Professional Documents
Culture Documents
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠ1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠ1
Đề tài
ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LÀM THÊM ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐẠI
HỌC THƯƠNG MẠI
Nhóm: 6
MỤC LỤC
TÓM TẮT
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau về kết quả học tập được đánh giá qua điểm trung
bình học kỳ của 2 đối tượng sinh viên là có đi làm thêm và không đi làm thêm là khác nhau.
Mặt khác, kết quả cũng cho thấy kết quả học tập được đánh giá thông qua điểm trung bình học
kỳ của nhóm đối tượng sinh viên có đi làm thêm ở 2 thời điểm trước khi đi làm thêm và sau khi
đi làm thêm là khác nhau. Từ những kết quả này cho phép nghiên cứu có thể kết luận có sự tác
động từ việc làm thêm đến kết quả học tập của sinh viên. Qua đó, nghiên cứu đã tìm ra một số
ảnh hưởng cụ thể từ việc làm thêm mà chính những yếu tố này làm cho kết quả học tập của
sinh viên bị giảm sút. Từ cơ sở đó nghiên cứu cũng đã đề xuất những giải pháp và kiến nghị
nhằm giúp cho sinh viên có đi làm thêm ở Trường Đại học Thương mại cải thiện kết quả học
tập của mịnh.
I. Đặt vấn đề
Vấn đề “việc làm” đã, đang và luôn là vấn đề nóng bỏng, được không chỉ các doanh nghiệp
quan tâm mà nó đã ăn sâu vào suy nghĩ của rất nhiều sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà
trường bởi đông đảo sinh viên nói chung và sinh viên trường đại học Thương Mại nói riêng
nhận thức được tầm quan trọng của việc học trong thực tế, và chọn cách học này. Đó là đi làm
thêm.
Sinh viên đi làm thêm không chỉ vì thêm thu nhập mà còn mong muốn được trải nghiệm để
trau dồi kĩ năng, tích luỹ kinh nghiệm, học hỏi thực tế nhiều hơn.... Hơn thế, việc làm thêm
hiện nay gần như trở thành một xu thế là vì đối với sinh viên, khi muốn tự lập và khi sống trong
xã hội cạnh tranh như hiện nay, kiến thức xã hội và kiến thức thực tế, kĩ năng, kinh nghiệm có
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tư duy, nhạy bén cũng như khả năng làm việc của họ sau tốt
nghiệp.
Tuy nhiên, việc làm thêm cũng có không ít những tác động tiêu cực tới quỹ thời gian của nhiều
sinh viên, ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của sinh viên nói chung và sinh viên đại
học Thương Mại nói riêng.
Với mong muốn đi sâu nghiên cứu vấn đề trên, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “Ảnh hưởng của
việc làm thêm tới kết quả học tập của sinh viên đại học Thương Mại” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
Nghiên cứu định tính: nghiên cứu các tài liệu thứ cấp và thảo luận nhóm với đối tượng sinh
viên có đi làm thêm để khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập.
Nghiên cứu định lượng: so sánh kết quả học tập của nhóm sinh viên đi làm thêm và nhóm sinh
viên không đi làm thêm. Nghiên cứu sự thay đổi kết quả học tập của sinh viên trước và sau khi
đi làm
1. Tác động của việc làm thêm đến kết quả học tập sinh viên Đai học Thương Mại
a) Ảnh hưởng của số giờ làm thêm đến kết quả học tập
Để xem xét sự ảnh hưởng của số giờ làm thêm đến kết quả học tập của sinh viên, nhóm tiến
hành khảo sát mức độ ảnh hưởng của số giờ làm thêm đến kết quả học tập của sinh viên ĐH
Thương mại, kết quả thể hiện ở Bảng 2 như sau:
Bảng 2: Khảo sát mức độ ảnh hưởng của thời gian làm thêm đến kết quả học tập của sinh
viên
Đơn vị: %
Số giờ làm Hoàn toàn Không đồng ý Bình thường Đồng ý Hoàn toàn
thêm ảnh không đồng ý đồng ý
hưởng đến kết
quả học tập
< 4 giờ 25,2 31,4 28,1 12,9 2,4
4 – 6 giờ 10,5 33,3 38,6 16,2 1,4
6 – 8 giờ 6,2 13,8 38,1 35,2 6,7
>8 giờ 9,5 8,1 17,1 41,9 23,3
Nguồn: Số liệu thống kê năm 2020
Giả thuyết H1: Số giờ đi làm thêm có sự tác động ngược chiều lên kết quả học tập
Theo kết quả bảng 2 ta có thể thấy rằng đối với những những sinh viên đi làm thêm từ 6 – 8 giờ
và >8 giờ thì mức độ ảnh hưởng đến kết quả học tập (lần lượt là “Đồng ý: 35,2% và 41,9%”;
“Không đồng ý: 6,7% và 23,3%”) lớn hơn so với những sinh viên đi làm thêm ít thời gian hơn,
cụ thể là: nếu sinh viên dành nhiều càng nhiều thời gian cho việc làm thêm trong một ngày thì
kết quả học tập của họ sẽ càng có xu hướng giảm sút. Từ đây ta kết luận giả thuyết H1: Số giờ
đi làm thêm có sự tác động ngược chiều lên kết quả học tập được chấp nhận.
b) Ảnh hưởng của sức khỏe đến kết quả học tập
Liệu các bạn sinh viên có đủ sức khỏe để đảm đương được tốt 2 việc vừa học vừa làm cùng
một lúc không? Bởi vì việc làm thêm đòi hỏi cường độ lao động của sinh viên rất cao đôi khi
nó vắt kiệt sức lao động của các bạn. Để biết được mức độ ảnh hưởng của sức khỏe đến kết quả
học tập, nhóm đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả thể hiện ở bảng 3 dưới đây:
Bảng 3: Khảo sát mức độ ảnh hưởng của sức khỏe đến kết quả học tập
Đơn vị: %
Mức độ ảnh hưởng Hoàn toàn Không Bình Đồng Hoàn
không đồng ý thường ý toàn
đồng ý đồng
ý
Ngủ không đủ giấc 16,1 16,1 27,8 24,9 24,9
Sức khỏe giảm do tính chất công việc 7,8 24,4 29,8 29,3 10,7
Stress do áp lực công việc 7,8 18,5 38,5 30,2 7,3
Đảm bảo sức khỏe để đi làm 10,2 14,6 30,2 33,6 13,7
Nguồn: Số liệu thống kê năm 2020
Giả thuyết H2: Sức khỏe càng bị ảnh hưởng thì kết ủa học tập càng giảm sút
Qua kết quả khảo sát ta thấy sức khỏe của các bạn sinh viên khi đi làm thêm bị ảnh hưởng ít
nhiều đồng thời cũng có thể gây ảnh hưởng đến việc học. Chính vì vậy, khi các bạn vừa học
vừa đi làm thì nên kiểm tra lại sức khỏe và quỹ thời gian của mình. Có nhiều bạn vì không đủ
thời gian nghỉ ngơi nên sau khi đi làm thêm thì các bạn vào lớp học với trạng thái mệt mỏi,
nhức đầu, thường hay ngủ gục trên bàn, không tập trung được cho việc học. Nên kết quả học
tập của những bạn này thường rất thấp, đôi khi còn bị đi học lại, thi lại nên thường dẫn đến tình
trạng chán nản, bỏ học.Do đó ta kết luận gải thuyết H2: Sức khỏe càng bị ảnh hưởng thì kết
ủa học tập càng giảm sút được chấp nhận.
c) Thời gian ảnh hưởng đến kết quả học tập
Khi dành thời gian đị làm thêm thì có nghĩa thời gian cho việc học bị thu hẹp, kết quả học tập
sẽ bị ảnh hưởng nếu không biết cách sắp xếp thời gian hợp lí. Phần lớn sinh viên đi làm thêm
thường bị yếu tố thời gian ảnh hưởng đến việc học như: thời gian học trên lớp, thời gian tự học
và thời gian để học bài. Ngoài thời gian học trên lớp thì sinh viên cần có thời gian tự học, theo
quy chế học vụ theo chương trình tín chỉ của Trường ĐH Thương Mại thì 1 giờ ở lớp tương
đương với 2 giờ tự học. Đồng thời khung chương trình đào tạo cũng được thiết kế theo quy chế
này, cho nên để đảm bảo chất lượng học tập thì mỗi sinh viên không chỉ cần đảm bảo giờ học
trên lớp mà còn phải đảm bảo cả giờ tự học ngoài thời gian học trên lớp. Vì thế việc đi làm
thêm càng nhiều giờ thì càng bị yếu tố thời gian tác động tiêu cực đến kết quả học tập đó cũng
là lý do cho thấy khi khảo sát nhóm sinh viên đi làm thêm, phân loại về thời gian làm thêm thì
kết quả cho thấy càng tăng số giờ làm thêm lên thì càng có nhiều trường hợp sinh viên bị giảm
thời gian học trên lớp, giảm thời gian tự học và giảm cả thời gian học bài
Bảng 4: Khảo sát mức độ ảnh hưởng của thời gian đến kết quả học tập
Đơn vị: %
Mức độ ảnh hưởng Hoàn toàn Không Bình Đồng ý Hoàn
không đồng ý thường toàn
đồng ý đồng ý
Thời gian đi làm 12,9 18,6 28,6 27,6 12,4
Thời gian học trên lớp 8,6 20,0 43,3 21,9 6,2
Thời gian tự học 7,1 11,9 38,6 28,1 14,3
Nguồn: Số liệu thống kế năm 2020
Kết quả của Bảng 4 cho thấy việc không phân bổ thời gian hợp lí giữa việc đi làm và đi học
gây ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập. Một điều có thể thấy rõ nhất ở Bảng 4 đó là thời gian tự
học và thời gian học trên lớp đã bị ảnh hưởng bởi việc đi làm thêm, vì sinh viên dành nhiều
thời gian cho việc làm thêm do đó thời gian cho việc học bị thu hẹp mà trong khi đó việc học
trên lớp và tự học lại phản ánh rõ nhất kết quả học tập.
d) Sự tập trung ảnh hưởng đến kết quả học tập
Bảng 5: Khảo sát mức độ ảnh hưởng của sự tập trung lên kết quả học tập
Đơn vị: %
Mức độ ảnh hưởng Hoàn Không Bình Đồng ý Hoàn toàn
toàn đồng ý thường đồng ý
không
đồng ý
Không đảm bảo lịch học 14,8 22,4 26,7 29,0 7,1
Phân tâm trong việc học 9,5 28,1 31,0 26,7 4,8
Nghỉ học để đi làm 13,8 12,4 35,2 26,2 12,4
Tạo áp lực cho bản thân 10,0 14,8 33,8 34,3 7,1
Nguồn: Số liệu thống kê năm 2020
Theo kết quả của Bảng 5 qua khảo sát thực tế thì ta thấy sinh viên nếu đi làm thêm thì sự tập
trung cho việc học sẽ giảm bớt dẫn đến kết quả học tập bị ảnh hưởng, vì việc đi làm thêm mà
sinh viên nghỉ học, không đảm bảo được lịch học, nếu nghỉ học quá số buổi theo quy định của
nhà trường thì sinh viên có thể không đủ điều kiện thi dẫn đến việc học lại.
Ngoài những tác động tiêu cực như trên thì cũng có những sinh viên có thể cân đối được việc
học và làm thêm, sắp xếp thời gian biểu hợp lí sẽ giúp sinh viên làm việc một cách khoa học,
tận dụng đối đa thời gian cho việc học nhưng vẫn có thời gian đi làm thêm.
e) Sự phù hợp chuyên ngành
Bảng 6: Khảo sát sự phù hợp chuyên ngành của việc làm thêm
Sự phù hợp chuyên ngành Phần trăm
%
Có 32,9
Không 67,1
Nguồn: Số liệu thống kê năm 2020
Qua Bảng 6 ta thấy, số lượng sinh viên đi làm công việc phù hợp với chuyên ngành (32,9%)
chưa bằng một nửa số lượng sinh viên đi làm công việc không phù hợp với chuyên ngành
(67,1%). Công việc làm thêm của sinh viên thường là phục vụ, phát tờ rơi, telesale, gia sư,…
mà ĐH Thương Mại là trường thuộc khối ngành kinh tế, nên những công việc làm thêm của
sinh viên chỉ có thể giúp các bạn nâng cao kỹ năng mềm, kỹ năng giao tiếp hoặc tạo dựng thêm
nhiều mối quan hệ chứ không giúp các bạn vận dụng các kiến thức học trên lớp vào công việc
làm thêm được.
Nhìn chung, sự phù hợp với chuyên ngành cũng có ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh
viên làm thêm, sinh viên làm việc đúng chuyên môn thì đỡ vất vả và kết quả học tập có chiều
hướng tốt hơn là làm công việc khác với chuyên ngành.
2.So sánh kết quả học tập của nhóm sinh viên đi làm thêm và nhóm sinh viên không đi
làm thêm
Dựa vào kết quả phiếu khảo sát ảnh hưởng của việc làm thêm dến kết quả học tập của sinh
viên trường đại học thương mại,ta có bảng so sánh như sau:
Bảng 1: Kết quả kiểm định sự khác nhau giữa điểm kết quả học tập giữa nhóm sinh viên đi làm
thêm và không đi làm thêm.
* Kết quả học tập trước khi đi làm thêm
Valid Frequency Percent Valid Cumulative
percent percent
Dưới 2 14 6,7 6,7 6,7
2-2,5 20 9,5 9,5 16,2
2,5-3 68 32,4 32,4 48,6
3-3,5 82 39,0 39,0 87,6
3,5-4 26 12,4 12,4 100,0
total 210 100,0 100,0
Trong những giờ học trên lớp, bạn nên gạt hết tất cả mọi chuyện ra khỏi đầu và chỉ tập
trung vào việc nghe giảng và nắm bài ngay trên lớp. Để làm được như vậy thì bản thân sinh
viên cần phải có ý thức tự giác và nhắc nhở bản thân. Việc chọn những vị trí ngồi gần với bục
giảng vừa có thể nghe rõ giáo viên giảng bài, nhìn rõ bảng, vừa hạn chế làm việc riêng và phân
tâm. Bên cạnh đó, bạn nên tích cực tham gia vào bài giảng như đặt các câu hỏi và phát biểu ý
kiến của mình để lôi kéo sự tập trung của bản thân vào bài giảng của thầy cô.
Sinh viên cũng nên giành thời gian với việc tự học để củng cố kiến thức. Để phát biểu tốt
thì bạn nên chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Bạn có thể đi đến thư viện hoặc các phòng tự học để
lên tinh thần và có không gian phù hợp để thôi thúc việc học của bản thân. Hoặc bạn cũng có
thể rủ thêm bạn bè học chung để nâng cao hiệu quả của việc học. Việc học nhóm sẽ giúp các
bạn có nhiều lợi ích khi bận việc không đến lớp thường xuyên và khó tập trung học. Nếu các
bạn học theo nhóm thì bạn sẽ được chia sẻ những kiến thức tiếp nhận của thành viên trong
nhóm đối với môn học đó, bạn sẽ dễ dàng mượn tập vở và tài liệu của môn học đó. Bên cạnh
đó, bạn có thể nhờ các bạn trong nhóm hướng dẫn lại bài học cho các bạn nếu bạn nghỉ học
hoặc tiếp thu bài không kịp. Và các bạn trong nhóm sẽ khuyên bạn nếu bạn trở nên mất tập
trung với bài học.
Tránh những công việc nặng nhọc, mất nhiều thời gian và phải thức khuya để dần dần cải
thiện tình trạng sức khỏe của mình. Cách tốt nhất là phòng bệnh hơn chữa bệnh, bổ sung dinh
dưỡng cho bản thân bằng cách ăn uống đủ chất, đủ bữa; ngủ đủ giấc từ 7-8 tiếng mỗi ngày để
tinh thần luôn tỉnh táo và sảng khoái để làm việc và học tập. Cố gắng giữ trạng thái và tâm lý
tốt khi làm việc.
Làm từ từ từng công việc theo kế hoạch đã định và khi quá mệt, hãy cho mình một bước lùi.
Hãy để não bộ của mình thư giãn và thoải mái thì mới có năng lượng cho các công việc tiếp
theo.
4.4 Sinh viên cần có một công việc làm thêm phù hợp với bản thân:
Các bạn nên lựa chọn những công việc mang tính chất bán thời gian hoặc tạm thời, liên
quan trực tiếp đến những gì đang học tại trường đại học, coi công việc đó chính là những bước
thực tập đầu tiên để chuẩn bị cho nghề nghiệp sau này. Qua đó, các bạn không chỉ có cơ hội
tích lũy được những kinh nghiệm đầu tay, mà còn đạt được một vị trí nào đó, bắt đầu những
mối quan hệ mà giá trị của nó là điều chính bạn cũng sẽ phải ngạc nhiên. Sinh viên nếu biết
chọn công việc làm thêm đúng với ngành học của mình sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ cọ xát
với nghề. Sau khi ra trường ít bỡ ngỡ trước môi trường mới và có khả năng được tuyển dụng
cao hơn. Đương nhiên, bạn có thể lựa chọn việc làm thêm mà bản thân bạn yêu thích, bất kể đó
là công việc gì. Đôi khi việc đi làm những công việc khác lại khiến bạn nhận ra được những ưu
điểm và nhược điểm của bản thân để qua đó rút ra các kinh nghiệm trong đời sống.
Nếu các bạn sinh viên đi làm thêm tích lũy kinh nghiệm là mục tiêu chính, các bạn
có thể tham gia hoạt động tình nguyện, các chương trình công chúng, hoặc các trung tâm xã hội
như: dạy thêm cho các em nhỏ hoàn cảnh khó khăn, tham gia tuyên truyền ngày lễ của trường,
của đất nước… Không ít sinh viên đã tích lũy được kinh nghiệm và có cơ hội việc làm tốt khi
ra trường nhờ vào các hoạt động đó.
4.5 Sinh viên cần đề phòng trước những cám dỗ trong cuộc sống:
Việc đi làm thêm cũng coi như là việc sinh viên bắt đầu bước chân vào đời và tiếp xúc với
xã hội thật sự. Tuy nhiên, thế giới này không phải luôn tràn ngập trong màu hồng, xã hội luôn
tồn tại những cám dỗ mà con người khó có thể cưỡng lại để rồi bị sa vào bẫy rập của cuộc đời,
đặc biệt là đối với những đối tượng mới vào đời như sinh viên. Vì thiếu kỹ năng, kinh nghiệm
nên đã có rất nhiều trường hợp sinh viên gặp rủi ro, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng khi đi
làm thêm. Sinh viên luôn cần phải đề phòng và cảnh giác trước những lời mời gọi, suy nghĩ
thật kĩ trước khi ra quyết định, kể cả trong công việc cũng cần phải thận trọng, không được
đánh mất lý trí.
Khi các bạn có ý định đi làm thêm trước tiên cần cân nhắc kỹ càng môi trường làm việc mà
mình sắp sửa đi làm. Không nên làm những công việc trong môi trường phức tạp hay môi
trường mập mờ đen tối, không phù hợp với lứa tuổi sinh viên. Cần tìm hiểu rõ địa chỉ, nguồn
gốc, nguồn gốc của công ty hay chỗ làm thêm trước khi quyết định làm công việc đó.
Để làm được như vậy thì sinh viên cần tham khảo và xin ý kiến tư vấn từ các anh chị đi
trước hay thầy cô, bạn bè trong trường, chia sẻ với những người xung quanh như bạn bè, bố mẹ
hay thầy cô. Không cần biết công việc làm thêm bạn đang làm là việc gì, bạn không cần sợ hãi
hay xấu hổ vì bạn làm từ chính công sức, đôi tay của bạn cho nên khi đi làm cần thông báo cho
gia đình, người thân biết rõ việc mình đang làm thêm để gia đình quan tâm, chia sẻ và thấu
hiểu. Không nên che giấu, nói dối về công việc làm thêm của mình. Như vậy thì những người
có kinh nghiệm về cuộc sống như bố mẹ hay thầy cô có thể đưa ra những lời khuyên hữu ích
cho bạn để giúp bạn né tránh những cạm bẫy. Thậm chí bạn bè của bạn cũng có thể đưa ra lời
khuyên, ở bên cạnh bạn để giữ bạn lại trước bạn thật sự bị sa vào những bẫy rập của cuộc đời
IV. Kết luận và đề xuất
1. Kết luận
Việc sinh viên đi làm thêm kiếm thu nhập và trau dồi kĩ năng, kiến thức thực tế cũng như kinh
nghiệm là không sai. Song qua nghiên cứu đề tài cho thấy có nhiều sự khác biệt về kết quả học
tập của sinh viên đi làm thêm và sinh viên không đi làm, sự thay đổi kết quả trước và sau khi đi
làm.
Nghiên cứu cũng cho thấy, việc đi làm thêm tác động lớn tới quỹ thời gian của nhiều sinh viên,
khiến sinh viên không có thời gian lên lớp, tự học… Bên cạnh đó còn ảnh hưởng tới sức khoẻ
của sinh viên bởi tính chất, áp lực công việc…
Nhận thấy những tác động tiêu cực mà nhiều sinh viên đi làm thêm gặp phải qua quá trình
nghiên cứu đề tài, nhóm chúng tôi đã đề xuất các giải pháp nhằm giúp sinh viên giải quyết vấn
đề thời gian, lựa chọn công việc phù hợp với ngành mà mình theo học, xây dựng phương pháp
học tập hợp lý, tham gia đầy đủ các buổi học trên lớp và các buổi thảo luận nhóm…
2. Đề xuất
Để cho những giải pháp cải thiện được kết quả học tập của sinh viên làm thêm nhanh chóng
được thực hiện tốt hơn thì nhóm nghiên cứu có những đề xuất đối với các bên hữu quan có
thể tạo điều kiện hỗ trợ cho sinh viên để họ áp dụng được những giải pháp một cách tốt
nhất. Cụ thể:
2.1 Đối với Trường Đại học Thương mại
Trường Đại học Thương mại nên thành lập một trung tâm hỗ trợ về công việc bán thời gian
cho sinh viên có nhu cầu đi làm thêm. Với tính pháp lý và uy tín của Trường sẽ được nhiều
đơn vị tuyển dụng lao động quan tâm và có nhiều chính sách ưu đãi hơn. Mặt khác, sinh
viên cũng sẽ yên tâm với công việc và nhà tuyển dụng vì qua đó sẽ hạn chế được sinh viên
bị lợi dụng hay lừa gạt.
2.2 Đối với Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
Các tổ chức đoàn thể và chi hội nên liên kết với các trung tâm xúc tiến việc làm thêm hoặc
các đơn vị có nhu cầu tuyển dụng để thông tin cho sinh viên có nhu cầu làm thêm.
Ngoài ra, để hạn chế những tác động tiêu cực của việc làm thêm đặc biệt là việc bị lừa hoặc
lợi dụng khi đi làm thêm thì Đoàn/ Hội nên có những buổi thảo luận trao đổi với các bạn
sinh viên về những hành vi này để các bạn có thể nhận biết và không vấp phải; tổ chức cũng
nên liện hệ với các tổ chức doanh nghiệp có nhu cầu về nhân viên thời vụ, làm thêm ngoài
giờ (ưu tiên cho sinh viên) để giúp các bạn sinh viên có nhu cầu làm thêm có được công
việc phù hợp mà không bị lừa gạt.
2.3 Đối với các đơn vị tuyển dụng lao động
Các đơn vị có nhu cầu tuyển dụng lao động nên liên kết với Trường Đại học Thương mại,
các khoa, liên kết với Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên để thông tin tuyển dụng và yêu cầu
công việc nhằm giúp sinh viên có được thông tin rõ ràng và tìm kiếm công việc phù hợp với
chuyên ngành của các bạn.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1."Ng.phạm tuyết anh, C. T. (2013). "Tác động của việc đi làm thêm tới kết quả học tập của trường đại học Cần
thơ. Cần Thơ.
2.Bratti, M. a. (2002). Student Time Allocation and Educational Production Functions, Conference paper at the
XIV annual EALE conference.
3.Chan, L. J. (1997). Momentum strategies. Journal of Finance 51, 1681-1713. ( chiến lược thời điểm).
4.Dalton, J. E. (2001). A Community Psychology: Linking Individuals and Communities. Belmont, California:
Wadsworth.
5.Đỗ Ngọc Cương, L. H. (2018). Thực trạng và biện pháp hỗ trợ sinh viên khoa thể dục thể thao, trường Đại học
Sư phạm Thái Nguyên lựa chọn việc làm thêm. Thái Nguyên.
7.Jaumotte, F. (2003). "FEMALE LABOUR FORCE PARTICIPATION: PAST TRENDS AND MAIN DETERMINANTS.
9.McKee, D. M. (2003). Part–Time Work During Post–Compulsory Education And Examination Performance:
Help Or Hindrance?
10.Moser, S. C. (2005). Impact assessments and policy responses to sea-level rise in three US states: An
exploration of human-dimension uncertainties.
11.Mussie T. Tessema1, K. J. (2014). Does Part-Time Job Affect College Students’ Satisfaction and Academic
Performance (GPA)? The Case of a Mid-Sized Public University.
12.NGUYỄN NGỌC TIẾN*, N. N. (2018). Đánh giá tình trạng việc làm của sinh viên hệ chính quy tốt nghiệp khoa
Kinh tế & Kế toán - Trường Đại học Quy Nhơn. Quy Nhơn.
13.Nguyễn Thị Thu An, N. T. (2016). Những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên trường đại
học kĩ thuật công nghiệp Cần Thơ. Cần Thơ.
14.Nguyễn Thị Thu An, N. T. (2016). Những nhân tố ảnh hưởng kết quả học tập của sinh viên năm I – II trường
Đại học Kỹ thuật- Công nghệ Cần Thơ. Cần Thơ.
15.Nguyễn Thùy Dung. (2017). Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên.
16.Nguyễn Văn Phong. (2015). Tiểu luận PPNCKH Nhu cầu viêc làm thêm của sv đại học THỦ DẦU Một. Bình
Dương.
17.Nguyễn Viết Lập, L. C. (2006). Ảnh hưởng của việc làm thêm đến hết quả học tập. TPHCM.
18.Nguyễn Viết Lập, L. C. (2006). Ảnh hưởng của việc làm thêm đến hết quả học tập .
19.Nhóm 8 lớp kế toán K09 trường Đại học Tây Nguyên. (2011). Tiểu luận khảo sát thực trạng làm thêm của
sinh viên đại học Tây Nguyên. Tây Nguyên.
20.Nhóm tác giả. (2015). Khảo sát thực trạng và nhu cầu làm thêm của sinh viên khoa Quản lý kinh doanh-
trường đại học Công nghiệp Hà Nội. Hà Nội.
21.PAUL R. ROSENBAUM, D. B. (1983). "The central role of the propensity score in observational.
22.PTS. Trần Thị Minh Đức, P. T. (1998). Sinh viên các trường đại học với việc làm thêm hiện nay.
23.Sinh viên-Huỳnh Quang Minh. (2002). Khảo sát những nhân tố ảnh hưởng kết quả học tập của sinh viên hệ
chính quy trường Đại học Nông lâm thành phố HCM. HCM.
24.ThS Đinh Thị Mỹ Lệ. (2017). Việc làm thêm có ảnh hưởng thế nào đối với sinh viên duy tân.
25.Trần Duy. (2005). Vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay.
26.Trần Thu Hương- khoa tâm lý học. (2000). Nữ sinh viên với việc làm thêm.
27.Triventi, M. (2014). Does working during higher education affect students’ academic progression?
28.Võ Thị Tâm. (2010). Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên chính quy trường Đại học Kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh. TPHCM.
29.Vương Quốc Duy, N. T. (2016). Đánh giá kết quả học tập của sinh viên đi làm thêm và sinh viên không đi làm
thêm ở các khoa của trường ĐH Cần Thơ. Cần Thơ.
30.Vương Quốc Duy, T. T. (2015). Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định làm thêm của sinh viên đại
học Cần Thơ. Cần Thơ.