You are on page 1of 6

Cổ tức và cách tính giá điều chỉnh của cổ phiếu trong ngày GDKHQ (Giao dịch

không hưởng quyền)

Cổ tức là gì?
Cổ tức là cách doanh nghiệp phân phối lại lợi nhuận sau khi huy động được vốn đầu tư từ cổ đông.
Bất kỳ nhà đầu tư nào khi đầu tư vào cổ phiếu đều quan tâm đến 2 yếu tố sau khi đầu tư:

 Cổ tức (Dividend)
 Chênh lệch giá mua-bán (Capital Gain)

Có 3 hình thức để doanh nghiệp trả cổ tức cho cổ đông:

 Cổ tức bằng tiền mặt (Cash Dividend)


 Mua lại cổ phiếu (Stock buyback – Share repurchases)
 Cổ tức bằng cổ phiếu (Stock Divedend)

1. Cổ tức tiền mặt (Cash Dividend)


Là cách công ty trả cổ tức bằng tiền mặt trực tiếp đến cổ đông.
Ví dụ: Trong năm 2016, CTCP Tập đoàn Hoa Sen (HOSE: HSG) đã công bố Nghị quyết HĐQT về việc
chi trả cổ tức bằng tiền mặt đợt cho niên độ tài chính 2014 – 2015. Cụ thể, cổ đông của HSG chốt quyền
ngày 15/04 sẽ nhận mức cổ tức tỷ lệ 25% (01 cổ phiếu nhận 2.500 đồng). Thời gian thực hiện 28/4/2016.
Một lưu ý khi xem xét yếu tố cổ tức tiền mặt là tỷ lệ chi trả cổ tức (payout ratio). Ví dụ: Tỷ lệ payout ratio
là 30%, có nghĩa công ty làm ra lợi nhuận trên một cổ phiếu (EPS – Earning per share) là 10 đồng thì
công ty sẽ chi trả 3 đồng cổ tức, 7 đồng còn lại công ty sẽ giữ lại và phân bổ vào phần lợi nhuận còn lại
chưa phân phối (retained earnings).
Tuy nhiên, ở riêng thị trường Việt Nam, chúng ta cần lưu ý khi công ty công bố tỷ lệ chi trả cổ tức, thì tỷ lệ
chi trả cổ tức này dựa trên mệnh giá cổ phiếu (một cổ phiếu có mệnh giá niêm yết theo quy định của luật
là 10.000 đồng). Như vậy, dù tỷ lệ cổ tức chi trả rất cao, khi đọc báo hoặc theo dõi thông tin thị trường,
các bạn có thể thấy tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt cực kỳ cao, có khi lên đến 50%, 60% hoặc 200%
như trường hợp Cổ phiếu CTCP Kinh Đô (KDC) khi chia cổ tức khủng với tỷ lệ 200% bằng tiền mặt. Có
nghĩa là nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu sẽ được chia thêm 20.000/cổ phiếu.
Ưu điểm của việc trả cổ tức tiền mặt:
Ưu điểm 1: “A birth in hand is worthy two in the bush” là một câu tục ngữ cổ của Hy Lạp được người Anh
sử dụng rộng rãi từ thế kỷ 14. Câu tục ngữ này khuyên chúng ta nên bằng lòng và trân trọng những gì
mình đang có, không nên tham lam hay chấp nhận rủi ro để chạy theo những thứ có vẻ hào nhoáng hơn
nhưng cơ hội có được chúng lại không chắc chắn và câu nói này khá đúng với tâm lý cổ đông khi đầu tư
cổ phiếu. Việc nắm giữ tiền mặt cổ tức vẫn là phương án ưa thích của cổ đông khi họ chắc chắn đạt lợi
nhuận từ việc đầu tư cổ phiếu.
Ưu điểm 2: Công ty chứng minh mình có một nền tài chính vững mạnh, dòng tiền rõ ràng. Nhà đầu tư
thường xem xét đến chính sách chi trả cổ tức tiền mặt của công ty theo thời gian, cổ tức có ổn định và
tăng trưởng qua các năm hay không để đánh giá độ hấp dẫn của cổ phiếu khi đầu tư.
Nhược điểm của việc trả cổ tức tiền mặt:
Nhược điểm 1: Nhà đầu tư chịu thuế 2 lần. Lần thứ 1 là khi công ty có lợi nhuận sau thuế (thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp – ở Việt Nam hiện nay là 25%), và thuế suất đánh vào cổ tức cho thu nhập
cá nhân nhà đầu tư (5% cho Việt Nam).
Nhược điểm 2: Công ty có thể đã ở vào giai đoạn tăng trưởng ổn định, thấp, qua thời kỳ đầu tư, tăng
trưởng “nóng”, ở góc độ tâm lý nhà đầu tư nếu chính sách cổ tức khá ổn định và công ty không đầu tư
thêm nhiều máy móc thiết bị qua các năm.
Nhược điểm 3: Bất lợi cho công ty trong một số trường hợp thay vì trả cổ tức, tiền mặt có thể huy động
để duy trì vốn lưu động hoặc dự phòng cho các khoản đầu tư tài sản trong tương lai.

2. Mua lại cổ phiếu (Stock buyback – Share repurchases)


Là hình thức công ty thay vì trả cổ tức tiền mặt thì sẽ trả cổ tức cho nhà đầu tư bằng cách mua lại cổ
phiếu trên thị trường.
Ưu điểm:
Hình thức mua lại cổ phiếu thường diễn ra lúc thị trường có dấu hiệu suy yếu, giá cổ phiếu tụt giảm. Việc
mua lại cổ phiếu thường được công ty tiến hành cao hơn thị giá, do đó giúp nhà đầu tư có lợi khi bán lại
cổ phiếu để nhận “cổ tức” từ công ty.
Đây cũng là cách hỗ trợ tăng giá cổ phiếu công ty trong ngắn hạn. Việc mua lại cổ phiếu ở giá cao hơn
thị giá như một tín hiệu phát ra từ công ty muốn ám chỉ cho thị trường là giá cổ phiếu đang bị giao dịch
thấp hơn giá trị thực mà công ty mong đợi. Số lượng cổ phiếu mua lại làm giảm số cổ phiếu lưu hành
trên thị trường (Outstanding Shares), làm EPS tăng lên. Nếu chỉ số P/E trước khi công ty mua lại cổ
phiếu không đổi, do EPS tăng do đó thị giá cổ phiếu cũng tăng theo.
Nhược điểm:
Nhược điểm đầu tiên là nhà đầu tư có thể chịu thuế đầu tư vốn (capital gain) khi bán lại cổ phiếu cho
doanh nghiệp. Thuế suất đánh vào các khoản lợi nhuận chênh lệch đầu tư vốn hiện nay ở Việt Nam là
20%.
Nhược điểm thứ 2: giá cổ phiếu chỉ tăng trong ngắn hạn. Nếu công ty không chứng minh năng lực tài
chính vững vàng, dòng tiền kinh doanh không tiếp tục sinh ra thì thị trường sẽ hành động ngay lập tức để
phản ánh đúng giá trị cổ phiếu được giao dịch. Ngoài ra, một vấn đề lưu ý khác là cổ đông có thể đang bị
ban lãnh đạo, điều hành của công ty “qua mắt” nếu việc công bố thông tin mua lại cổ phiếu có thể phục
vụ mục đích trục lợi cho họ (ví dụ: công bố mua giá cao, sau đó bán cổ phiếu mình đang sở hữu lại cho
doanh nghiệp, rồi tuyên bố từ nhiệm).

3. Cổ tức bằng cổ phiếu (Stock Divedend)


Là cách công ty thay vì trả cổ tức tiền mặt, mua lại cổ phiếu thì sẽ phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông.
3.1. Công ty tài trợ cổ tức bằng cổ phiếu từ đâu?
Công ty có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu từ các nguồn sau:

 Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối (Retained Earnings).


 Các quỹ dự phòng doanh nghiệp như: quỹ đầu tư phát triển (investment & development fund).
 Thặng dư vốn cổ phần (share premiums).

Nhà đầu tư cần lưu ý, việc phát hành cổ tức bằng cổ phiếu không làm thay đổi vốn chủ sở hữu
(Shareholder’s equity), và tỷ lệ nắm giữ của mỗi cổ đông trong công ty không đổi (do cùng nhận một tỷ lệ
tương ứng cho phần tăng thêm).
Ví dụ: Khi công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu theo tỷ lệ 5:1 có nghĩa cứ 5 cổ phiếu nắm giữ thì cổ đông
có thêm 1 cổ phiếu.
3.2. Công ty được và mất gì khi trả cổ tức bằng cổ phiếu?
Ưu điểm: Nhà đầu tư tránh được thuế đánh vào cổ tức tiền mặt, khi nhận thêm cổ tức bằng cổ phiếu.
Ngoài ra, ở góc độ công ty, công ty có thể tránh việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt khi đang cần dùng số
tiền đó để đầu tư vốn lưu động hoặc tài sản cổ định (Nhà máy, thiết bị, v.v…). Bên cạnh đó, việc trả cổ
tức bằng cổ phiếu còn giúp tăng thanh khoản giao dịch cổ phiếu, khi số lượng cổ phiếu phát hành thêm
tăng lên, và giá được điều chỉnh giảm tương ứng. Do đó, cơ hội cổ phiếu đến với nhiều nhà đầu tư hơn,
và cơ hội tăng giá cho chính bản thân cổ phiếu cũng xảy ra.
Nhược điểm: Do số cổ phiếu lưu hành tăng lên, vốn hóa không đổi nên thị giá một cổ phiếu sau khi trả
cổ tức bằng cổ phiếu sẽ giảm. Bên cạnh đó, nếu công ty sử dụng tiền thay vì trả cổ tức tiền mặt vào các
dự án không tạo thêm khả năng lợi nhuận cho nhà đầu tư, giá cổ phiếu có thể giảm, khiến nhà đầu tư
mất đi cơ hội nếu nhận tiền mặt cổ tức thay vì cổ tức bằng cổ phiếu.
3.3. Phân biệt cổ tức bằng cổ phiếu với chia tách cổ phiếu và cổ phiếu thưởng:
Về nguyên tắc, dù công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu (Stock Dividend) hay chia tách cổ phiếu (Stock Split),
giá trị vốn chủ sở hữu không đổi. Tuy nhiên:

 Trả cổ tức bằng cổ phiếu: có sự dịch chuyển qua lại giữa các tài khoản con trong vốn chủ sở hữu
trên bảng cân đối kế toán. Ví dụ: quỹ đầu tư phát triển tài trợ cho nguồn trả cổ tức bằng cổ phiếu, thì
quỹ này sẽ giảm một phần đúng bằng phần tăng thêm ở vốn điều lệ công ty.
 Chia tách cổ phiếu: không làm ảnh hưởng đến bất kỳ khoản nào trên vốn chủ sở hữu.

Ví dụ: Một công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu theo tỷ lệ 2:1 hay tách cổ phiếu theo tỷ lệ 2:1 thì số cổ phiếu
mới đưa vào lưu hành đều bằng nhau (trước kia nhà đầu tư có 2 cổ phiếu thì nay sẽ có 3 cổ phiếu),
nhưng các thành phần tài khoản trong vốn chủ sở hữu sẽ thay đổi, trong trường hợp trả cổ tức bằng cổ
phiếu, còn trường hợp chia tách cổ phiếu thì không.
Cổ phiếu thưởng (stock compensation): thực chất, có một sự hiểu lầm nhỏ khi sử dụng cổ phiếu thưởng
tương đương như cổ tức bằng cổ phiếu. Trong cổ phiếu thưởng, có hai loại:

 Cổ phiếu thưởng dành cho nhân viên, như các chương trình ESOP mua cổ phiếu ưu đãi dành
cho nhân viên, ví dụ: mua ở mệnh giá so với mức giá cao của thị giá. Do đó, công ty không tài trợ
cho cổ phiếu thưởng dạng này (ngoại trừ bán ưu đãi thêm cổ phần mới).
 Cổ phiếu thưởng dành cho cổ đông hiện hữu, đây chính là cổ tức bằng cổ phiếu mà công ty
dành cho cổ đông. Công ty tài trợ bằng nguồn lực công ty, cổ đông không phải bỏ thêm tiền mà vẫn
tăng số lượng cổ phiếu nắm giữ trong công ty (nhưng tỷ lệ sở hữu không đổi).

3.4. Minh họa trả cổ tức bằng cổ phiếu qua trường hợp CTCP Tập đoàn Hoa Sen (HSG):
HSG đã trả cổ tức bằng cổ phiếu, mà công ty gọi là cổ phiếu thưởng đợt 2 niên độ tài chính 2014 – 2015
cho cổ đông theo tỷ lệ 100:50 (tương ứng 50) (cổ đông sở hữu 10 cổ phiếu sẽ được nhận 5 cổ phiếu
mới. Tổng lượng cổ phiếu mới HSG phát hành để trả cổ tức khoảng 65.5 triệu đơn vị. Thời gian thực
hiện chậm nhất là ngày 15/07/2016. Mục đích sử dụng vốn của đợt phát hành cổ phiếu trả cổ tức: Bổ
sung vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Tóm lại: Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu có thể cho thấy công ty có khả năng mở rộng nhu cầu kinh doanh,
đầu tư trong thời gian tới. Nhà đầu tư cần kiểm tra nguồn tài trợ cổ phiếu từ chương trình cổ tức này, để
tránh tình trạng công ty gian lận.

4. Ngày GDKHQ (Ngày giao dịch không hưởng quyền) là gì? Ngày ĐKCC (ngày đăng ký
cuối cùng), ngày chốt danh sách, ngày thanh toán là gì? Cách tính giá điều chỉnh của cổ
phiếu trong ngày GDKHQ?
4.1. Khái niệm:
Ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày giao dịch mà nhà đầu tư mua chứng khoán sẽ không được
hưởng các quyền lợi của cổ đông như quyền nhận cổ tức, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm, quyền
tham dự ĐHCĐ…
Ngày chốt danh sách khách hàng sở hữu chứng khoán chính là “ngày đăng ký cuối cùng”, là ngày tổ
chức phát hành lập danh sách người sở hữu chứng khoán với mục đích để thực hiện các quyền cho cổ
đông. Tại ngày chốt danh sách, nếu nhà đầu tư có tên trong danh sách người sở hữu chứng khoán sẽ
được nhận các quyền của mình như quyền nhận cổ tức, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm…
Quy định hiện nay, bắt đầu từ 1/1/2016, với các giao dịch bình thường, thời hạn thanh toán là T+2, nghĩa
là thời hạn thanh toán là 2 ngày, ở đây được hiểu là 2 ngày làm việc (không tính thứ Bảy, Chủ nhật và
ngày nghỉ lễ). Cụ thể là thời gian từ ngày giao dịch (mua/bán) đến ngày nhận được chứng khoán/tiền là 2
ngày (ngày giao dịch tính là ngày T+0). Do đó, nhà đầu tư mua cổ phiếu 1 ngày trước ngày đăng ký sở
hữu (đăng ký cuối cùng) sẽ không có tên trong sổ cổ đông, vì giao dịch chưa được thanh toán, do vậy sẽ
không được hưởng quyền.
Như vậy, nhà đầu tư mua chứng khoán trước ngày giao dịch không hưởng quyền sẽ có tên trong danh
sách được hưởng quyền. Nếu mua vào ngày giao dịch không hưởng quyền hoặc sau ngày giao dịch
không hưởng quyền thì nhà đầu tư sẽ không có tên trong danh sách người sở hữu chứng khoán được
hưởng quyền. Chỉ cần cổ đông có tên trong danh sách vào ngày chốt quyền, cổ đông đó đương nhiên
được hưởng quyền lợi, không kể cổ đông đó đã giữ cổ phiếu từ lâu hay mới chỉ được ghi tên vào trước
ngày chốt quyền.
Ngày thanh toán là ngày cổ tức bằng tiền mặt (hoặc bằng cổ phiếu) sẽ về tài khoản của nhà đầu tư.
Ví dụ minh họa: Ngày 15/12/2015, CTCP Ngân hàng Vietcombank (VCB) công bố tạm ứng cổ tức năm
2015 với tỷ lệ 15%/mệnh giá (tương đương với 1.500 đồng/CP), đồng thời chia cổ phiếu thưởng với tỷ lệ:
100:10 (tương đương 10%) và phát hành thêm theo tỷ lệ: 100:20 giá 10.000 đồng để tăng vốn điều lệ.
Ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày 8/1/2016 (thứ Sáu) và ngày đăng ký cuối cùng là ngày
11/1/2016 (thứ Hai). Như vậy, vào ngày 7/1/2016, tất cả các cổ đông đang nắm giữ cổ phiếu VCB sẽ
được hưởng các quyền như trên (hoặc, vào ngày 11/1/2016, tất cả các cổ đông có tên trong sổ đăng ký
cổ đông của VCB sẽ được hưởng các quyền như trên). Vì áp dụng thời gian thanh toán theo quy định
T+2 (không tính thứ Bảy, Chủ Nhật), ngày giao dịch không hưởng quyền là 8/1/2016 nên nhà đầu tư nào
mua cổ phiếu VCB từ ngày 8/1/2016 trở đi sẽ không được hưởng các quyền như trên.
4.2. Các ký hiệu giao dịch không hưởng quyền:
Vào các ngày giao dịch không hưởng quyền, trên bảng điện tử sẽ xuất hiện các ký hiệu giao dịch tương
ứng như sau:
“XR”: Giao dịch không hưởng quyền đặt mua cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư phát hành thêm cho cổ
đông hiện hữu.
“XD”: Giao dịch không hưởng cổ tức của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ.
“XA”: Giao dịch không hưởng cổ tức, quyền mua cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư phát hành thêm cho cổ
đông hiện hữu trong cùng một ngày.
“XI”: Giao dịch không hưởng lãi trái phiếu.
4.3. Cách tính giá điều chỉnh của cổ phiếu trong ngày GDKHQ:

Trong đó:
P: Giá hiện tại
P’: Giá ngày GDKHQ
Pα: Giá cổ phiếu phát hành thêm
α : Tỷ lệ cổ phiếu phát hành thêm
β : Tỷ lệ chia cổ phiếu thưởng (cổ tức bằng cổ phiếu)
C : Cổ tức bằng tiền
Ví dụ:
Cổ phiếu VCB vào ngày 7/1/2016 có giá 30.000 đồng. Ngày 8/1/2016 là ngày GDKHQ của cổ phiếu VCB
với các quyền sau:
Tỷ lệ chia cổ tức bằng tiền: 100:15 (tương đương 15% hay 1.500 đồng)
Tỷ lệ chia cổ phiếu thưởng: 100:10 (tương đương 10%)
Phát hành thêm theo tỷ lệ: 100:20 giá 10.000 đồng
Do vậy, giá cổ phiếu VCB vào ngày GDKHQ 8/1/2015 được tính như sau:
 

5. Tích lũy cổ phiếu lâu dài để hưởng cổ tức và đa dạng hóa trong đầu tư không phải là
phương pháp an toàn nhất.
Nhiều nhà đầu tư chọn cho mình các đầu tư lâu dài để hưởng cổ tức. Xét trên lý thuyết thì có vẻ cách
đầu tư này khá an toàn khi hàng năm vẫn được hưởng cổ tức từ các cổ phiếu có lịch sử trả cổ tức đều
đặn. Tuy nhiên, đó chỉ là xét trên lý thuyết hàng nhiều chục năm, thậm chí là phải nắm giữ thật lâu hơn
nữa bạn mới có thể có lãi với cách đầu tư này (xét trong trường hợp giá cổ phiếu không thay đổi). Vì đơn
giản mỗi lần trả cổ tức, giá cổ phiếu đều bị điều chỉnh đi tương ứng như công thức mà Nhật
Cường đã nêu ở trên. Nên việc đầu tư hưởng cổ tức chỉ phù hợp đối với các cổ phiếu tăng trưởng đều
đặn qua các năm (đó là cơ sở để giá cổ phiếu có xu hướng đi lên qua mỗi năm). Tuy nhiên, việc nắm giữ
một cổ phiếu bất chấp thị trường diễn biến theo chiều hướng nào (đi lên và đi xuống) rõ ràng không phải
là một phương cách tối ưu. Nếu không có những nguyên tắc bán ra nghiêm khắc và có kỷ luật thì bạn sẽ
làm thế nào để ngăn chặn thua lỗ do sự sói mòn, thậm chí làm mất tiền lãi ở các cổ phiếu khác mà bạn
đang sở hữu?
Có nhiều người lại chọn sự đa dạng hóa trong đầu tư – tức là bạn mua nhiều cổ phiếu khác nhau. Cách
này đôi khi cũng đúng. Nhưng hầu hết các nhà đầu tư đa dạng hóa cao và lâu dài đều công nhận câu
châm ngôn: “Trộm vào nhà sẽ lấy đi mọi thứ”. Nói cách khác, gặp lúc thị trường downtrend (đi xuống)
giống như từ năm 2007 – 2009, khi chỉ số VN-Index giảm từ đỉnh 1179,32 điểm (ngày 30/03/2007) xuống
còn 234,66 điểm (ngày 27/02/2009) cuối cùng sẽ kéo tất cả các cổ phiếu dẫn đầu đi xuống.
Sau khi thị trường đạt tới đỉnh điểm đầu năm 2007, FPT – một trong những cổ phiếu lớn nhất thời điểm
đó đã liên tục tăng giá cho tới khi nó cũng đi xuống vào tháng 3/2007. Nhiều người vẫn không thể tin đó
là FPT khi tháng 2/2007 nó được bán ra với giá hơn 600.000 đồng nhưng nửa năm sau đó chỉ còn
300.000 đồng và cuối cùng 1 năm sau đó – tháng 3/2008 giá cổ phiếu FPT xuống thấp nhất chỉ còn
60.000 đồng/ 1 cổ phiếu (mất 90% từ giá đỉnh).
Nói tóm lại, đầu tư để hưởng cổ tức hay mua 20 tới 30 cổ phiếu khác nhau chưa hẳn đã tốt nếu tất cả số
cổ phiếu này giảm 50% trong thị trường downtrend (đi xuống). Một số nhà quản lý quỹ tốt nhất từ năm
2007 tới 2009 đã chứng kiến danh mục vốn đầu tư của họ giảm 50-60% thậm chí hơn. Sở hữu hàng vài
chục cổ phiếu khác nhau hoặc nhiều hơn không giúp họ tránh khỏi những mất mát. Vì thế đa dạng hóa
không thực sự là một phương cách an toàn.
Nhà đầu tư nổi tiếng Gerald Loeb từng kết luận: Đa dạng hóa diện rộng là một “hàng rào ngăn cách, nó
dẫn con người tới sự thiếu hiểu biết”. Một cách tiếp cận chắc chắn hơn, theo Nhật Cường, là sở hữu một
nhóm cổ phiếu nhỏ, hiểu rõ chúng cả bên trong lẫn bên ngoài, xem xét kỹ càng để có thể nhanh chóng
đối phó với những tình huống xấu.

You might also like