hồn thơ Y Phương
là bài thơ Nói với con. một trong số những sáng tác tiêu biểu viết về tình cảm gia đình. Qua bài thơ tác giả đã thể hiện
rõ nét cội nguồn sinh dưỡng của người con đồng thời ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hương và dân tộc mình.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung : Bài thơ được sáng tác năm 1980 khi đất nước đã giành được độc lập và đang trong công cuộc
khôi phục, xây dựng và phát triển đất nước.Mạch cảm xúc bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm
quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.. Mượn lời “Nói với con”, Y Phương muốn
nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người gia đình và quê hương và những đức tính tốt đẹp của người đồng
mình và niềm kì vọng về con.
2. LĐ 1: Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi
con người đó chính là gia đình và quê hương
- Trước tiên cha nói với con về cội nguồn gia đình
+ Bốn câu thơ đầu tiên người cha đã gợi ra một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt qua cách nói thật lạ:
(trích 4 câu thơ đầu )
+ Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui, giúp ta hình dung hình ảnh đứa
con đang tập đi, cha mẹ vây quanh chăm chút, mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Cả ngôi nhà như rung lên
trong “tiếng nói, tiếng cười” tràn ngập niềm vui hạnh phúc
+ Đằng sau lời nói cụ thể đó, tác giả muốn khái quát một điều lớn hơn: con sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên trong
tình yêu thương, nâng đỡ, trong những tháng ngày chờ trông, mong đợi của cha mẹ. Đó sẽ là hành trang quý báu đối
với cuộc đời, tâm hồn con, là tình cảm thiêng liêng mà con luôn phải khắc cốt ghi tâm
- Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê hương thơ mộng nghĩa tình và cuộc sống lao động trên quê
hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con được bồi đắp thêm lên.
+ Tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của người miền núi để nói những điều chân thực về quê hương
rừng núi: “Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.”
+ cách gọi những con người quê hương: “người đồng mình”, một cách gọi rất gần gũi và thân thương và cũng rất độc
đáo để chỉ những người vùng mình, miền mình.
+ Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua các hình ảnh đẹp, đậm sắc màu dân
tộc. Dụng cụ để bắt cá thường ngày : “đan lờ cài nan hoa” cũng rất nghệ thuật, trong căn nhà lúc nào cũng vang lên
tiếng hát: “vách nhà ken câu hát”.
+ Những động từ: đan, ken, cài: vừa diễn tả những động tác cụ thể, khéo léo vừa nói lên cuộc sống gắn bó với niềm
vui, niềm lạc quan, đầy ắp lời ca tiếng hát.
+ “Rừng cho hoa”: rừng không chỉ cho những sản vật quý mà còn cho những vẻ đẹp tinh thần. “Con đường cho
những tấm lòng”: con đường đâu chỉ dẫn lối mà còn cho những tấm lòng cao cả, thủy chung. Bằng cách nhân hoá

7
“rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”. Quê
hương mang nặng nghĩa tình đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con người.
+ Cha nhắc lại ngày cưới của cha mẹ là « Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời », là ngày khởi đầu hạnh phúc gia đình, để
muốn con khắc ghi : Con sinh ra trong 1 gia đình hạnh phúc, con trưởng thành trên quê hương đầy ắp nghĩa tình đó là
cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm, con đừng bao giờ quên những cội nguồn thiêng liêng, đẹp đẽ ấy.
3. LĐ 2: Đoạn thơ thứ 2 Cha nói với con về những phẩm chất của “người đồng mình” và mong ước của người
cha.
* Vẻ đẹp của người đồng mình:
Người đồng mình thương lắm con ơi
.............................
Xa nuôi chí lớn.
+ Cụm từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con người quê hương với những
phẩm chất cao đẹp. Nếu đoạn trên là yêu lắm con ơi thì đến đây là thương lắm con ơi bởi cuộc sống của người đồng
mình còn nhiều khó khăn, vất vả nên thương lắm.
+ Nỗi buồn được cụ thể hóa bằng chiều cao, chí được đo bằng độ xa. Lấy sự từng trải (buồn) để đo chiều cao, lấy chí
lớn để đánh giá độ xa qua đó người đọc có thể cảm nhận cuộc sống của người đồng mình gian nan, vất vả, vẫn nhiều
buồn lo cực nhọc nhưng tâm càng sáng chí càng bền, tầm nhìn càng xa càng rộng, chí khí mạnh mẽ, vươn lên trong
mọi hoàn cảnh. Đó là vẻ đẹp của người đồng mình mà cha muốn nói với con.
+ Bên cạnh đó Người đồng mình còn sống rất thủy chung tình nghĩa:
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói…”
Tác giả sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu cùng cách nói phủ định để khẳng định rằng: Mặc dù cuộc sống quê
hương khó khăn vất vả nhưng họ “không chê”, họ vẫn yêu quê hương tha thiết, thủy chung với quê hương, một lòng
một dạ gắn bó với quê hương để tạo dựng cuộc sống.
+ Người đồng mình có lối sống phóng khoáng đầy nghị lực:
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
BP So sánh “ sống như sông như suối” gợi sức sống mãnh liệt, đầy ắp nghĩa tình. Dù “lên thác xuống ghềnh”,
dù khó khăn vất vả nhưng người đồng mình vẫn không lo cực nhọc, vẫn sống mạnh mẽ, vẫn đầy sự yêu mến tự hào về
quê hương.
+ Người đồng mình giàu lòng tự trọng:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
họ có thể mộc mạc, thô sơ da thịt, nói không hay, làm không khéo, làn da mái tóc dãi dầu mưa nắng nhưng phẩm
chất bên trong không hề nhỏ bé, tầm thường. Đó là những con người sống giản dị, hồn nhiên mà mộc mạc. Chính cái
hồn nhiên mộc mạc ấy lại chứa đựng sức sống mạnh mẽ của dân tộc : giầu chí khí, niềm tin, không hề nhỏ bé về tâm
hồn, về ý chí.
+ Đặc biệt người đồng mình có khát vọng xây dựng quê hương giàu đẹp bằng bàn tay khối óc với sự lao động cần cù,
nhẫn nại:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Chính những đức tính tốt đẹp cùng hàng ngày đã tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với
phong tục tập quán tốt đẹp. Kê cao quê hương cũng là thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc rất đáng trân trọng của
người đồng mình.
* Điều mong ước của người cha
- Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy
truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với
truyền thống của quê hương.
- Cha nhắc con: Con ơi tuy thô sơ da thịt
..............................
8
Nghe con
“lên đường” là khi con trưởng thành, dù ở bất cứ đâu, đi bất cứ nơi nào cũng “không bao giờ nhỏ bé được”, không
bao giờ được sống một cách tầm thường, con cần tự tin và phải luôn giữ lấy cốt cách giản dị, ý chí của dân tộc để vững
bước trên đường đời, con hãy sống như người đồng mình đã sống dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
- Lời gọi « con ơi » đặt trước những điều dặn dò và nhắn nhủ « nghe con » sau lời dặn khiến lời của cha không khô
khan cứng nhắc mà trở nên thấm thía ân tình, đễ dàng thấm sâu vào hồn con. Cha yêu con, yêu quê hương tha thiết,
tình cha con chan hòa trong tình yêu quê hương đất nước.
=> lời nhắn nhủ của cha với con về lẽ sống ở đời cũng chính là lời của các thế hệ cha anh đi trước nhắc nhở thế hệ trẻ
hôm nay phải vững tin vào cuộc đời để xây dựng quê hương giàu đẹp
4.Đánh giá nghệ thuật
- Với thể thơ tự do, nhịp điệu vui tươi với nhiều. Hình ảnh thơ đẹp, có sức gợi cảm. Sử dụng các biện pháp tu từ quen
thuộc như so sánh, ẩn dụ…những từ ngữ, hình ảnh mộc mạc, giản dị, nhà thơ nói với con về cội nguồn sinh dưỡng ,
những vẻ đẹp của người đồng mình để rồi từ đó truyền cho con lòng tự hào về quê hương, dân tộc, nhắn nhủ con biết
sống đẹp, biết vượt qua gian khó bằng niềm tin, ý chí như người đồng mình
Mở rộng=> Cùng là dặn con không được quên quê hương dù có khôn lớn tới đâu đi chăng nữa, bởi nếu quên quê
hương, quên nguồn cội thì sẽ không nên người, Đỗ Trung Quân viết “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi
thành người”.
Kết bài:
- Nói với con là lời thủ thỉ tâm tình của người cha với con về quê hương, 1 quê hương nhọc nhằn vất vả đã nuôi dưỡng
chí lớn cho những đứa con. Quê hương với sức sống giản dị mà mãnh liệt, hồn nhiên mà mạnh mẽ.
- Liên hệ : Từ đó gợi lên trong lòng chúng ta tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về những truyền thống tốt đẹp
của quê hương mình để rồi có ý thức trách nhiệm trong việc xây dựng quê hương giàu đẹp.

Đề 4 Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
1. Mở bài
- Viễn Phương là một cây bút Nam Bộ nổi tiếng với nhiều bài thơ viết dâng Bác trong đó có bài thơ Viếng lăng Bác.
- Bài thơ được ra đời năm 1976, khi lăng Hồ Chủ tịch vừa khánh thành, Viễn Phương được ra thăm miền Bắc, vào
lăng viếng Bác.

9
- Bài thơ thể hiện lòng thành kính thiêng liêng và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người dân Việt Nam
dành cho Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.
2. Thân bài
1.Khái quát chung
Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ
được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978). Bố cục bài thơ có 4 phần, tương ứng với bốn khổ thơ. Mạch vận
động của cảm xúc trong bài theo trình tự của một cuộc viếng thăm
a, Khổ 1 là cảm xúc của nhà thơ khi đặt chân đến lăng Bác
- Trích thơ: k1
- Câu thơ mở đầu “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chỉ gọn như một thông báo, nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc
động cua một người con từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong chờ gặp Bác.
+ Cách xưng hô “con” và “Bác” vừa gần gũi, thân thương, vừa trân trọng thành kính. Tác giả như người con còn Bác
là cha già kính yêu.
+ Cách nói giảm: từ “thăm” thay cho từ “viếng” giảm bớt nỗi đau thương mất mát. Trong trái tim nhà thơ và tất cả dân
tộc Việt Nam, Bác còn sống mãi, con chỉ ra thăm chứ không phải viếng Bác.
- Ba câu tiếp: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
+ Hình ảnh đầu tiên và ấn tượng nổi bật nhẩt trong cái nhìn về cảnh quan lăng Bác là hàng tre. Hàng tre bát ngát trong
sương là hàng tre thực, Đó là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, đến với Bác như đến với quê hương xứ sở.
+ Hàng tre xanh xanh Việt Nam là biểu tượng cho dân tộc Việt Nam. "Bão táp mưa sa" là một thành ngữ chỉ sự khó
khăn gian khổ. Nhưng dù khó khăn gian khổ đến mấy cây tre vẫn đứng thẳng hàng. Biện pháp ẩn dụ trong câu thơ đã
khẳng định tinh thần hiên ngang, bất khuất, sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc VN trước mọi khó khăn.
- Thán từ " Ôi " điễn tả nỗi xúc động trào dâng trong lòng tác giả.
b, Khổ 2 là cảm xúc của nhà thơ khi cùng đoàn người xếp hàng vào lăng Bác
- Hai câu đầu: Nhà thơ sử dụng thành công hình ảnh sóng đôi “mặt trời”
+ Trích : Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
+ Hình ảnh mặt trời trong câu trên là thực, mặt trời của thiên nhiên vũ trụ được nhân hóa “đi qua trên lăng”.
+ Mặt trời trong câu dưới là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác Hồ. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho muôn loài thì Bác
cũng giống như mặt trời đem đến ánh sáng cho dân tộc Việt Nam ta, xua đi cuộc sống lầm than nô lệ. Lấy mặt trời để
ví với Bác, nhà thơ đã thể hiện niềm tôn kính của mình và toàn thể nhân dân Việt Nam dành cho Bác; khẳng định và
ngợi ca công lao trời bể và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác. Người vĩ đại không chỉ nhân loại thừa nhận mà cả
thiên nhiên, tạo hóa cũng phải tôn kính, ngưỡng mộ. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: “Quả tim lớn lọc trăm dòng
máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.
- Hai câu sau: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
“Dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực, còn “Kết tràng hoa ” lại là ẩn dụ
đẹp, liên tưởng sáng tạo -> tràng hoa tinh thần- tấm lòng biết ơn vô hạn …
+ Câu thơ kéo dài 9 tiếng (như dòng người kéo dài vô tận, như nỗi nhớ thương vô tận…
+ 79 mùa xuân: hoán dụ (79 tuổi), ẩn dụ đẹp (cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân. Chính Bác đã làm nên mùa xuân
cho đất nước)
-> Hình ảnh tả thực và ẩn dụ đẹp, lớn lao, trang trọng; giọng thơ trầm, nhịp chập như bước chân lặng lẽ, trang nghiêm
của dòng người vào lăng. Họ dâng lên Bác cả tấm lòng thành kính, biết ơn vô hạn
c, Khổ 3 Cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng
- trích thơ: k3
- Viễn Phương đã cố kìm nén cảm xúc để miêu tả “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”.
+ giấc ngủ bình yên: cách nói giảm nói tránh -> làm dịu bớt nỗi đau thương, nhói buốt, như thầm nhủ rằng Bác chỉ đang ngủ-
một giấc ngủ dài, bình yên, Gợi tâm hồn thanh thản của Bác sau khi đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho dân tộc
+ Vầng trăng sáng dịu hiền: gợi khung cảnh yên tĩnh, trang nghiêm trong ánh sáng dịu nhẹ trong lăng. Không gian và
thời gian như ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng.Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc
10
đáo.Vầng trăng gợi liên tưởng tâm hồn trong sáng, nhân cách thanh cao, tấm lòng bao dung của Bác. đồng thời gợi
những vần thơ tràn đầy trăng của Bác (sinh thời, Bác với trăng là tri kỉ)
- Trong giây phút thanh tĩnh, trang nghiêm ở trong lăng, lòng người như lắng xuống, xót xa:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
- Trời xanh là mãi mãi: ẩn dụ -> trường tồn của Bác với non sông đất nước, với thời gian, Bác hóa thân vào thiên
nhiên, cây cỏ, núi sông, nhưng Bác còn mãi trong nỗi nhớ, trong trái tim mỗi người dân Việt Nam như trời xanh còn
mãi. Dù vẫn biết là nthế, nhưng nhà thơ vẫn "nghe nhói ở trong tim" Từ “nhói” - từ biểu cảm trực tiếp + ẩn dụ chuyển
đổi cảm giác->cảm nhận được nỗi đau quặn thắt, tê tái trong sâu thẳm đáy tâm hồn. Nỗi đau ấy, niềm xót xa ấy cứ trào
dâng không thể ngăn nổi, nhói buối trong tim...Cụm từ “Vẫn biết”... “mà sao” -> tạo hình ảnh tương phản làm cho lời
thơ thêm xúc động, nghẹn ngào. Dù lí trí mách bảo Bác còn đó nhưng con tim không thể không nhói buốt trước sự ra
đi của Người ..
-> Giọng thơ trang nghiêm, trầm lắng; hình ảnh ẩn dụ đẹp, lớn lao, kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ (vầng trăng, bầu
trời) -> nghẹn ngào, xót thương vô hạn...
Mở trộng :Trước sự ra đi của Bác, nhà thơ Tố Hữu cũng đã nghẹn ngào viết nên những dòng thơ thấm đẫm nước mắt:
“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!”
(Bác ơi!)
d, Khổ 4 là cảm xúc của nhà thơ trước lúc ra về lưu luyến, bịn rịn không muốn rời lăng
- trích thơ:k4
- Tác giả trực tiếp diễn tả Cảm xúc yêu thương, tiếc nuối, không muốn rời xa thể hiện qua hình ảnh: “thương trào nước
mắt” Ba câu cuối: nhà thơ bày tỏ tình cảm lưu luyến và niềm mong ước: Muốn làm con chim,đoá hoa, cây tre trung
hiếu + Điệp ngữ “muốn làm” gợi lên khát khao chân thành, cháy bỏng của tác giả muốn ở mãi bên Bác.
+ Hình ảnh con chim hót, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu gợi ra niềm mong ước của tác giả. Viễn Phương đã
mong ước tha thiết được hóa thân vào cảnh vật bên lăng, muốn làm con chim để dâng tiếng hót, làm đóa hoa để tỏa
hương thơm, đặc biệt muốn được làm cây tre trung hiếu để được đứng trong hàng tre xanh xanh Việt Nam để ngày
ngày đứng canh giấc ngủ thiên thu của Bác. Ẩn dụ cây tre trung hiếu biểu tượng cho lòng thủy chung với con đường
và sự nghiệp cách mạng mà Bác đã chọn.
+ Hình ảnh hàng tre ở khổ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn
tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
=> Tình cảm của nhà thơ Viễn Phương nói riêng cũng là tình cảm của người dân Việt Nam nói chung dành cho Bác
e. Bài thơ có nhiều đặc sắc về nghệ thuật
- Bài thơ có bố cục theo trình tự của cuộc viếng lăng, giọng thơ trầm lắng, sâu sắc, thiết tha diễn tả sự trang nghiêm,
thành kính. Nhịp thơ chậm rãi phù hợp với nhịp bước chân của đoàn người vào viếng Bác. Riêng khổ thơ cuối nhịp thơ
có phần nhanh hơn với điệp ngữ muốn làm đã thể hiện rõ mong ước tha thiết và nỗi niềm lưu luyến của nhà thơ.
- Hình ảnh thơ vừa quen thuộc gần gũi lại có nhiều sáng tạo, vừa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng (mặt trời, vầng
trăng, trời xanh…) có giá trị biểu cảm cao.
- Đặc biệt, sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ...Từ đó thể hiện cảm xúc đau
đớn xót thương, nỗi nhớ và tình cảm thiết tha, sự biết ơn thành kính với Bác Hồ kính yêu.
*Liên hệ bản thân =>Tình yêu tác giả giành cho Bác thiêng liêng và thành kính đến vậy càng làm cho em suy nghĩ
nhiều hơn về trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay - người nắm giữ vận mệnh của đất nước, yên kính Bác là phải thể
hiện được bằng hành động ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để trở thành con ngoan trò giỏi, cháu ngoan
Bác Hồ, để sau này có thể góp một phần trí tuệ, sức lực của mình vào công cuộc xây dựng bảo vệ quê hương, đất nước
và đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.
3. Kết bài:
- Bài thơ đã thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng tha thiết thành kính, vừa tự hào, vừa đau xót của tác giả khi
từ miền Nam mới được giải phóng ra viếng lăng Bác.

11
- Viếng lăng Bác không những là nén tâm hương dâng lên Bác mà còn là tiếng khóc nghẹn ngào trước sự ra đi của
Bác, là lòng thương nhớ khôn nguôi của Viễn Phương nói riêng và của đồng bào miền Nam, dân tộc Việt Nam nói
chung dành cho Bác kính yêu.

12
13
Đề 5 Phân tích Bài thơ tiểu đội xe không Kính của Phạm Tiến Duật
Mở bài
- Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Ông chủ yếu viết về thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu của ông được viết
năm 1969 in trong tập “Vầng trăng quầng lửa” khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thể hiện tư thế
hiên ngang, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, tinh thần lạc quan và ý chí chiến đấu vì miền Nam của
người lính lái xe Trường Sơn.
Thân bài 1.Khái quát chung Bài thơ in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo của tác giả. Phạm Tiến Duật sáng
tác bài thơ này vào năm 1969 trong thời điểm gay go ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thi phẩm nằm
trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ
“Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Bài thơ đã thể hiện thành công vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn – hình
ảnh cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống MĨ. 2.Phân tích, cảm nhận vẻ đẹp người lính
LĐ 1: Hình tượng người lính lái xe trong bài thơ hiện lên với tư thế hiên ngang, bất khuất (khổ 1 và khổ 2)
- Mở đầu bài thơ là hình ảnh chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
+ Hình ảnh những chiếc xe không kính là một hình ảnh có thực trên các chiến trường miền Nam trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ được giải thích là do “bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
+ Điệp từ “bom” cùng với động từ mạnh “giật, rung” đã khơi dậy được không khí dữ dội của chiến tranh và đây cũng
chính là nguyên nhân khiến cho những chiếc xe không có kính. Hình ảnh chiếc xe không kính đã thể hiện sự am hiểu
của nhà thơ về hiện thực khốc liệt của cuộc chiến.
- Trên những chiếc xe không kính ấy, tác giả để cho người chiến sỹ lái xe xuất hiện trong hoàn cảnh đặc biệt với tư thế
ung dung, hiên ngang, oai hùng.
+ trích thơ: Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
+ Từ láy “ung dung” cùng với nghệ thuật đảo ngữ và cách dùng đại từ “ta” đã thể hiện được sự bình tĩnh, tự tin và tư
thế hiên ngang, làm chủ của người chiến sỹ lái xe.
+ Điệp từ “nhìn”, "thấy" cùng với phép liệt kê đã diễn tả chính xác cảm giác của người ngồi trên xe không kính. Xe
không có kính lại chạy nhanh nên người lái cảm thấy gió vào xoa mắt đắng, con đường chạy thẳng vào tim, sao trời
cánh chim đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa, va đập, quăng ném vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
......................................................
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
- Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài chạy tít tắp, có gió thổi, có “sao trời” và có cả
những “cánh chim”. Tất cả thiên nhiên, vũ trụ “như ùa vào buồng lái” của những người lính. Và với nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác "xoa mắt đắng" tác giả đã thể hiện một cách rõ nét tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn,
gian khổ của người lính lái xe.
- Các anh đã vượt qua tất cả mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, để lái những chiếc xe phóng như bay trên con
đường dài. Lúc đó, giữa các anh với con đường như không còn khoảng cách để các anh có cảm giác như " con đường
chạy thẳng vào tim" của chính mình. Đồng thời, qua biện pháp so sánh "như sa, như ùa vào buồng lái" đã giúp chúng
ta cảm nhận được tốc độ nhanh chóng, phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận.
-> Như vậy, với hai khổ thơ mở đầu bài thơ, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng những người lính với tư thế
ung dung, tràn đầy bản lĩnh trước những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến trên cái nền khung cảnh ác liệt
của cuộc chiến tranh.
LĐ 2:Những người lính trong bài thơ còn là những con người luôn tràn đầy tinh thần lạc quan, bất chấp mọi
hiểm nguy, coi thường mọi gian khổ (khổ 3 và khổ 4)
- Thêm vào đó, những người lính trong bài thơ còn là những con người luôn tràn đầy tinh thần lạc quan, bất chấp mọi
hiểm nguy, coi thường mọi gian khổ. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược, những người lính luôn
phải đối diện với muôn ngàn khó khăn, thử thách, hiểm nguy, thế nhưng, dẫu trong bất kì hoàn cảnh nào đi chăng nữa

14
những người lính ấy vẫn luôn tràn đầy tinh thần lạc quan để vượt lên trên tất cả, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm
lược:
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời


Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.
- Tác giả đã sử dụng hàng loạt các hình ảnh như "bụi", "mưa" để diễn tả những khó khăn, gian khổ mà những người
lính phải trải qua. Dẫu có thật nhiều những khó khăn nhưng những người lính ấy đã thể hiện thái độ coi thường, bất
chấp hết tất cả mọi thứ.
- Thái độ, tinh thần ấy của họ đã được tái giả thể hiện rõ nét qua việc sử dụng cấu trúc lặp " không có ... ừ thì..." cùng
kết cấu phủ định "chưa cần ...". Thêm vào đó, với việc sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo "bụi phun tóc trắng như
người già", "mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời" không những cho thấy sự khắc nghiệt của thiên nhiên mà hơn thế nữa
nó còn thể hiện sự ngang tàn, phơi phới, lạc quan của những người lính, họ luôn luôn hướng về phía trước.
=> “Gió”, “bụi”, "mưa" tượng trưng cho những gian khổ, thử thách ở đời, vậy mà trước những khó khăn, những
chiến sỹ lái xe chưa cần rửa, chưa cần thay, coi đó chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm. Các anh vẫn chấp nhận gian
khổ, thể hiện tinh thần lạc quan, thái độ coi thường mọi hiểm nguy, thử thách
LĐ3: Những người lính luôn tràn đầy tình đồng chí, đồng đội cao đẹp (khổ 5 và khổ 6)
Không chỉ dừng lại ở thái độ coi thường, bất chấp mọi hiểm nguy mà tình đồng chí, đồng đội cao đẹp cũng là một
trong số những vẻ đẹp đáng trân quý ở những người lính lái xe. Sau những chặng đường dài hiểm nguy trong mưa
bom bão đạn và cả sự khắc nghiệt của thời tiết, những người lính ấy gặp lại nhau, trao cho nhau những cái bắt tay thật
độc đáo và tràn đầy ý nghĩa:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
- Có thể nói, hình ảnh "bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi" là một hình ảnh thơ độc đáo và giàu sức gợi. Cái bắt tay ấy
vừa thể hiện sự đồng cảm từ tận sâu trái tim, tấm lòng của những người lính dành cho nhau, vừa là những lời động
viên ngắn ngủi mà chân thành, ấm áp và đồng thời, đó là còn sự chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn,
gian khổ mà học đã trải qua. Cái bắt tay ấy chính là cái bắt tay chan chứa tình yêu thương, sự thấu hiểu, sẻ chia, gắn bó
của những người lính. Cái bắt tay hứa hẹn lập công.. Nếu trong thơ Chính Hữu cái nắm tay kia là biểu tượng cao đẹp,
nồng ấm và thiêng liêng của tình đồng chí “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” thì trong thơ Phạm Tiến Duật, người
lính “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” để gần nhau hơn trên chặng đường dài. Đồng thời, những cuộc gặp gỡ, trú
quân ngắn ngủi với bữa cơm dã chiến đã làm cho những người lính xích lại gần nhau thêm nữa:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
.................................................
.Lại đi, lại đi trời thêm xanh”.
- Dường như với những người lính, những người đồng đội, những người cùng "chung bát đũa" đấy là một gia đình, họ
gắn bó và san sẻ cùng nhau. Đây có lẽ là một cách định nghĩa về gia đình thật tếu táo, đậm chất lính nhưng cũng thật
tình cảm của Phạm Tiến Duật. Những phút nghỉ ngơi trong chốc lát, những bữa cơm quây quần cạnh nhau diễn ra thật
vội vã nhưng chính những giây phút ngắn ngủi ấy đã kéo những người lính xích lại gần nhau thêm, để họ thêm gần
gũi, thêm yêu mến nhau. Và chính những giây phút ấy đã tiếp thêm cho họ niềm tin, ý chí, sức mạnh để rồi họ "lại đi,
lại đi", lại tiếp tục cuộc hành trình của mình “Trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ diễn tả niềm tin, hy vọng vào ngày
mai chiến thắng của quê hương, đất nước.
LĐ 4: Những người lính với ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước và lí tưởng cao đẹp. (khổ 7)
Cuối cùng, trong khổ thơ kết thúc bài thơ, tác giả đã cho thấy ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước và lí tưởng cao đẹp
của những người lính
“Không có kính, rồi xe không có đèn
........................................
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
15
- Khổ thơ cuối tác giả nhắc lại hình ảnh của chiếc xe không chỉ không có kính, mà còn không đèn, không mui, thùng
xe có xước đã gây được sự chú ý đối với người đọc về ấn tượng một chiếc xe khác lạ.
- Tác giả sử dụng BP Điệp ngữ “không” cùng với phép liệt kê “không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước”
cho ta thấy 1 chiếc xe bị tàn phá, méo mó, biến dạng, qua đó đã diễn tả không khí dữ dội của chiến tranh và làm nổi
bật vẻ đẹp của những người lính lái xe.
- “Không kính, không đèn, không mui” liên tiếp một loạt các từ phủ định diễn tả chân thực những chiếc xe trên đường
ra trận. “Kính, đèn, mui” là những trang bị hết sức cần thiết để đảm bảo an toàn cho người lái đã bị mất hết, vậy mà
những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường.
- Cụm từ “Xe vẫn chạy” khẳng định ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam của những chiến sỹ lái xe dù cho gặp
nhiều khó khăn gian khổ..
- Hình ảnh “trái tim” chính là hoán dụ cho người chiến sĩ Trường Sơn yêu nước dũng cảm. Với hình ảnh giàu ý nghĩa
này, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã mở ra một góc nhìn mới cho hình tượng người lính lai xe không kính. Phải chăng
“trái tim” là cội nguồn sức mạnh của cả tiểu đội xe không kính, gốc rễ phầm chất anh hùng của người lính Trường
Sơn. Từ hình ảnh “trái tim” cầm lái, nhà thơ đã khẳng định một chân lí của thời đại chống Mĩ, đó là sức mạnh quyết
định chiến thắng không phải là phương tiện, vũ khí mà là con người với trái tim yêu nước nồng nàn và ý chí kiên
cường dũng cảm. Có thể nói hình ảnh “trái tim” đã làm bật lên chủ đề của bài thơ và làm ngời sáng vẻ đẹp của người
chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ.
3.Đánh giá nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn, lời thơ rất gần với lời nói thường ngày, có những câu thơ
gần với văn xuôi.
- Giọng điệu trẻ trung, sôi nổi đã vẽ lên hình ảnh những chiếc xe do bom đạn chiến tranh làm méo mó, biến dạng gây
ấn tượng đối với người đọc.
- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau cũng tạo cho bài thơ có giọng điệu tự nhiên, sinh động.
- Ngoài ra tác giả còn sử dụng thành công một số biện pháp nghệ thuật: liệt kê, ẩn dụ, hoán dụ, cùng những hình ảnh
thơ độc đáo góp phần gợi tả không khí chiến tranh và hình ảnh người chiến sỹ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn
máu lửa.
Mở rộng liên hệ với các tác phẩm văn thơ Tới đây ta lại nhớ đến hình ảnh những nữ thanh niên xung phong truyện
ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê hay các cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ sống cùng và chết cũng
không lìa xa. Họ là kết tinh cao độ tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Họ mãi là biểu tượng đẹp của dân tộc, là những người con anh hùng của Tổ quốc.
Liên hệ với lí tưởng sống của tuổi trẻ trong thời đại ngày nay
Cũng giống như lí tưởng sống của thế hệ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, thanh niên ngày nay cũng mang
trong mình nhiều quan niệm, lối sống cao đẹp. Nếulí tưởng sống của thanh niên Việt Nam trong những giai đoạn cách
mạng vừa qua là sống chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì lý tưởng sống của thanh niên
hiện nay là phát triển đất nước. Thế hệ trẻ hiện nay đang được sống trong thời hòa bình, họ ý thức rất rõ trách nhiệm
của mình đối với non sông. Lí tưởng sống sẽ là động lực giúp con người vươn lên trong cuộc sống. Lí tưởng sống cao
đẹp là điều kiện để con người sống có ý nghĩa; giúp con người hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách. Bước chân sang
thế kỉ XXI, mỗi người trẻ tuổi chúng ta cần nâng cao tinh thần học tập, rèn luyện, luôn mang trong mình một trái tim
nhiệt huyết và tự hào về dân tộc Việt Nam
Kết bài
- Tóm lại, bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người chiến sĩ lái xe thật đẹp, thật dí dỏm, thật lính. Đó là hình ảnh tiêu biểu
của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ -một thế hệ anh hùng, sống đẹp và giàu lí tưởng. Cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước đã thành công gần năm mươi năm qua nhưng vẻ đẹp người lính quyết tâm chiến đấu vì miền Nam
ruột thịt ngày nào vẫn chưa mờ phai trong lòng mỗi người con đất Việt . Nó nhắc chúng ta-thế hệ trẻ- tiếp bước cha
anh, gìn giữ Tổ quốc mãi trường tồn.
- Liên hệ bản thân: Mỗi chúng ta cần sống sao cho xứng đáng với thế hệ cha anh đã không tiếc máu xương đổi lấy hòa
bình hạnh phúc cho hôm nay

16
Đề 6 Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
1. Mở bài
- Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ với giọng thơ trầm lắng, giàu
suy tư.
- “Bếp lửa” là bài thơ tiêu biểu của ông được sáng tác năm 1963, khi BV đang là sinh viên ngành luật ở nước ngoài.
- Qua hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà
và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia
đình, quê hương đất nước.
2. Thân bài
1.Khái quát chung Bài thơ có nhan đề “Bếp lửa”- một hình ảnh rất đỗi quen thuộc trong đời sống con người Việt
Nam thưở trước. Song với riêng nhà thơ, bếp lửa luôn gắn liền với hình ảnh của bà và những kỉ niệm tuổi thơ khóc
nhọc. Năm khổ đầu của bài là những kỉ niệm như thế, hiện lên qua dòng hổi tưởng của nhà thơ, để đến khổ sáu khổ 7,
chúng ta được lắng nghe những suy ngẫm về bà với đầy tình yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng của tác giả
Khổ 1: bếp lửa khơi nguồn cảm xúc.
- Bài thơ mở ra bằng hình ảnh bếp lửa ở làng quê Việt Nam:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
- Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điêụ sâu lắng, đó là hình ảnh quen thuộc trong
mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm
“ấp iu nồng đượm”. Từ “ấp iu” vừa diễn tả công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng
của người nhóm bếp.
- Từ hình ảnh bếp lửa đã đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà - người nhóm bếp lửa mỗi sớm mai:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Cuộc đời bà một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”, nghèo khổ và vất
vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt.
Những kỉ niệm thời thơ ấu bên người bà.
Khổ 2 Kỉ niệm năm lên 4 tuổi:: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
Đó là năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945 đã hằn in vào tâm trí của cháu. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi”
gợi cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa cũng gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy khô…
Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc. Tuy nhiên cái đói chỉ là cái cớ để nhà thơ nhớ về một tuổi thơ cay cực,
thiếu thốn trăm bề.
- Ấn tượng nhất là mùi khói bếp: “ Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.
Hai câu thơ vừa là hình ảnh tả thực : khói nhiều cay, khét vì củi ướt vì sương nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh gợi sự
xúc động - nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cảm xúc quá khứ hoà lẫn hiện
tại trỗi dậy thật là mạnh mẽ. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi
ngoai. Qua đó, nhà thơ khẳng định, tuổi thơ dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn nghĩa tình.
* Khổ3 kỉ niệm tám năm cháu ở cùng bà:
- Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ cùng bà nhóm
lửa để thắp lên niềm tin và hi vọng. Đó là những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung
quanh cái bếp lửa quê hương được nhắc tới trong đoạn thơ thứ ba:
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
- Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của làng quê mỗi khi vào hè. Tiếng chim trên cánh đồng cứ kêu mãi, kêu
hoài như giục giã, khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong: “Tiếng tu
hú sao mà tha thiết thế!”.
- Khi “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, cháu lớn lên bên bếp lửa
của bà. Bên bếp lửa: “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, chuyện thực tại, chuyện tương lai. Không chỉ vậy mà bà
còn: “Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”, bà là cha, là mẹ chăm lo, dạy dỗ, bảo ban cháu. Các từ ngữ như “bà bảo”,
“bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối với
17
cháu nhỏ. Chữ”bà” và chữ “cháu” được điệp lại nhiều lần gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Người cháu tuy
phải sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu
thương của bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Cháu thương bà tần tảo, vất vả, khó nhọc sớm hôm nhưng không biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm tình với chim tu hú
mà thôi:
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu.
* Khổ 4 Kỉ niệm năm giặc đốt làng:
- Bên bếp lửa cháu nhớ: “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” khiến cho “Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”. Đó là
những năm tháng đau thương, vất vả, giặc tàn phá xóm làng, cuộc sống của hai bà cháu cũng như của nhiều gia đình
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp chồng chất khó khăn.
- Sống trong những năm dài chiến tranh, thế nhưng bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, thử thách, hình ảnh người bà
bỗng trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.
Dù cuộc sống khó khăn, dù nhà bị đốt, bị cháy nhưng bà vẫn bảo " bình yên" để con cái yên tâm công tác. Bà là hiện
thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn sẵn sàng chịu mọi gian khổ, hi sinh vì con cháu, góp phần vào
cuộc kháng chiến của dân tộc.
Khổ 5 suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa
- Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”- một hình ảnh ẩn dụ mang nhiều ý nghĩa.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
+ Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương, của
niềm tin “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, là những kỉ niệm thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài.
Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.
+ Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”,
“chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến.
+ Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào.
Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu
truyền cảm ấy.
Khổ 6 là những suy ngẫm về bà
Tám câu thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ về người bà kính yêu,
+ Trích thơ: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
+ Cuộc đời của bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức
khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Từ “ lận đận” thể
hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà.
+ Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời “mấy chục năm rồi” vẫn giữ thói quen dậy sớm. Bà không chỉ nhóm bếp lửa
bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc mà còn bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với con cháu.
+ Trích thơ: Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
+ Điệp ngữ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ gắn với hành động nhóm bếp lửa của bà khi thì nhóm
bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sương sớm; khi thì nhóm bếp luộc khoai, luộc
sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thương vô
hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo với tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn
18
bó, chia ngọt, sẻ bùi. Và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ, nuôi
dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, khát vọng.
+ Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự
no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Như vậy, từ bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình yêu
thương, tình đoàn kết và hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho con cháu,
đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin, hi vọng. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình
dị, thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “Ôi! Kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa”.
Khổ thơ cuối là niềm thương nhớ của cháu:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói tram tàu
Có lửa tram nhà, niềm vui tram ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
- Điệp ngữ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống với những niềm vui rộng
mở, nhưng giữa ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa trăm nhà, cháu vẫn luôn nhớ về bếp lửa nồng đượm của quê hương vì
nơi đó có bà, vẫn không nguôi nhớ thương bà…. Mỗi ngày đều tự hỏi: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Câu hỏi là
lời khẳng định, lời hứa đinh ninh chẳng bao giờ cháu quên quá khứ, chẳng bao giờ cháu quên bà và bếp lửa tuổi thơ.
Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ niệm thiêng liêng làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bước đường đời.
- Một người con xa quê hương, đất nước, nhớ về bà, nhớ về bếp lửa là nhớ về tổ ấm gia đình, nhớ quê hương đất nước,
cội nguồn. Từ tình bà cháu bài thơ đã mở rộng lên tình yêu quê hương đất nước, từ kỉ niệm gần gũi thiêng liêng thành
lẽ sống trên đường đời.
Đánh giá về nghệ thuật
- Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.
- Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi
mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
- Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha
- nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ
tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng.
3. Kết bài:
- Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ hay, dạt dào cảm xúc, đã khơi dậy cho mỗi chúng ta một tình cảm
cao đẹp đối với quê hương, gia đình và xã hội. Đọc bài thơ chúng ta thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung
da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu với bao vất
vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu.
- Liên hệ: Qua đó chúng ta cần phải nhớ về cội nguồn, nhớ về gia đình, yêu quý, trân trọng những tình cảm tốt đẹp đó
để giúp cho cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa hơn.

19
Đề 7 Phân tích bài thơ Ánh trăng- Nguyễn Duy
Mở bài:
- Nguyễn Duy là gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời kì KC chống Mĩ
- Bài thơ “Ánh trăng” là tác phẩm nổi tiếng của ông được viết năm 1978 vào lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đã khép
lại ba năm tại thành phố HCM.
- Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về
thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.
Thân bài: LĐ 1: Hai khổ thơ đầu là Vầng trăng trong quá khứ.
- Trích: Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
- Khổ thơ thứ nhất Tác giả nhớ đến kỉ niệm của mình với trăng lúc nhỏ: gắn bó với đồng, với sông, với bể
+ Điệp từ “với” được lặp lại ba lần và biện pháp liệt kê “đồng, sông, bể, rừng” theo trình tự không gian hẹp tới rộng,
từ quê hương tới đất nước càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp
của tuổi thơ.→ Trải qua khổ cực, cuộc sống bình dị, hồn nhiên, tình cảm của con người và vầng trăng bền chặt “nghĩa
tình”.
+ “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh, khi ấy “vầng trăng thành tri kỉ” ->
Nghệ thuật nhân hóa cho thấy và trăng đã ở trong rừng cùng nhau, trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng
chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ. Hành quân giữa đêm, trên những nẻo
đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen
đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh.
- Khổ thơ thứ 2 tiếp tục nói về mối quan hệ giữa người và vầng trăng trong quá khứ:
+ Trích thơ:“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây có
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”
+ Vầng trăng trong quá khứ mới đẹp làm sao! Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên” cùng
Hình ảnh so sánh độc đáo “hồn thiên như cây cỏ” -> cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, vô tư,
hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ.
+ không bao giờ quên "vầng trăng tình nghĩa” -> thể hiện tình cảm gắn bó thắm thiết của con người với vầng trăng từ
lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao.
=> Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá
khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống.
LĐ 2: Nếu hai khổ thơ đầu là Vầng trăng trong quá khứ thì những khổ thơ tiếp theo là Vầng trăng trong hiện
tại.- Trích thơ: Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương.
- Chiến tranh đi qua, hòa bình trở lại, hoàn cảnh sống của con người có nhiều thay đổi, người lính năm xưa may mắn
từ rừng sâu trở về thành phố, được sống sung túc, đủ đầy, văn minh, hiện đại trong “ánh điện cửa gương” - cuộc sống
đầy đủ tiện nghi, đối lập hoàn toàn với quá khứ khi xưa.
- Trích thơ: “Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”:
+ Mối quan hệ giữa người và trăng không còn được như xưa nữa. Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ
chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó.
+ Biện pháp nhân hóa, so sánh cho thấy Vầng trăng tình nghĩa năm xưa vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy
chung tình nghĩa, vẫn dõi theo người nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình.
Vầng trăng giờ đây trở thành “người dưng qua đường”, trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.
=> Khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm. Đó là một sự thực
trong xã hội thời hiện đại.
- Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:
+ Trích thơ: Thình lình đèn điện tắt
20
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
+ Đây là tình huống rất thực, quen thuộc trong cuộc sống đời thường...
+ Theo phản xạ tự nhiên thì con người “vội bật tung cửa sổ”, vội vàng, khẩn trương đi tìm nguồn sáng. Ngay lúc đó
trăng hiện ra “đột ngột” xuất hiện bất ngờ khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, xúc động gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm
nghĩa tình.
+ Phép đảo ngữ: 2 từ láy “thình lình” và “đột ngột" được đưa lên đầu câu nhấn mạnh hơn sự xuất hiện bất ngờ của
vầng trăng và cảm xúc của con người.
→ Đây là khổ thơ quan trọng tạo nên tính bước ngoặt cho bài thơ cũng là hồi chuông làm thức tỉnh tình nghĩa, lương
tâm của con người
- Trích thơ: Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rung rung
như là đồng là bể
như là sông là rừng
+ Chủ thể trữ tình lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế “ ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế trực tiếp đối diện. Ở
đây tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa: từ mặt thứ hai chỉ vầng trăng tròn, đó là thiên nhiên hồn nhiên tươi mát, đó
còn là quá khứ tươi đẹp.
+ Đối diện với vầng trăng tình nghĩa, con người dường như thức tỉnh được sự thiện lương: nhìn sâu vào bản thân để
thấy lỗi lầm, sự thay đổi của mình.
+ Cấu trúc song hành, nhịp điệu dồn dập, cùng biện pháp tu từ: so sánh, điệp ngữ, liệt kê (như là đồng là bể, là sông là
rừng) như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên với vầng trăng, dòng hoài niệm
như ùa về và con người thấy trăng là thấy người bạn tri kỉ ngày nào.
=> im lặng cũng chính là quá khứ đối diện với hiện tại, sự thủy chung tình nghĩa đối diện với sự bạc bẽo vô tình.
Cuộc gặp gỡ không lời giúp con người tự soi chiếu vào chính mình. Cảm xúc chừng như nén lại nhưng cứ trào ra thổn
thức.
LĐ 3: Khổ thơ cuối bài là những suy ngẫm sâu sắc mang tính triết lý của tác giả.
+ Trích: Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
+ trong niềm xúc động rưng rưng, người lính nhìn trăng và suy ngẫm. “trăng cứ tròn vạnh vạnh “nghệ thật ẩn dụ- biểu
trưng cho sự chung thủy, nghĩa tình, trọn vẹn của thiên nhiên và quá khứ chẳng thể phai mờ dù con người có thay đổi,
vô tình.
+ Ánh trăng được nhân hóa “im phăng phắc” không trách cứ, oán hờn thể hiện sự bao dung, độ lượng nhưng cũng rất
nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên đi quá khứ.
+ Sự im lặng của trăng có sức cảm hóa lớn khiến nhân vật trữ tình “giật mình” cái giật mình là sự thức tỉnh lương tâm
trở nên đáng trân trọng bởi nhớ quên là lẽ thường tình, quan trọng là biết thức tỉnh lương tâm.
+ Câu thơ cuối cùng là sự ân hận, nỗi niềm tâm sự trở nên ám ảnh, day dứt.
=> Đó là Sự cảnh tỉnh, nhắc nhở con người nhớ về quá khứ, về những điều ân tình thủy chung
LĐ 4: Đánh giá nghệ thuật: Bài thơ Được viết theo thể thơ 5 chữ, cô đọng hàm súc giàu chất triết lí.Hình thức bài
thơ rất đặc biệt: cả bài chỉ có 1 dấu chấm ở câu cuối bài, chỉ viết hoa chữ đầu tiên của các khổ thơ tạo sự liền mạch cho
dòng cảm xúc. Tác giả đã kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự và trữ tình khiến cho bài thơ không chỉ là 1 câu chuyện
riêng của nhà thơ mà mỗi chúng ta như tìm thấy mình trong đó. Sử dụng thành công các biện pháp tu từ: so sánh, nhân
hóa…
Kết bài:
- Bài thơ là lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất
nước bình dị, hiền hậu qua đó gợi nhắc người đọc thái độ sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá
khứ. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giá trị như 1 định hướng về lối sống tình nghĩa, thủy chung không chỉ với thế hệ
khi ấy mà cả hiện tại và mai sau.
- Liên hệ, bài học.
21
NGHỊ LUẬN VỀ TRUYỆN
Đề 1 Phân tích về vẻ đẹp của nhân vật Phương Định.Từ đó nêu suy nghĩ của em về thế hệ trẻ trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ và trách nhiệm của tuổi trẻ hiện nay đối với tương lai đất nước
1. MB
- Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong khấng chiến chống Mĩ. Truyện " Những ngôi sao xa xôi " là
một trong những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê viết năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác
liệt nhất.
- Truyện kể về Phương Định, một cô gái dũng cảm trong chiến đấu,hồn nhiên trẻ trung yêu đời, có tình đồng chí đồng
đội gắn bó để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc .
2. TB
b. Hoàn cảnh sống và chiến đấu
- Phương Định cùng với Nho và chị Thao là những cô gái quê ở Hà Nội vào chiến trường làm nhiệm vụ mở đường
trên tuyến đường Trường Sơn.
- Cô cùng đồng đội sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa một vùng trọng điểm, nơi tập trung nhiều bom đạn, nguy
hiểm nhất. Công việc của cô là " quan sát địch ném bom ,đo và ước tính khối lượng đất đá cần san lấp, đếm bom chưa
nổ và nếu cần thì phá bom” => Hoàn cảnh sống và công việc vô cùng gian khổ, nguy hiểm, nhất là với những cô gái
trẻ. Thế nhưng từ hoàn cảnh sống khắc nghiệt ấy, Phương Định vẫn thể hiện được những nét đẹp tâm hồn đáng
quý.
c. Vẻ đẹp tâm hồn Phương Định
Trước hết, nhân vật Phương Định tạo cảm tình đầu tiên cho người đọc bởi vẻ trẻ trung, xinh đẹp , tâm hồn
nhạy cảm.
- PĐ là cô gái có nét đẹp duyên dáng, yêu kiều : một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn, hai bím tóc dài mềm
mại; đôi mắt dài dài màu nâu hay nheo lại như chói nắng. Vẻ đẹp của Phương Định hấp dẫn bao chàng trai, chính cô
thừa nhận: “Không hiểu sao các anh pháo thủ lại hay hỏi thăm tôi”.
- Cách cư xử tế nhị, kín đáo: biết mình là một cô gái khá, biết mình được nhiều anh lính để ý nhưng cô chưa giành tình
cảm cho ai, không săn sóc vồn vã hoặc xúm lại các anh bộ đội như các cô gái khác.
- Sống và làm việc nơi chiến trường nhưng cô vẫn giữ được sự hồn nhiên, trẻ trung của những cô gái mới lớn : thích
làm duyên, làm điệu,có sở thích nữ tính là thích ngắm mắt trong gương, thích ngồi bó gối mơ màng, thích hát, biết
nhiều bài hát, biết bịa lời hát .Tiếng hát của cô át tiếng bom, át cả đau thương, gian khổ hiểm nguy => Đó là biểu
hiện của tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống.
- Hồn nhiên, mơ mộng: đêm đêm, cô nhìn lên những ngôi sao trên bầu trời, mở về một ngày mai hòa bình,
thống nhất. Khi một trận đánh khốc liệt vừa đi qua, chỉ một cơn mưa đá bất ngờ ập xuốn nơi núi rừng Trường
Sơn cũng khiến Phương Định quên hết cả mưa bom, bão đạn, quên cả căng thẳng, hiểm nguy; cô và đồng đội
lại say sưa tận hưởng niềm vui như con trẻ, đưa cô sống lại tất cả những kí ức tươi đẹp thời thiếu nữ kiêu sa
bên gia đình nơi thành phố mến thương.
- Sống ở nơi thần chết luôn rình rập nhưng tâm hồn Phương Định không hề chai sạn. Chiến tranh, bom đạn kẻ
thù có thể hủy diệt sự sống nhưng không bao giờ cướp đi được sự hồn nhiên, tinh thần lạc quan và sự trong
sáng, tâm hồn trẻ trung của những cô gái trẻ như Phương Định.
* Cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác, ở Phương Định nổi bật tinh thần gan dạ,dũng cảm, có
trách nhiệm trong công việc.
- Phương Định tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam hiến dâng cuộc đời mình cho quốc;
+ Phương Định cũng có thời học sinh hồn nhiên, trong sáng. Cô có những tháng ngày sống bình yên,
hạnh phúc cùng với mẹ trong một ngôi nhà nhỏ.
+ Nhưng khi Tổ quốc cần những người con ra trận, cô đã từ biệt Hà Thành trở thành thanh niên xung
phong sống và chiến đấu tại một cao điểm ác liệt ở mặt trận Trường Sơn.
- Vào chiến trường ,cô đảm nhiệm công việc vô cùng nguy hiểm : phá bom. Mỗi ngày cô và đồng đội phải phá bom từ
ba đến năm lần nhưng giọng kể của cô vẫn thản nhiên, coi đó là chuyện bình thường. Cô nói về công việc của mình:
“Việc của chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa

22
nổ và nếu cần thì phá bom” . = > Công việc gian khổ và nguy hiểm nhưng Phư ơng Định coi đó là trách nhiệm, là
nghĩa vụ và là niềm hạnh phúc của tuổi trẻ khi được hiến dâng cuộc đời mình cho đất nước.
- Khí phách anh hùng và lòng dũng cảm của cô thể hiện rõ nhất khi cô cùng đồng đội đi phá bom. Tâm lí nhân vật khi
đi phá bom được nhà văn miêu tả rất tinh tế : cô cảm nhận được sự vắng lặng nguy hiểm ở xung quanh, cảm nhận
được các anh bộ đội đang dõi theo mình nên cô bình tĩnh, đàng hoàng bước về phía quả bom => khai thác chi tiết này,
nhà văn muốn khắc họa thật đẹp tư thế của con người VN trên đường ra trận : dù đối mặt với cái chết nhưng không hề
run sợ.
- Ở bên quả bom, cô làm nhiều động tác: đào lỗ chôn thuốc mìn, khi lưỡi xẻng chạm vào vỏ quả bom, cảm nhận sự
nguy hiểm sắp xảy ra nhưng cô vẫn bình tĩnh làm nhiệm vụ., dòng dây cháy chậm, khỏa lấp đất, rồi chạy về nơi trú
ẩn, cô hồi hộp chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Cô có nghĩ đến cái chết nhưng chỉ thoáng qua, điều cô băn khoăn nhất là
mìn có nổ không, bom có nổ không , nếu bom không nổ thì làm thế nào để châm mìn lần thứ hai? Chính sự gan dạ,
dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cao đã giúp Phương Định thực hiện tốt công việc của mình. Cô tiêu biểu cho bao
chàng trai, cô gái đã cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Chiến tranh ác liệt đã biến một cô
gái nhạy cảm thành một cô gái anh hùng.
=> Phương Định mang lí tưởng sống cao đẹp của tuổi trẻ VN anh hùng thời chống Mĩ, sẵn sàng " Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước "như bao chàng trai, cô gái VN tình nguyện lên đường bảo vệ non sông. Chiến công thầm lặng của
Phương Định và đồng đội đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Ngoài sự dũng cảm trong công việc Phương Định còn cho ta thấy toát lên tình cảm đồng đội, đồng chí gắn bó
- Từ giã Thủ đô yêu dấu để vào với Trường Sơn, Phương Định luôn dành tình yêu thương, sự quan tâm cho
những người đồng đội.
- Cô yêu mến, khâm phục tất cả những chiến sĩ có gặp đêm đêm trên mỗi bước đường ra trận. Cô coi họ là thần
tượng, là những người dùng cảm, thông minh và can đảm nhất. Họ là động lực tiếp cho cô sức mạnh mỗi khi
làm nhiệm vụ phá bom.
- Phương Định dành nhiều tình cảm nhất cho những chị em trong cùng tổ trinh sát. Cô kể về họ bằng giọng kể
đầy thân thương, trìu mến và hiểu họ một cách sâu sắc. Cô coi Nho, Thao như người thân trong gia đình. Cô
khâm phục, ngưỡng mộ sự “Bình tĩnh đến phát bực” của chị Thao, cô hiểu tất cả những điểm yếu, những lo
toan đang quay cuồng trong đầu óc chị. Cô nhìn nhận và coi Nho như một đứa em gái đáng yêu. Cô lo lắng cho
chị Thao lên cao điểm chưa về đến nỗi ”nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình, rồi khi Nho bị thương
cô chăm sóc tận tình như một cô ý tá, sự chăm sóc đó đã làm cho Nho nhanh chóng khỏe lại
-> Tình đồng chí đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc, xoa dịu trong cô nỗi nhớ gia đình, người thân, là động lực
để cô chiến đấu dũng cảm để hướng về ngày mai hòa bình.
d. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật Phương Định để lại dấu ấn không phai mờ trong lòng bạn đọc là nhờ nghệ thuật xây dựng nhân vật độc
đáo của nhà văn . Ở đây chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, cũng là nhân vật chính nên đã tạo điều kiện để tác giả tập
trung miêu tả thành công thế giới nội tâm của nhân vật, nó làm cho câu truyện diễn tả một cách chân thực, tự nhiên.
Đặc biệt, Lê Minh Khuê đã sử dụng rất thành công các kiểu câu ngắn, rút gọn, đặc biệt để diễn tả không khí căng
thẳng ác liệt của chiến trường. Nhưng giữa cái ác liệt ấy vẻ đẹp của Phương Định cũng như các cô gái vẫn tỏa sáng,
sức trẻ và lòng yêu nước, khát vọng hòa bình đã tạo nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến gian khổ và anh hùng.
* Nêu suy nghĩ của em về thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ và trách nhiệm của tuổi trẻ hiện nay đối
với tương lai đất nước.
- Đó là một thế hệ đáng tự hào mang gương mặt đất nước: anh hùng và nhân hậu, cao đẹp và dung dị, dũng
cảm và lạc quan yêu đời... họ đã làm tốt sứ mệnh của thế hệ mình để bảo vệ đất nước, quê hương.....
- Liên hệ trách nhiệm của tuổi trẻ hôm nay: tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha anh,
có lí tưởng sống, biết học tập, rèn luyện, phấn đấu để gìn giữ và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn
minh..
3. KB
- Nhân vật P Đ là hình ảnh tiêu biểu của tuổi trẻ VN anh hùng đã cống hiến cả tuổi thanh xuân, không tiếc máu
xương để giữ cho tuyến đường Trường Sơn luôn được thông suốt.Qua nhân vật, người đọc thêm yêu mến, tự hào,
trân trọng hơn quá khứ hào hùng của dân tộc.
- Thế hệ trẻ hôm nay không những chỉ ghi nhớ công lao của bao thế hệ cha anh đi trước mà còn phải có trách nhiệm
giữ gìn, bảo vệ, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh văn minh.
23
Đề 2 Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu.
MB
Với lối viết giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, đậm chất Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng để lại cho đời nhiều
thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim. Một trong số đó không thể không kể đến là “Chiếc lược
ngà” được viết vào 1966 khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Truyện ca ngợi tình cha con sâu
nặng, thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh của ông Sáu và bé Thu. Bé Thu –nhân vật chính trong truyện
hiện lên là một cô bé gan lì, bướng bỉnh nhưng lại rất yêu thương ba
TB 1.Khái quát chung
Cũng giống như bao em bé trong thời kháng chiến chống Mĩ, bé Thu có một hoàn cảnh đặc biệt. Thu là cô
bé khoảng 8 tuổi, đứa con đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất của ông Sáu. Khi ba vào chiến trường, Thu
mới 1 tuổi và 8 năm sau ba trở về với vết sẹo trên mặt nên khiến Thu không nhận ra ba. Đến khi em nhận ra
và tình cảm cha con trỗi dậy thì cũng là lúc ông Sáu lên đường, trở lại chiến khu. Và cũng chính trong hoàn
cảnh đó bé Thu đã bộc lộ rõ nét cá tính và tình cảm đáng yêu, đáng mến của mình
2.Cảm nhận về bé Thu
- Thật vậy, mở đầu đoạn trích, Thu xuất hiện là cô bé hồn nhiên, xinh xắn với mái “tóc cắt ngang vai,
mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi”… Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp
cha, nó sẽ bồi hồi, sung sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Nhưng không Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là
ba. Đầu tiên, nghe gọi, con bé “ giật mình, tròn mắt nhìn”, ngơ ngác, lạ lùng. Đây là một hành động rất tự
nhiên, sự ngạc nhiên khó hiểu của bé Thu khi thấy một người xa lạ gọi mình là con. Sau khi khi ông Sáu đến
gần, lặp đi lặp lại: “Ba đây con !” , con bé bỏ chạy và thét lên “Má, má”. Đây là phản ứng sợ hãi rất dễ hiểu
của một đứa trẻ. Thu chưa sẵn sàng tâm lí đón nhận người mà em chưa hề gặp mặt bao giờ làm cha. Hành
động của Thu đáng thương hơn đáng trách.
- Thu là cô bé có cá tính, ngang ngạng, bướng bỉnh. Những ngày nghỉ phép mặc những cử chỉ quan tâm của
ông Sáu, Thu vẫn gan lì không chịu gọi ba. Mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm nhưng nó lại nói trổng “Vô ăn
cơm” để rồi khi bị mẹ dọa đánh nó vẫn lại nói trổng “Cơm chín rồi”. Nó gọi ông Sáu là “người ta”. Rồi ngày
hôm sau khi bị dồn đến đường cùng phải nhờ sự giúp đỡ của ông Sáu nhưng nó vẫn không chịu lễ phép, chỉ
nói “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái”, “Cơm sôi rồi nhão bây giờ”. Mặc dù sợ nhưng nó nhất quyết không
gọi “ba”, nó lấy cái vá múc ra từng vá nước”. Lúc này ta thấy Thu đáng trách hơn đáng thương. Với bé Thu ,
người trong ảnh chụp chung với má mới chính là ba nó. Tới bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá to
thì nó “lấy đũa xoi vào chén rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm”. Giận quá ông Sáu
đánh vào mông nó, nó đứng dậy, xuống bến “mở lòi tói, cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng…rồi lấy dầm
bơi qua sông” mét với ngoại và khóc ở bên ấy.
- Qua phân tích ta thấy, việc Thu không nhận ông Sáu là cha có nguyên nhân của nó. Bởi vì ông Sáu có vết
thẹo dài trên má. Với suy nghĩ của một đứa trẻ hồn nhiên và đáng yêu, em luôn mường tượng ra người cha
của em đẹp như trong ảnh chụp chung với má. Trong sâu thẳm tâm hồn Thu, em rất yêu cha vì vậy nên em
không muốn người nào khác thế chỗ của ba mình. Em muốn giữ mãi hình ảnh người cha đẹp đẽ của em. Hiểu
như vậy, ta thấy sự ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách mà còn có phần đáng yêu. Đó là phản
ứng tâm lí hoàn toàn tự nhiên của một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ
yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Chính cái thái độ quyết liệt ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của
tình cảm người con dành cho cha - người trong tấm hình chụp chung với má em.một tình yêu chân thực, sâu
sắc và mãnh liệt . Qua những phản ứng mạnh mẽ của bé Thu ta nhận thấy phải thực sự là một người có lòng
yêu trẻ và thấu hiểu tâm lý trẻ thơ, Nguyễn Quang Sáng mới có thể khắc họa nhân vật bé Thu một cách đáng
yêu như thế.
b.Trong buổi sáng cuối cùng, trước giờ phút ông Sáu phải đi xa thì thái độ và hành động của bé Thu
đã đột ngột, thay đổi hoàn toàn. Cá tính ương ngạnh là thế nhưng rồi sau khi nghe bà ngoại giải thích về
vết thẹo trên mặt ba thì mọi nghi ngờ bấy lâu được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái ân hận, hối tiếc
24
“Nghe bà kể , nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”.Vì thế trong buổi sáng cuối cùng
trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé Thu thay đổi đột ngột. Nó không bướng bỉnh hay
cau mày nhăn nhó nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu khi đối diện với ông Sáu “đôi mắt mênh mông của con bé
bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt ấy đang xáo động bao ý nghĩ, bao tình cảm và sau lời từ biệt của ông Sáu
“Thôi ba đi nghe con” thì tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách bị dồn nén bấy lâu nay bỗng trỗi
dậy hơn bao giờ hết: mạnh mẽ, hối hả và cuống quýt.
- Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba sau 8 năm. Tiếng gọi ấy chứa chan bao tình cảm “Tiếng kêu của nó như
tiếng xé, xé sự im lặng và xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”. “Đó là tiếng ba mà nó cố đè nén bấy lâu
nay, tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy lòng nó” cùng với những cử chỉ khiến người kể chuyện, bà con hàng xóm
và cả người đọc chúng ta xúc động đến nao lòng không kìm được nước mắt “nó vừa kêu vừa chạy tới, nhanh
như sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt cổ ba nó”.
- Tác giả không viết nhiều, chỉ vài chi tiết nhỏ cũng đủ để người đọc cảm nhận tình yêu thương nồng nàn mà
bé Thu dành cho ba của mình. Trong giây phút ấy bé Thu không chỉ yêu ba, thương ba mà còn tự hào về ba
“Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Có lẽ vì
rất tiếc thời gian qua không nhận ra ba nên giờ nó muốn níu ba nó ở lại “không cho ba đi nữa, ba ở nhà với
con”, nhưng rồi ý thức được công việc của ba, của kháng chiến nên khi bà ngoại giải thích Thu đã rời vòng
tay ba. Điều này làm ta hiểu thêm một điều rằng: Tình yêu, niềm tin và tự hào về ba đã trở thành sức mạnh
thôi thúc Thu sau này trở thành một cô giao liên dũng cảm.
c . Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Tác giả đặt nhân vật bé Thu vào tình huống truyện rất éo le để nhân vật bộc lộ rõ nét cá tính và tình cảm của
mình.
- Đặc biệt nhà văn còn rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, mọi hành động, thái độ của bé
thu trong hai giai đoạn trước và sau khi nhận ra ba đều biểu hiện trái ngược hoàn toàn.
- Tất cả bắt nguồn từ tình cảm sâu sắc dành cho ba mà em hằng kính yêu, tôn thờ. Có thể nói với một tâm
hồn nhạy cảm, chan chứa yêu thương, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận tận cùng những biểu
hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách cảm động như thế.
Mở rộng, liên hệ Truyện đã gợi lên trong lòng người đọc những tình cảm cao đẹp và sự xúc động sâu sắc,
thấm thía những đau thương, mất mát, những cảnh ngộ éo le mà con người phải chịu đựng trong chiến tranh,
đặc biệt là người dân Nam Bộ. Qua đó Nhà văn muốn khẳng định: Dù chiến tranh có tàn khốc bao nhiêu cũng
không thể giết chết những tình cảm cao đẹp, đầy nhân bản của con người Việt Nam, không thể giết chết được
tình cảm phụ tử thiêng liêng, cao đẹp.
KB Chiến tranh đã lùi xa hơn nửa thế kỉ nhưng hình ảnh bé Thu cùng câu chuyện “Chiếc lược ngà” của
Nguyễn Quang Sáng vẫn để lại bao ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc về một em bé hồn nhiên, bướng
bỉnh nhưng yêu thương ba vô cùng. Qua nhân vật bé Thu ta càng thấm thía hơn tình phụ tử thiêng liêng cao
đẹp, thấm thía bao mất mát mà chiến tranh gây ra để ta biết trân trọng cuộc sống hòa bình hôm nay . Đọc tác
phẩm em càng yêu quý gia đình hơn và trân trọng những gì tốt đẹp mà mình đang có.

25
Đề 3 Cảm nhận về nhân vật ông Sáu
Mở bài
- Với lối viết giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, đậm chất Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng để lại cho đời
nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim.
- Một trong số đó không thể không kể đến là “Chiếc lược ngà” được viết vào 1966, trong thời kì cuộc
kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt, ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người
cán bộ Cách mạng – cũng là tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh, nhân vật ông Sáu trong
truyện đã để lại cho người đọc rất nhiều ấn tượng.
Thân bài
1.Khái quát chung
Câu chuyện xoay quanh cuộc sống gia đình của ông Sáu, một cán bộ kháng chiến. Ông Sáu đi kháng
chiến, mãi đến khi con gái lên 8 tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không chịu nhận
ba vì vết thẹo trên mặt.Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cha con thức dậy
mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi thương nhớ con,
ông dồn vào việc làm cho con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ .Trước lúc nhắm mắt,
ông còn kịp trao cây lược cho một người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của ông Sáu được miêu tả
thật cảm động.
2/ Cảm nhận về tình cảm ông Sáu dành cho con
a.Nỗi khao khát gặp lại con:
Thật vậy, nỗi khao khát muốn gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nhớ thương khiến cho
ông Sáu bồi hồi suốt quãng đường về nhà. Khi thuyền còn chưa kịp cập bến thì ông Sáu đã vội vàng
nhảy xuống “…nhún chân, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài…”. Đây là hành
động có phần gấp gáp, vội vàng của một người cha nóng lòng muốn gặp con. Khi nhìn thấy đứa nhỏ
chơi ở gần đó, ông Sáu biết chắc đó là con của mình, sự xúc động dâng trào khiến cho ông Sáu kêu to
tên con “Thu! Con”. Ông đưa tay ra đón chờ con, nhưng trái ngược với sự mong chờ, hi vọng của
ông Sáu, bé Thu “giật mình, tròn mắt nhìn”. Cái nhìn vừa lạ lùng, vừa ngơ ngác. Hơn nữa, sự xúc
động làm cho vết thẹo trên mặt của ông "giật giật", giọng nói run run không còn kìm chế được được
sự xúc động: "Ba đây con! Ba đây con". Vì sự nôn nóng, biểu hiện có phần gấp gáp, vồ vập của ông
Sáu, lại thêm vết sẹo đỏ ửng trên mặt giật giật khiến cho bé Thu hoảng sợ, mặt “tái đi, rồi vụt chạy,
kêu thét lên “Má! Má!”.Sự đau khổ của người cha bị chính con mình từ chối được nhà văn Nguyễn
Quang Sáng miêu tả rất xúc động : "đau đớn khiến mặt anh sầm lại...hai tay buông thỏng như bị gãy"
* Trong những ngày nghỉ phép:
Ông Sáu cũng chẳng dám đi đâu xa, cứ quanh quẩn tìm mọi cách để được gần con, mong mỏi
sự đón nhận của bé Thu. Tuy nhiên, bé Thu nhất quyết không chịu nhận ông, không một chút quan
tâm, không chút lễ phép. Khi được má sai vào gọi ba vào ăn cơm, bé Thu lại nói trống không “vô ăn
cơm”. Rồi bị mẹ dọa đánh Thu vẫn nói trổng "cơm chín rồi". Lúc ấy ông Sáu "vừa khe khẽ lắc đầu
vừa cười". Tuy là cười đấy, nhưng sao nụ cười này thật buồn, bất lực, khổ tâm của người cha. Vì dù
bao nhiêu cố gắng đi nữa thì cũng đều vô vọng, chính đứa con gái ruột thịt mình yêu quý đều một
mực khước từ.
Tuy rất buồn nhưng chưa một phút giây nào ông Sáu thôi cố gắng, thôi chăm chút, lo lắng cho
bé Thu. Trong bữa cơm gia đình, vì yêu thương con nên ông Sáu đã gắp cho con miếng trứng cá to
nhất, ngon nhất. Nhưng đáp lại cử chỉ ân cần ấy là sự chối bỏ quyết liệt của con bé, con bé không
những không đón nhận nó mà còn “ lấy đũa hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm” . Vì quá
26
tức giận, ông Sáu đã đánh con. Đánh con nhưng lòng người cha còn đau gấp bội. Vì hành động nóng
nảy này mà đến lúc hi sinh, ông Sáu vẫn mang theo sự hối hận.
Đến tận lúc chia tay, lên đường vào chiến trận, ông Sáu vẫn "buồn nẫu ruột", ông không dám
chạy lại ôm con, bế con vì sợ con bé hoảng sợ. Ông chỉ đưa mắt lên nhìn, cái nhìn cũng " buồn rầu".
Nhưng thật bất ngờ, vào giây phút cuối cùng, khi sắp phải chia tay, ông Sáu lại vỡ òa trong hạnh phúc
vì tiếng gọi ba bất ngờ từ bé Thu "ba...a..a.. ba..". Ông Sáu sững sờ, một lần nữa không kìm nén được
xúc động, người đàn ông ấy “một tay ôm con, một tay lấy khen lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc
con”. Giọt nước mắt hạnh phúc, sung sướng vì ông cảm nhận được tình ruột thịt từ con mình. Có thể
nói, đây là món quà ý nghĩa nhất mà ông Sáu nhận được trước giây phút lên đường.
* Khi trở lại chiến trường:
Vào chiến trường, ông Sáu không giây phút nào thôi nhớ con, day dứt ân hận vì đánh con.
cùng với lời hẹn ước với con gái “ Ba về..mua cây lược cho con nghe ba!” . Vậy nên khi nhặt được
một mảnh ngà, ông vui như một đứa trẻ được quà. Rồi những lúc rỗi anh dành hết tâm trí vào việc
làm cây lược “anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thơ bạc”. Trên
chiếc lược ông còn kì công khắc lên sống lưng cây lược những dòng chứa đầy yêu thương: "Yêu nhớ,
tặng Thu con của ba".Lòng yêu thương con đã biến người chiến sĩ thành nghệ nhân- nghệ nhân
chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong đời. Cho nên nó không chỉ là chiếc lược xinh xắn và quý
giá mà đó là chiếc lược kết tụ tất cả tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà kì diệu làm
sao! Cây lược ngà ấy chưa trải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng
ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu.
Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, cố mài lên mái tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt.
Tác giả không miêu tả rõ song người đọc vẫn hình dung cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi
ngày một đẹp lên, trắng ngà, toả sáng lung linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của
tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiếc lược nhỏ bé mà thiêng liêng đã làm dịu nỗi ân hận và
ánh lên niềm hi vọng khắc khoải sẽ có ngày anh Sáu được gặp lại con, trao tận tay nó món quà kỉ
niệm này.
Nhưng tình cảnh thật đáng thương, anh chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì
người cha ấy đã hi sinh trong một trận càn. Trước khi hi sinh, thu hết tàn lực, ông lấy ra cây lược, trao
cho ông Ba- bạn chiến đấu thân thiết của mình, cũng là người ông tin tưởng nhất lúc này- nhờ ông
sau này trao lại cho con gái. Và đến lúc nhận được lời hứa từ ông Ba: "Tôi sẽ mang về trao tận tay
cháu", ông Sáu mới nhắm mắt đi xuôi. Tấm lòng của người cha dành cho con đến phút cuối của
cuộc đời vẫn bao la như vậy, da diết như vậy. Chiếc lược ngà là lời trăng trối không lời, nó rõ
ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc.Qua tìm hiểu ta thấy tình cảm của ông Sáu dành cho
con thật sâu nặng, tha thiết. Tình cảm ấy bất diệt trước sự hủy diệt, tàn khốc của chiến tranh.
3.Đánh giá nghệ thuật
Nhân vật ông Sáu- người cha giàu tình yêu thương con đã để lại bao mến phục với độc giả, một
phần nhờ cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Quang Sáng, trước hết nhà văn đã đặt nhân vật vào các
tình huống éo le để khai thác diễn biến tâm lí nhânvật, ngoài ra tác giả chọn ngôi kể phù hợp , ngôn
ngữ lời thoại nhân vật có sự chọn lọc, chi tiết cụ thể giàu biểu cảm ...
Kết bài Truyện ca ngợi ông Sáu là chiến sĩ cách mạng dũng cảm và là người cha có tình thương con
sâu nặng và cao đẹp. Qua đó tác giả khẳng định tình cảm cha con là thư tình cảm bền vững , có thể
tòn tại bất cứ hoàn cảnh nào, đồng thời cũng cho thấy nỗi đau thương mất mát mà chiến tranh gây ra
cho con người. Chính vì vậy ta càng có ý thức trân trọng giữ gìn tình phụ tử cao đẹp đồng thời
trân trọng cuộc sống hòa bình đang được hưởng hôm nay.
27
Đề 4 Suy nghĩ về tình cảm cha con trong chiến tranh qua đoạn trích Chiếc lược ngà
Mở bài
Với lối viết giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, đậm chất Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng để lại cho
đời nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim. Một trong số đó không thể không kể
đến là “Chiếc lược ngà” được viết vào 1966 khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.
Truyện viết trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người - cụ thể ở đây là
tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đặc biệt tình là tình cảm của ông Sáu - người cha
cán bộ cách mạng đối với đứa con gái nhỏ - Bé Thu thật sâu sắc và cảm động.
Thân bài
1.Chiến tranh đã khiến cho gia đình ông Sáu cũng như bao gia đình Việt Nam lâm vào cảnh
ngộ chia li
- Tiếng gọi cua non sông, ông Sáu như bao nhiêu người dân Nam Bộ sẵn sàng rời xa gia đình lên
đường đi kháng chiến khi bé Thu con gái ông chư đầy 1 tuổi .Suốt những ngày tháng xa cách, ông chỉ
biết được mặt cha qua tấm ảnh.
- Kháng chiến chống Pháp kết thúc , gia đình ông được gặp nhau , đoàn tụ chỉ có ba ngày để bù lại 8
năm dòng xa cách.Nhưng trong những ngày phép ngắn ngủi ấy , họ chưa kịp nhận ra nhau , khi nhận
ra nhau lại phải tiếp tục chia xa
- Cuộc chia tay lần thư 2 của cha con ông Sáu là chia lìa mãi mãi .Ông Sáu tiếp tục đi chiến đâu và
mãi nằm lại nơi chiến trường, hai cha con chẳng bao giờ được gặp lại , được ở bên nhau nữa.
2.Chiến tranh không thể chia cắt được tình cảm gia đình, tình cha con
Tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu dành cho nhau trong cảnh ngộ chiến tranh thật cảm động vô
cùng
a.Bé Thu thể hiện thể hiện tình yêu ba theo cách đặc biệt :
- Thu xa cách ngờ vực, lạnh nhạt ngay từ giây phút đầu tiên gặp ba.Tỏ ra ương ngạnh, hỗn xược với
ông Sáu trong suốt 3 ngày ông nghỉ phép .Thu từ chối mọi sự chăm sóc,vỗ về của ông Sáu hất bỏ cái
trứng cá mà ông gắp cho, cố tình lảng tránh tiếng ba,để bảo vệ người ba trong tấm ảnh chụp chung
với má của em .
- Hành động , phản ứng của bé Thu rất cá tính , có phần ương ngạnh nhưng xuất phát từ tình yêu
thương ba một cách ngây thơ , trong sáng chân thật ,Thu chỉ yêu và nhận người cha giống với bức
hình trong tấm ảnh chụp chung với má .Em đối xử với ông Sáu như thể là cách em yêu thương ba
mình nồng cháy , yêu thương đến mức tôn thờ , yêu đến mức khắc ghi hình bóng một người ba duy
nhất trong tim , không ai có thể thay thế được .
- Được bà ngoại giải thích, hiểu được nguyên cớ của vết sẹo, lúc chia tay, Thu bất ngờ ôm chầm lấy
ông Sáu, gọi tiếng “Ba” và nũng nịu “Ba mua cho con cây lược nghen ba”. Tiếng gọi thiêng liêng ấy
cất lên từ sâu thẳm trong lòng đứa con bé bỏng. Tiếng gọi ấy làm xao động trái tim người đọc để một
lần nữa chúng ta cảm thấy uất hận kẻ đã gây ra “vết sẹo tình thương” cho bao gia đình miền Nam thời
chiến tranh chia cắt. Chiến tranh làm cho vợ xa chồng, con phải xa cha. Chiến tranh làm cho những
tình cảm tự nhiên của con người phải nghẹn ngào, uất ức. Và khi nghe tiếng nói dịu ngọt mà nghẹn
ngào của con, ông sáu đã khóc. Đó là giọt nước mắt hạnh phúc của người cha khi nhận được tình ruột
thịt từ con. Đó là giọt nước mắt mang thông điệp hãy nâng niu và giữ gìn tình phụ tử.
b.Ông Sáu dành cho con tình yêu thương vô bờ bến nhưng hết sức nặng thầm
-Xa con ông luôn nhớ con , ngắm con qua ảnh, háo hức được trở về nhà thăm con.Hạnh phúc trào
dâng , không kìm nổi xúc động khi gặp con. Ông tranh thủ 3 ngày phép ngắn ngủi để chăm chút , bù
đắp cho con cả về cạt chất lẫn tinh thần .Bị con đối xủ lạnh nhạt , ông vẫn cố gắng kiên trì chờ đợi,
28
mong con nhận ra và gọi tiếng ba âu yếm .Khi không thể kiềm chế được tức giận , vì thất vọng không
thể làm cách nào để con nhận ba , ông đã đánh con để rồi sau này dằn vặt, ân hận mãi.
- Ông Sáu vỡ òa trong hạnh phúc vì tiếng gọi ba bất ngờ từ bé Thu "ba...a..a.. ba..". Ông Sáu sững sờ,
một lần nữa không kìm nén được xúc động, người đàn ông ấy “một tay ôm con, một tay lấy khen lau
nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Giọt nước mắt hạnh phúc, sung sướng vì ông cảm nhận được tình
ruột thịt từ con mình. Có thể nói, đây là món quà ý nghĩa nhất mà ông Sáu nhận được trước giây phút
lên đường.
- Xa con trở lại chiến trường, ông luôn nhớ lời con dặn và canh cánh bên lòng về món quà con
dặn .Ông dồn hết tình thương, nỗi nhớ vào việc làm lược ngà trong những lúc rảnh rối. Có thể hình
dung từng chiếc răng lược được thành hình là khối yêu thương trong lòng ông Sáu lớn dần, niềm
mong mỏi được gặp lại con cũng thiết tha hơn. Chiếc lược ngà là cầu nối tình cảm cha con ông .Chiếc
lược ngà mạng hình bóng đứa con gái bé bỏng , xoa dịu nỗi đau xa con , tiếp thêm cho ông niềm tin ,
sức mạnh ở chiến trường.Chiếc lược ngà là minh chứng cho tình cha con sâu nặng ông Sáu dành cho
con , là kỉ vật mộc mạc , thiêng liệng của tình phụ tử
- Nhưng tình cảnh thật đáng thương, ông chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người
cha ấy đã hi sinh trong một trận càn. Trước khi hi sinh, thu hết tàn lực, ông lấy ra cây lược, trao cho
ông Ba- bạn chiến đấu thân thiết của mình, cũng là người ông tin tưởng nhất lúc này- nhờ ông sau
này trao lại cho con gái. ÔNg Sáu đã ra đi vĩnh viễn Tấm lòng của người cha dành cho con đến phút
cuối của cuộc đời vẫn bao la như vậy, da diết như vậy. Chiếc lược ngà là lời trăng trối không lời, nó
rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc.Qua tìm hiểu ta thấy tình cảm cha con ông Sáu không
bao giờ chết, Tình cảm ấy bất diệt trước sự hủy diệt, tàn khốc của chiến tranh.
3.Đánh giá nghệ thuật
- Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Đọc
thiên truyện, người đọc hẳn đã có lần rơi lệ vì cảm động.
- Cách tạo tình huống truyện bất ngờ , hợp lí , lựa chọn ngôi kể phù hợp, ngôn ngữ lời thoại nhân vật
tự nhiên đậm màu sắc Nam Bộ , cách miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế......
KB
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của
người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình.
Tình cảm cha con sâu đậm, thắm thiết của cha con anh Sáu khẳng định rằng bom đạn của kẻ thù chỉ
có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì
không bom đạn nào có thể giết chết được
- Liên hệ .. qua câu chuyện giúp mỗi người biết trân trọng , nâng niu hạnh phúc gia đình mình đang
có... biết yêu thương, sẻ chia và sống xứng đáng với những đấng sinh thành của bản thân.

29
Đề 5: Phân tích nhân vật ông Hai
MB
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đăng báo trước cách mạng tháng 8/1945.
Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng
quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Truyện kể về nhân vật Ông Hai có
tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc .
TB
1.Khái quát
Truyện ngắn “Làng” ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống quân Pháp xâm
lược. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là ông Hai – một người rất tự hào và yêu mến làng Chợ
Dầu của mình. Do chiến tranh nên gia đình ông phải tản cư nhưng ông luôn nghe ngóng tin tức về
làng. Hình ảnh ông Hai đau khổ khi nghe tin làng theo giặc được miêu tả rất độc đáo. Cuối truyện,
ông Hai vui mừng khi nghe tin cải. Tình yêu làng, yêu nước, lòng trung thành với Tổ Quốc của ông
Hai thật cảm động
2a. Trước hết ông Hai hiện lên là một người yêu làng, luôn tự hào về quê hương- nơi chôn nhau
cắt rốn của mình. Làng chơ Dâu là nơi tổ tiên ông sinh cơ lập nghiệp , nơi chôn rau cắt rốn cảu ông
biết bao tình cảm gắn bó vơi mảnh đất que hương .Trước Cách mạng, ông thường khoe và hãnh diện
với mọi người về con đườnglát đá xanh. Trời mưa, trời gió bã đi không dính gót. Trong làng, nhà
ngói san sát như trên tỉnh”. Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra trong ông Hai đã có sự thay đổi về
nhận thức, trước đây ông chỉ chú ý đến cái hào nhoáng bên ngoài thì giờ đây ông trân trọng những kỉ
niệm khi cùng mọi người xây dựng cho làng. Ông đưa gia đình đi tản cư, ông tự nhủ “tản cư cũng là
kháng chiến”. Ở nơi xa quê hương, hình ảnh một ông lão đứng ngóng chờ nghe tin tức kháng chiến
thật dễ mến. Mỗi khi có tin báo thắng lợi“ruột gan ông như múa cả lên”. Tình yêu làng của ông Hai
cũng là tình yêu của biết bao nhiêu con người Việt Nam trong kháng chiến.
b. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được nhà văn đặt trong tình huống gây cấn khi ông
nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây. Nghe tin sét đánh ấy, ông Hai bàng hoàng “cổ ông nghẹn ắng
hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è,
nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi”. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin
ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn. Sự đau đớn thể hiện rõ qua nét mặt, cử chỉ, giọng nói
của ông lão. Không đau đớn và bàng hoàng sao được vì sâu thẳm trong con tim ông làng Chợ Dầu là
làng anh hùng, làng của kháng chiến và cách mạng. Vì vậy mà trên đường về trong tâm trí ông cái tin
dữ ấy xâm chiếm ông hổ thẹn , nhục nhã “ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi”. Tình yêu làng bị sụp
đổ, tình cảm của ông bị tổn thương. Còn gì đớn đau bằng cái nỗi đau về nơi mình luôn tự hào lại là
nơi mình phải hổ thẹn?
+ Về đến nhà:ông nằm vật ra giường lúc ấy, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”, ông rít lên những tiếng
kêu đau đớn, nhục nhã. Đồng cảm với nhân vật ấy, người đọc như cảm nhận sự đau đớn, hổ thẹn và
uất ức theo từng cử chỉ, từng hành động của ông. Có lẽ đây là đoạn miêu tả nội tâm độc đáo nhất,
thành công nhất của nhà văn. Nghệ thuật độc thoại nội tâm diễn tả cụ thể những câu hỏi giằng xé
trong đầu ông Hai. “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian
bán nước để nhục nhã thế này”. “Ông kiểm điểm lại từng người trong óc”. Ông đau xót nghĩ đến
cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Tác giả đã để cho nhân vật
trải qua từng cung bậc tâm lí, đẩy lên cao trào rồi bật ngược như vỡ òa ở phần sau. Người nông dân

30
chất phác, tay lấm chân bùn thì cái tin làng theo giặc quả thật là cú sốc to lớn, là điều đau đớn và
nặng nề mà họ phải chịu đựng.
+ Mấy ngày sau: suốt mấy ngày ông không dám đi đâu, "chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng tình hình
bên ngoài “1 đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bẩy tiếng cười nói xa xôi, ông cũng chột dạ".
Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể, sâu sắc những biến động dữ dội trong nội tâm nhân vật ông Hai. Cái
tin dữ ám ảnh, trở thành nỗi sợ hãi thường trực lòng ông . Ông rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng khi
mụ chủ nhà biết,có ý đuổi khóe ông đi
- Trong ông đã diễn ra 1 cuộc đấu tranh tư tưởng, xung đột nội tâm: nếu về làng là bỏ kháng
chiến, bỏ cụ Hồ. 1 bên là tình yêu làng, 1 bên là lòng yêu nước, cuối cùng ông đã quyết định đau đớn
"Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù ".Có thể thấyông Hai đã đặt tình yêu
nước lớn hơn tình yêu làng .
Xác định như vậy , ông không thể rứt tình cảm với làng quê. Ông trò chuyện với đứa con trai út để
vơi đi nỗi khổ tâm trong lòng. Ông hỏi con trai: " Thế nhà ta ở đâu ? " => để muốn con ghi nhớ mình
là người dân làng Chợ Dầu. " Thế con ủng hộ ai " – khi con ông trả lời : " ủng hộ cụ Hồ Chí Minh
muôn năm " thì " nước nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên 2 má”. Đó là dòng nước mắt
của 1 người yêu làng, của 1 người 1 lòng 1 dạ, trung thành với kháng chiến, với Cách mạng, với Bác
Hồ. Tình cảm đó sâu nặng , bền vững, thiêng liêng.
c. Khi nghe tin cải chính, gánh nặng tâm lí được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng
+ Sự đau khổ của ông Hai trong những ngày qua nhiều bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc
của ông lúc này càng lớn bấy nhiêu“ miệng bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy”
+ Ông có hành động : mua quà cho con. Miệng ông “bô bô” từ đầu ngõ, chạy hết nơi này đến nơi
khác khoe với mọi người về cái tin làng ông bị đốt, nhà ông bị đốt rằng “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ,
đốt nhẵn! Toàn là sai sự mục đích cả. Láo. Láo hết”. Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của
ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước”.
-> Phải chăng, niềm hạnh phúc to lớn hơn đằng sau ấy là một tấm lòng yêu nước trong sạch, kiên
định theo chính sách của cụ Hồ? Đây chính là chi tiết khiến người đọc bùi ngùi, trân trọng hơn tình
yêu của ông Hai dành cho làng, cho kháng chiến và cho tổ quốc Việt Nam yêu dấu.
* Truyện Làng của nhà văn Kim Lân có nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật.
- Tác giả đã xây dựng tình huống truyện bất ngờ, tự nhiên, hợp lí. Qua đó cho thấy tình yêu làng
hòa quyện lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến trong con người ông Hai thật sâu sắc.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật dặc sắc từ bàng hoàng đau đơn, tuyệt vọng, sung sướng
- Ngôn ngữ sinh động , gần với lời ăn, tiếng nói của người nông dân, có sự kết hợp giữa ngôn ngữ đối
thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm qua đó làm nổi bật tâm trạng của nhân vật Ô Hai.
Kết bài:
- Truyện ngắn “Làng” đã khắc hoạ thành công hình tượng người nông dân chất phác luôn yêu làng,
yêu nước và tin tưởng vào kháng chiến, tiêu biểu ông Hai. Những suy nghĩ tình cảm của họ được
phản ánh một cách chân thực và mang tính giáo dục sâu sắc cho độc giả.
- Đọc truyện, ta càng thêm khâm phục và yêu thương biết bao tình yêu nước và sự hy sinh cao cả của
những thế hệ đi trước và từ đó tự rút ra bài học quý giá cho bản thân: hãy biết yêu thương nơi mình
sinh ra và lớn lên, hãy biết trân trọng và luôn tin tưởng về một tương lai tươi sáng.

31
Đề 6 Phân tích nhân vật anh thanh niên
Mở bài
Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Tác phẩm của ông thường có
giọng điêu nhẹ nhàng, tình cảm,thường pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình, làm ánh
lên vẻ đẹp của con người nên có, khả năng thanh lọc làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm
yêu cuộc sống. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn viết về những con
người âm thầm làm việc, lặng lẽ hiến dâng mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên với những phẩm
chất cao đẹp đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thân bài
1.Khái quát chung
“Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác giả ở Lào Cai, in
trong tập “Giữa trong xanh” (1972). Truyện khắc họa thành công hình ảnh những con người lao
động bình thường mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi
cao. Qua đó truyện khẳng định vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
2. Hoàn cảnh sống và công việc của anh
- Hoàn cảnh sống và công việc vất vả gian khổ của anh thanh niên được tác giả khắc họa khá rõ nét,
, tác giả không để anh tự giới thiệu về mình mà làm nổi bật vẻ đẹp của anh qua cái nhìn của các nhân
vật khác. Anh thanh niên 27 tuổi, quê Lào Cai, sống một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 m,
quanh năm cây cỏ và mây mù che phủ. Nơi anh ở rất vắng vẻ, thiếu người qua lại, vắng bạn tâm tình
trò chuyện. Bởi thế mà bác lái xe đã gọi anh là “người cô độc nhất thể gian”.
- Anh làm công việc khí tượng kiêm vật lý địa cầu dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ
sản xuất, phục vụ chiến đấu. Nhiệm vụ “đo gió, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất...” Đây là
công việc đòi hỏi sự kiên trì, sự tỉ mỉ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao.Với một chàng trai trẻ
đầy nhiệt huyết mà lại ở một nơi cô đơn hẻo lánh như vậy. Qua đây ta thấy được anh là con người
nhiệt huyết, tràn đầy tinh thần trách nhiệm.
* Từ việc giới thiệu về hoàn cảnh sống và công việc tác giả đã làm nổi bật những phẩm chất tốt
đẹp của anh thanh niên Trước hết đó là con người yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với
công việc, hiểu được ý nghĩa của công việc thầm lặng.
+ Sống trong 1 hoàn cảnh khắc nghiệt, hết sức vắng vẻ, cô đơn làm 1 công việc gian khổ, nhiều đòi
hỏi nhưng anh luôn vui vẻ, hoàn thành tốt công việc của mình. Anh chưa bao giờ bỏ trễ 1 giờ ốp nào
dù cho thời tiết có khắc nghiệt đến đâu. Nửa đêm nằm trong chăn nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa
tay tắt ngay đi bởi ra ngoài trời lúc 1h sáng thì gió tuyết và im lặng như muốn nuốt chửng con người,
thật đáng sợ. Vậy mà những lúc im lặng lạnh cóng ấy anh lại thấy “hừng hực như cháy”. Đó chính là
biểu hiện của người có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
+ Anh có những suy nghĩ thật giản dị mà sâu sắc về công việc và cuộc sống: "Khi ta làm việc, ta với
công việc là đôi sao gọi là một mình được", “huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao
anh em dưới kia”," công việc cháu gian khổ thật đấy, chứ cất nó đi cháu buồn chết mất". Anh coi
công việc là nguồn vui, là lẽ sống của cuộc đời, là người bạn và việc của anh gắn liền với việc của
bao anh em đồng chí nên không có gì là buồn, là cô đơn cả.
+ Anh rất yêu công việc của mình, anh hoàn thành một cách xuất sắc. Một lần, anh phát hiện 1 đám
mây khô đã giúp cho không quân ta làm rơi nhiều máy bay phản lực của Mĩ trên cầu Hàm Rồng, anh
thấy rất hạnh phúc khi được làm việc và dâng hiến sức xuân của mình vì Tổ quốc, vì hạnh phúc của
con người.

32
* Anh biết tổ chức sắp xếp cuộc sống khoa học ngăn nắp tự tạo cho mình những niềm vui trong
cuộc sống, thể hiện niềm lạc quan yêu đời.
+ Đã có lúc ông họa sĩ nghĩ rằng “ khách tới bất ngờ chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa
kịp gấp chăn”, nhưng khi bước đến nơi ông lại thấy ngạc nhiên bởi "một ngôi nhà 3 gian, sạch sẽ với
bàn ghế, sổ sách biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm" rất gọn gàng. Những gì mà ông nhìn thấy khác hẳn
với điều mà ông đã nghĩ trước đó.
+ Ngoài giờ làm việc anh trồng trồng hoa, nuôi gà, chăm sóc vườn cây thuốc nam ,dọn dẹp nhà
cửa, tự học và đọc sách…anh biết cách làm cho cuộc sống của mình trở nên phong phú sôi động, ý
nghĩa
* Anh còn là người cởi mở, chân thành, hiếu khách, quý trọng tình cảm của người khác.
+ Anh rất vui khi khách đến thăm, tiếp đón tiếp nhiệt tình, chu đáo, Chân thành kể cho khách nghe
về cuộc sống, công việc, về suy nghĩ của mình. Anh đếm từng phút vì sợ hết mất 30 phút gặp gỡ vô
cùng quý báu với 2 vị khách bất ngờ, đến khi chia tay anh xúc động đến nỗi phải quay mặt đi, không
dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ ốp.
+ Anh quan tâm chu đáo đến mọi người: Biết tuổi già cần nước chè anh đã lên nhà trước pha sẵn
mời ông họa sĩ, hái bó hoa tặng cho cô gái, biếu vợ bác lái xe củ tam thất khi nghe tin bác ốm dậy, làn
trứng để cho mọi người khách đi đường. Những hành động chu đáo và chân thành ấy của anh khiến
cho người ta không khỏi yêu mến.
* Có thể nói điều đáng mến nhất ở anh thanh niên chính là sự khiêm tốn, thành thực. Anh cảm
thấy mình chưa xứng đáng với những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe, đóng góp của mình là
bình thường, nhỏ bé so với nhiều người khác, vẫn còn thua bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra
chiến trường. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh, anh đã từ chối nhưng vẫn ngồi yên “để khỏi vô
lễ” và nhiệt tình giới thiệu những người khác mà anh cho rằng đáng vẽ hơn anh như ông kĩ sư ở vườn
rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét. => có thể nói anh thanh niên là biểu tượng cho vẻ
đẹp của tuổi trẻ, của những người lao động mới trên miền Bắc trong công cuộc xây dựng đất nước.
* Truyện có nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật:
- Cốt truyện nhẹ nhàng có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và bình luận, cách kể chuyện tự nhiên
- Tình huống truyện đơn giản nhưng hợp lí xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông họa sĩ cô kĩ sư
với anh thanh niên . Cách gọi tên các nhân vật trong truyện cũng rất đặc biệt: gọi bằng công việc,
nghề nghiệp của họ qua đó góp phần bộc lộ vẻ đẹp của các nhân vật và chủ đề của truyện.
- Nguyễn Thành Long đã gieo vào lòng người đọc xúc cảm về hình ảnh đẹp của người lao động bình
thường mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao,
đang ngày đêm lặng lẽ âm thầm cống hiến cho đất nước
Mở rộng=>Lẽ sống này, lý tưởng này ta còn bắt gặp trong một số tác phẩm cùng thời như Đoàn
thuyền đánh cá của Huy Cận hay Mùa lạc của Nguyễn Khải,… Những tác phẩm ấy ra đời ca ngợi
những con người đang lạc quan, làm việc hăng say, cống hiến hết mình cho đất nước.
Kết bài: “ Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”. Câu nói ấy của A.Enstein
khiến người ta suy nghĩ về lý tưởng và lẽ sống của con người trong thời đại ngày nay. Truyện đã khép
lại nhưng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho những người lao động bình
dị đang cống hiến lặng thầm cho đất nước mãi luôn tỏa sáng và truyền cảm hứng cho bao thế hệ bạn
đọc. Và ca khúc của Thanh Hải chợt vang vọng lại trong lòng ta nhắc nhở ta về lẽ sống đẹp, sống có ích “Một
mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời”.

33
Đề 7: Phân tích nhân vật Vũ Nương
1. Mở bài
- Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh năm mất ), Quê ở huyện Thanh Miện - Hải Dương. Ông sống vào
thế kỷ XVI - khi chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu lâm vào khủng hoảng với sự tranh giành
quyền lực của các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc - Trịnh.
- "Chuyện người con gái Nam Xương " trích trong Truyền kì mạn lục là một trong những tác phẩm
tiêu biểu nhất của Nguyễn Dữ.
- Truyện kể về nhân vật Vũ Nương - người con gái ở Nam Xương vừa đẹp người, vừa đẹp nết nhưng
lại có số phận bất hạnh, đầy khổ đau, oan trái.
2. Thân bài:
* LĐ1:Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
- VN là một người phụ nữ có tư dung tốt đẹp, có tính tình thùy mị, nết na, được TS con nhà hào phú
mến dung hạnh của nàng nên xin mẹ trăm lạng vàng cưới về làm vợ.
- Nàng là người vợ thủy chung , khuôn phép :
+ Khi mới lấy chồng: nàng hiểu chồng, biết mình, hết sức giữ gìn khuôn phép, cư xử đúng mực mặc
dù Trương Sinh là người đa nghi, hay ghen nhưng gia đình không bao giờ " xảy ra chuyện thất hòa ",
luôn êm ấm, hạnh phúc.
+ Khi chia tay chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng và nói " Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai
chữ bình yên ". Nàng cảm thông, lo lắng với những gian lao hiểm nguy mà chồng có thể gặp nơi
chiến trường, không mong được vinh hoa phú quý, chỉ cần chồng trở về bình yên, gia đình xum họp.
=> Qua đó ta thấy nàng đã thể hiện tình cảm yêu thương, thủy chung để chàng yên tâm ra trận
+ Khi chồng vắng nhà , nàng rất buồn , cô đơn , nhớ chồng ,Nàng đã không tô son điểm phấn, không
ngõ liễu tường hoa, một lòng thủy chung , đợi chờ chồng
- Vũ Nương còn là một người phụ nữ đảm đang tháo vát .Trương Sinh đi lính để lại gánh nặng gia
đình cho VN chèo chống, nàng đã một mình nuôi dạy con thơ , chăm sóc mẹ già chu đáo
- VN là người con dâu hiếu thảo:
+ Khi mẹ chồng ốm nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần Phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo để
khuyên lơn”mẹ chồng hiểu được tấm lòng của VN nên bà rất cảm động và biết ơn nàng
+ Khi mẹ chồng mất: " nàng hết lời thương xót, lo ma chay, tế lễ chu đáo nàng đối xử với mẹ chồng
như cha mẹ ruột của mình."
- VN là người nặng tình nghĩa với gia đình với quê hương
+ Ở thủy cung nàng có cuộc sống sung sướng cả về vật chất và tinh thần .Nhưng nàng đã có suy nghĩ
thà già ở chốn làng mây cung nước chứ không quay trở về trần gian nữa
+ Nhưng khi gặp Phan Lang, được nghe kể về phần mộ tổ tiên, về sự day dứt ân hận của Trương Sinh
, nàng đã khóc và nói có ngày quay trở về
-> Tóm lại VN là người phụ nữ vẹn toàn mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với
những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ , người mẹ , người con .Một người phj nữ như vạy
có lẽ phải được hưởng hạnh phúc đầm ấm
* LĐ 2:VN là người phụ nữ có số phận khổ đau, oan khuất và cái chết bi thảm
- Nỗi oan khuất của VN
+ Nỗi oan của nàng xuất phát từ lời con trẻ về cái bóng , bị chồng nghi oan không được giãi bày

34
+ Nghe lời con thơ “có một người đàn ông đêm nào cũng đến”… Sự ghen tuông nghi ngờ trong đầu
TS bùng nổ, chàng đinh ninh là vợ hư thân rồi la mắng vợ nhưng lại giấy không cho biết câu chuyện
này ai nói với chàng
+ Chàng không tin những lời thanh minh của vợ và những lời can khuyên của hàng xóm , tiếp tục
đánh đập và đuuổi VN đi
-> Như vậy VN bị chồng nghi oan mà không cách nào gỡ giải được .Nàng bị mang tiếng là hư thân ,
một điều mà xã hội đó không thể dung thứ .Nàng còn đau khổ vì tất cả hạnh phúc gia đình , tình yêu
và lòng thủy chung mà nàng giữ gìn, xây đắp bao lâu nay bị TS làm vỡ tan không thể lấy lại
được .VN bị dồn đến đường cùng , tuyệt vọng không lối thoát .
- Cái chết thảm của VN
+ Nàng chỉ biết tìm đến cái chết để minh oan cho sự trong trắng của mình lời than trên bến Hoàng
Giang cũng là lời thề ai oán , là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ danh dự , thể hiện nỗi đau
khổ tột cùngđể bảo vệ danh dự , thể hiện nỗi đau tột cùng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ ,
thần sông có linh, xin ngài chứng giám.Thiếp nếu đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng, vào nước
xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngũ mĩ, nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chống dối
con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ “
+Cái chết của nàng VN là do sự ghen tuông mù quáng của TS, do chiến tranh phong kiến phi nghĩa
làm bao lứa đôi xa cách đễ nảy sinh lòng nghi kị hay do chính quan niệm phong kiến trọng nam khinh
nữ hà khắc, bất công không đảm bảo quyền sống cho phụ nữ . Bất hạnh có thể xảy ra bất cứ lúc nào ,
khiến họ phải chọn cõi chết làm chốn dung thân. Cái chết của VN để lại nỗi thương cảm cho người
đọc vừa mạng ý nghĩa tố cáo sâu sắc xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
* LĐ3: Đánh giá về nghệ thuật.
- Nhân vật VN được đặt vào nhiều tình huống : lấy TS đa nghi hay ghen, TS đi lính để gánh nặng gia
đình cho VN , TS đi lính trở về ghi oan cho VN ... từ đó thể hiện số phận bất hạnh và những phảm
chất tốt đẹp của nhân vật
- Chi tiết chọn lọc, ngôn ngữ đối thoại và lời tự bạch phù hợp , yếu tố hoang đường , kì ảo mang đặc
trưng của thể loại truyền kì và thể hiện khát vọng của nhân dân và kết thúc có hậu cho nhân vật
3. Kết bài:
- Vũ Nương tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp và số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội Việt
Nam dưới chế độ phong kiến. Nhân vật VN để lại trong lòng người đọc nỗi thương cảm và xúc động
sâu sắc
- Qua tác phẩm ta càng yêu mến, trân trọng những người phụ nữ hơn bởi họ có vai trò rất quan trọng
trong cuộc sống…( liên hệ đến phụ nữ ngày nay )

35

You might also like