You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MÔN HỌC: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC


LÊNIN

TIỂU LUẬN

QUAN ĐIỂM CỦA MÁC-LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI


KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: ThS. Trần Thị Thảo


SVTH:
1. Nguyễn Thị Thùy Dung 18109011
2. Phùng Thị Phương Dung 18109012
3. Nguyễn Ngọc Thạch 18109071
4. Nguyễn Quế Thơ 18109072

Mã lớp học: LLCT150105_05CLC

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 06 năm 2020


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................

Điểm: ……………………………..

KÝ TÊN

2
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC-LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO


TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI............................6
1.1 Tổng quan về tôn giáo.................................................................................6
1.1.1 Khái niệm và bản chất của tôn giáo.....................................................6
1.1.2 Nguồn gốc tôn giáo..............................................................................8
1.1.3 Chức năng của tôn giáo........................................................................9
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo.....................................10
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................12
2.1 Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội......................12
2.2 Nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giải quyết các vấn đề về tôn
giáo..................................................................................................................14
2.3 Sự vận dụng của Đảng trong trong giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay...................................................................................................16
2.3.1 Thực tiễn tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.............................16
2.3.2 Chủ trương đường lối về tôn giáo của Đảng cho nước ta hiện nay....17

3
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “ Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”, NXB
Chính trị Quốc gia sự thật Hà Nội, năm 2017.
2. TS Hoàng Thị Lan, “ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của
tôn giáo và sự vận dụng của đảng ta trong thời kỳ đổi mới”, tạp chí Lý
luận chính trị số 4-2014. Link truy cập :
http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-
mac/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/quan-diem-cua-chu-nghia-mac-lenin-
ve-vai-tro-cua-ton-giao-va-su-van-dung-cua-dang-ta-trong-thoi-ky-doi-
3131
3. Thành Chung, “Công bố kết quả chính thức và tổng kết tổng điều tra dân
số, nhà ở năm 2019”, báo điện tử Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, 19/12/2019. Link truy cập : http://baochinhphu.vn/Tin-
noi-bat/Cong-bo-ket-qua-chinh-thuc-va-tong-ket-tong-dieu-tra-dan-so-
nha-o-nam-2019/382996.vgp
4. Trích từ Chinhphu.vn, “Tôn giáo ở Việt Nam thực sự là một nguồn lực
quan trọng”, 09/08/2019, Thời báo Tài chính. Link truy cập :
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thoi-su/2019-08-09/thu-tuong-ton-
giao-o-viet-nam-thuc-su-la-mot-nguon-luc-quan-trong-74949.aspx .

4
MỞ ĐẦU

Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào,
có tôn giáo nội sinh. Trong những năm qua tôn giáo ở Việt Nam phát triển
phong phú và đa dạng làm cho tình hình tôn giáo ở Việt Nam có những thay đổi
cơ bản. Các tổ chức giáo hội từng bước được củng cố, quan hệ của tôn giáo với
Nhà nước ngày càng được hoàn thiện.Tuy nhiên hiện nay tôn giáo đang là một
vấn đề nhạy cảm được các nhà chức trách quan tâm đặc biệt trong quá trình phát
triển và hội nhập đất nước. “Tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là một thành tố của
văn hóa mà còn thực sự là một nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển đất
nước”, Thủ tướng từng nhấn mạnh điều này tại cuộc gặp mặt, biểu dương chức
sắc, chức việc tôn giáo có đóng góp tiêu biểu trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc vào ngày 09/08/2019 tại Đà Nẵng. Ngoài những giá trị văn hóa tốt
đẹp, tiến bộ của tôn giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn
hóa dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, hiện nay hoạt động tôn giáo, công tác tôn
giáo cũng đang phải đối diện với những khó khăn, thách thức. Đâu đó vẫn còn
tình trạng lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây phức tạp về an
ninh, trật tự xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trong tiến trình hội
nhập. Chính vì điều đó nhóm chọn đề tài “ Quan điểm của Mác-Lênin về vấn đề
tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng để
giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Hiểu về vấn đề tôn giáo theo quan điểm của Mác-Lênin trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội , nắm bắt về tình hình tôn giáo của nước ta hiện nay, nhằm nắm
bắt được sự vận dụng của Đảng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay. Trau dồi thêm thông tin và kiến thức để có cách nhìn nhận đúng
đắn về vấn về tôn giáo. Góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng
nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

5
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC-LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1 Tổng quan về tôn giáo.

1.1.1 Khái niệm và bản chất của tôn giáo.


Tôn giáo, tín ngưỡng xuất hiện từ rất sớm trong xã hội loài người và sẽ
còn tồn tại lâu dài. Từ xa xưa ở Phương Đông người ta đã dùng khái niệm “
đạo” để chỉ những tập đoàn người có cùng tín ngưỡng, ví dụ như đạo Phật, đạo
Hồi,… Sau này các tôn giáo được lan truyền từ phương Tây cũng được gọi là
đạo như đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành,… Tôn giáo là hình thức tín ngưỡng có
tổ chức với những giáo lý và hình thức nghi lễ thể hiện sự sùng bái tín ngưỡng
ấy. Mỗi tôn giáo bao gồm 4 yếu tố cơ bản: hệ thống giáo lý, hệ thống nghi lễ, tổ
chức tôn giáo và chức sắc tôn giáo. Đây cũng là yếu tố để phân biệt tôn giáo với
tín ngưỡng và mê tín dị đoan.
Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và
con người”.
Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin
vào cái siêu nhiên”.
Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá
nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô
đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”.
Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có
trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”.
Khi phân tích bản chất tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
Ăngghen đã cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo
vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc

6
sống của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang
những hình thức của lực lượng siêu trần thế”
Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư
ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm
tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn
cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được
vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng
đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bế tắc, bất lực
của con người trước tự nhiên và xã hội.
Thứ nhất: tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên
và lịch sử cụ thể, xác định. Trong các tác phẩm của mình C. Mác đã khẳng định:
“Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người” .
Trong những điều kiện cụ thể, con người cụ thể là thế giới con người, là nhà
nước, là xã hội chứ không phải là con người trừu tượng, ẩn nấp đâu đó ngoài thế
giới.
Thứ hai: tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Tôn giáo luôn phản ánh tồn tại
xã hội. Tuy nhiên sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là phản ánh đặc thù
đó là sự phản ánh hư ảo ,“hoang đường” của thế giới khách quan. Chính con
người khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên để từ đó con người có
chổ dựa được che chở được an ủi cho dù đó là “ hư ảo”
Thứ ba: tôn giáo có tính hai mặt, vừa là biểu hiện của thế giới đương thời vừa là
phản kháng chống lại thế giới đó. Các tôn giáo xuất hiện một mặt thể hiện sự
bất lực của con người, mặt khác lại thể hiện nguyện vọng ước mơ của con người
đến một tương lai tốt đẹp. Trong lịch sử, giai cấp thống trị thường lợi dụng tôn
giáo biến nó thành công cụ để thống trị nhân dân về mặt tinh thần. Khi đó giai
cấp thống trị khai thác triệt để mặt tiêu cực của tôn giáo và làm cho tôn giáo phụ

7
thuộc vào chính trị một cách chặt chẽ. Trong xã hội có giai cấp sự biến đổi của
tôn giáo phản ánh sự biến động của cơ cấu giai cấp và đấu tranh với hệ tư tưởng
tôn giáo là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp.
1.1.2 Nguồn gốc tôn giáo
Nguồn gốc kinh tế- xã hội
Sự bất lực của con người trước các thế lực tự nhiên như hạn hán, lũ lụt,
động đất, sóng thần…khiến con người cảm thấy sợ hãi cho rằng tự nhiên có một
sức mạnh siêu nhiên, sự bất lực yếu đuối của con người trước tự nhiên đã làm
con người tìm thấy tôn giáo. Bên cạnh đó sự bất lực của con người trước các thế
lực xã hội cũng là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. Lênin đã chỉ rõ: “ Sự bất lực của
giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên cũng đẻ ra
lòng tin vào cuộc đời đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của
người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên tất phải đẻ ra lòng tin vào
thần thánh ma quỷ, vào những phép màu”.
Nguồn gốc nhận thức
Mâu thuẫn giữa khả năng nhận thức hữu hạn của cá nhân với sự bí ẩn
mênh mông của thế giới vô tận. Trước sức mạnh thần bí của tự nhiên con người
đã gán cho những sự vật hiện tượng mà bản thân con người chưa nắm được
thành những phẩm chất thần thánh hay siêu nhiên. Mặc khác quá trình nhận thức
của con người rất phức tạp, có giai đoạn nhận thức trực tiếp, có giai đoạn gián
tiếp, có giai đoạn thu thập tài liệu cũng có giai đoạn là sự sáng tạo thuần túy của
tư duy. Có những thời điểm con người tuyệt đối hóa sản phảm trí tuệ, biến nó
thành độc lập và có khả năng chi phối cuộc sống của con người. Chính điều này
đã làm xuất hiện biểu tượng tôn giáo.
Nguồn gốc tâm lý
Con người có nhiều trạng thái tâm lý, như sự biết ơn lòng kính trọng, tình
yêu thương của con người trước tự nhiên và các thế lực xã hội đã vượt qua sự
kiểm soát của ý chí đưa con người đến với tôn giáo. Có những trạng thái tâm lí

8
tiêu cực như sợ hãi, buồn tủi lo lắng vì sợ hãi bất an mà con người thần thánh
hóa núi non cây rừng lăng miếu. “Sự sợ hãi sinh ra thần thánh” là cơ sở cho sự
tồn tại của tôn giáo.
1.1.3 Chức năng của tôn giáo
Chức năng đền bù hư ảo (nương tựa, an ủi )
CMác và Ăngghen đều khẳng định chức năng chủ yếu của tôn giáo là
chức năng đền bù hư ảo. CMác nhận định “ Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những
trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Chức năng thế giới quan
Khi phản ánh một cách hư ảo hiện thực, tôn giáo có tham vọng tạo ra một
bức tranh của mình về thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người
dưới một hình thức phi hiện thực. Bức tranh tôn giáo ấy bao gồm hai bộ phận:
thế giới thần thánh và thế giới trần tục và trên cơ sở đó mà tôn giáo giải thích
các vấn đề của tự nhiên cũng như xã hội. Sự lý giải của tôn giáo về thế giới
nhằm hướng con người tới cái siêu nhiên , thần thánh, do đó nó đã xem nhẹ đời
sống hiện thực. Quan niệm này có thể tác động tiêu cực đến ý thức giáo dân, đến
thái độ của họ đối với xung quanh.
Chức năng giao tiếp
Chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng liên hệ giữa những
người có chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ (giao tiếp) được thực hiện chủ yếu
trong hoạt động thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối
cao. Ngoài mối liên hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn
có sự giao tiếp ngoài tôn giáo như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày,
liên hệ trong gia đình... Những mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố,
tăng cường các mối liên hệ tôn giáo của họ.
Chức năng liên kết

9
Trong các xã hội trước đây, tôn giáo với tư cách là bộ phận tất yếu trong
cấu trúc thượng tầng đã đóng vai trò quan trọng của nhân tố liên kết xã hội,
nghĩa là nhân tố làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại, dựa trên những hệ
thống giá trị và chuẩn mực chung của xã hội. Tuy nhiên không nên quan niệm
một cách sai lầm rằng tôn giáo bao giờ cũng là nhân tố liên kết xã hội chủ yếu,
bảo đảm sự thống nhất của xã hội. Sự thống nhất của xã hội trước hết được bảo
đảm bởi hệ thống sản xuất vật chất xã hội chú không phải bằng cộng đồng tín
ngưỡng. Hơn nữa trong những điều kiện xã hội nhất định, tôn giáo có thể biểu
hiện như là ngọn cờ tư tưởng của sự chống đối lại xã hội, chống lại chế độ phản
tiến bộ đương thời.
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội
dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng
ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại
trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”. Điều đó có
nghĩa là, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh
thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một hiện
tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã
hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác
với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện
thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế
giới khách quan.
Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con
người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính mình và
đã thần thánh hoá nó như một bản chất xa lạ nào đó”. Lột tả bản chất của tôn
giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc
của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày

10
của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức
những lực lượng siêu trần thế”
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn
giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn
giáo chính là điều kiện kinh tế – xã hội. Trong lịch sử tiến hoá của mình, trước
hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên
còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng
tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là cơ sở
cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và
áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ phận người
dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó,
những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con
người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên
nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc
lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời
tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong
cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và
những phép màu”.
Trong Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự
nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự
phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là
tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân”. Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng
của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng
hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn

11
mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những
số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện
thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức,
bất công của xã hội thì họ chỉ còn biết “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu
đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ không thể tìm thấy “một trái tim”
để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi
tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức
mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn
khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến
sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để
xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi
người ta bị đau đớn và chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu
dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi
tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là
những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.

CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các
nguyên nhân chủ yếu sau:
Nguyên nhân nhận thức
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ
nghĩa vẫn còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học
chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng
cao. Do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con
12
người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân
dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
Nguyên nhân kinh tế
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại
nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp
xã hội. Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa
các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên
vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động
với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
Nguyên nhân tâm lý
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở
thành niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một số bộ phận đông
đảo quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi
mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi
ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế - xã hội mà nó phản ánh. Điều
đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã
hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý
thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống
tinh thần của mỗi con người, của xã hội.
Nguyên nhân chính trị - xã hội
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ
nghĩa xã hội, với chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng
thiện... đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì
thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với
một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực phản động lợi dụng

13
tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây đựng chủ nghĩa xã
hội.
Nguyên nhân văn hóa
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã
đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong
một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối
sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn
giáo thường được thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với
những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn
giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút
một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa tinh thần, tình
cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại
trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cùng với tiến trình đó, tôn giáo cùng có những biến đổi cùng với sự thay
đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.

Nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giải quyết các vấn đề về tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó,
những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức
thận trọng, cụ thể và chuẩn xác, có tính nguyên tắc với những phương thức sinh
hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa Mác - Lênin.
Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã
hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa
Mác - Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh
quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần
những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới.
14
Hai là, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì
nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của mọi công nhân. Công dân có tôn giáo hay không có tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cần
phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không
có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với
những người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tử tưởng trong vấn đề tôn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt
chính trị là sự lợi dạng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự
nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt
chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải
khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thậr trọng và phải có sách lược phù hợp với
thực tế.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo
đối với đời sống xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội,
giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó,
cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những
vẩn đề liên quan đến tôn giáo. Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình
hình cụ thể - đó là điều mà V.I.Lênin đã từng nhắc nhở khi giải quyết vấn đề tôn
giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có quan điểm và phương thức ứng xử
phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn giáo.

15
2.3 Sự vận dụng của Đảng trong trong giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay.
2.3.1 Thực tiễn tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam
có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời
sống kinh tế và tâm linh của mình.
Việt Nam hiện nay có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận. Mỗi tôn giáo có giáo lý, giáo luật riêng nhưng đều chung đường
hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. Đảng
và Nhà nước ta từ khi thành lập luôn nhất quán chính sách bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động và
tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đảng, Nhà nước
nỗ lực tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo hoạt động và tham gia đóng góp cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với vai trò là một thành tố cấu thành của văn hóa, tôn giáo đã góp phần
lưu giữ, bồi đắp và làm phong phú những giá trị truyền thống văn hóa, mang giá
trị nhân văn, hướng thiện có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội, thông
qua giáo lý khuyên răn con người sống hướng thiện, vị tha, bác ái... Những giới
điều trong giáo lý các tôn giáo mang giá trị đạo đức và nhân văn sâu sắc, góp
phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con người. Nhiều khu dân cư có đông đồng
bào theo tôn giáo trở thành điểm sáng về phòng chống tội phạm, phòng chống
ma túy và các tệ nạn xã hội khác, giữ gìn tốt an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tín
đồ, chức sắc tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội, góp phần vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Dù mỗi
tôn giáo đều có đường hướng và phương châm hành đạo riêng nhưng đều chung
một định hướng là sống “Tốt đời, đẹp đạo” gắn bó đồng hành với dân tộc, với
đất nước.

16
Các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng chính
quyền các cấp xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, xây dựng nông thôn mới,
phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt là cùng chung tay với nhà nước cứu trợ thiên
tai, chăm lo giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ tiếp cận các dịch vụ
y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa,...
Đến thời điểm Tổng điều tra năm 2019, có 16 tôn giáo được phép hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam. Tổng số có 13,2 triệu người theo tôn giáo, chiếm
13,7% tổng dân số cả nước. Trong đó, số người theo Công giáo là đông nhất với
5,9 triệu người, chiếm 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng
dân số cả nước. Tiếp đến là số người theo Phật giáo với 4,6 triệu người, chiếm
35% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 4,8% dân số cả nước.
Ngoài ra, ở Việt Nam còn có một số tôn giáo khác nhưng nó nhỏ lẻ không
đáng kể và còn có một số người không có tôn giáo.
Về mặt tích cực thì tôn giáo là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư
ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do
tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và
ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết. Ở Việt
Nam giáo phái sống hòa thuận, không có xung đột dẫn đến chiến tranh như một
số nước hồi giáo ở Trung Đông.
Bên cạnh đó thì tôn giáo cũng có một số mặt tiêu cực. Một số người lợi
dụng vào vấn đề tâm linh để lừa gạt người khác như vụ làm giả hài cốt nhằm tạo
lòng tin để chiếm đoạt tài sản , chống phá Đảng và Nhà nước ta.
2.3.2 Chủ trương đường lối về tôn giáo của Đảng cho nước ta hiện
nay.
Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,

17
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về quan
điểm, chính sách:
  Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn
giáo hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp
luật.
Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân
biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương  khoá VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta
khảng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, Đảng
và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các dân tộc. Khắc phục
mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống
những hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng”(12). Quan điểm của Đảng nghiêm
cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt
động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng.
Công tác vận động quần chúng phải động viên được đồng bào nêu cao tinh thần
yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện
tốt các chính sách kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất
và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là
lực lượng nòng cốt.

18
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ có quyền tự do hành
đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc theo
đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các
tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm
các quy định của pháp luật.
Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm bảo
quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức trong
và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào có
đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hoà bình” vô
cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xuyên tạc chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo và các
hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ.

19

You might also like