You are on page 1of 22

Nội dung ôn tập môn Đại cương Văn hóa Việt Nam

Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa hai loại hình văn hóa gốc và lý giải nguyên
nhân?

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đ1o là tiêu chí quan
trọn để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi
dân tộc dù phong phú và đa dạng đếm mấy cũng đều có nguốn gốc xuất phát từ
một trong hai loại hình văn háo gốc là văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa
gốc nông nghiệp trồng trọt.

Giữa hai loại hình văn háo gốc này có sự khác nhau như sau:

Về điều kiện tự nhiên và môi trường:

Loại hình văn háo gốc chăn nuôi du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình củ
yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề
truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi. Trong khi loại hình văn
háo gốc nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương Đông gồm Chấu Á và
Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sông lớn, những
vùng đồng bằng trù phú, phì nhiên thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển.

Về đặc điểm:

Loại hình văn hóa phương Tây do loại hình chăn nuối gia súc đòi hỏi phải sống du
cư, nay đây mai đó lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại. còn loại
hình văn háo phương Đông, do nghề trồng trọt buộc con người phải sống định cư,
phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng
tĩnh, hướng nội.

Loại hình văn hóa phương tây vỉ luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục
không phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên nhiên và có
tham vọng chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn háo phương
Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất tôn trọng và
sùng bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
Vì sống du cư nên tính gắng kết cộng đồng của dân du mục không cao, đề cao tính
cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc
đoán trong tiếp nhận, cứng rắn trong đối phó. Trong khi loại hình văn hóa phương
Đông lại đề cao tính cộng đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên,
buộc cư dân phải sống định cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.

Do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh để bảo vệ dân cư trong bộ tộc chống lại
sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên người đàn ông có vai trò quan trọng, tư
tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới của loại hình văn hóa phương Tây khác với
loại hình văn hóa phương Đông lại trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ, vai
trò của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong gia
đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làm các công việc đồng án.

Loại hình văn hóa phương Tây thiên về tư duy phân tích, coi trọng vai trò của các
yếu tố khách quan, nhề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân,
đối tượng tếp xúc hành ngày là đàn gia súc. Còn loại hình van hóa phương Đông
thì thiên về tư duy tổng hợp – biện chứng, coi trọng các mối qua hệ, thiên về kinh
nghiệm chủ quan cảm tính hơn là coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm
do trồng trọt của cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…

Loại hình văn hóa phương Tây có lối sống trọng lí, ứng cxử theo nguyên tắc, thói
quen tôn trọng pháp luật khác với loại hình văn hóa phương Đông do cuộc sống
cộng đồng, gắn kết với nhau nên sống trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh
hoạt.

Trên đây là sự khác biệt đặc trưng của hai loại hình văn hóa gốc, mỗi loại hình văn
hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó.

Câu 2: Hãy chứng minh rằng Văn hóa Việt Nam thuôc loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt điển hình?

Do Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí địa
lí, tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng
ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng
đồng bằng phù sa màu mỡ là điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa
nước nên văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp điển hình.

Người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định, không thích sự di chuyển, thay đổi,
tình cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… nên hình thành lối sống tự
trị, kép kín, hướng nội.

Do cư dân Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên, luôn
mong muốn mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ “Lạy trời, ơn trời…”, có
nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên vì vậy phổ biến ở các tộc người trên
khắp mọi miền đất nước.

Cuộc sống định cư tạo cho người Việt có tiinh1 gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ
vai trò cá nhân: “Bán anh em xa mua láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ
cỏ”

Lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử
nhiều hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực.

Cuộc sống định cư ổn định của nghề nông nghiệp trồng trọt cần đến vai trò chăm
lo thú vén của người phụ nữ, vai trò của người phụ nự được tôn trọng và đề cao.

Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng
thể hiện rõ trong văn hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm
chủ quan hơn là cơ sở khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ
quan, cảm tính kêt hợp lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy
tiện.

Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm
dẻo, linh hoạt.

Như vậy, loại hình văn hóa Việt Nam được xem là loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ nét trong cách tổ chức đời sống
phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt và được xem là nét đặc trưng trong
văn hóa Việt Nam.

Câu 3: Hãy chỉ ra khả năng của người Việt trong việc tận dụng và ứng phó với môi
trường tự nhiên thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất?

Lĩnh vực văn hóa vật chất được hể hiện qua 4 nội dung chính sau:

-Văn hóa sản xuất vật chất.

-Văn hóa ẩm thực.


-Văn hóa trang phục.

-Văn hóa đi lại.

Trong văn hóa sản xuất vật chất, người Việt đã biết tận dụng và ứng phó với môi
trường tự nhiên. Từ điều kiện tự nhiên nóng ẩm, mưa nhiều… thuận lợi phát triển
nghề nông trồng lúa nước và giữa vị trí chủ đạo, chi phối toàn bộ nền kinh tế của
XH VN truyền thống. Quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, chinh phục đầm
lầy, lấn biển, đắp đê chống lụt… đã trở thành những vùng đồng bằng Bắc bộ, Bắc
Trung bộ và Nam bộ để chuyên canh lúa nước. Ngoài ra, với điều kiện tự nhiện
thuận lợi, người Việt còn tận dụng để trồng các loại cây cho củ, cho quả, cho lá
cây, cho sợi để làm các nghề thủ công… Tận dụng điều kiện tự nhiên để chăn nuôi
các loại gia súc, gia cầm, các nguồn lợi thủy hải sản từ tự nhiên.

Trong văn hóa ẩm thực: Hai yếu tố có tính trội chi phối đến văn hóa vật chất của
người Việt là tính chất sông nước và thực vật. Sự chi phối của hai yếu tố tự nhiên
này được thể hiện trước hết trong việc lựa chọn cơ cấu một bữa ăn truyền thống
với 3 thành phần chính: cơm – rau – cá. Cơm được làm từ gạo, đứng vị trí đầu tiên
trong bữa ăn “Người sống vì gạo, các bạo vì nước”, bữa ăn của người Việt gọi là
bữa cơm. Người Việt không chỉ tận dụng cây lúa thành gạo để nấu cơm mà còn
biết tận dụng từ gạo để làm bún và làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng… Gạo
nếp dùng làm xôi, làm bánh mặn, bánh ngọt… Thành phần thứ hai trong cơ cấu
bữa ăn người Việt là rau quả. Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió
mùa, nông nghiệp lại là ngành kinh tế chủ yếu nên rau quả vô cùng phong phú.
Việc dùng rau trong cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dùng môi trường tự nhiên
của người Việt. Người Việt thường hay nói “Đói ăn rau, đau uống thuốc”, “Ăn cơm
không rau như đánh nhau không có người gỡ”, “Ăn cơm không rau như người giàu
chết không kèn trống”. Rau quả đặc thù trong cơ cấu bữa ăn là rau muống và dưa
cà: “Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”. Cà và dưa
cà, dưa cải là những món ăn hợp thời tiết, được người Việt ưa thích và thường
được dự trữ để ăn thường xuyên: “có dưa chừa rau”, “có cà thì tha gắp mắm”, “thịt
cá là hoa, tương cà là gia bản”. Bên cạnh các loại rau quả là thành phần chính trong
cơ cấu bữa ăn còn có những loại rau quả dùng làm gia vị như: hành, gừng, ớt, tỏi,
rau răm, rau diếp cá… Gia vị cũng là thành phần không thể thiếu trong bữa ăn của
người Việt. Thành phần thứ ba trong bữa ăn của người Việt là cá. Việt Nam có phía
Đông giáp với biển Đông lài có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng các
trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt.
Cá đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong bảng các loại thức ăn thủy
sản (so với tôm, cua, mực…). Người Việt thường nói: “Cơm với cá như má với
con”. “Có cá đổ vạ cho cơm”, “con cá đành ngã bát cơm”. Người Việt còn tận
dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm và
mắm các loại: nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm sét, các loại nước mắm nổi tiếng:
Nghệ An, Phan Thiết, Phú Quốc. Thực phẩm được chế biến từ thủy sản cũng rất đa
dạng: nấu chin, ướp mắm, phơi khô. Chế biến cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho,
luộc, nướng, gỏi… Văn hóa ẩm thực của người Việt thể hiện ở việc ăn uống theo
mùa, theo vùng miền. Đó là biểu hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự
nhiên, thích nghi với nền kinh tế tự cung tự cấp.

Trong văn hóa trang phục, người Việt biết tận dụng các điều kiện tự nhiên chọn các
màu sắc trang phục phù hợp với môi trường sông nước như màu nâu, màu đen…,
có ý thức làm đẹp. Người Việt sử dụng các chất liệu may mặc có sẵn trong tự
nhiên, mang đậm dấu ấn nông nghiệp trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chọn các chất
liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như tơ tằm, sợi bông, sợi đay… trang phục của phụ nữ:
váy, yếm, áo tứ thân, áo dài, quần lĩnh… Ngoài ra chiếc nón là phần không thể
thiếu trong trang phục phụ nữ được tận dụng để che mưa, che nắng. Trang phục
của nam giới: áo cánh, quần ống rộng để phù hợp với khí hậu nóng bức và công
việc đồng áng.

Văn hóa ở và đi lại: Văn hóa ở – Tận dụng điều kiện tự nhiên, có sẵn trong tự
nhiên người Việt xây nhà bằng các chất liệu như gỗ, tre, nứa, rơm rạ… Kiến trúc
nhà mang dấn ấn của vùng sông nước, lá nhà sàn thích hợp cho cả miền sông nước
lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường. Không gian nhà
là không gian mở, có cửa rộng thoáng mát và giao hợp với thiên nhiên. Trong quan
niện về kiến trúc, xây nhà, dựng cửa: người Việt biết chọn hướng nhà, chọn đất,
tránh hướng gió độc, đó lấy hướng mặt trời, hay xây dựng nhà cửa gần sông suối
để tiện nước sinh hoạt (“nhất cận thị, nhị cận giang”), trồng trọt. Một điểm đặc biệt
trong kiến trúc nhà cửa là các kiến trúc đều thuận theo phong thủy. Đó là sự hài
hòa giữa thề đất, thế núi, ngồn nước… Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc
thành quách như thành Thăn Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế… hay trong
thuyết tam tài của người dân: “thiên-địa-nhân”.

Văn hóa đi lại: do điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhiều sông ngòi…tận dụng sông
nước nên phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là thuyền, ghe, đò, xuồng…

Tóm lại, ăm mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tiết thân của con người nhưng cũng
đồng thời thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người với môi trường tự nhiên. Thể
hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời thể hiện khả
năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt với môi trường tự nhiên vùng sông
nước và xứ sở thực vật.

Câu 4: Hãy phân tích thái độ ứng xử văn hóa của người Việt với môi trường xã hội
thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất?

Câu 5: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữ thuyết âm dương – ngũ hành với sự hình thành
các triết lí sống của người Việt?

Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyế âm dương – ngũ hành, đây là hệ
tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của
vạn vật trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người.
Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại các
cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về
sự đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ sở để thuyết
âm dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở
thành cơ sở nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền
bá cho thế hệ sau thể hiện qua các mối liên hệ với:

Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí về sự cân xứng, cặp đôi:
trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương ứng,
cân bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp qui luật. Các
cặp âm dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất,
đất/nước…

Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương: từ
triết lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân bằng,
hài hòa âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống
theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời
việc làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong quan hệ với người khác để
không làm mất lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với những gì
mình đang có, không hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan.
Mối quan hệ giữa âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt: do
nhận thức được qui luật bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt
thường có cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong
hỏa có phúc, nhận thức được qui luật chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện
chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ hành giúp cho con người có một triết lý
sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng và
an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng.

Câu 6: Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam và vai trò của Phật giáo đối với đời sống
văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay?

Phật giáo là một trong ba luồng tư tưởng nổi bật của tư tưởng và tôn giáo thời Đại
Việt và cho đến ngày nay. Vào những thế kỉ đầu thời kì Đại Việt, phật giáo phát
triển rất nhanh và đạt tối cực thịnh vào thời Lý – Trần và được xem là quốc giáo
với những đặc điềm nổi bật như sau:

Tính nhập thế: Giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh, luôn
đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia các
hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gai đào tạo tri thức, nhiều nhà
sư đồng thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo
được người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.

Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối
đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam:

-Dung hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa:
dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ
Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ địa…

-Dung hợp giữa các tong phái Phật giáo.

-Dung hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung
cho nhau để cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.

Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín
ngưỡng và văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng
ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo
đã thấm sâu vào triết lí sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng
thiện, nơi an cư của tâm hồn là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn
chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử từ lâu. “Mái chùa che chở hồn
dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”.

Và đến ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn
giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu tôn
giáo thì hiện nay Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm đến
10% dân số. Hiện nay, số lượng người đi chùa ngày càng đông, có niềm tin vào
thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, mồng một, có treo ảnh phật
và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật giáo trong đời
sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.

Câu 7: Ứng xử của người Việt với Nho giáo và vai trò của Nho giáo đối với đời
sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay?

Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và đến thế kỉ XV, Nho giáo
được xem là đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo.
Các triều đại phong kiến Đại Việt lấy Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tư
tưởng, đạo đức, giáo dục, pháp luật, qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con
người. Tuy nhiên do sự phân phối của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã
được người Việt tiếp nhận và vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt:

Nếu Nho giáo Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung quân, quyền lực của nhà
vua được đế cao tuyệt đối thì Nho giáo Việt Nam tuy vẫn đề cao tư tưởng này
nhưng không cực đoan đến mức phải hy sinh tính mạng vì vua, quan niệm trung
quan của người Việt gắn liền với ái quốc, trong nhiều trường hợp nước còn được
đề cao hơn vua. Người Việt đề cao tinh thần yêu nước, thương dân, lấy dân làm
gốc.

Các khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa đã bị khúc xạ qua lăng kính
của người Việt, nó không chỉ là một khái niện hạn hẹp về đạo đứcmà nó còn trở
thành một lý tưởng xã hội cao đẹp vì cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân
– “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” trong Cáo bình Ngô của Nuyễn Trãi.

Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi vào Việt Nam cũng nhẹ bớt đi bởi
truyền thống trọng phụ nữa có trong văn hóa bản địa.

Mặc dù, không thể phủ nhận một thực tế rằng trong gần 10 thế kỉ xây dựng và
củng cố nhà nước phong kiến nho giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng chi phối về
mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, thấy được vai trò của Nho giáo trong đời
sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt:

-Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ sở pháp lý để
quản lý, duy trì dự ổn định của xã hội dựa trên các mối quan hệ cộng đồng xã hội
và gia đình theo quan niệm tam cương, ngũ thường.

-Xây dựng nền tảng đạo đức, củng cố các mối quan hệ gia đình theo thứ bậc, kỹ
cương của giáo lý nho giáo, xác lập chuẩn mực đạo đức để xây dựng mô hình nhân
con người Việt Nam truyền thống với các tiêu chí: đạt đức, đạt đạo.

-Ngoài ra, nho giáo đã chi phối trực tiếp và toàn diện hệ thống giáo dục, thi cử
truyền thống, từ mục đích đến nội dung và phương pháp giáo duc.

Câu 8: Đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với giáo dục
Việt Nam hiện nay?

Nền giáo dục Việt Nam truyền thống được xây dựng theo mô hình của nền giáo
dục Nho giáo với các đặc điểm sau:

Mục đích giáo dục: đào tạo ra người quân tử, những người để làm quan trị nước,
giáo dục nho giáo rất đề cao vinh quan của người đỗ đạt với các tục lệ như tục
xướng danh, tục ban áo mão và đãi yến tiệc, tục vinh qui bái tổ, khắc bia tiến sĩ ở
Văn Miếu để lưu danh thiên cổ…

Nội dung giáo dục: không truyền thụ tri thức khoa học mà coi trọng việc giáo dục
tư tưởng, đạo đức, lễ giáo để đào tạo nên mẫu người quân tử hiểu biết về thi, thư,
lễ nhạc, có đủ phẩm chất để làm quan cai trị thiên hạ, các nội dung ấy được thể
hiện trong hai bộ sách kinh điển của Nho giáo: tứ thư và ngũ kinh.

Về phương pháp truyền thụ tri thức: coi trọng việc ghi nhớ máy móc các tư tưởng
của Khổng Mạnh, các lời dạy của thánh hiền, các nội dung trong hai bộ sách kinh
điển và được thầu giáo truyền thụ hần như nguyên vẹn, máy móc “Nhất tự vi sư,
bán tự vi sư”.

Những đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo đã tạo nên truyền thống hiếu học và
tôn sư trọng đạo của người Việt Nam, tuy nhiên quan niệm và phương pháp giáo
dục của nho giáo cũng đã để lại những “di chứng” rất nặng nề cho nền giáo dục
của Việt Nam hiện nay – coi trọng con đường lập thân bằng học vấn, học để làm
thầy chứ không làm thợ, nội dung và phương pháp học nặng về lý thuyết, học vẹt,
thầy đọc trò chép…

Câu 9: Hãy chỉ ra cơ sở hình thành, biểu hiện của tính cộng đồng và tác động hai
mặtcủa nó đến cách tư duy, ứng xử của người Việt. Sưu tầm những câu thành ngữ,
tục ngữ nói về tính cộng đồng của người Việt?

Lối sống định cư của cư dân nông nghiệp trồng trọt đã hình thành nên tính cộng
đồng như là một đặc trưng tiên biểu của văn hóa làng. Tính cộng đồng là sự liên
kết, gắn bó chặt chẽ giữa các gia đình, gia tộc, giữa các thành viên trong làng với
nhau.

Cơ sở hình thành tính cộng đồng:

Tính cộng đồng của văn hóa làng Việt được hình thành trên nền tảng của hai mối
quan hệ: láng giềng và huyết thống.

-Quan niệm láng giềng: do phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đòi hỏi
phải định cư, quần tụ thành làng, từ đó hình thành mối quan hệ láng giềng gắn bó.

+Bán an hem xa mua láng giềng gần.

-Quan hệ huyết thống: làng Việt được hình thành trên cơ sở của sự quần tụ các gia
đình có cùng huyết thống, gắn bó, cưu mang, đùm bọc nhau cà về vật chất lẫn tinh
thần.

+Sẩy cha có chú, sẩy mẹ bú dì.

+Chị ngã em nâng.

+Một người làm quan cả họ được nhờ.

Biểu hiện của tính cộng đồng:

Về kinh tế: gắn kết với nhau về kinh tế giữa các thành viên trong làng xã, luôn
tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, chống thiên tai, hạn hán, lũ lụt, khi
đói rét, mất mùa…

+Một miếng khi đói bằng một gói khi mua.


+Lá lành đùm lá rách.

Về tình cảm: luôn giúp đỡ nhau khi có khó khăn, hoạn nạn, khi vui, kkhi buồn.

+Một con ngựa đau cà tàu bỏ cỏ.

+Bầu ơi thương lấy bí cùng.

Về phong tục, tín ngưỡng: có chung phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cùng thờ
chung một vị thần của làng (thành hoàng), cùng tham gia các hội hè, đình đám…
đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích ca nhân.

Về pháp luật: có qui ước. luât tục riêng của làng, mỗi thành viên trong cộng đồng
không được pháp luật công nhận với tư cách cá nhân, mà bị hòa tan trong cái
chung của cộng đồng, làng xã.

+Một người làm quan cả họ được nhờ.

+Phúc cùng hưởng, họa cùng chia.

Ý thức cộng đồng đã tạo nên một chất keo gắn bó các thành viên trong làng, khiến
cho làng trở thành một đơn vị cố kết chặt chẽ. Tính cộng đồng được hình thành
trên nền tảng của văn háo làng cũng chính là cơ sở để hình thành tinh thần đoàn kết
dân tộc như một giá trị tinh thần truyền thống quí báu của dân tộc ta.

Tác động hai mặt của tính cộng đồng đến lối sống, cách tư duy và ứng xử của
người Việt

+Tác động tích cực:

Tạo nên nếp sống dân chủ bình đẳng, và tính tập thể hòa đồng “Một con ngựa đau
cả tàu bỏ cỏ”.

Tạo nên sự gắn bó, đoàn kết tương trợ, cưu mang đùm bọc lẫn nhau, là cơ sở tạo
nên lối sống trọng tình – một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt: “Chị
ngã em nâng”, “Lá lành đùm là rách”.

+Tác động tiêu cực:

Tạo nên tư tưởng bè phái.

Thói dựa dẫm, ỉ lại vào người khác -> tư tưởng cầu an, cả nể, sợ va chạm, sợ mất
lòng nhau.

Thói cào bằng, đố kị, thủ tiêu ý thức về con người cá nhân, tu tưởng bình quân chủ
nghĩa.

Trọng tình, cả nể là nguyên nhân tạo nên lối ứng xử đặt tình cao hơn lí.

Câu 10: Hãy chỉ ra cơ sở hình thành, biểu hiện của tính tự trị và tác động hai mặt
của nó đến cách tư duy, ứng xử của người Việt. Sưu tầm những câu thành ngữ, tục
ngữ nói về tính tự trị của người Việt?

Nếu tính cộng đồng là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên trong làng
với nhau thì tính tự trị lại là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng
khác.

Do tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi làng là một đơn vị độc lập, khép kín,
co cụm lại trong không gian khá biệt lập của mỗi làng, tạo nên tính chất tự trị, khép
kín như một đặc trưng nổi bật của văn hóa làng.

Cơ sở hình thành tính tự trị:

Phương thức sản xuất nông nghiệp trồng trọt ở định cư và nền kinh tế tiểu nông tự
túc tự cấp là nguyên nhân tạo nên lối sống khép kín, tự trị, hướng nội của văn hóa
làng.

Biểu hiện của tính tự trị:

Về không gian địa lý: cư dân mỗi làng sống quần tụ trong một không gian khá biệt
lập, bao quanh làng là lũy tre và cổng làng, mỗi làng như một vương quốc nhỏ
khép kín, làng nào làng ấy biết.

Về kinh tế: mỗi làng tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, có khả năng tự túc tự
cấp nên không có nhu cầu quan hệ giao thương với bên ngoài.

Về mặt hành chính: mỗi làng có một đơn vị hành chính tự quản độc lập, có vai trò
và chức năng giải quyết mọi việc trong làng. Bộ máy hành chính của mỗi làng
gồm: Hội đồng kì mục (có chức năng như bộ phận lập pháp), lý dịch (có chức năng
như bộ phận hành pháp), lệ làng – hương ước là luật lệ của làng.

Về tình cảm: các thành viên trong làng đều có quan hệ họ hàng nên quan hệ giao
lưu tình cảm cũng tự đầy đủ, khép kín trong phạm vi làng.

Về tín ngưỡng: mỗi làng đều có thành hoàng là vị thần bảo trợ cho dân làng, có hội
hè, đình đám riêng của mỗi làng.

Sự độc lập về không gian địa lí, về kinh tế, về bộ máy hành chính, về tình cảm,
phong tục, tin ngưỡng đã khiến cho mỗi làng tồn tại như một vương quốc nhỏ,
khép kín khá biệt lập với làng khác và cũng thể hiện chức năng tự quản trong quan
hệ với nhà nước.

Tác động:

+Tác động tích cực:

Tạo nên ý thức độc lập, tự chủ.

Tinh thần tự lực, tự cường, đức tính cần cù, chịu khó, tiết kiệm.

+Tác động tiêu cực:

Tính tự trị làng xã là cơ sỡ hình thành tư tưởng tiểu nông tư hữu, ích kỉ.

Tư tưởng bè phái, địa phương cục bộ, bảo thủ.

Tính gia trưởng, tôn ti, lối sống kiểu gia đình chủ nghĩa.

Tính tự trị của làng xã tạo nên lối tư duy hướng nội, bảo thủ, trí tuệ, tâm lí không
thích sự thay đổi.

Câu 11: Hãy phân tích sự hình thành văn hóa trọng tình, biểu hiện và tác động hai
mặt của nó đến cách tư duy, ứng xử của người Việt. Sưu tầm những câu thành ngữ,
tục ngữ nói về lối sống trọng tình của người Việt?

Câu 12: Hãy chỉ ra và phân tích mối liên hệ gia đình (nhà) – làng – nước trong văn
hóa tổ chức xã hội của người Việt?

Văn hóa tổ chức xã hội là những yếu tố văn hóa được thể hiện qua việc tổ chức các
cộng đồng làm nên xã hội. trong xã hội Việt Nam truyền thống, do sự chi phối bởi
phương thức sản xuất nông nghiệp tiểu nông nên các đơn vị tổ chức chủ yếu bao
gồm: gia đình – làng xã – quốc gia.

Về đặc điểm:
Gia đình là một tế bào của xã hội, là một đơn vị của tổ chức làng xã. Cách thức tổ
chức gia đình với tư cách là một tế bào xã hội, và sự ứng xử của văn hóa gia đình
cũng là một bộ phận của văn hóa xã hội. Gia đình Việt Nam thường co nhiều thế hệ
chung sống, bị chi phối bởi lối sống nông nghiệp và quan niệm nho giáo. Văn hóa
gia đình thể hiện tính cộng đồng, gia đình thường có ba, bốn thế hệ cùng chung
sống trong một nhà và tính gắn kết các thành viên trong gia đình rất bền chặt.
Trong phong tục, tín ngưỡng gia đình coi trọng việc thờ cúng tổ tiên.

Làng là sự mở rộng của gia đình, cư dân trong làng sống quần tụ trng một không
gian khép kín, khá biệt lập của mỗi làng. Dân sư trong làng luôn tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Cả làng cùng có chung phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, cùng thờ chung một vị thần của làng, cùng tham gia các hội hè, đình
đám.

Nước: là sự mở rộng của làng xã, chỉ khác nhau về tính tổ chức chặt chẽ và qui cũ.
Dân cư trong một nước như an hem một nhà, gắn bó máu thịt với nhau, giúp đỡ lẫn
nhau.

Về tổ chức

Trong gia đình, tổ chức gia đình theo chế độ phụ quyền, con cái mang họ bố, người
bố có uy quyền tuyệt đối và chịu trách nhiệm chính trong gia đình về mọi mặt, con
trai được thừa kế tài sản và có nhiệm vị thờ cúng tổ tiên. Trật tự của mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình tuân theo tôn ti, thứ bậc chặt chẽ theo giáo lý
của nho giáo.

Trong làng xã: mỗi làng có bộ máy hành chính tự quản độc lập, có vai trò và chức
năng giải quyết mọi việc trong làng, có bộ phận hành pháp. Quản lý xã hội chủ yếu
bằng luậ tục, hương ước nên từ đây đã hình thành ý thức không tôn trọng pháp
luật: phép vua thua lệ làng.

Nhà nước phong kiến Đại Việt được tổ chức theo mô hình nhà nước Trung Hoa
kiểu nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, đứng đầu nước là nhà vua, có
quyền lực tuyệt đối. Cơ cấu bộ máy nhà nước gồm các tầng lớp: vua – quan lại –
dân. Tuy nhiên nhà nước phong kiến Đại Việt có truyền thống dân chủ hơn. Vua
được quan niện như bố mẹ của dân, rất gần dân, chăm lo cho dân, dân chủ còn bộc
lộ qua truyền thống lãnh đạo tập thể, việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại
của nhà nước… Quản lý xã hội bằng pháp trị kết hợp với đức trị.

Câu 13: Hãy chỉ ra và phân tích những đặc trưng của văn hóa truyền thống đã chi
phối đến thái độ ứng xử đối với pháp luật của người Việt xưa và nay? Sưu tầm
những câu thành ngữ, tục ngữ nói về thái độ ứng xử với pháp luật của người Việt?

Những đặc trưng của văn hóa truyền thống đã chi phối đến thái độ ứng xử đối với
pháp luật của người Việt:

Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đã chi phối đến thái độ ứng xử pháp
luật ở tính cộng đồng: cuộc sống định cư đã tạo cho cư dân nông nghiệp tính gắn
kết cộng động cao, lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Lối tư duy tổng hợp tạo nên
thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt…

Câu 1. Hãy giải thích ý kiến: “Văn hoá là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất
cả, là cái vẫn còn thiếu khi người ta đã học tất cả” (Edouard Herriot).
Đây là ý kiến của Edouard, một cố nghị trưởng Pháp, mà câu nói đầy đủ là: “Văn hóa, đó
là cái còn lại khi người ta đã quên hết cả, đó là cái vẫn thiếu khi người ta đã học đủ cả”

Thoạt nghe, câu nói có vẻ nghịch lí: văn hóa là cái còn lại, là cái vẫn thiếu, không tùy
thuộc những gì nhớ được, những gì học được. Tại sao vậy?

Ta hãy giải thích vấn đề trên.

Trau dồi văn hóa và quan niệm đúng đắn về cách học

Văn là vẻ đẹp, hóa là biến đổi (cho tốt hơn). Văn hóa là tất cả những thành tựu về vật chất
và tinh thần của con người từ thời công xã nguyên thủy cho đến thời đại ngày nay (đặc
biệt là những thành tựu về tư tưởng văn học, nghệ thuật, khoa học).

Văn hóa vừa mang tính cộng đồng dân tộc, nhân loại, vừa bao hàm ý nghĩa đối với cá
nhản, ở mỗi con người, đó là sự tiếp thu, rèn luyện và phát triển trí thức đạo đức Muốn
thế, con người phải học tập. Nói con người có văn hóa là con người có tri thức và nhân
cách.

Tiếng Pháp gọi văn hóa là “culture”, có cùng nghĩa với sự trồng trọt; người có văn hóa
được chăm lo trí tuệ để cống hiến cho đời, như cây trồng được vun xới sẽ ra hoa, kết quả.

Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên tất cả.

Văn hóa có mục đích đào tạo con người theo mẫu mực tốt đẹp. Ta không chỉ tiếp thu
những điều đã học mà phải chủ động suy nghi, tích cực vận động, biến nó thành tri thức
của mình. “Những con ong hút nhụy hoa để tạo thành mật, mật đó được gọi là mật ong"
nói lên ý nghĩa đó.

Cho nên ta có thể quên những điều đã học, nhưng vẫn còn lại trong trí óc một cách nhận
thức, một phương pháp suy luận để vận dụng vào cuộc sống, phát triển và sáng tạo.
Chẳng hạn. ta có thể quên mọi bài toán, công thức, định lí đã học, nhưng toán học vẫn
giúp ta phân tích, suy luận giải quyết những vấn đề của cuộc sống.

Có thể hiểu câu nói như sau: Sự trau đổi văn hóa, việc học chân chính không tùy thuộc
cái người ta “có” mà thuộc cái người ta “thành”. “Có” ta sẽ quên, nhưng “thành” sẽ còn
mãi trong ta.

Phê phán quan niệm sai lệch về cách học

Văn hóa không phải là những kiến thức tích lũy trong trí nhớ con người. Sự trau dồi văn
hóa - sự học - không có nghĩa cố nhồi nhét cho thật nhiều

kiến thức, rồi lặp lại như con vẹt. Không phải cứ có trí nhớ giỏi, có kí ức mạnh là thành
dạt.

Cách học đó thật phù phiếm, đôi khi có thể làm cho con người trở nên lệch lạc, kiêu
ngạo. Tưởng nhớ nhiều là hơn người, buộc người khác kính phục mình: thật ra mớ ngôn
ngữ thuộc lòng, thái độ hợm mình đó chỉ làm cho người khác khó chịu, xem thường.

Chỉ nhớ đều đã học, lặp lại kiến thức đã học sẽ làm cho mình dần dần trở nên nô lệ
sách,vở trở thành mọt sách, không còn khả năng độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Câu nói “quá
tin vào sách, chẳng thà không có sách” của người xưa đã cảnh giác ta điều đó.

Tuy nhiên, ý kiến phê phán cách học nhồi nhét, lệch lạc trên hoàn toàn không phủ nhận
cái học sách vở. Cái học từ sách vở xưa nay vẫn là một cách học hữu hiệu để trau dồi văn
hóa, phát triển nhân cách và tài năng, miễn là theo phương pháp chủ động, tích cực như
đã trình bày.

Tóm tắt: Câu nói trên bác bỏ quan niệm trau dồi văn hóa một cách thụ động, nhồi nhét và
khẳng định quan niệm chủ động học tập, rèn luyện văn hóa.

Mở rộng: Việc học trong nhà trường phổ thông hiện nay vẫn nhiều lí thuyết, ít thực hành,
nặng thuyết giảng, nhẹ vận dụng. Cho nên, ta cần học tập, rèn luyện tri thức một cách chủ
động, tích cực hơn.

Câu 2. Từ bản chất, đặc trưng và chức năng của văn hoá, hãy lý giải vì sao văn
hoá được coi là nền tảng, là nội lực của sự phát triển?
VĂN HÓA LÀ NỀN TẢNG TINH THẦN XÃ HỘI, VỪA LÀ MỤC TIÊU VỪA LÀ
ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY KINH TẾ XÃ HỘI PHÁT TRIỂN

1.Văn hoá là nền tảng tinh thần

1.1. Khái niệm văn hoá là nền tảng tinh thần có từ NQTW 4 Ngày 14/1/1993 (khoá VII)
Đây là lần đầu tiên, Đảng ta ra một NQ riêng về văn hoá. Tên NQ: “Về một số nhiệm vụ
văn hoá văn nghệ những năm trước mắt”, đến văn kiện ĐH VIII và NQ TW5 (khoá VIII)
nhắc lại. Theo đó, văn hoá thuộc lĩnh vực tinh thần, là nền tảng tinh thần. Đây là một
quan điểm quan trọng của Đảng ta về văn hoá, nằm trong quan điểm về đổi mới, trước
hết là đổi mới tư duy. Quan điểm này chỉ rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hoá.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát
triển và bản lĩnh của một dân tộc. Văn hoá có mối quan hệ thống nhất biện chứng với
kinh tế, chính trị. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn
hoá. Trong mỗi chính sách kinh tế - xã hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hoá.
Văn hoá có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn nhân lực quyết
định sự phát triển xã hội.

Trong xã hội có 2 nền tảng: nền tảng vật chất (kinh tế) và nền tảng tinh thần (văn hoá).
Hai nền tảng này bổ sung cho nhau, cùng phát triển.

Trong mỗi cá nhân con người, có đời sống vật chất chưa đủ (mới chỉ đáp ứng được phần
“con” (ăn, mặc, ở đi lại và những nhu cầu sinh học) mà phải có đời sống tinh thần. Không
có nền tảng vật chất, con người không thể tồn tại như một sinh thể, nhưng không có nền
tảng tinh thần thì con người cũng không thể tồn tại như một nhân cách văn hoá. Có thể ví
như: vật chất quyết định sự tồn tại của phần “con”, tinh thần quyết định sự tồn tại của
phần “người”.

Trong một xã hội cũng vậy, có nền tảng vật chất chưa đủ, phải có nền tảng tinh thần mới
có thể trở thành cộng đồng được. Nền tảng tinh thần có sức mạnh ghê gớm (sức mạnh
của niềm tin tôn giáo - thánh chiến, tử vì đạo của cả một cộng đồng). Đó cũng chính là hệ
giá trị, là hòn đá tảng của văn hoá.

NQTW5 đã nêu lên khái niệm văn hoá trong một nội hàm rộng, bao quát đời sống tinh
thần nói chung, tập trung vào những lĩnh vực lớn: tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục
tập quán, giáo dục và khoa học, văn hoá nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hoá
với thế giới, các thể chế và thiết chế văn hoá…

Con người vừa là chủ thể của sự sáng tạo văn hóa vừa là sản phẩm của văn hóa. Trong
quá trình vận động và phát triển, các quốc gia đều xây dựng và phát triển các giá trị văn
hóa của dân tộc mình, bảo lưu và truyền đạt cho các thế hệ tiếp nối, tạo thành một dòng
chảy liên tục của lịch sử văn hóa dân tộc. Các giá trị văn hóa này được kết tinh ở truyền
thống văn hóa dân tộc và được biểu hiện sinh động ở các giá trị văn hoá vật thể, phi vật
thể cùng phương thức ứng xử của con người trong hoạt động thực tiễn.

Toàn bộ những giá trị đó tạo thành nền tảng tinh thần của dân tộc, là cơ sở liên kết và đúc
kết các thế hệ, tạo nên sức sống của một dân tộc, tạo nên bản sắc và bản lĩnh của dân tộc
trong cuộc đấu tranh và xây dựng bảo vệ đất nước.

Nền tảng tinh thần văn hoá Việt Nam là toàn bộ các giá trị do dân tộc Việt Nam sáng tạo
ra đúc kết thành bản sắc văn hoá Việt Nam truyền từ đời này sang đời khác.

Nền tảng tinh thần xã hội chính là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội truyền thống, đã được
đúc kết từ trong lịch sử dân tộc, quốc gia, tạo nên bản sắc văn hoá, là những nét riêng để
phân biệt với các dân tộc khác, quốc gia khác. Bản sắc dân tộc đó hình thành nên bản lĩnh
tinh thần của cộng đồng dân tộc, một quốc gia và hình thành nên niềm tin, lý tưởng
chung của cộng đồng để dân tộc đó, quốc gia đó hướng tới (PQA)

Trong hệ giá trị của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những giá trị chủ đạo để tạo dựng
ngọn cờ tập hợp các thành viên trong cộng đồng theo một hướng nhất định. Đó chính là
lý tưởng của một cộng đồng quốc gia.

Việt Nam ta là một nước đất không rộng, người không đông, thiên nhiên khắc nghiệt và
thường xuyên bị ngoại xâm đe doạ. GS sử học Phan Huy Lê viết: “Nếu tính từ cuộc cách
mạng kháng chiến chống Tần vào thế kỷ thứ III tr.cn cho đến cuộc kháng chiến chống
Mỹ kết thúc vào năm 1975, Việt Nam ta đã phải tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập tự do; hàng chục cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải
phóng dân tộc để dành lại độc lập, trong đó có thời kỳ Bắc thuộc hơn một nghìn năm,
Minh thuộc 20 năm, Pháp thuộc gần một thế kỷ. Thời gian chống giặc ngoại xâm và đô
hộ của nước ngoài lên đến 12 thế kỷ, chiếm quá nửa thời gian lịch sử”1

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, do đặc điểm của nền nông nghiệp lúa nước, hình thành
nên văn hoá làng xã, mọi người gắn kết thành làng, thành nước thành cộng đồng vững
chắc, coi làng nước là cái thiêng liêng cần phải được bảo vệ. Với lịch sử dựng nước và
giữ nước hàng ngàn năm (liên tục phải chống đỡ với giặc ngoại xâm và những thảm họa
của thiên nhiên, đắp đê chống bão lụt phải cả làng, cả nước ra chống…) đã đúc kết nên
những giá trị, hình thành nên những nét văn hoá vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam.
Đó chính là bản sắc văn hoá Việt Nam mà NQTW 5 đã đúc kết.
Khái quát lại, những giá trị văn hoá Việt Nam gồm có những điểm chính: Lòng yêu nước,
tinh thần cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, tính cần cù giản dị, khả năng thích ứng
nhanh với hoàn cảnh. Trong đó, giá trị truyền thống lòng yêu nước, ý chí tự cường …
được xếp lên hàng đầu. GS Trần Văn Giàu trong cuốn: “giá trị tinh thần truyền thống của
dân tộc Việt Nam” có viết: “Sau nghìn năm đô hộ của Bắc phương, người Việt không hóa
thành Hán, sau non nửa thế kỷ bị Pháp cai trị, người Việt làm sao mà hóa thành tây da
vàng” Bề dày văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên các giá trị văn hoá Việt Nam. Nếu không
có lòng yêu nước, ý thức cộng đồng “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một
nước phải thương nhau cùng” để gắn kết cá nhân, gia đình, tộc họ, làng xã, tổ quốc…thì
làm sao chống lại các nước lớn suốt trong diễn trình lịch sử luôn lăm le xâm chiếm và
đồng hóa ta.

Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta xác định văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội,
là cơ sở để phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thân đoàn kết dân tộc, phát huy ý chí bản
lĩnh trí tuệ và đạo lý của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước (đọc trang 55 văn kiện
NQTW5 - khoá VIII)

Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần trong xã hội, thiếu nền tảng tinh
thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế, giữa tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội
bền vững.

Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện.

Văn hoá là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của phát triển kinh tế. Các nhân tố
văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống hoạt động xã hội trên mọi phương diện giá trị,
kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương, biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của
phát triển.

Tóm lại, có thể thấy rằng: giá trị tinh thần đóng vai trò quyết định, là nền tảng tinh thần
xã hội, là hòn đá tảng của sự phát triển kinh tế, xã hội.

2. Văn hoá là mục tiêu của sự phát triển.

Mục tiêu của mọi hoạt động của con người trong tiến trình lịch sử đều nhằm cải thiện
nâng cao chất lượng sống. Trong suốt quá trình loài người chuyển từ hình thái kinh tế xã
hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, loài người luôn phấn đấu để được sung sướng
hơn, bình đẳng hơn, hạnh phúc hơn.

Văn hoá là mục tiêu của xã hội phát triển, bởi văn hoá là đại diện theo trình độ văn minh,
là thước đo phẩm giá con người. Tuy nhiên xã hội không có những cá nhân có những
phẩm giá ngang nhau (có người tốt, có người xấu), trong mỗi con người bao giờ cũng có
2 mặt: mặt tốt và mặt xấu. Văn hoá có trách nhiệm kích thích mỗi con người phát huy
mặt tốt, kiềm chế mặt xấu. Thường thì con người bị môi trường xã hội đưa đẩy. “Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng”. “Nhân chi sơ tính bản thiện”. HCM cũng đã viết: “lúc
ngủ ai cũng như lương thiện, tỉnh dậy ..ke dữ hiền”. Ở đây, văn hoá có vai trò điều tiết
hành vi, mối quan hệ giữa người với người bằng giá trị và chuẩn mực xã hội, bằng văn
hoá. Sự điều tiết đó phải hướng tới mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống, vì hạnh
phúc của con người: nối dài cuộc sống, an sinh xã hội, điều tiết sự công bằng XH.

Mục tiêu của VH cuối cùng là:

Vật chất

Con người Công bằng xã hội > chất lượng sống

Tinh thần

3. Văn hoá là động lực của sự phát triển.

Tại sao nói văn hoá là động lực của sự phát triển? Trước hết phải dựa vào chức năng của
văn hoá: Chức năng nhận thức (tính hiểu biết); chức năng điều tiết (điều chỉnh) mối quan
hệ xã hội và chức năng động lực (xem bài chức năng của văn hoá).

Nói văn hoá là động lực của sự phát triển phải nói đến vai trò của văn hoá trong sự phát
triển kinh tế - văn hoá - xã hội: Phát triển phải mang tính đồng bộ, hệ thống biểu hiện
bằng chất lượng sống. Phải phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hoá, giữa GDP và HDI
(xem bài văn hoá phát triển).

Chìa khoá của sự phát triển tập trung ở một nhân tố sau :

- Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên

- Nguồn vốn

- Nguồn KHCN

- Nguồn lực con người

Trong đó, nguồn lực con người có vai trò quyết định, đây là chìa khoá của mọi chìa khoá.
Con người tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất tạo ra sản phẩm xã hội. Vì vậy cùng với quá
trình phát triển phải hiện đại hoá dân tộc, trước hết cần phải hiện đại hoá nguồn lực con
người. Đầu tư vào giáo dục đào tạo phải được coi là đầu tư cơ bản để đi tắt đón đầu trong
quá trình phát riển. Con người phải được phát triển toàn diện về trí lực và thể lực, tư
tưởng, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đủ điều kiện để bước vào thời đại CNH - HĐH. Văn
hoá phải làm bà đỡ để cho sự ra đời của nền kinh tế tiên tiến văn minh thông qua việc
hoàn thành hệ thống pháp lý và đạo lý xã hội, chống lại những tiêu cực phản giá trị, phản
văn hoá do nền kinh tế thị trường dã man tạo ra. Trong việc phát triển nguồn lực khoa học
công nghệ, không chỉ là quá trình phát triển KHKT công nghệ mà cái chính là quá trình
chuyển đổi tư duy của cả một cộng đồng dân tộc, nâng cao tầm văn hoá và trình độ văn
hoá của dân tộc, là quá trình làm thay đổi lối sống, nếp sống của xã hội cho phù hợp với
sự phát triển của thời đại công nghiệp.

VD: Ta nhập máy móc tốt nhưng không biết sử dụng, hoặc ngược lại, biết sử dụng nhưng
lại không có máy móc.

Môi trường văn hoá dân tộc có ý nghĩa quyết định đến quá trình phát triển thị trường và
quá trình CNH – HĐH đất nước, chúng ta phải tạo lập ra môi trường văn hoá dân tộc,
mỗi con người luôn hướng về cội nguồn, sống và làm việc trong môi trường bản săc văn
hoá Việt Nam.

Động lực con người la xây dựng con người theo 5 đức tính (theo tinh thần NQ TW5)

1) Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý
chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với dân tộc thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội.

2) Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.

3) Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn mimh, cần kiệm trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy …. Của cộng đồng có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.

4) Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và XH.

5) Thường xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và
thể lực.

Con người là vốn quý nhất. Văn hoá có ý nghĩa là làm cho tốt đẹp hơn về đạo lý, đạo đức
của con người. Con người làm ra văn hoá, nhưng văn hoá hóa con người, văn hoá phải
làm tốt vai trò hình thành nhân cách – yếu tố cốt lõi trong nguồn lực con người. Con
người là nguồn lực vô hạn, nhưng phải là con người có văn hoá. Văn hoá ở đây là tài sản
vô hình, do học tập, tu dưỡng, rèn luyện mới có được. Con người Việt Nam được hình
thành từ nền văn hoá Việt Nam. Với chức năng điều tiết của mình, văn hoá phải luôn luôn
làm cho con người sống tốt hơn, sống có đạo lý, phẩm giá. Văn hoá làm cho con người
bao giờ cũng sống cùng, sống với, sống vì. Ngược lại, xã hội cũng phải luôn luôn quan
tâm đến mỗi cá nhân, phải chăm sóc cho các cá nhân về mọi mặt, thúc đẩy động lực của
mỗi con người.

Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi
hỏi con người phải có trình độ ngày càng cao: trình độ nhận thức, trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn, kỹ thuật. Thời đại CNH – HĐH đòi hỏi phải nắm chắc KHKT tiên tiến
nhất, vấn đề ngoại ngữ, vi tính, tin học v.v…thì mới có thể hòa nhập với thế giới phát
triển được.

Bên cạnh trình độ nhận thức, trình độ KHKT để phát triển kinh tế, con người xã hội hiện
đại cũng phải có văn hoá: những hiểu biết về văn hoá nghệ thuật (để sáng tạo và hưởng
thụ – nếu không được đào tạo cơ bản khó mà hưởng thụ được các tác phẩm VHNT), có
mối quan hệ xã hội tốt đẹp dựa trên nền tảng của chuẩn mực xã hội.

Toàn bộ bài viết trên là bài giảng của Tiến Sĩ Phan Quốc Anh PGD Sở Khoa học và công
nghệ tỉnh Ninh Thuận Giang viên thính giảng Trường Đại Học Văn Hóa Tp. Hồ Chí
Minh. Tôi chỉ là người đưa lên mà thôi.

You might also like