Professional Documents
Culture Documents
TÀI SẢN
Ta có thể thấy công ty PNJ đầu tư nhiều vào hàng tồn kho do công ty kinh
doanh vàng bạc đá quý nên luôn cần một lượng hàng tồn kho lớn, các khoản
khác của tài sản ngắn hạn đều không đáng kể . Những năm lại gần đây khoản
này đã được giảm đáng kể xuống duy trì còn khoản 14-16 % và chủ yếu là tập
trung đầu tư vào tài sản cố định.
- Trong năm 2020, tổng tài sản tính đến cuối năm của PNJ là gần 8500 tỷ
đồng, trong đó tài sản ngắn hạn là 7143 tỷ đồng chiếm 81%tổng tài sản và tài
sản dài hạn là 1339 tỷ đồng chiếm 16% tổng tài sản.
- Hàng tồn kho vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tài sản của doanh
nghiệp trung bình là 82%% tính đến năm 2019, 77% tinh đến năm 2020 Và con
số này đã tăng 46.04% so với năm 2018. Chính sách tăng hàng tồn kho do từ
năm 2018 đến nay PNJ đã và đang trong đà phát triển, ngày càng mở rộng mô
hình kinh doanh của mình (4 công ty con, tăng thêm 55 của hàng so với năm
2018). Hàng tồn kho mua trong năm là 13.358 tỷ đồng.
8% 4%
11%
77%
Nhìn chung tài sản cố định chiếm khá thấp trong tổng tài sản mỗi năm và hiệu
quả nó mang lại cũng không quá cao với việc 1 đồng đầu tư vào tài sản cố định
thì trung bình chỉ đem lại cỡ 20 đồng doanh thu, với nguyên nhân đây là công
ty trong lĩnh vực chế tác hoàn kim, nên doanh thu hầu như sẽ phụ thuộc vào
nguồn nguyên vật liệu và tay nghề của thợ chế tác, các thiết bị, máy móc, nhà
xưởng... hay các tài sản cố định nói chung mang tính chất góp phần hoàn thiện
sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
2. Cơ cấu nguồn vốn
Phân tích vốn chủ sở hữu
Năm Năm Năm Năm Năm
2016 2017 2018 2019 2020
Vốn đầu tư của chủ sở hữu 27% 24% 26% 26% 27%
Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối 10% 19% 14% 12% 19%
43%
Trong cơ cấu Nguồn vốn của PNJ thì VCSH luôn chiếm một tỷ trọng rất lớn và
càng ngày càng có xu hướng biến động tăng lên nhanh chóng. Vốn chủ sở hữu
của PNJ tăng rất mạnh từ 1500 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 42% năm 2016 lên 5241
tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 62% năm 2020.
VCSH của doanh nghiệp tăng lên chủ yếu là do sự gia tăng về vốn đầu tư của
chủ sở hữu và lợi nhuận chưa phân phối.
Vốn đầu tư của chủ sở hữu tại thời điểm cuối năm 2020 là 2276 tỷ VND chiếm
tỷ trọng 27% tổng nguồn vốn tăng 1293 tỷ VND so với năm 2016. Trong khi lợi
nhuận chưa phân phối vào năm 2020 là 1605 tỷ VND chiếm tỷ trọng 19% tổng
nguồn vốn, tăng 1231 tỷ VND so với lợi nhuận cùng kỳ năm 2016. Chỉ trong
chưa đầy 5 năm, lợi nhuận chưa phân phối của doanh nghiệp đã tăng thêm
1231 tỷ, tương ứng tốc độ tăng 76.7%. Điều này chứng tỏ quá trình tái cấu trúc
của doanh nghiệp cùng với các chiến lược kinh doanh đã phát huy cực kỳ hiệu
quả
5,000,000,000 100.00%
4,000,000,000 80.00%
3,000,000,000 60.00%
2,000,000,000 40.00%
1,000,000,000 20.00%
0 0.00%
1 2 3 4 5
- Chỉ số Nợ vay/ VCSH của PNJ có xu hướng giảm mạnh từ 2016 (100,51%)
đến 2018 (41.82%). Sau đó giảm đột biến xuống 9,19% năm 2020. Nguyên
nhân chủ yếu đến từ :
+ Vốn chủ sở hữu của PNJ tăng rất mạnh từ 1500 tỷ đồng năm 2016 lên 5241 tỷ
đồng năm 2020
+ Trong khi đó nợ vay của PNJ tăng chậm hơn so với VCSH, từ 1507 tỷ đồng
năm 2016 lên 1839 tỷ đồng năm 2020. Đối chiếu với tình hình tăng trưởng cửa
hàng và tăng trưởng tồn kho phục vụ cho phát triển mạng lưới kinh doanh
mạnh mẽ của PNJ thì tình hình nguồn vốn của PNJ an toàn và rất bền vững.
- Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần ở mức ổn định là 35.09%. Có thể thấy mức sử
dụng nợ của công ty đang rất tốt, cơ cấu nguồn vốn gần như cân bằng.
+ Điều này cho thấy PNJ đang tận dụng đòn bẩy tài chính để vừa mở
rộng quy mô, vừa tăng vốn vay tài trợ cho tồn kho.
+ Trong năm 2020 Tỷ trọng nợ vay và chi phí lãi vay được kiểm soát ở
mức độ an toàn, nợ vay ngân hàng đang chiếm khoảng 22% trên tổng
nguồn vốn, chi phí lãi vay cũng giảm xuống.
+ Do chủ yếu bán lẻ và thu tiền ngay nên dòng tiền kinh doanh về nhanh,
qua đó giúp PNJ trả nợ nhanh.
Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn
- Hệ số nợ so với tài sản : Hệ số nợ so với tài sản của Kinh Đô qua các năm
nhỏ hơn 1 và tương đối thấp (xét trong 2 năm 2019 là 0.468 còn năm
2020 là 0.382) cho thấy công ty ít phụ thuộc vào các chủ nợ và có mức
độ độc lập về tài chính cao. Bên cạnh đó là công ty có nhiều cơ hội để
tiếp nhận các khoản vay từ các nhà đầu tư tín dụng do có hệ số nợ so với
tài sản thấp. Do đó có thể thấy công ty có chính sách sử dụng vốn thận
trọng, an toàn không sử dụng nhiều số nợ phải trả để tài trợ cho tài sản
của mình và ngày càng có xu hướng giảm các khoản vay
- Hệ số khả năng thanh toán: luôn có giá trị lớn hơn 1 chứng tỏ Kinh Đô sử
dụng cả nợ phải trả và vốn chủ sở hữu để tài trợ cho tài sản của mình.
Trị số này tăng từ 1.82 năm 2019 lên 2.21 năm 2020 và vẫn lớn hơn 1
tương đối nhiều cho thấy công ty duy trì được tình trạng tài chính ổn
định, không bị thua lỗ, mức độ tham gia tài trợ tài sản từ nợ phải trả
chiếm tỷ trọng thấp.
- Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu: Hệ số này qua các năm cũng đều lớn
hơn 1, cụ thể năm 2019 đạt 1.304 và năm 2020 đạt 1.375 cũng chứng tỏ
được kết luận là doanh nghiệp sử dụng cả vốn chủ sở hữu cũng như nợ
phải trả để tài trợ tài sản và mức độ sử dụng nợ phải trả để tài trợ tài
sản là ít.
Chỉ số thanh khoản PNJ
Hệ số thanh toán hiện hành Hệ số thanh toán nhanh
Tỷ số thanh toán bằng tiền mặt
3.00
2.50
2.00
1.50
1.00
0.50
0.00
2016 2017 2018 2019 2020
Nhìn chung, PNJ có khả năng đảm bảo lãi vay cao, đặc biệt ở giai đoạn từ năm
2017-2018 khi tỷ số thanh toan hiện hanh lên đến 2.62. Điều này cho thấy mức
độ thanh toán lãi vay của PNJ hầu như không có hạn chế, thậm chí còn tiềm
tàng những cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi với những tỷ số thanh toán
nhanh, tức thời hay hiện hành đều ở mức dương liên tục qua các năm. Qua đó,
ta có thể thấy việc trang trải cho các nghĩa vụ nợ ngắn hạn cũng như hoạt động
quản trị tại PNJ có tiến triển ổn định.
3.Phân tích Doanh thu, lợi nhuận – Cơ cấu doanh thu, lợi
nhuận
Phân tích theo chiều dọc
- Biên EBT (lợi nhuận trước thuế trên doanh thu thuần) của năm 2017 và
2018 không thay đổi khoảng 8.27%, vào năm 2020 giảm xuống 7,69%. Biên
lợi nhuận tăng mạnh từ 1.98% lên 5.26% vào năm 2016, và chững lại khoảng
6% vào năm 2017 và 2018.
- Vì với xu hướng chuyển dần sang sản xuất chế tác, thay vì chủ yếu làm
thương mại như trước, PNJ đang chủ động gia tăng tỷ lệ biên lợi nhuận qua
việc gia tăng giá trị sản phẩm giai đoạn chuyển đổi từ nguyên liệu thô sang
thành phẩm đã qua chế tác.
Phân tích theo chiều ngang
- Về doanh thu :
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính Lợi nhuận không từ hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
+ Cùng với sự tăng trưởng của doanh thu, tổng lợi nhuận kế toán trước và sau
thuế của PNJ qua các năm cũng có sự tăng trưởng. Đáng chú ý là kết quả của
lợi nhuận kế toán trước thuế của công ty năm 2017 đạt 907tỷ, (tăng 53.63% so
với cùng kỳ năm 2016), điều này dẫn đến lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh
nghiệp của công ty trong năm 2017 đạt 724 tỷ (tăng 60.09% so với cùng kỳ năm
2016).
Tuy lợi nhuận trước thuế và sau thuế của PNJ trong giai đoạn từ năm 2018 đến
2020 có tăng nhưng nhịp độ tăng trưởng thấp hơn so với sự gia tăng từ năm
2016 đến năm 2017
Nguyên nhân của sự tăng chậm này chủ yếu là do thị phần của ngành trang sức
vàng phần lớn nằm ở các cửa hiệu truyền thống, chiếm đến 70% thị phần trong
khi các doanh nghiệp kinh doanh trang sức lớn như PNJ hay các đối thủ khác là
SJC, DOJI… chỉ chiếm 30% thị phần. Bởi các mặt hàng thuộc ngành trang sức
cao cấp này phần lớn phù hợp với các khách hàng thuộc tầng lớp trung và
thượng lưu, do đó, chỉ cần có sự biến động của thị trường hay khi nền kinh tế
có chiều hướng xấu đi thì lượng cầu của thị trường cũng sẽ giảm. Ngoài ra,
trong giai đoạn này sự biến động của thị trường vàng trên thế giới và trong
nước cũng gây khó khăn rất nhiều cho ngành trang sức ở Việt Nam.
+ Lợi nhuận không từ hoạt động kinh doanh có sự biến động mạnh từ 2016-
2020. Những sự biến động này cho thấy sự cải thiện lợi nhuận từ lỗ hơn 60tỷ
vào năm 2016 sang mức lãi khoảng 13 tỷ vào năm 2017. Nhưng sau đó mức lãi
đã giảm xuống qua các năm, đến năm 2020 công ty đã lỗ 7,9 tỷ đồng .Sự biến
động này là do sự tăng giảm của các khoản mục trong chi phí tài chính (không
tính lãi vay) của công ty. Ngoài ra, còn do lỗ do thanh lý các khoản đầu tư và lỗ
chênh lệch tỷ giá hối đoái đã thực hiện.
- Về chi phí :
100.00%
80.00%
60.00%
40.00%
20.00%
0.00%
2017/2016 2018/2017 2019/2018 2020/2019
-20.00%
-40.00%
+ Chi phí lãi vay có xu hướng tăng lên từ năm 2017-2020. Do PNJ vay thêm
nợ để mở rộng thêm nhiều chuỗi cửa hàng bán lẻ và tích trữ hàng tồn kho.
Với kế hoạch tiếp tục mở rộng cửa hàng trong năm nay, thì chi phí tài chính,
nợ vay của PNJ sẽ gia tăng, và khoản mục chi phí bán hàng, quản lý doanh
nghiệp, kể cả lượng hàng tồn kho cũng sẽ tiếp tục gia tăng, có khả năng sẽ
ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của PNJ trong giai đoạn này.
+ Với tỉ trọng của giá vốn hàng bán có xu hướng giảm qua các năm 26.72%
xuống 3.96%. Đây là tín hiệu tích cực của chiến lược cắt giảm chi phí từ giá
vốn hàng bán của PNJ, thông qua việc tích trữ tồn kho với số lượng lớn, PNJ
thu lợi từ việc kinh doanh khi giá vàng tăng, từ đó làm tăng tỉ tọng của chỉ
tiêu lợi nhuận gộp
+ Bên cạnh đó, các chi phí khác là chi phí bán hàng và chi phí quản lí doanh
nghiệp cũng có những biến đổi đáng lưu ý, cụ thể là chúng có xu hướng
tăng qua các năm trong giai đoạn này, tuy nhiên tốc độ tăng k quá nhanh Cụ
thể, tốc độ tăng của chi phí bán hàng từ năm 2019 sang năm 2020 đã giảm
4.34%, còn tốc độ tăng của chi phí quản lí doanh nghiệp cũng giảm còn
6.25%. Sự gia tăng của hai loại chi phí này đến từ việc PNJ liên tục mở rộng
mạng lưới kinh doanh, hàng loạt các cửa hàng mới được khai trương, gia
nhập vào hệ thống kinh doanh.
Việc liên tục thành lập các của hàng trên tất cả các mảng bán hàng, cộng
thêm hoạt động mua bán trực tuyến thông qua mạng xã hội đã làm tăng tỉ
trọng chi phí bán hàng và chi phí quản lí trong tổng doanh thu của công ty.
Tuy nhiên, tốc độ tăng của chi phí vẫn thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng
của các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của công ty. Từ đó, cho thấy hoạt động
kinh doanh của công ty thực sự đang trên đà thịnh vượng và ngày càng xác
lập được vị thế trên thị trường.
Ta có công thức :
Tổng tiền mặt từ hoạt động trong ba năm
Tổng chitiêu vốn ,mua sắm hàng tồn kho và cổ tức tiền mặt trong ba năm
Dòng tiền
-27,386,571 109,483,855 -302,139,906 -661,091,696 1,496,911,729
từ HĐKD
Dòng tiền
từ HĐ đầu 145,935,130 -264,085,937 -168,906,471 -221,826,960 84,389,205
tư
Dòng tiền
từ HĐ tài -1,260,976 174,400,279 502,670,132 771,283,119 -1,085,334,757
chính
Dòng tiền
117,287,583 19,798,196 31,623,755 -111,635,456 327,187,767
thuần
2,000,000,000
1,500,000,000
1,000,000,000
- Nhìn vào
500,000,000 số liệu và
0
biểu đồ
2016 2017 2018 2019 2020 có thể
-500,000,000 cho
-1,000,000,000 chúng ta
thấy rằng
-1,500,000,000
Dòng tiền từ HĐKD Dòng tiền từ HĐ Đầu Tư một cách
Dòng tiền từ HĐ Tài Chính
khái quát
dòng tiền
của PNJ chủ yếu đến từ hoạt động tài chính : Xét năm 2016-2017, biểu
đồ cho thấy rằng dòng tiền hoạt động trong năm 2017 này có tăng lên so
với năm 2016 do hoạt động kinh doanh và bán hàng của công ty tăng và
do hai năm này PNJ giảm lượng hàng tồn kho, giảm cường dự trữ hàng,
thu hẹp chính sách bán chịu. Năm 2018, dù dòng tiền từ HĐ tài chính
tăng nhưng do công ty tiếp tục chi đầu tư nhiều, đồng thời trả cổ tức cao
nên dòng tiền thuần thấp và năm 2018 tăng nhiều nhất so với các năm
trước ( tăng 328 tỷ ) nhờ các chính sách giảm chi phí của công ty PNJ,
chính sách áp dụng các chiến lược để tăng thêm doanh thu cho doanh
nghiệp. Năm 2019, tình hình công ty khá tốt, dòng tiền từ HĐ tài chính
tăng lên 270 tỷ so với năm 2018. Tuy nhiên năm 2020, dòng tiền đến từ
hoạt động tài chính âm đến 1085 tỷ chủ yếu do công ty chi tiền mua lại
các cổ phiếu đã phát hành và trả nợ vay từ các năm trước
- Mặc dù PNJ kinh doanh có lãi trong cả 4 năm khảo sát nhưng dòng tiền
từ hoạt động kinh doanh của PNJ lại bị âm ở các năm 2016 và 2018.
Nguyên nhân đến từ việc lợi nhuận của PNJ đã được tái đầu tư mạnh mẽ
vào giá trị hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng lớn để đảm bảo nguồn hàng
hóa đủ để cung cấp cho các cửa hàng. (Cụ thể, tại năm 2018, hàng tồn
kho của PNJ đạt 4.968 tỷ đồng, tăng 46% so với năm 2017 là 3.402 tỷ
đồng).
- Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư hầu như có giá trị âm tương
ứng với các năm đẩy mạnh việc mở rộng chuỗi cửa hàng bán lẻ (từ 194
cửa hàng năm 2015 lên đến hơn 320 cửa hàng năm 2018), sử dụng tiền
để “mua tài sản cố định và các tài sản dài hạn khác” phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Thông tin tài chính qua 5 năm cho thấy lợi nhuận của công ty đang tăng
đáng kể ( từ 531 tỷ năm 2016 đến 1200 tỷ năm 2020 ). Xét ở năm 2020 , dựa
vào mô hình Dupont ta phân tích 2 chỉ tiêu ROA và ROE của công ty PNJ và
công ty SJC :
Ta có sơ đồ phân tích Dupont như sau:
ROE
ROA AOE
ROS SOA
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) chịu ảnh hưởng bởi 2
nhân tố là lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ số nợ (DR) mà ROA chịu
tác động bởi 2 nhân tố là tỷ số lợi nhuận trên doanh thu (ROS) và
vòng quay tài sản (SOA). Do đó, các yếu tố tác động đến ROE gồm:
ROS, SOA và DR.
ROA Lợi nhuận sau thuế
ROE = 1−DR ROS = Doanh thu thuần
ROA = ROS x SOA Lợi nhuận sau thuế = Doanh thuthuần – Tổng chi
phí và thuế
ROE = ROS x SOA x
AOE
Ta thấy chỉ số ROA của PNJ cao hơn nhiều so với tỉ số ROA của đối thủ
cạnh tranh SJC, nguyên nhân là : Tỷ suất sinh lợi doanh thu ( ROS) của
PNJ khá cao, chứng tỏ khả năng tiêu thụ và điều hành chi phí tốt.
ROA (= Biên lợi nhuận*Hiệu suất sử dụng tài sản) của PNJ có sự tăng
trưởng cao là do biên lợi nhuận của PNJ được cải thiện từ 1.98% lên
6.90% và hiệu suất sử dụng tài sản của PNJ đang được duy trì ở mức
khoảng 2.6 Thực tế đã chứng minh PNJ đã trở thành một trong
những doanh nghiệp dẫn đầu của ngành sản xuất kinh doanh trang
sức tại Việt Nam và là một trong những doanh nghiệp lớn của khu
vực.
Nhưng vòng quay tài sản của PNJ nhỏ hơn SJC, điều này có thể lý
giải : PNJ đầu tư rất lớn vào cơ sở hạ tầng, mặt bằng kinh doanh, cụ
thể tinh đến đầu năm 2021 PNJ đã có đến 339 cửa hàng trên toàn
quốc .
Chỉ số ROA cao, mà hiệu suất sử dụng tài sản của PNJ đang được duy
trì ở mức thấp khoảng 2.6, dẫn đến ROE cũng cao theo. Ngoài ra, bội
số vốn cổ phần của PNJ đang duy trì ở mức cao, sau đó giảm xuống
mức thấp hơn, cho thấy mức độ đòn bẩy tài chính giảm, ROE (=
ROA*Bội số vốn cổ phần) trở nên bền vững hơn.
TÀI SẢN
Trong khi đó, SJC do biên lợi nhuận thấp (mặc dù doanh thu thuần
cao gấp đôi, nhưng lợi nhuận ròng SJC lại thấp), khoảng 0.3%, trong
khi biên lợi nhuận của PNJ cao gấp 6 lần .Hiệu suất sử dụng tài sản
của SJC lại cao gấp 7 lần PNJ, nhưng biên lợi nhuận quá thấp, nên kéo
theo ROA thấp.