You are on page 1of 8

Chính sách cổ tức

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức


Chính sách cổ tức của một doanh nghiệo thông thường sẽ phụ thuộc vào những yếu tố
sau:
Các quy định về pháp lý: Việc phân chia cổ tức phải tuân thủ những quy định pháp
lý nhất định.

Những nguyên tắc sau đây có tính chất thông lệ được nhiều nước sử dụng:

 Nguyên tắc: “Lợi nhuận ròng đã thực hiện”: Cổ tức trả cho cổ đông
được lấy từ số lợi nhuận ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ tức được
trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của công ty. Công ty cổ phần được chỉ
được trả cổ tức khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài
chính khác; đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước; ngay
sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.
 Nguyên tắc: “Bảo toàn vốn”: công ty cổ phần không được lấy vốn có
tính chất pháp định để trả cổ tức. Tùy theo pháp luật mỗi quốc gia mà
việc xác định vốn có tính pháp định có khác nhau, có thể là vốn điều lệ
tính theo mệnh giá của số cổ phần đã phát hành hoặc số vốn góp bao
gồm cả vốn thặng dư cổ phần.
 Nguyên tắc: “Tài chính lành mạnh”: CTCP không được chi trả cổ tức
trong trường hợp không đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn, hoặc việc trả cổ tức làm cho công ty rơi vào trạng thái mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
 Nhu cầu hoàn trả nợ vay: Nếu công ty đã sử dụng nhiều nợ dài hạn để đầu tư thì
cần phải giữ lại phần lợi nhuận ròng để chuẩn bị cho việc trả nợ.
 Cơ hội đầu tư: Nếu công ty có những cơ hội đầu tư hứa hẹn khả năng tăng trưởng
cao thì công ty có xu hướng giữ lại phần lớn lợi nhuận ròng để tái đầu tư, thu hẹp
chi trả cổ tức cho cổ đông nhằm tránh huy động vốn từ bên ngoài
 Mức tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của công ty: Nếu công ty có mức tỷ
suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) cao hơn so với doanh nghiệp khác thì các
cổ đông có xu hướng muốn để lại phần lớn lợi nhuận ròng để tái đầu tư và ngược
lại.
 Sự ổn định về lợi nhuận công ty: Nếu công ty có mức lợi nhuận tương đối ổn
định hoặc chắc chắn tăng trong tương lai thì công ty có thể dành phần lớn lợi
nhuận ròng để tái đầu tư và ngược lại
 Khả năng thâm nhập vào thị trường vốn: Những công ty lớn, có thời gian hoạt
động lâu, có lợi nhuận tương đối ổn định, có uy tín cao… thường có khả năng dễ
dàng huy động vốn trên thị trường tài chính. Vì vậy, các công ty này có thể dành
tỷ lệ cao lợi nhuận ròng để trả cổ tức và ngược lại.
 Xu hướng của nền kinh tế: Trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, ít có cơ hội đầu
tư, lãi suất thị trường sụt giảm. Nếu công ty có nhu cầu về vốn, có thể dễ dàng vay
vốn khối lượng lớn với lãi suất thấp, thì công ty có thể dành phần lớn lợi nhuận
ròng để trả cổ tức và ngược lại.
 Quyền kiểm soát công ty: Nếu các cổ đông của công ty muốn duy trì quyền quản
lý và kiểm soát công ty thig thường giữ lại phần nhiều lợi nhuận ròng để tái đầu tư
và ngược lại.
 Thuế thu nhập cá nhân: Do thuế TNCN thường đánh thuế theo biểu thuế lũy tiến
hoặc có sự khác nhau về thuế suất giữa cổ tức và lãi vốn, nên nhiều công ty căn cứ
vào sự khác biệt để xác định mức trả cổ tức.
2. Các chính sách cổ tức
 Chính sách cổ tức ổn định
Nội dung chủ yếu của chính sách này là: công ty xác định một mức cổ tức nhất định,
duy trì trả cổ tức liên tục hàng năm và chỉ tăng cổ tức lên mức cao hơn khi công ty có
thể đạt được sự gia tăng lợi nhuận một cách vững chắc đủ khả năng cho phép tăng
được cổ tức. Nếu lợi nhuận giảm sút, mức cổ tức vẫn được duy trì cho đến khi công ty
thấy rõ không thể hy vọng ngăn chặn được sự giảm sút lợi nhuận kéo dài trong tương
lai. Trong những năm gần đây, nhiều công ty cổ phần ở các nước đạt được sự tăng
trưởng lợi nhuận khá ổn định đã thực hiện theo đuổi chính sách ổn định cổ tức theo
hướng duy trì tỷ lệ tăng trưởng cổ tức ổn định.
Hiện nay, phần lớn công ty cổ phần ở nhiều nước thực hiện chính sách ổn định cổ tức,
bởi lẽ chính sách này đem lại các lợi ích chủ yếu:
 Thứ nhất: Thực hiện chính sách ổn định cổ tức có khuynh hướng góp phần làm tăng
giá cổ phiếu của công ty trên thị trường. Chính sách ổn định cổ tức đưa ra thông tin
hay tín hiệu cho các nhà đầu tư về triển vọng tốt trong kinh doanh của công ty. Mặt
khác, những công ty thực hiện chính sách ổn định cổ tức được nhiều nhà đầu tư đánh
giá là làm giảm thiểu rủi ro cho cổ đông nhiều hơn những công ty trả cổ tức tăng,
giảm thất thường.
 Thứ hai: Chính sách ổn định cổ tức thu hút sự quan tâm nhiều hơn của các nhà đầu
tư, từ đó làm tăng uy tín của các công ty thực hiện chính sách này. Bởi vì, phần lớn cổ
đông của nhiều công ty cổ phần ở các nước coi cổ tức là một trong những nguồn thu
nhập để trang trải các khoản tiêu dùng thường xuyên, các cổ đông này ưa thích chính
sách ổn định cố định. Thêm vào đó, các tổ chức tài chính trung gian như công ty bảo
hiểm, công ty tài chính… cũng ưa thích đầu tư vào cổ phiếu của các công ty trả cổ tức
đều đặn, thường xuyên.
 Thứ ba: Cổ tức ổn định còn là một yếu tố giúp cho công ty có thể dễ được niêm yết
chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán hơn. Ở nhiều nước, cổ phiếu muốn được
niêm yết thì một vấn đề thường cũng được xem xét là công ty phải trả cổ tức thường
xuyên và ổn định.
Tuy vậy, việc trả cổ tức ổn định có thể làm cho công ty bị động trong việc bố trí
nguồn vốn bên trong của công ty cho đầu tư. Mặt khác, do phải duy trì mức trả cổ tức
ổn định, cho nên nếu như công ty có nhu cầu vốn đầu tư sẽ phải huy động vốn từ bên
ngoài bằng việc phát hành cổ phiếu mới. Khi đó công ty phải bỏ ra các khoản chi phí
phát hành, dẫn đến làm cho chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu tăng lên, đồng thời các cổ
đông hiện hữu phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty cho số cổ đông mới.
 Chính sách thặng dư cổ tức
Chính sách thặng dư cổ tức chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các cơ hội đầu tư và nguồn
vốn tài trợ cho việc thực hiện các đầu tư mới của công ty.
Nội dung chủ yếu của chính sách này là: Công ty chỉ trả cổ tức từ phần lợi nhuận sau
thuế còn lại sau khi đã ưu tiên dành số lợi nhuận sau thuế để tài trợ cho đầu tư trong
mối quan hệ đảm bảo huy động theo cơ cấu nguồn vốn tối ưu của công ty.
Chính sách thặng dư cổ phần dựa trên cơ sở là các nhà đầu tư ưa thích công ty giữ lại
lợi nhuận để tái đầu tư hơn là trả cổ tức, nếu như tỷ suất sinh lời mà công ty có thể đạt
được từ việc tái đầu tư lợi nhuận cao hơn tỷ suất sinh lời trung bình mà các nhà đầu tư
có thể đạt được do tự họ đầu tư vào các cơ hội khác có mức độ rủi ro tương đương.
Việc thực hiện chính sách thặng dư cổ tức có thể đưa lại những lợi ích chủ yếu sau:
Một là: Giúp cho công ty chủ động sử dụng lợi nhuận sau thuế đáp ứng nhu cầu vốn
cho thực hiện các cơ hội đầu tư tăng trưởng, từ đó tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh và
có khả năng đưa lại triển vọng kinh doanh tốt đẹp cho công ty trong tương lai.
 Hai là: Công ty sẽ giảm được chi phí sử dụng vốn, bởi vì với việc sử dụng nhiều hơn
lợi nhuận sau thuế để tài trợ cho đầu tư, công ty sẽ tránh được hoặc giảm bớt được
việc phát hành thêm cổ phiếu thường mới để huy động vốn khiến cho công ty không
phải mất hay giảm bớt được chi phi phát hành cổ phiếu.
 Ba là: Giúp cổ đông hiện hữu có thể giảm hoặc hoãn nộp một phần thuế thu nhập cá
nhân. Việc giữ lại phần lớn lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư, sẽ làm giảm thu nhập
hiện tại từ cổ tức của các cổ đông, điều này vừa giúp cổ đông có thể giảm được phải
nộp thuế thu nhập cá nhân ở mức cao, hoặc hoãn nộp một phần thuế thu nhập cá nhân
sang các kỳ sau.
 Bốn là: Giúp cổ đông hiện hữu tránh phải phân chia quyền kiểm soát, biểu quyết và
phân chia thu nhập cho cổ đông mới, vì công ty không phải phát hành cổ phần mới
hoặc hạn chế phải phát hành với quy mô lớn.
Tuy nhiên, việc công ty theo đuổi thực hiên chính sách thặng dư cổ tức có thể sẽ dẫn
đến sự dao động về cổ tức tương đối lớn. Như vậy, có thể thấy rằng chính sách thặng
dư cổ tức phù hợp hơn với những công ty đang trong giai đoạn tăng trưởng, có nhiều
cơ hội đầu tư đưa lại hiệu quả và các cổ đông không phải quá lo lắng đến sự dao động
của cổ tức.
 Các chính sách cổ tức khác
 Chính sách trả cổ tức theo tỷ lệ chi trả cố định

Công ty cổ phần cũng có thể thực hiện việc trả cổ tức theo một tỷ lệ chi trả cố định tính
trên lợi nhuận sau thuế của công ty. Như vậy, nếu lợi nhuận sau thuế hàng năm của công
ty thay đổi thì sẽ làm cho cổ tức của 1cổ phần biến động. Theo cách trả cổ tức này, tỷ lệ
trả cổ tức cố định được công ty duy trì qua các năm cho đến khi điều kiện kinh doanh của
công ty có sự thay đổi căn bản thì công ty mới điều chỉnh tỷ lệ trả cổ tức.
Chính sách cổ tức này chỉ có một số ít công ty áp dụng do cổ tức 1 cổ phần có sự dao
động khá lớn qua các năm.
 Chính sách trả cổ tức định kỳ trong năm ở mức thấp và chia thêm cổ tức
vào cuối năm.
Một số công ty thực hiện chính sách trả cổ tức định kỳ trong năm ở mức thấp và chia
thêm cổ tức vào cuối năm trong những năm công ty hoạt động kinh doanh có hiệu quả
cao và có tiền mặt dồi dào. Chính sách này là sự kết hợp chính sách cổ tức ổn định và
chính sách tỷ lệ chi trả cố định.
Với chính sách này, công ty sẽ căn cứ vào kế hoạch kinh doanh, kế hoạch lợi nhuận của
công ty để xác định một mức cổ tức tối thiểu nhất định và theo kỳ hạn trong năm sẽ trả
cho cổ đông. Sau đó, đến cuối năm tài chính, công ty quyết toán và xác định số lợi nhuận
sau thuế thực tế đạt được và số lợi nhuận chưa phân phối lũy kế từ các năm trước để
quyết định có chia -thêm cổ tức vào cuối năm hay không.
Việc lựa chọn chính sách cổ tức này tạo ra sự linh hoạt cho công ty trong việc trả cổ tức.
Công ty luôn đảm bảo được việc trả cổ tức và chủ động hơn trong sắp xếp sử dụng nguồn
tiền mặt. Thực hiện chính sách này cũng đảm bảo cho các nhà đầu tư nhận được khoản cổ
tức ở mức tối thiểu nhất định. Vì thế, chính sách này được coi là sự lựa chọn tốt nhất cho
những công ty thường có sự dao động lớn về lợi nhuận sau thuế và dòng tiền mặt.
3. Chia tách và mua lại cổ phiếu
3.1 Trả cổ tức bằng cổ phiếu
 Công ty cổ phần còn có thể trả cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu thay vì trả cổ tức bằng
tiền. Trả cổ tức bằng cổ phiếu là cách công ty phát hành thêm cổ phiếu tương ứng với
phần giá trị lợi nhuận sau thuế dành trả cổ tức và phân phối cho cổ đông hiện hữu theo tỷ
lệ cổ phần hiện họ đang nắm giữ.
Ví dụ: Một công ty tuyên bố trả cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ 10%, vậy cổ đông nào
đang nắm giữ 100 cổ phần thì sẽ được nhận thêm 10 cổ phần mà không phải trả tiền. Như
vậy, thay vì nhận cổ tức bằng tiền thì cổ đông nhận được thêm một số cổ phiếu mới mà
không phải trả tiền.
 Có thể nhận thấy, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu đưa lại những tác động chủ yếu sau:
Trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm cho số cổ phiếu đang lưu hành của công ty tăng lên và
cũng làm tăng số cổ phần của mỗi cổ đông sở hữu nhưng không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ
quyền sở hữu của mỗi cổ đông hiện hành.
Nếu như trả cổ tức bằng tiền thì sau khi trả cổ tức, tài sản của công ty giảm đi. Đối với
việc trả cổ tức bằng cổ phiếu thì tổng tài sản của công ty không thay đổi so với trước khi
trả cổ tức bằng cổ phiếu, tuy nhiên có sự thay đổi ở một số khoản mục thành phần của
vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán: Khoản lợi nhuận chưa phân phối sẽ giảm đi và
khoản đầu tư vốn của chủ sở hữu sẽ tăng lên tương ứng (Theo chế độ tài chính hiện hành
ở Việt Nam).
Trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm cho số cổ phiếu đang lưu hành của công ty tăng lên; do
vậy, sau khi trả cổ tức, giá trị sổ sách của một cổ phiếu sẽ giảm đi. Xem xét thuần túy về
mặt lý thuyết, thì việc trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng giống như việc chia nhỏ hơn chiếc
bánh và như vậy, sau khi trả cổ tức bằng cổ phiếu, thu nhập 1 cổ phần và giá 1 cổ phần
của công ty sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, nếu cùng với việc trả cổ tức bằng cổ phiếu, triển
vọng của công ty là tốt đẹp, lợi nhuận sau thuế có khả năng gia tăng mạnh thì giá cổ
phiếu của công ty có thể tạm thời sụt giảm do hiện tượng loãng giá, sau đó sẽ tăng lên do
các nhà đầu tư tin tưởng vào tương lai của doanh nghiệp.
Mục tiêu của công ty thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu có thể là nhằm chủ động giảm
giá cổ phiếu để tăng thêm tính thanh khoản của chúng khi giá cổ phiếu của công ty đã lên
ở mức quá cao. Một số công ty thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu có thể là nhằm có thêm
vốn bằng tiền cho đầu tư từ nguồn lợi nhuận sau thuế; bởi lẽ, nếu công ty trả cổ tức bằng
tiền thì số tiền đó sẽ về tay cổ đông.
Ở đây, cũng cần phân biệt việc trả cổ tức bằng cổ phiếu và việc tách hay chia nhỏ cổ
phiếu. Trả cổ tức bằng cổ phiếu và tách hay chia nhỏ cổ phiếu đều được coi là cách thức
mà công ty có thể sử dụng để chủ động thực hiện giảm giá cổ phiếu nhằm tăng thêm tính
thanh khoản cho cổ phiếu. Cả hai việc này đều dẫn đến làm tăng số lượng cổ phiếu đang
lưu hành; đều làm giảm giá trị sổ sách của 1 cổ phiếu, nhưng không làm giảm tổng giá trị
tài sản và vốn chủ sở hữu của công ty, mặt khác cũng đều không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ
quyền sở hữu của cổ đông hiện hữu đối với công ty. Tuy vậy, việc tách cổ phiếu sẽ làm
giảm mệnh giá của 1 cổ phần, trong khi đó trả cổ tức bằng cổ phiếu không làm thay đổi
mệnh giá của 1 cổ phần. Một điểm đáng chú ý nữa, như trên đã nêu cả hai việc này đều
không làm thay đổi vốn chủ sở hữu của công ty, nhưng việc trả cổ tức bằng cổ phiếu lại
làm thay đổi giá trị của một số khoản mục thành phần của vốn chủ sở hũu trên bảng cân
đối kế toán của công ty còn việc tách cổ phiếu thì không gây ra sự thay đổi nào.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc trả cổ tức bằng cổ phiếu phải trong phạm vi quy mô
lợi nhuận sau thuế thuộc sở hữu của cổ đông thường và số cổ phiếu mà công ty còn được
phép phát hành.
Công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu có thể đưa lại những điểm lợi và bất lợi chủ yếu sau:
 Những điểm lợi:
 Có thể giúp cho công ty chủ động giảm giá cổ phiếu nhằm làm tăng thêm tính thanh
khoản của chúng khi giá cổ phiếu đã ở mức quá cao. So với trả cổ tức bằng tiền, trả cổ
tức bằng cổ phiếu giúp cho công ty có thêm vốn bằng tiền từ nguồn lợi nhuận sau thuế để
đầu tư và như vậy cũng sẽ giảm bớt hay không phải phát hành thêm cổ phần mới để huy
động vốn, từ đó tiết kiệm được chi phí phát hành và cổ đông hiện hữu ít hoặc không phải
chia sẻ quyền lợi cho cổ đông mới.
 Có thể giúp cho các nhà quản trị công ty giảm bớt áp lực phải liên tục tăng cổ tức bằng
tiền. Giúp cổ đông có thể hoãn được thuế thu nhập cá nhân so với cổ tức bằng tiền mặt.
Nếu công ty trả cổ tức bằng tiền mặt thì cổ đông sẽ bị đánh thuế thu nhập cá nhân ngay
khi công ty thực hiện chi trả. Trong khi đó, nếu trả cổ tức bằng cổ phiếu, cổ đông chỉ bị
đánh thuế khi thực hiện bán cổ phiếu. Hơn nữa, nếu trong tương lai, công ty có triển vọng
kinh doanh tốt đẹp, giá cổ phiếu của công ty tăng cao thì cổ đông có thêm thu nhập so với
nhận ngay cổ tức bằng tiền.
 Những điểm bất lợi:
 Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu như trên đã nêu giúp cho công ty có thêm vốn bằng tiền
để đầu tư. Tuy nhiên, nếu đầu tư của công ty kém hiệu quả không tạo ra hay tạo ra sự gia
tăng lợi nhuận sau thuế quá thấp sẽ dẫn đến làm cho giá cổ phiếu của công ty sụt giảm
mạnh, khi đó cổ đông sẽ chịu nhiều thiệt hại.
 Nếu các nhà quản trị công ty lạm dụng quá mức việc trả cổ tức bằng cổ phiếu, công ty
có thể rơi vào tình trạng “dư thừa tiền”, từ đó các nhà quản trị công ty dễ dãi trong chi
dùng tiền vốn khiến cho hiệu quả sử dụng vốn thấp.
3.2 Mua lại cổ phiếu
Trong quá trình hoạt động, vì những lý do nhất định, công ty cổ phần có thể thực hiện
mua lại cổ phiếu của chính công ty mình, số cổ phiếu đó được gọi là cổ phiếu quỹ. Vậy,
cổ phiếu quỹ là cổ phiếu do công ty đã phát hành và được chính công ty mua lại bằng
nguồn vốn hợp pháp. Cổ phiếu quỹ không còn được hưởng các quyền của cổ phiếu
thường như quyền biểu quyết, quyền nhận cổ tức... Việc mua lại cổ phiếu đòi hỏi công ty
phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật.
 Thông thường ở các nước, công ty mua lại cổ phiếu bằng các hình thức chủ yếu sau:
-Mua lại cổ phiếu trên thị trường thức cấp như mua qua Sở giao dịch chứng khoán.
-Công ty đề nghị mua lại từ tất cả các cổ đông của Công ty.
-Mua lại theo mục tiêu: Mua lại có tính chất riêng lẻ trên cơ sở thương lượng trực tiếp
với cổ đông lớn hoặc một nhóm cổ đông nhất định.
 Công ty thực hiện mua lại cổ phiếu của chính công ty mình xuất phát từ nhiều lý do
khác nhau nhau như:
-Mua lại cổ phiếu để tái cơ cấu nguồn vốn cho hợp lý hơn; mua lại để duy trì giá thích
hợp cho cổ phiếu trên thị trường;
-Mua lại để ngăn chặn sự thâu tóm công ty;
-Mua lại để thưởng cổ phiếu cho các nhà quản lý hoặc người lao động của công ty;
-Mua lại để điều chỉnh giảm vốn điều lệ theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông...
Ở nhiều nước, công ty cổ phần còn thực hiện việc mua lại một tỷ lệ cổ phần nhất định từ
tất cả cổ đông của công ty thay cho việc trả cổ tức. Phần dưới đây chủ yếu xem xét việc
mua lại này.
Một công ty có đủ khả năng về tiền mặt để trả cổ tức cho cổ đông như dự định, nhưng
công ty có thể cân nhắc sử dụng số tiền dự tính dành trả cổ tức để mua lại cổ phiếu từ cổ
đông. Để thực hiện mua cổ phiếu từ cổ đông, công ty sẽ xác định số cổ phần dự kiến mua
lại tương ứng với số tiền dự kiến dành trả cổ tức và công bố tỷ lệ cổ phần mua lại trên số
cổ phần mà cổ đông đang nắm giữ, giá mua lại và thời gian mua lại. Thông thường giá
mua lại là cao hơn giá thị trường. Cổ đông có quyền lựa chọn bán cổ phần cho công ty để
thu tiền về hoặc có thể không bán.
 Việc mua lại cổ phần thay cho việc trả cổ tức có những tác động chủ yếu sau: Tương tự
như việc trả cổ tức bằng tiền, việc mua lại cổ phiếu sẽ làm giảm tài sản, giảm vốn chủ sở
hữu của công ty. Nhưng khác với trả cổ tức bằng tiền, việc mua lại làm giảm số lượng cổ
phiếu đang lưu hành và vì vậy, nó làm cho thu nhập 1 cổ phần, giá cổ phiếu của công ty
tăng lên.
 Việc mua lại cổ phiếu thay cho việc trả cổ tức có thể đưa lại những điểm lợi và những
bất lợi chủ yếu sau:
 Những điểm lợi:
 Việc mua lại cổ phiếu được xem như đưa lại một tín hiệu lạc quan cho các nhà đầu tư,
họ tin rằng các quyết định mua lại cổ phần của các nhà quản trị công ty đưa ra thể hiện
các nhà quản trị công ty đang lạc quan về tương lai phát triển của công ty và giá cổ phiếu
của công ty hiện bị thị trường đánh giá thấp. Điều này cũng là một lý do khiến cho giá cổ
phiếu của công ty sẽ tăng lên.
 Việc công ty công bố mua lại cổ phiếu từ cổ đông khiến cho cổ đông rộng đường hơn
trong việc lựa chọn theo ý thích của họ bán hay không bán cổ phiếu. Những cổ đông cần
tiền thì có thể lựa chọn là bán cổ phiếu cho công ty. Trong khi đó, những cổ đông chưa
cần tiền thì chỉ đơn giản quyết định là giữ lại cổ phiếu và như vậy, những cổ đông này
cũng hoãn nộp được một phần thuế thu nhập nếu so với trường hợp công ty trả cổ tức
bằng tiền.
 Việc mua lại cổ phiếu cũng giúp cho các nhà quản trị công ty giảm được áp lực tăng cổ
tức bằng tiền. Nếu việc dư thừa tiền mặt của công ty chỉ có tính chất tạm thời, các nhà
quản trị thích sử dụng số tiền dự kiến dành trả cổ tức để mua lại cổ phiếu từ cổ đông hơn
là công bố tăng cổ tức bằng tiền mà không có khả năng duy trì được nó.
 Những điểm bất lợi:
 Trong trường hợp có thể có nhiều cổ đông chưa nhận thấy rõ căn cứ và mối liên hệ
giữa việc công ty mua lại cổ phiếu và việc trả cổ tức bằng tiền, từ đó làm cho việc thực
hiện kế hoạch mua lại cổ phiếu của công ty gặp trở ngại.
 Nếu công ty đặt giá mua lại quá cao thì có thể gây ra sự bất lợi cho các cổ đông chưa
cần tiền vẫn giữ lại cổ phiếu của công ty. Mặt khác, những công ty mà cổ phiếu có tính
thanh khoản yếu nếu công ty đặt giá mua quá cao thì sau khi kết thúc chương trình mua
lại giá cổ phiếu có thể sụt giảm mạnh.

You might also like