Professional Documents
Culture Documents
Bai Giang
Bai Giang
_Người tìm kiếm rủi ro (risk seeker) có hàm hữu dụng lồi:
u(E(P)) < U(P)
Sự ưa thích như vậy cho thấy mức hữu dụng của giá trị kỳ vọng của triển vọng thì nhỏ hơn mức
hữu dụng kỳ vọng của triển vọng. Người này thích mạo hiểm với một trò chơi có kết quả không
chắc chắn hơn so với giá trị kì vọng của triển vọng chắc chắn. Hình 1.3 minh họa cho tình huống
này.
_Người trung lập/bàng quang với rủi ro (risk neutral) là những người nằm giữa những người e
ngại rủi ro với những người tìm kiếm rủi ro. Những người này chỉ quan tâm đến giá trị kỳ vọng
và rủi ro không phải là vấn đề quan trọng.
u(E(P)) = U(P)
Mức hữu dụng của giá trị kỳ vọng của triển vọng bằng mức hữu dụng kỳ vọng của triển vọng,
xem hình 1.4. Đối với nhóm người này, sự tương đương chắc chắn của giá trị tài sản bằng với giá
trị kỳ vọng của triển vọng.
Một người ra quyết định hợp lý sẽ chọn quyết định đạt được lợi ích kỳ vọng lớn nhất. Hàm lợi
ích của người ra quyết định cho biết lợi ích mà người ấy đạt được ứng với mỗi kết quả có thể.
Lợi ích kỳ vọng được tính theo công thức tương tự như lợi nhuận kỳ vọng nhưng thay vì lợi
nhuận thì đưa vào công thức giá trị của lợi ích mà người ấy đạt được ứng với mỗi quyết định.
Giá trị của lợi ích là bao nhiêu tuỳ vào ước lượng chủ quan của người ra quyết định nhưng lợi ích
của kết quả thuận lợi phải cao hơn lợi ích của kết quả kém thuận lợi hơn. Dạng của hàm lợi ích
rất đa dạng tùy theo sở thích của người ra quyết định chứ không nhất thiết là lợi ích tăng theo lợi
nhuận tăng.
Đồ thị 1: Đường lợi ích của người sợ rủi ro
Đồ thị 1 cho thấy lợi ích tăng theo lợi nhuận nhưng nhịp độ tăng giảm dần. Đây là dạng đường
lợi ích của những người sợ rủi ro. Khi phải lựa chọn trong các phương án có lợi nhuận kỳ vọng
bằng nhau, họ thích chọn phương án có kết quả chắc chắn hơn. Ngược lại đường lợi ích trên đồ
thị 2 cho thấy lợi ích tăng theo lợi nhuận với mức độ tăng tăng dần. Những người chấp nhận rủi
ro có đường lợi ích dạng này, họ thích chọn phương án có kết quả kém chắc chắn hơn trong các
phương án có lợi nhuận kỳ vọng bằng nhau.
Đồ thị 3: Đường lợi ích của người bàng quan với rủi ro
Những người bàng quan với rủi ro tối đa hoá lợi ích kỳ vọng dù cho rủi ro như thế nào. Đường
lợi ích của những người này có dạng như đồ thị 3.
4 Nghịch lý ALLAIS
Là một mâu thuẫn đối với thuyết hữu dụng kì vọng.Một công trình nghiên cứu nổi bật là lý
thuyết triển vọng của Daniel Kahneman.
Ví dụ: Lựa chọn các triển vọng sau
Câu hỏi 1
Bạn có giống với nhiều người không? Đa số lựa chọn A hơn A* và B* hơn B. Bây giờ, chúng ta
thấy điều này vi phạm lý thuyết kì vọng. Nếu lý thuyết hữu dụng kì vọng được sử dụng để xếp
hạng các kết quả,
_A được ưa thích hơn A*, tức là U(A)>U(A*):
U(A)= u(1,000,000$) > 0.89u(1,000,000$)+0.1u(5,000,000$) =U(A*)
Đơn giản hóa: 0,11u(1,000,000$) > 0,1u(5,000,000$) (1)
_B* được ưa thích hơn B, tức là U(B*)>U(B):
0,1u(5,000,000$) > 0,11u(1,000,000$) (2)
Từ (1),(2) ta thấy không thể đồng thời xảy ra, do đó các lựa chọn có mâu thuẫn.
Để nghiên cứu kỹ hơn hiệu lực của nghịch lý ALLAIS,John Conlisk đã trình bày câu hỏi như
trên với một mẫu hình khác, và vi phạm mức hữu dụng đã giảm đáng kể
Câu hỏi 1
Tóm lại:
Lí thuyết hữu dụng kì vọng (Expected utility theory) được đưa ra bởi John Von Neumann và
Oskar Morgenstern nhằm nỗ lực mô tả những hành vi hợp lí khi con người phải đối mặt với sự
không chắc chắn. Lí thuyết này cho rằng các cá nhân nên hành động theo một cách thức cụ thể
khi phải đưa ra những quyết định quan trọng mà không có sự chắc chắn.
Với cách tư duy này, lí thuyết hữu dụng kì vọng là lí thuyết "có tính chuẩn tắc - normative",
nghĩa là nó mô tả cách thức mà con người hợp lí nên hành xử. Điều này trái với lí thuyết thực
chứng - positive", lí thuyết này cho thấy thực tế con người hành xử như thế nào.
Chương 2: NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
1. Giới thiệu
2. Một số bất thường về tài chính
2.1 Phản ứng chậm với các công bố về thu nhập
Các kiểm định về tính hiệu quả của thị trường dựa các công bố thu nhập thường sử dụng phương
pháp nghiên cứu sự kiện (event study). Bản chất của một nghiên cứu này là nhìn vào một lượng
lớn các sự kiện tương tự cho một mẫu các công ty, tiến hành nghiên cứu trong khoảng thời gian
xảy ra sự kiện thay vì khoảng thời gian theo lịch thông thường, tính toán tỷ suất sinh lời vượt trội
vào những ngày trước, sau và xảy ra sự kiện; tính trung bình những khoản lợi nhuận vượt trội
này trên tất cả các sự kiện trong mẫu và sau đó cộng dồn các phần dư trung bình để tính ra phần
dư tích lũy trung bình (CARs).
Một sự kiện quan trọng mang tính thường xuyên đối với các công ty là công bố các khoản thu
nhập. Các nghiên cứu sự kiện về công bố thu nhập trước đây thường có xu hướng tìm thấy bằng
chứng thống nhất với tính hiệu quả của thị trường, trong khi các nghiên cứu sau này lại thường
tìm thấy các bằng chứng nghi ngờ về tính hiệu quả. Một ví dụ của các nghiên cứu sau này đã
xem xét dữ liệu tỷ suất sinh lợi hàng ngày xung quanh các thông báo thu nhập hàng quý của
khoảng 1.000 công ty (1972-1980). Quy trình là phân chia các thông báo về các khoản thu nhập
thành 10 phân vị khác nhau, từ thu nhập dương bất thường (phân vị 10) đến các thu nhập âm bất
thường (phân vị 1). Thu nhập bất thường là các khoản thu nhập được công bố trừ đi các khoản
thu nhập kỳ vọng. Cụ thể hơn, đối với mỗi sự kiện (thu nhập), họ tính toán các khoản thu nhập
vượt kỳ vọng được chuẩn hóa (SUE) như sau:
EPS−E( EPS)
SUE =
SEE
EPS: Thu nhập thực tế trên mỗi cổ phiếu
E(EPS): Thu nhập dự báo trên mỗi cổ phiếu
SEE: Phản ánh độ bất ổn của thu nhập
Dựa vào các giá trị SUE, mỗi công bố được đưa vào một trong các nhóm SUE. Tiếp theo, CAR
được tính toán trong các quý liên quan đối với từng nhóm SUE.
Hình 4.1 cho thấy vấn đề. Chú ý thị trường chỉ dự đoán được một mức độ nhất định các khoản
thu nhập bất thường âm và dương. Ngoài ra, như dự kiến, vào ngày công bố thông tin, thị trường
sẽ phản ứng tích cực với thu nhập bất thường dương và ngược lại. Trái với quan điểm thị trường
hiệu quả, chúng ta thấy xuất hiện xu hướng dịch chuyển trong giá, đặc biệt là sau các thông báo
bất ngờ. Điều này không phù hợp với thị trường hiệu quả vì xu hướng giá tạo ra khoảng lợi
nhuận quá lớn đến mức ngay cả khi đã bao gồm các chi phí giao dịch thì vẫn có thể đạt được lợi
nhuận đầu cơ.
Một nghiên cứu khác tương tự, nhưng dựa trên tỷ số giá trị sổ sách trên giá trị thị trường (B/P).
Từ bảng 4.2, cho thấy phân vị P/B cao nhất có tỷ suất sinh lợi cao nhất và giảm dần đến
phân vị của nhóm P/B thấp nhất.
Một nghiên cứu khác nữa là về tỷ số CF/P(dòng tiền trên giá) tỷ lệ CF/P cao hơn/thấp hơn dẫn
đến tỷ suất sinh lợi trong tương lai cao hơn/thấp hơn.
Cả 3 bất thường có đặc điểm chung là chúng đều dựa trên tỷ số so sánh các yếu tố kế toán với giá
thị trường. Nếu các yếu tố kế toán không đổi, với mức giá thấp hơn sẽ tác động lên cả 3 chỉ số và
làm tỷ suất sinh lợi trong tương lai cao hơn. Điều ngược lại cũng đúng so với mức giá cao hơn.
Để giảm nhẹ sự chỉ trích về việc đào bới dữ liệu (data snooping), trong bảng 4.3, cho thấy tỷ suất
sinh lợi từ các phương thức đầu tư giá trị khác nhau cho thị trường Mỹ,Nhật,Anh,Pháp,Đức từ
1975-1995.
Trong tất cả 15 trường hợp cổ phiếu giá trị đều thể sự vượt trội so với cổ phiếu tăng
trưởng.
3. Những yêu cầu về mặt lý thuyết đối với tính hiệu quả của thị trường
Dựa trên 3 trụ cột:
- TRỤ CỘT 1: CÁC NHÀ ĐẦU TƯ LÀ LUÔN LÝ TRÍ
Một số nhà đầu tư ít nhất vài lần thực hiện giao dịch không hoàn toàn dựa trên lý
trí, ngay cả nhà đầu tư am hiểu hơn cũng sẽ thú nhận vấn đề này. Fisher Black có đề cập
đến vấn đề này:
“Đôi khi người ta giao dịch dựa vào thông tin theo cách thông thường và họ đúng
khi kì vọng sẽ kiếm được lợi nhuận từ những giao dịch này. Ngược lại, đôi khi
người ta giao dịch dựa vào những tín hiệu nhiễu và trong trường hợp này nếu họ
kì vọng kiếm được lợi nhuận từ những tín hiệu nhiễu này thì họ đã sai.”
Tính chính xác của lời phát biểu này vẫn đang được tranh luận.
“tín hiệu nhiễu-noise” ở đây là gì? Tín hiệu nhiễu tồn tại khi người ta giao dịch
dựa trên những thông tin sai, là thông tin không liên quan đến định giá chứng khoán. Tín
hiệu nhiễu không quá xấu vì nó tạo ra thanh khoản cho thị trường. Thực tế, nếu không có
các tín hiệu nhiễu thì sẽ có ít giao dịch vì những người có thông tin có thể thiếu đối tác và
họ chỉ giao dịch khi có nhu cầu về tiền.
- TRỤ CỘT 2: SAI LỆCH GIỮA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ LÀ KHÔNG TƯƠNG QUAN VỚI
NHAU
Người ta có thể giao dịch dựa trên tín hiệu nhiễu vì họ nghĩ nó hữu ích hoặc họ
thích giao dịch. Hành vi của những người này rất dễ bị tác động bởi xã hội vì họ rất dễ bị
ảnh hưởng bởi tin đồn. Họ còn có thể giao dịch vì quan sát người khác và không muốn lỡ
cơ hội.
Nếu hành vi của họ là ngẫu nhiên thì không ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thị
trường. Tuy nhiên, ở các chương sau, các nhà tâm lý học chỉ ra mọi người có thể cùng
đưa ra phán đoán sai, nghĩa là đi lệch khỏi sự kỳ vọng theo cùng một hướng. Nếu hành vi
các nhà giao dịch có tương quan thì họ sẽ đẩy giá xa hơn với giá trị nội tại.
Cho dù tâm lý học hoặc các áp lực xã hội (hoặc cả 2) là chìa khóa, thì khi số
lượng lớn nhà đầu tư đồng thời định giá sai lầm các chứng khoán theo 1 cách thì ta nói
rằng cảm tính (sentiment) đang chi phối thị trường. Có thể nói cảm tính chính là tín hiệu
nhiễu – mối tương quan giữa nhiều nhà đầu tư. Những cá nhân này được gọi là nhà giao
dịch nhiễu (noise trader).
- MÔ HÌNH CỦA SHILLER
Mô tả sự cân bằng của thế giới gồm nhóm nhà đầu tư thông minh (smart-money
trader), giao dịch vì những lý do hợp lý và nhóm thứ hai là các nhà giao dịch nhiễu.
Trong mô hình chỉ có 1 chứng khoán rủi ro. Khi nhóm noise trader lạc quan về thị
trường thì họ sẽ đẩy giá lên cao và ngược lại. Trong trường hợp lạc quan, họ nhận ra sai
lầm => làm giá chứng khoán từ từ hoặc nhanh chóng giảm xuống => thời kỳ chuyển tiếp
tỉ suất sinh lợi thấp. Trường hợp bi quan thì ngược lại. Còn nhà đầu tư thông minh thì sẽ
đầu tư vào thị trường, khi giá cao hơn bình thường thì họ sẽ giảm bớt cổ phần, khi giá
thấp hơn thì sẽ mua thêm. Nhu cầu của họ được xác định bởi công thức:
E R −ρ
qt = t t +1
φ
qt: nhu cầu cổ phiếu tại thời điểm t của nhà đầu tư thông minh
ρ: tý suất sinh lợi của kỳ vọng để nhu cầu bằng 0
φ: mức bù rủi ro
Trong một thế giới hoàn toàn lý trí, giá chứng khoán là giá trị hiện tại của của cổ
tức dự kiến trong tương lai:
∞
E D
pt =∑ t t +kk
k=1 (1+ δ)
Dt là cổ tức thời điểm t và δ tỉ lệ chiết khấu hợp lý với dòng tiền của vốn cổ phần.
Trong 1 thế giới mà tâm lý tồn tại, giá sẽ bị ảnh bởi quan điểm sai lầm của noise
trader. Chúng ta đinh nghĩa yt là tổng giá trị cổ phiếu có nhu cầu trên một cổ phần của
noise trader, ta có:
y t =nt∗pt
nt là tỉ lệ % của tổng cầu cổ phiếu của noise trader. Nếu yt ở mức độ phù hợp với trạng
thái cân bằng thì thị trường không có cảm tính (hoặc cảm tính trung lập) còn nếu yt ở trên
hay dưới mức này thì sẽ xuất hiện cảm tính. Để cân bằng thị trường thì tổng cầu bằng
tổng cung:
qt + nt = 1
Giá sẽ là 1 hàm theo cổ tức dự kiến tương lai và cảm tính hiện tại và kỳ vọng
trong tương lai:
∞
E D +∅ E t Y t−1+ k
pt =∑ t t +k
k=1 (1+ ρ+ φ) k
Sẽ khó khăn cho các nhà đầu tư lý trí khi họ phải dự báo cổ tức và cảm tính noise
trader.
Ví dụ:
- TRỤ CỘT 3: KHÔNG CÓ CÁC GIỚI HẠN KINH DOANH CHÊNH LỆCH GIÁ
4. Các giới hạn kinh doanh chênh lệch giá là gì?
Rủi ro cơ bản: rủi ro tồn tại do khả năng đánh giá lại hợp lý thông tin mới đến
Rủi ro từ người giao dịch nhiễu
Chi phí thực hiện
Chương 3: TỰ NGHIỆM VÀ LỆCH LẠC
1. Giới thiệu
2. Nhận thức, trí nhớ và thực nghiệm
NHẬN THỨC (PERCEPTION)
Nhận thức có chức năng tải thông tin về não bộ nhưng lại thường đọc sai thông tin.
Chúng ta chỉ thường “nhìn thấy những điều chúng ta kỳ vọng”.
Nhận thức là sự chọn lọc, trong đó các kỳ vọng tác động rất mạnh tới nhận thức.
Đôi khi nhận thức bị bóp méo bởi ý muốn bản thân, là xung đột nhận thức.
Xung đột nhận thức (cognitive dissonance) tạo nên tình huống trong đó thúc đẩy giảm
thiểu hoặc né tránh những mâu thuẫn trong tâm lý, thường để gia tăng hình ảnh tích cực của bản
thân.
TRÍ NHỚ ( MEMORY)
Sự sai lệch càng lớn khi một người cố nhớ lại những nhận thức hoặc quan điểm trong quá
khứ
Thực tế là trí nhớ sẽ được tái tạo lại.
Trí nhớ không chỉ được tái tạo lại mà còn biến đổi rất mạnh mẽ. Sẽ rất dễ để mang một kí
ức rất tốt hoặc rất xấu. Các sự kiện sẽ được nhớ lại nhiều hơn khi chúng đem lại cảm xúc dâng
trào
Đôi khi chúng ta “viết lại quá khứ - rewriting history”. Hệ quả dẫn đến là lệch lạc nhân
thức muộn (hindsight bias), sẽ được nói ở chương 7.
TÁC ĐỘNG CỦA BỐI CẢNH
Nhận thức và trí nhớ bị ảnh hưởng bởi cách trình bày hay bối cảnh.
Ví dụ: hiệu ứng tương phản – contrast effect
TỰ NGHIỆM
Tự nghiệm (heuristic) là quy tắc đưa ra quyết định sử dụng một tập hợp con trong tất cả
thông tin. Vì hầu hết trong mọi tình huống không thể phân tích hết tất cả nên chúng ta sử dụng tự
nghiệm mà không hề nhận ra.
Tự nghiệm có nhiều loại và quy mô, gồm 2 nhóm đối lập là phản thân (reflexsive), tự trị
(autonomic), không nhận thức (noncognitive) và tiết kiệm chi phí (dạng 1); và nhóm thứ hai bản
chất là nhận thức (dạng 2).
Tự nghiệm dạng 1 (type 1 heuristic) thích hợp khi cần nhanh chóng đưa ra quyết định
hoặc khi số tiền đặt cược là nhỏ.
Tự nghiệm dạng 2 (type 2 heuristic) cần nhiều nỗ lực và số tiền đặt cược lớn.
NHỮNG VÍ DỤ VỀ TỰ NGHIỆM
Theo sơ đồ trên thì pr(A∩B) phải nhỏ hơn pr(A) trừ khi tất cả người trúng xổ số đều hạnh
phúc. Sai lầm này đã chứng minh cho ảo tưởng liên kết (conjunction fallacy).
Ảo tưởng này là một biểu hiện của tình huống điển hình. Trong tự nghiệm tình huống điển hình
(representativeness heuristic), “xác suất được đánh giá bởi mức độ A đại diện cho B, nghĩa là
mức độ tương đồng so với B. Ví dụ, khi A có tính đại diện cao cho B, xác suất A bắt nguồn từ B
được đánh giá ở mức cao. Ngược lại, nếu A không giống B thì xác suất A bắt nguồn từ B được
đánh giá thấp”. Trong trường hợp mua xổ số, hình ảnh mỉm cười của người chiến thắng và sự
thất vọng của người thua cuộc dường như có tính đại diện cao cho một nhóm người chơi xổ số
(người thắng và người thua) hơn là một người nào đó vừa chiến thắng, vì vậy có vẻ người chiến
thắng hạnh phúc thì khả năng cao hơn là người chiến thắng.
PHỚT LỜ XÁC SUẤT CƠ SỞ
Một biến thể khác của tình huống điển hình là phớt lờ xác suất cơ sở (base rate neglect).
_QUY TẮC BAYES Trong Quy tắc của Bayes, mối tương quan hữu ích cho phép chúng ta đánh
giá xác suất có điều kiện là:
pr(B/A) = pr(A/B) * [pr(B)/pr(A)]
Quy tắc cho phép tính xác suất một cách tối ưu dựa trên sự xuất hiện của thông tin mới. Khi đó,
xác suất của biến cố B, phụ thuộc vào biến cố A bằng với xác suất xảy ra biến cố A, phụ thuộc
vào biến cố B nhân với tỷ lệ giữa xác suất đơn của biến cố B và biến cố A.
Giả định rằng bạn có một phong vũ biểu dự báo thời tiết. Nhưng bạn không nhìn thông tin mẫu
này, xác suất ngày mưa và xác suất ngày nắng (dựa vào tần suất quá khứ của thời điểm này trong
năm) là như sau: pr(ngày mưa) = 40% và pr(ngày nắng) = 60%. Giả định chúng ta cũng biết
những xác suất sau:
pr(dự đoán trời mưa│mưa) = 90%
pr(dự đoán trời nắng │khô) = 2.5%
Nói cách khác, nếu thực tế là trời đã mưa, mưa đã được dự báo (bằng phong vũ biểu) xảy ra 90%
và nếu thực tế trời đã nắng, mưa được dự đoán là 2.5%. Trong khi đó, dự đoán tốt nhất cho ngày
mai mà không xem phong vũ biểu là 40% trời sẽ mưa, xác suất cơ bản này sẽ điều chỉnh như thế
nào nếu chúng ta biết mẫu dự báo là trời sẽ mưa? Phong vũ biểu dự báo xác suất mưa là 37.5%.
Để làm rõ, sử dụng quy tắc Bayes:
pr(mưa│dự báo trời mưa) = pr(dự báo trời mưa│mưa)*[pr(mưa) / pr(dự báo trời mưa)] =
0.9*(0.4/0.375) = 0.96
Điều này để nói lên rằng, nếu chúng ta biết phong vũ biểu dự báo trời mưa thì xác suất 96% trời
sẽ mưa so với xác suất 40% khi chúng ta không có phong vũ biểu.
_HIỆN TƯỢNG GHI ĐIỂM LIÊN TỤC Xem một ví dụ: John có tỷ lệ ném bóng chính xác là
40% trong quá khứ còn Freddie là 60%. Hiện trận đấu đang diễn ra và đội của John và Freddie
đang kém 1 điểm so với đội bạn trong khi thời gian gần hết. Nên chuyền bóng cho John (người
thực hiện thành công 80% cú ném (8/10 lần)) hay Freddies (người thực hiện thành công 3/ 10
lần)?
Gọi B là xác suất mà John sẽ ném trúng bong trong lần ném tiếp theo. Xác suất theo thành tích
trong quá khứ là 40% . Gọi A là biến cố mà John đã ném trúng 8/10 lần trong 10 lần ném bóng
đêm nay. Dựa vào thống kê quá khứ, xác suất có được thành tích tốt nhất như đêm nay chỉ là 4%.
Giả sử theo quá khứ, xác suất John ném trúng 8/10 lần ném gần nhất là 6%. Xác suất mà John có
khả năng thành công trong lần ném tiếp theo:
pr(thực hiện thành công│đã thực hiện thành công 8 lần) = pr(thành công) * [pr(thực hiện thành
công 8 lần│thực hiện thành công) / pr(thực hiện thành công 8 lần)] = 0.4*(0.06/0.04) = 0.6
ẢO TƯỞNG CON BẠC SO VỚI HIỆN TƯỢNG GHI ĐIỂM LIÊN TỤC
Ảo tưởng con bạc (gambler’s fallacy) thể hiện ở những người có quan điểm sai lầm khi nghĩ rằng
sẽ nhìn thấy cơ hội như một quá trình tự hiệu chỉnh. Họ cho rằng trong dài hạn Susan (người
đang thắng trong ván bài poker) cũng có những ván thua giống như các ván thắng. Đây được gọi
là luật số lớn. Sai lầm của họ là áp dụng luật này cho một mẫu nhỏ, nghĩa là sử dụng không
chính xác “luật số nhỏ”.
ƯỚC LƯỢNG QUÁ CAO KHẢ NĂNG DỰ BÁO
Điều này có nghĩa rằng nhiều người có xu hướng tin rằng có nhiều khả năng dự báo hơn so với
mức thông thường.
SỰ SẪN CÓ,TỨC THÌ VÀ NỔI TRỘI
Dữ liệu mẫu đôi khi bị xem trọng quá mức, nó xuất hiện khi dữ liệu dễ dàng thu thập và xử lý
(dữ liệu có sẵn). Nhất là khi dữ liệu xảy ra gần đây,và gây nhiều chú ý.
+Theo tự nghiễm sẵn có: những sự kiện dễ dàng gợi lại trong trí óc thì được cho là dễ xuất hiện.
Sự sẵn có của dữ liệu như thế sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá xác suất tổng thể.
Sự sẵn có gồm 2 yếu tố:
+Lệch lạc tức thì( recency bias)
+Lệch lạc nổi trội( Salience bias)
1. Giới thiệu
Kinh tế học đã và đang gia tăng mạnh mẽ tính liên ngành của nó trong những năm gần đây, sử
dụng rộng rãi các phát triển từ xã hội học, tâm lý học và thậm chí cả thần kinh học để giải thích
tốt hơn hành vi kinh tế của từng tác nhân và toàn bộ thị trường. Tuy nhiên, chiều sâu nghiên cứu
trong tất cả các lĩnh vực khác biệt ban đầu này khiến việc duy trì một bức tranh toàn cảnh về ý
tưởng ban đầu rất tẻ nhạt mà không có các phím tắt đơn giản hóa.
Để cảnh báo chống lại tình trạng lạm phát quá mức trong lĩnh vực tài chính hành vi, chúng tôi
xem xét một trong những đặc điểm phổ biến được nghiên cứu hiện nay trong lĩnh vực tài chính,
đó là hiện tượng quá tự tin. Ở mức độ trực quan, quá tự tin dường như là một khái niệm rõ ràng
và đây có thể là lý do cho các định nghĩa hơi ít ỏi của nó được sử dụng trong một số nghiên cứu
tài chính hành vi. Mục đích của bài báo này là trình bày quá tự tin như một khái niệm tâm lý đã
phát triển tốt, đồng thời mô tả nguồn gốc, hình thức và định nghĩa của nó, cũng như tóm tắt các
ứng dụng chính của quá tự tin trong nghiên cứu tài chính hiện nay. Phương pháp điều trị rộng rãi
của chúng tôi về sự tự tin quá mức trong phần tâm lý nhằm chứng minh rằng bản chất và lý do
của sự tự tin quá mức vẫn tiếp tục được thảo luận giữa các nhà tâm lý học, với một số người
trong số họ đi xa đến mức khẳng định rằng bản thân hiện tượng này không tồn tại. Do đó, việc áp
dụng sự tin tưởng thái quá vào các mô hình kinh tế như một “thực tế đã có cơ sở” nên được xem
xét một cách thận trọng, vì nó dường như là một lĩnh vực đang phát triển trong chính tâm lý học.
Ngoài ra, việc tập hợp các thước đo khác nhau và khác biệt về sự tự tin quá mức, có thể được tìm
thấy trong một số tài liệu về tài chính và kinh tế, không nhất thiết phải được thực hiện bởi các
nhà tâm lý học và từ quan điểm đó có thể đại diện cho một sự đơn giản hóa quan trọng. Mặc dù
“tin rằng chúng ta biết nhiều hơn những gì chúng ta thực sự biết” và “tin rằng chúng ta giỏi hơn
những người khác” có vẻ gần như có nghĩa giống nhau, nghiên cứu tâm lý đặt hai niềm tin này rõ
ràng khác nhau. Trong bài báo của chúng tôi, chúng tôi phác thảo những khía cạnh quan trọng
nhất của sự tự tin thái quá được tìm thấy trong các tài liệu tâm lý học để tránh những quan niệm
sai lầm tương tự. Tổng quan ngắn gọn của chúng tôi về nghiên cứu tài chính chứng minh rằng
việc áp dụng ngay cả một khái niệm chung chung về sự tự tin quá mức cũng có thể giải thích
được nhiều hiện tượng trong tài chính mà lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn không giải thích được. Một
số ví dụ là khối lượng giao dịch quá mức trên thị trường tài chính, việc định giá sai bảo mật liên
tục hoặc các vụ mua lại bất lợi do một số công ty thực hiện. Ảnh hưởng kinh tế của việc quá tin
tưởng vào thị trường tài chính và các công ty đã được giám sát chặt chẽ hơn trong một thời gian
và các nghiên cứu tiếp tục phát triển, với những nghiên cứu quan trọng nhất được đưa vào dòng
chính của nghiên cứu tài chính.
Bài báo có cấu trúc như sau: Phần 2 cung cấp một cái nhìn tổng quan về những phát hiện chính
về sự tự tin quá mức trong tâm lý học, chia nó thành tiêu chuẩn sai và tích cực các khái niệm ảo
tưởng. Chúng tôi trình bày các định nghĩa và lý do khác nhau của sự tự tin thái quá và xem xét
một cuộc thảo luận quan trọng về sự tồn tại của nó giữa các nhà tâm lý học. Chúng tôi kết thúc
phần này với một bản tóm tắt về hiệu chuẩn của chuyên gia, được nghiên cứu bởi các nhà tâm lý
học.
2. Sự tự tin trong tâm lý
Thuật ngữ "quá tự tin" đã được sử dụng rộng rãi trong tâm lý học bắt đầu từ những năm 1960.
Khi các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khác, bao gồm kinh tế học, đã mở rộng ý nghĩa của nó
ra ngoài định nghĩa ban đầu của nó, chúng tôi sẽ cố gắng đưa vào bài đánh giá của mình những
phần mở rộng và cách giải thích phổ biến nhất về sự tự tin quá mức hiện đang được nghiên cứu
trong kinh tế và tài chính. Quá tự tin trong tâm lý học có liên quan chặt chẽ nhất đến nghiên cứu
hiệu chuẩn và phán đoán xác suất và bản thân thuật ngữ này thường được coi là một trong những
dạng hiệu chuẩn sai. bối cảnh của ảo tưởng tích cực, tức là hiệu ứng tốt hơn mức trung bình, ảo
tưởng về khả năng kiểm soát và sự lạc quan không thực tế. Bài tổng quan thảo luận về các
nghiên cứu tâm lý về sự tự tin quá mức đối với từng loại ở trên, để làm nổi bật sự khác biệt giữa
chúng, ngay cả khi các nhà kinh tế có xu hướng xem xét chúng cùng nhau.
2.1. Quá tự tin như hiệu chuẩn sai
Trong tâm lý học, hiệu chuẩn thường được nghiên cứu trên cơ sở các câu hỏi kiến thức chung do
các nhà nghiên cứu đưa ra (ví dụ: so sánh quy mô dân số của các thành phố khác nhau hoặc vị trí
địa lý của chúng). Người tham gia thử nghiệm trả lời các bộ câu hỏi và sau mỗi mục cụ thể (hoặc
sau một bộ câu hỏi hoặc khi kết thúc toàn bộ nhiệm vụ) phải đánh giá xác suất mà câu trả lời đã
cho (hoặc toàn bộ) là đúng. Hiệu chuẩn thích hợp diễn ra “nếu trong thời gian dài, đối với tất cả
các mệnh đề được gán một xác suất nhất định, tỷ lệ đúng bằng xác suất được ấn định” (Fischhoff
et al. 1977, trang 552). Nói một cách thẳng thắn, một thẩm phán được cân nhắc tốt có thể đánh
giá chính xác số lượng sai lầm mà anh ta mắc phải.
Hiệu chuẩn sai là sự khác biệt giữa tỷ lệ chính xác và xác suất được chỉ định (rằng một câu trả lời
nhất định là đúng). Quá tự tin được định nghĩa là một dạng hiệu chuẩn sai cụ thể, trong đó xác
suất được ấn định rằng các câu trả lời được đưa ra là đúng vượt quá độ chính xác thực sự của các
câu trả lời. Định nghĩa thô sơ này về sự tự tin quá mức như một hình thức hiệu chuẩn sai
đã được sử dụng rộng rãi bởi các nhà tâm lý học từ cuối những năm 1970. Oskamp (1965) đã
đưa ra một mô tả ngắn hơn nữa trong phân tích của ông về đánh giá lâm sàng của các nhà tâm lý
học, nơi mà sự tự tin thái quá được nghiên cứu đơn giản là sự vượt quá tin tưởng so với độ chính
xác. Oskamp đã chứng minh rằng sự tin tưởng vào phán đoán được thể hiện và độ chính xác của
phán quyết này nằm cách xa nhau và chúng có thể khác nhau xa hơn, vì lòng tin của một thẩm
phán có thể tăng lên trong nhiệm vụ đánh giá, trong khi độ chính xác của anh ta hầu như không
thay đổi. Ông nhận thấy có sự không phù hợp đáng kể giữa mức độ tự tin (53%) được thể hiện
bởi các nhà tâm lý học lâm sàng và tỷ lệ chính xác chẩn đoán của họ (28%), cho thấy mức độ tự
tin quá cao, được Fischhoff et al xác định sau này. (1980, trang 108) là “niềm tin không có cơ sở
vào tính đúng đắn của câu trả lời của một người”.
Các kết luận chung của Oskamp đã được chỉ rõ thêm trong các nghiên cứu hiệu chỉnh phán đoán
sau này. Quá tự tin đã được phát hiện trong một loạt các thí nghiệm, bao gồm cả các câu hỏi kiến
thức chung, bởi Fischhoff et al. (1977) và nó tỏ ra đặc biệt mạnh mẽ đối với các mục mà những
người tham gia chắc chắn, hoặc gần như chắc chắn, là đúng. Sự tự tin thái quá vẫn chiếm ưu thế
ngay cả khi các hướng dẫn cụ thể về bản chất của xác suất và hiệu chuẩn được trình bày cho
những người tham gia thử nghiệm. Việc đưa ra các biện pháp khuyến khích tài chính để thưởng
cho việc hiệu chuẩn đúng cũng không làm thay đổi bức tranh (Fischhoff và cộng sự 1977). Cải
thiện kết quả hiệu chuẩn từ việc hướng dẫn người tham gia xem xét các lý do ủng hộ và phản đối
các giả thuyết đã chọn trong thí nghiệm của Fischhoff và cộng sự. (1980). Sự tự tin quá mức
giảm đi trong trường hợp này do sự kết hợp của hai kết quả, sự giảm độ tin cậy được tuyên bố và
sự gia tăng số câu trả lời đúng. Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ quá tự tin bao gồm
sự hiện diện (hoặc thiếu) phản hồi rõ ràng và nhanh chóng, tính chất lặp đi lặp lại và đơn giản
của nhiệm vụ, ngụ ý rằng việc hiệu chuẩn có thể dao động (Lichtenstein và cộng sự. 1982;
Russo, Schoemaker 1992). Tuy nhiên, cuộc thảo luận về việc liệu tự tin thái quá là một đặc điểm
ổn định hay một quá trình năng động chịu sự thao túng vẫn chưa đưa ra câu trả lời chính xác cho
đến nay.
Một trong những khái niệm cần thiết trong nghiên cứu quá tự tin, đã được Fischhoff et al. (1977),
được gọi là "hiệu ứng khó-dễ". Phát hiện này chứng minh rằng quá tự tin xuất hiện hầu hết trong
các nhiệm vụ khó hoặc rất khó, trong khi các nhiệm vụ dễ dàng có thể tạo ra sự thiếu tự tin
(trong đó tỷ lệ câu trả lời đúng vượt quá khả năng phán đoán). Hiệu ứng khó-dễ đã được khẳng
định mạnh mẽ bởi Lichtenstein và cộng sự. (1982) và đã có mặt trong hầu hết các nghiên cứu
hiệu chuẩn kể từ đó.
Các phần phụ tiếp theo sẽ trình bày ngắn gọn hai cuộc thảo luận quan trọng giữa các nhà tâm lý
học trong lĩnh vực hiệu chuẩn sai, liên quan đến lý do của sự tự tin thái quá và sự tồn tại của nó.
Xem thêm về văn bản nguồn nàyNhập văn bản nguồn để có thông tin dịch thuật bổ sung
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu sâu rộng về sự tự tin thái quá, nhưng nguồn gốc hoặc lý do tồn
tại của nó vẫn chưa được xác định rõ ràng và thống nhất. Nhiều nhà nghiên cứu coi nó là điều
hiển nhiên, hoặc phân tích mức độ của nó, nhưng gốc rễ của nó vẫn đang được tranh luận. Mặc
dù điều này dường như là một lĩnh vực được các nhà tâm lý học quan tâm và cần khám phá
thêm, nhưng ý nghĩa của nó đối với các lĩnh vực khác (chẳng hạn như kinh tế học) là rất quan
trọng, vì chỉ việc xác định nguồn gốc của sự tự tin thái quá mới có thể cho phép tìm ra các biện
pháp giảm thiểu hoặc thúc đẩy nó , Nếu cần.
Một số lý do tâm lý cho sự tự tin quá mức xuất hiện trong tài liệu. Keren (1997) chia chúng
thành nhận thức và động lực (tự tin thái quá như một cơ chế tự thúc đẩy). Tương tự, Russo và
Schoemaker (1992) đặt tên cho các lĩnh vực nhận thức, tâm lý và động lực. Những lý do về nhận
thức bao gồm những thành kiến, có thể được giảm bớt bằng phản hồi nhanh và chính xác, phản
bác hoặc cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Mặt động viên cho thấy sự cần thiết phải tin vào hiệu quả
của một người để đạt được tiến bộ.
Trong quá trình nhận thức, nhiều lý do khác nhau có thể dẫn đến sự sai lệch về độ tin cậy và độ
chính xác. Sự tự tin quá mức có thể phát sinh do sai sót trong quá trình đưa ra các câu trả lời
không được lưu trữ trong bộ nhớ một cách dễ dàng hoặc niềm tin sai lầm rằng câu trả lời được
lưu trong bộ nhớ, khi không phải vậy. Bản chất tái tạo của trí nhớ và nhận thức tạo ra chỗ cho
những sai sót mà đối tượng không nhận ra. Ngoài ra, bản chất chọn lọc của trí nhớ, đưa các mục
“nổi bật” hơn vào nền trước, gây ra nhiều sai lầm hơn trong việc tạo ra các câu trả lời, trong khi
vẫn giữ nguyên mức độ tin cậy (Fischhoff et al. 1977). Cũng không có gì chắc chắn về thời điểm
hiệu chuẩn sai phát sinh, có thể là trong khi hình thành phán đoán tin cậy hoặc sau đó, trong khi
chuyển phán đoán đó thành xác suất (Fischhoff và cộng sự 1980).
Lý do một phần là nhận thức và một phần là động cơ cho sự tự tin thái quá là cái gọi là thành
kiến xác nhận, được khám phá rộng rãi trong các tài liệu. Sự thiên lệch xác nhận nảy sinh khi
người tham gia thí nghiệm sử dụng quá nhiều bằng chứng xác nhận (cho một giả thuyết đã chọn)
và việc người tham gia thí nghiệm sơ suất lập luận mâu thuẫn. Sự cải tiến trong việc hiệu chuẩn
theo một hướng dẫn cụ thể để xem xét cả hai loại bằng chứng do Fishhoff et al. (1980) ủng hộ
mạnh mẽ vai trò của sai lệch xác nhận trong sự xuất hiện của sự tự tin thái quá. Ngoài ra, các
phán đoán về độ tin cậy dường như chủ yếu liên quan đến số lượng và sức mạnh của bằng chứng
hỗ trợ, hơn là mâu thuẫn và sau này có rất ít, nếu có, mang lại sự hình thành phán đoán tin cậy
như vậy (Fischhoff và cộng sự 1980). Do đó, lập luận sai lệch xác nhận ngụ ý rằng hiệu chuẩn
sai không chỉ đơn thuần là một sai lầm nhận thức trong quá trình chuyển phán đoán tin cậy thành
một xác suất được biểu thị bằng số.
Xem thêm về văn bản nguồn nàyNhập văn bản nguồn để có thông tin dịch thuật bổ sung Việc
thảo luận về lý do quá tự tin cũng bao gồm cả tác động khó dễ. Mặc dù trong hầu hết các nghiên
cứu, hiệu ứng này là một phát hiện tiêu chuẩn, một số tác giả khẳng định rằng trên thực tế, những
câu hỏi khó (không tự nhiên) là lý do khiến sự tự tin thái quá xuất hiện và không có những hiệu
chuẩn sai này được quan sát thấy. Một thảo luận chi tiết hơn về điều này có thể được tìm thấy
trong phần phần phụ tiếp theo. Một yếu tố đã được đề cập đến ảnh hưởng đến sự tự tin quá mức
là sự hiện diện (hoặc thiếu) phản hồi rõ ràng, nhanh chóng, trong một số trường hợp có thể dẫn
đến hiệu chuẩn hoàn hảo, như được các nhà dự báo thời tiết Hoa Kỳ yêu thích (xem nghiên cứu
trích dẫn trong Lichtenstein và cộng sự. 1982).
Bắt nguồn từ quá trình xử lý nhận thức bị lỗi, lĩnh vực quan trọng tiếp theo của các nguồn tiềm
ẩn của sự tự tin quá mức xuất hiện, đó là lập luận về kinh nghiệm và thành kiến. Được thảo luận
chi tiết bởi Kahneman và Tversky (1982), nó chỉ ra ba kinh nghiệm học chính có thể đóng vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy sự tự tin thái quá, đó là:
- kinh nghiệm tính đại diện,
- tính khả dụng heuristic,
- điều chỉnh và neo heuristic.
Kinh nghiệm tính đại diện bao gồm các hiện tượng như bỏ qua tỷ lệ cơ sở (bỏ qua các xác suất
trước ảnh hưởng trực tiếp đến xác suất cuối cùng), bỏ qua kích thước mẫu (trong đó các kết luận
tổng quát được rút ra trên cơ sở các mẫu rất nhỏ), quan niệm sai lầm về xác suất (bao gồm cả
“con bạc của ngụy biện ”, trong đó việc quay một bánh xe roulette được cho là sẽ“ chắc chắn
”dẫn đến“ màu đỏ ”sau một loạt“ màu đen ”), không nhạy cảm với khả năng dự đoán (sử dụng sự
ưa thích của mô tả hơn là độ tin cậy của nó), ảo tưởng về tính hợp lệ (sự tự tin trong các mục phù
hợp với các khuôn mẫu nhất định, ngay cả khi mô tả của chúng là không đáng tin cậy) và cuối
cùng nhưng chắc chắn không kém phần quan trọng là không đánh giá đúng mức hồi quy về giá
trị trung bình (gán nhiều nguyên nhân khác nhau cho các sự kiện mà trên thực tế chỉ là hồi quy
về giá trị trung bình).
Tính khả dụng heuristic khiến mọi người đánh giá tần suất hoặc xác suất của một sự kiện bằng
tính dễ dàng mà họ nghĩ đến các tình huống hoặc mục tương tự. Kết quả là các sự kiện quyết liệt
sẽ có vẻ thường xuyên hơn so với thực tế, chỉ vì chúng được ghi nhớ một cách sống động hơn do
tính cách quyết liệt của chúng. Tương quan ảo tưởng cũng là một phần của tính khả dụng
heuristic, nơi mọi người nhầm lẫn sự đồng xuất hiện của các sự kiện với sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa chúng. Neo và điều chỉnh heuristic có thể được quan sát khi mọi người cố định đánh giá ban
đầu của họ ở một số mức (có thể hoàn toàn ngẫu nhiên) và sau đó điều chỉnh phán đoán cuối
cùng liên quan đến neo này, nhưng việc điều chỉnh thường không đủ.
Griffin và Tversky (1992) xác nhận tầm quan trọng của phương pháp phỏng đoán tính đại diện
và phương pháp kinh nghiệm neo và điều chỉnh, kết luận từ các nghiên cứu của họ rằng vai trò
của “sức mạnh” của bằng chứng (tức là “tính cực đoan” của nó) phần lớn vượt quá vai trò của nó
Việc thảo luận về lý do quá tự tin cũng bao gồm cả tác động khó dễ. Mặc dù trong hầu hết các
nghiên cứu, hiệu ứng này là một phát hiện tiêu chuẩn, một số tác giả khẳng định rằng trên thực
tế, những câu hỏi khó (không tự nhiên) là lý do khiến sự tự tin thái quá xuất hiện và không có
những hiệu chuẩn sai này được quan sát thấy. Một thảo luận chi tiết hơn về điều này có thể được
tìm thấy trong phần phần phụ tiếp theo. Một yếu tố đã được đề cập đến ảnh hưởng đến sự tự tin
quá mức là sự hiện diện (hoặc thiếu) phản hồi rõ ràng, nhanh chóng, trong một số trường hợp có
thể dẫn đến hiệu chuẩn hoàn hảo, như được các nhà dự báo thời tiết Hoa Kỳ yêu thích (xem
nghiên cứu trích dẫn trong Lichtenstein và cộng sự. 1982).
Bắt nguồn từ quá trình xử lý nhận thức bị lỗi, lĩnh vực quan trọng tiếp theo của các nguồn tiềm
ẩn của sự tự tin quá mức xuất hiện, đó là lập luận về kinh nghiệm và thành kiến. Được thảo luận
chi tiết bởi Kahneman và Tversky (1982), nó chỉ ra ba kinh nghiệm học chính có thể đóng vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy sự tự tin thái quá, đó là:
- kinh nghiệm tính đại diện,
- tính khả dụng heuristic,
- điều chỉnh và neo heuristic.
Kinh nghiệm tính đại diện bao gồm các hiện tượng như bỏ qua tỷ lệ cơ sở (bỏ qua các xác suất
trước ảnh hưởng trực tiếp đến xác suất cuối cùng), bỏ qua kích thước mẫu (trong đó các kết luận
tổng quát được rút ra trên cơ sở các mẫu rất nhỏ), quan niệm sai lầm về xác suất (bao gồm cả
“con bạc của ngụy biện ”, trong đó việc quay một bánh xe roulette được cho là sẽ“ chắc chắn
”dẫn đến“ màu đỏ ”sau một loạt“ màu đen ”), không nhạy cảm với khả năng dự đoán (sử dụng sự
ưa thích của mô tả hơn là độ tin cậy của nó), ảo tưởng về tính hợp lệ (sự tự tin trong các mục phù
hợp với các khuôn mẫu nhất định, ngay cả khi mô tả của chúng là không đáng tin cậy) và cuối
cùng nhưng chắc chắn không kém phần quan trọng là không đánh giá đúng mức hồi quy về giá
trị trung bình (gán nhiều nguyên nhân khác nhau cho các sự kiện mà trên thực tế chỉ là hồi quy
về giá trị trung bình).
Tính khả dụng heuristic khiến mọi người đánh giá tần suất hoặc xác suất của một sự kiện bằng
tính dễ dàng mà họ nghĩ đến các tình huống hoặc mục tương tự. Kết quả là các sự kiện quyết liệt
sẽ có vẻ thường xuyên hơn so với thực tế, chỉ vì chúng được ghi nhớ một cách sống động hơn do
tính cách quyết liệt của chúng. Tương quan ảo tưởng cũng là một phần của tính khả dụng
heuristic, nơi mọi người nhầm lẫn sự đồng xuất hiện của các sự kiện với sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa chúng. Neo và điều chỉnh heuristic có thể được quan sát khi mọi người cố định đánh giá ban
đầu của họ ở một số mức (có thể hoàn toàn ngẫu nhiên) và sau đó điều chỉnh phán đoán cuối
cùng liên quan đến neo này, nhưng việc điều chỉnh thường không đủ.
Griffin và Tversky (1992) xác nhận tầm quan trọng của phương pháp phỏng đoán tính đại diện
và phương pháp kinh nghiệm neo và điều chỉnh, kết luận từ các nghiên cứu của họ rằng vai trò
của “sức mạnh” của bằng chứng (tức là “tính cực đoan” của nó) phần lớn vượt quá vai trò của nó
3. Sự quá tự tin trong tài chính
Các nhà kinh tế bắt đầu áp dụng các phát hiện tâm lý học vào các mô hình kinh tế bắt đầu từ
những năm 1970, nhưng sự phát triển nhanh nhất của xu hướng đó bắt đầu vào những năm 1990.
Kể từ đó, tự tin thái quá cũng trở thành một lĩnh vực được các nhà kinh tế quan tâm, chủ yếu
trong bối cảnh hành vi trên thị trường tài chính. Sự tự tin quá mức được định nghĩa ở đây thường
là sự đánh giá quá cao về kiến thức hoặc độ chính xác của thông tin cá nhân của một người hoặc
cách giải thích thông tin đó. Ngoài ra, việc đánh giá thấp phương sai của các tín hiệu hoặc sự
biến động của giá trị tài sản cũng được xem xét. Một số câu đố tìm thấy trên thị trường tài chính,
mà trước đây không thể giải được bằng lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn, đã được giải đáp thành công
một khi sự tin tưởng thái quá của các nhà đầu tư được giả định. Những vấn đề này chủ yếu bao
gồm việc định giá sai chứng khoán liên tục, khối lượng giao dịch quá mức và hiệu ứng định đoạt,
tức là xu hướng bán các cổ phiếu hoạt động tốt và giữ lại những cổ phiếu thua lỗ. Sự hiện diện
tiềm tàng của sự tin tưởng quá mức vào thị trường và sự tồn tại của nó trong dài hạn đã thúc đẩy
một cuộc thảo luận đang diễn ra về ý tưởng đã được thiết lập tốt về thị trường hiệu quả và tính
hợp lý của tác nhân kinh tế. Bất chấp một số nhà kinh tế còn hoài nghi về sự tồn tại và ảnh
hưởng của sự tự tin thái quá, mức độ phổ biến của nó trên thị trường tài chính đã được chứng
minh nhiều lần, thông qua các phương pháp từ nghiên cứu thực nghiệm và bảng câu hỏi đến các
mô hình chính thức và dữ liệu thị trường tài chính.
Một lĩnh vực ít được khám phá hơn là sự tồn tại và các tác động có thể có của việc quá tin tưởng
vào bối cảnh tài chính doanh nghiệp. Giả sử sự phổ biến của sự tự tin quá mức là một đặc điểm
chung của con người, thì sự tồn tại của nó trong môi trường doanh nghiệp có thể không bị loại
trừ. Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của nó đối với các doanh nghiệp chỉ mới phát triển gần
đây và vẫn là một lĩnh vực đang phát triển. Phạm vi hạn chế của dữ liệu có sẵn gây ra một số trở
ngại và cách giải thích của nó không phải lúc nào cũng cung cấp câu trả lời đơn giản, không
giống như dữ liệu giao dịch của nhà đầu tư từ thị trường tài chính. Hai hướng chính của nghiên
cứu quá tự tin trong bối cảnh tài chính doanh nghiệp là nghiên cứu các hoạt động mua bán và sáp
nhập của các doanh nghiệp và phân tích cấu trúc tài chính nội bộ của doanh nghiệp. Hoạt động
mua bán và sáp nhập công ty đã được nghiên cứu kỹ lưỡng trong một thời gian và nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng tác động của chúng không nhất thiết chỉ tích cực về mặt lợi ích của cổ đông.
Điều này trở nên đặc biệt thú vị ngày nay, khi các công ty lớn "ly hôn" bắt đầu
11 Các nghiên cứu quá tự tin đi theo con đường quan trọng này
và chỉ ra rằng một số vụ sáp nhập có thể bắt nguồn từ việc các Giám đốc điều hành quá tự tin
đánh giá quá cao kiến thức của họ hoặc ảnh hưởng tích cực của họ đến lợi nhuận của các công ty
bị sáp nhập và kết quả cho các cổ đông có thể chứng minh tiêu cực. Đối với cấu trúc tài chính
doanh nghiệp, nghiên cứu quá tự tin hiện có tập trung vào tỷ lệ nợ tối ưu so với nguồn vốn chủ
sở hữu cho các khoản đầu tư mới và khả năng phụ thuộc quá mức vào dòng tiền tự do về mặt đó.
Thời điểm thực hiện các quyền chọn mua cổ phiếu của người quản lý được sử dụng như một đại
diện cho sự tự tin quá mức ở đây, vì các nhà quản lý quá tự tin có xu hướng tin tưởng vào khả
năng giữ giá cổ phiếu tăng nên họ không thực hiện các lựa chọn mà họ nắm giữ. Những tác động
quan trọng có thể xảy ra của việc quá tự tin vào hiệu quả hoạt động và hồ sơ rủi ro của các doanh
nghiệp làm cho lĩnh vực này trở thành một bổ sung quan trọng cho các mô hình tài chính doanh
nghiệp tiêu chuẩn.
Các nhà kinh tế bắt đầu thực hiện các phát hiện tâm lý vào các mô hình kinh tế bắt đầu từ những
năm 1970, nhưng sự phát triển nhanh chóng của xu hướng đó bắt đầu từ những năm 1990. Từ
thì sự tự tin thái quá cũng trở thành một lĩnh vực được quan tâm đối với các nhà kinh tế, chủ yếu
trong bối cảnh hành vi trên thị trường tài chính. Quá tự tin được định nghĩa ở đây
thường là đánh giá quá cao kiến thức của một người hoặc độ chính xác của thông tin cá nhân,
hoặc diễn giải của chúng. Ngoài ra, đánh giá thấp phương sai của các tín hiệu hoặc sự biến động
của giá trị tài sản cũng được xem xét. Một số câu đố tìm thấy trên thị trường tài chính, trước đây
không thể được giải quyết bằng cách sử dụng tiêu chuẩn lý thuyết kinh tế, đã được tính toán
thành công một lần sự tin tưởng quá mức của các nhà đầu tư đã được giả định. Những vấn đề này
chủ yếu bao gồm việc định giá sai chứng khoán liên tục, khối lượng giao dịch quá mức và hiệu
ứng định đoạt, tức là xu hướng bán các cổ phiếu hoạt động tốt và
để giữ lấy những cái bị mất. Sự hiện diện tiềm năng của quá tin tưởng vào thị trường và sự kiên
trì của nó trong dài hạn đã thúc đẩy một cuộc thảo luận đang diễn ra về ý tưởng tốt nhất về thị
trường hiệu quả và tác nhân kinh tế tính hợp lý. Bất chấp một số hoài nghi giữa các nhà kinh tế
về sự tồn tại và ảnh hưởng của sự tự tin thái quá, sự phổ biến của nó trên thị trường tài chính đã
được chứng minh nhiều lần, thông qua các phương pháp khác nhau, từ thử nghiệm và các nghiên
cứu bảng câu hỏi đến các mô hình chính thức và tài chính dữ liệu thị trường.
Một lĩnh vực ít được khám phá hơn là sự tồn tại và có thể tác động của sự tin tưởng quá mức vào
tài chính doanh nghiệp bối cảnh. Giả định sự phổ biến của sự tự tin quá mức như một đặc điểm
chung của con người, sự tồn tại của nó trong môi trường doanh nghiệp có thể không bị loại trừ.
Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của nó đối với các doanh nghiệp chỉ mới phát triển gần đây
và vẫn đang phát triển cánh đồng. Phạm vi giới hạn của dữ liệu có sẵn trình bày
một số trở ngại và việc giải thích nó không phải lúc nào cũng cung cấp câu trả lời đơn giản,
không giống như nhà đầu tư dữ liệu giao dịch từ thị trường tài chính. Hai chính
hướng nghiên cứu quá tự tin trong bối cảnh tài chính doanh nghiệp là các nghiên cứu về sáp nhập
và mua lại hoạt động của các công ty và phân tích nội bộ công ty cơ cấu tài chính. Hợp nhất và
mua lại công ty đã được giám sát học tập một thời gian bây giờ và nhiều nhà nghiên cứu gợi ý
rằng tác động không nhất thiết chỉ tích cực về mặt lợi ích của cổ đông. Điều này trở nên đặc biệt
thú vị ngày nay, khi các công ty lớn "ly hôn" bắt đầu tiêu cực. Đối với cấu trúc tài chính doanh
nghiệp, nghiên cứu quá tự tin hiện có tập trung vào tỷ trọng nợ so với vốn chủ sở hữu tài trợ mới
các khoản đầu tư và khả năng phụ thuộc quá mức vào dòng tiền tự do về mặt đó. Thời gian thực
hiện quản lý quyền chọn cổ phiếu được sử dụng làm đại diện cho sự tự tin thái quá ở đây, vì các
nhà quản lý quá tự tin có xu hướng tin vào khả năng giữ cho giá cổ phiếu tăng để họ kiềm chế
nhận ra các tùy chọn mà họ nắm giữ. Tiềm năng quan trọng hệ quả của sự tự tin quá mức đối với
hiệu suất và hồ sơ rủi ro của các doanh nghiệp làm cho lĩnh vực này trở nên quan trọng
ngoài các mô hình tài chính doanh nghiệp tiêu chuẩn.
Quá tin tưởng vào thị trường tài chính
Sự hiện diện và tác động của sự tự tin quá mức đối với thị trường tài chính được phân tích thông
qua thử nghiệm và nghiên cứu bảng câu hỏi, mượn từ tâm lý học, và thông qua các công cụ kinh
tế tiêu chuẩn của mô hình chính thức và phân tích dữ liệu. Thử nghiệm và bảng câu hỏi
phương pháp luận phải đối mặt với những chỉ trích thông thường, bao gồm cả lấy mẫu không đại
diện, cỡ mẫu nhỏ, giả tạo các vấn đề phát sinh và điều kiện phòng thí nghiệm khác nhau
từ môi trường thế giới thực. Tuy nhiên họ cho phép phác thảo các hướng nghiên cứu và giả
thuyết mới, mà sau đó được phân tích thông qua chính thức mô hình kinh tế và xác minh bằng
phân tích dữ liệu thị trường. Trong các phần sau, chúng tôi sẽ trình bày về sự tự tin thái quá
nghiên cứu đề cập đến thị trường tài chính trong bối cảnh tất cả các công cụ trên.
Chương 7: ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ QUÁ TỰ TIN TRONG CÁC QUYẾT ĐỊNH TÀI
CHÍNH
1.Lý thuyết tài chính hành vi về lệch lạc nhận thức
Trong lý thuyết tài chính truyền thống, các chủ thể kinh tế được giả định là có tính lý trí - tức họ
hành xử một cách hợp lý. Tính lý trí có 2 ý nghĩa. Thứ nhất, các chủ thể tiếp nhận thông tin mới
và phản ánh đúng bản chất thông tin đó vào niềm tin của họ, nghĩa là, về mặt lý tưởng, hành vi
này phải đúng theo quy luật xác suất Bayes. Thứ hai, với niềm tin sẵn có, các chủ thể đưa ra các
quyết định mang tính quy chuẩn,
nghĩa là, về mặt lý tưởng, hành vi này phải đúng theo quan điểm của Savage (1964) về hữu dụng
kỳ vọng chủ quan (subjective expected utility). Trong khi giả định về tính lý trí cho thấy sự đơn
giản đầy hấp dẫn về tiếp cận đối tượng nghiên cứu trong khuôn khổ lý thuyết tài chính (một phần
của lý thuyết kinh tế học) truyền thống, các dữ liệu thực nghiệm lại phản ánh những hạn chế về
khả năng giải thích của các lý thuyết chuẩn tắc liên quan đến hành vi chủ thể kinh tế trong thị
trường (Barberis và Thaler, 2003). Ở khía cạnh này, lý thuyết tài chính hành vi nổi lên như một
tiếp cận mới nhằm giải quyết những hạn chế của khung lý thuyết truyền thống.
Lý thuyết tài chính hành vi sử dụng những mô hình được xây dựng trên cơ sở các chủ thể lý trí
không hoàn toàn nhằm giải thích những bối cảnh tài chính mà các lý thuyết tài chính truyền
thống bế tắc trong việc đi tìm lời giải thích thích đáng. Cụ thể, các mô hình lý thuyết tài chính
hành vi đi vào phân tích những hệ quả khi nới lỏng 2 mức độ trong giả định về tính lý trí của mô
hình lý thuyết chuẩn tắc: mức độ tuân thủ luật Bayes và mức độ tuân thủ tính hữu dụng kỳ vọng
chủ quan. Đầu tiên, một số mô hình lý thuyết tài chính hành vi tiếp cận theo hướng là, các chủ
thể không điều chỉnh niềm tin của mình một cách đúng đắn khi tiếp nhận thông tin mới, tức
không theo luật Bayes. Các mô hình lý thuyết tài chính hành vi khác lại xem các chủ thể cư xử
theo luật Bayes nhưng hành vi đó là không chuẩn mực, tức là không theo tính chất hữu dụng kỳ
vọng chủ quan.
Từ góc độ tiếp cận về tính thiếu lý trí hoàn toàn, lý thuyết tài chính hành vi hướng đến 2 mục
tiêu nghiên cứu khác nhau - hình thành nên 2 phân mảng nghiên cứu khác nhau của lý thuyết.
Phân mảng lý thuyết đầu tiên tập trung lên các giới hạn về arbitrage và phân mảng thứ hai tập
trung vào các lệch lạc trong niềm tin và sở thích cá nhân (tâm lý học nhận thức). Mục tiêu của
phân mảng lý thuyết thứ nhất là nhằm chứng minh tính lý trí không hoàn toàn (của nhà đầu tư)
có tác động đáng kể và lâu dài lên giá cả tài sản– tháo gỡ khó khăn mà lý thuyết thị trường hiệu
quả đối mặt khi sử dụng luận điểm về arbitrage để giải thích các ví dụ thực nghiệm. Cụ thể, luận
điểm về sự hiện hữu của quá trình arbitrage sẽ khiến các loại bỏ hiệu ứng của tính lý trí không
hoàn toàn lên giá cả trong dài hạn. Quan điểm của những người ủng
hộ giả thuyết thị trường hiệu quả cho rằng, thậm chí trong một nền kinh tế tồn tại cả nhà đầu tư
(chủ thể) hợp lý và hợp lý không hoàn toàn, hành vi của các nhà đầu tư hợp lý thông qua
arbitrage sẽ ngăn chặn các nhà đầu tư hợp lý không hoàn toàn trong việc gây ảnh hưởng lên giá
cả cổ phần trong dài hạn. Giải quyết sự thiếu hợp lý của quan điểm arbitrage đó trong việc lý giải
các bằng chứng thực nghiệm, phân mảng lý thuyết giới hạn arbitrage đã thành công trong việc dự
báo trong những trường hợp cụ thể nào thì lực arbitrage có hiệu lực và trong những trường hợp
nào thì lực arbitrage sẽ không có hiệu lực (Ritter, 2003). Như vậy, dưới góc nhìn của lý thuyết tài
chính hành vi, quan điểm arbitrage của lý thuyết thị trường hiệu quả dựa trên giả định tính lý trí
chỉ là một trường hợp đặc biệt (thuần túy sơ khai) và quan điểm về tính lý trí không hoàn toàn
của lý thuyết tài chính hành vi sẽ đóng vai trò bổ sung cho lý thuyết thị trường hiệu quả: các giới
hạn arbitrage cho phép việc định giá sai tồn tại mà vẫn loại trừ khả năng sinh lợi tiềm năng từ
arbitrage.
Mục tiêu của phân mảng tâm lý học nhận thức của lý thuyết tài chính hành vi là nhằm đưa ra các
dự báo xác đáng trong hành vi chủ thể kinh tế. Để làm việc này, phân mảng tâm lý học nhận thức
cần xác định mức độ hình thành sai số của tính thiếu lý trí của các chủ thể. Nói cách khác, đó là
mức độ con người không tuân thủ đúng theo luật Bayes và/hoặc theo tính hữu dụng kỳ vọng chủ
quan. Đây là lúc các kinh tế gia hành vi đi tìm kiếm và kết hợp với những bằng chứng thí nghiệm
của các nhà tâm lý học nhận thức. Từ đây, các mô hình lý thuyết tài chính hành vi (kinh tế học
hành
vi) dựa trên hành vi không hợp lý hoàn toàn của các chủ thể mà bắt nguồn từ các lệch lạc trong
niềm tin và sự ưa thích cá nhân.
Đây là những mô hình được thiết kế để giải thích cách thức chủ thể hình thành nên các kỳ vọng.
Ở khía cạnh lệch lạc niềm tin, những mẫu hình được vay mượn từ lý thuyết tâm lý học (như sẽ
được trình bày ở phần tiếp theo) đã giúp lý thuyết tài chính hành vi dự báo cách thực mà con
người hình thành niềm tin trong thực tiễn. Ở khía cạnh khác biệt trong sở thích cá nhân, lý thuyết
tâm lý học nhận thức cung cấp những phát hiện thực nghiệm thuyết phục giúp lý thuyết tài chính
hành vi phân tách những cách thức mà con người trong thực tế hình thành các kỳ vọng và đưa ra
các
quyết định. Nổi bật nhất là ứng dụng từ lý thuyết kỳ vọng của các nhà tâm lý học nhận thức như
Kahneman và Tversky (1975, 1979) với phát hiện về tính lý trí bị giới hạn (bounded rationality).
Cụ thể, lý thuyết tài chính truyền thống xem hành vi con người hoặc là lý trí hoặc là không thể
chuẩn mực hóa. Bằng tiếp cận tâm lý học nhận thức, lý thuyết tài chính hành vi cho rằng cả hai
đặc tính lý trí và không chuẩn mực đều có thể tồn tại – và điều này phản ánh chính xác hơn cho
bản chất hành vi của con người trong thực tế.
2.Tâm lý học nhận thức: những mẫu hình lệch lạc hành vi
Phần này trình bày một số mẫu hình lệch lạc hành vi mà các nhà tâm lý học nhận thức phát hiện
được, với trọng tâm là lệch lạc quá tự tin.
2.1. Sự suy nghiệm (quy tắc kinh nghiệm)
Sự suy nghiệm hay quy tắc kinh nghiệm là những hoạt động ý nghĩ dựa trên những kinh nghiệm
mà đối tượng trải qua, giúp việc đưa ra các quyết định dễ dàng hơn. Có nhiều dạng suy nghiệm,
nhưng có 3 loại suy nghiệm có tính chất hiệu lực về mặc kinh tế học là (1) suy nghiệm đánh giá
tính đại diện và tính tương đồng; (2) suy nghiệm đánh giá tính sẵn có của sự kiện và viễn cảnh;
và (3) suy nghiệm điều chỉnh từ điểm neo (điểm khởi đầu) (xem Tversky và Kahneman, 1975).
Suy nghiệm đầu tiên là cách thức suy nghĩ diễn ra khi con người đưa ra các phán đoán về khả
năng xảy ra của một sự kiện dưới điều kiện không chắc chắn, hoặc phán đoán một tình huống
dựa trên mức độ tương đồng của các viễn cảnh so với nguyên bản gốc trong ý nghĩ của người
phán đoán. Sự suy nghiệm thứ hai được con người sử dụng khi đánh giá về khả năng xảy ra của
một sự kiện một cách tự nhiên (không nỗ lực nhiều) dựa trên các sự kiện sẵn có hiện ra trong ý
nghĩ, cũng như đánh giá tính hợp lý của một tiến trình phát triển cụ thể. Suy nghiệm thứ ba là
một khuynh hướng phổ biến khi con người dựa vào thông tin đầu tiên được cung cấp (điểm neo)
để đưa ra các quyết định.
Bởi vì dựa trên quy tắc suy ra từ các trải nghiệm tích lũy theo thời gian, những suy nghiệm
thường dễ đưa đến các lệch lạc (có thể dự báo một cách hệ thống) làm các quyết định đưa ra trở
nên thiếu tối ưu. Ví dụ, liên quan đến quyết định phân bổ tài sản đầu tư, nhà đầu tư trong thực
tiễn thường áp dụng quy tắc 1/N thay vì các chiến
lược lý thuyết như tối ưu hóa phương sai trung bình hay phân tích các kịch bản theo xác suất.
Ritter (2003) lấy ví dụ trong trường hợp đầu tư tiền hưu trí để minh họa cho quy tắc 1/N. Khi có
N lựa chọn để đầu tư tiền cho mục đích hưu trí, nhiều người có xu hướng phân bổ tiền theo tỷ lệ
1/N cho các nguồn. Nếu có 3 quỹ đầu tư, 1/3 số tiền sẽ được đặt vào mỗi quỹ. Nếu 2 quỹ là quỹ
cổ phần, thì 2/3 số tiền sẽ đặt vào các vốn cổ phần. Nếu có 1 quỹ cổ phần, 1/3 số tiền sẽ được
đầu tư vào vốn cổ phần. Benartzi and Thaler (2001) chỉ ra rằng thực tế có nhiều người tuân theo
quy tắc 1/N.
2.2. Kế toán nhận thức (kế toán tâm lý) và cấu trúc kiểu khung (framing)
Kế toán nhận thức là hành vi con người chia tách các quyết định đối với cùng một loại nguồn
lực. Thuật ngữ này được đưa ra đầu tiên bởi Thaler (1985) khi ông cố gắng mô tả tiến trình con
người chuẩn hóa, phân loại và đánh giá các kết quả kinh tế. Thaler xây dựng một mô hình hành
vi tiêu dùng sử dụng kết hợp tâm lý học nhận thức và kinh tế học vi mô. Mô hình này bắt đầu với
quá trình tiêu chuẩn hóa nhận thức đối với việc kết hợp giữa khoản lời và tổn thất sử dụng hàm
giá trị của lý thuyết kỳ vọng. Ông cũng đưa ra thuật ngữ mới “hữu dụng giao dịch” để mô hình
hóa quá trình đánh giá sự trao đổi mua bán. Đặc trưng của kế toán nhận thức được phản ánh
thông qua tiến trình lập ngân sách hộ gia đình.
Ritter (2003) minh họa tiến trình này như sau: Nhiều người thường lập một ngân sách gia đình
dành cho thực phẩm và một ngân sách gia đình cho hoạt động giải trí. Ở nhà, khi ngân sách gia
đình ràng buộc, họ sẽ không ăn món tôm hùm bởi vì chúng đắt hơn nhiều so với món cá. Tuy
nhiên khi đi ăn trong nhà hàng, họ sẽ gọi món tôm hùm mặc dù giá cao hơn nhiều so với một bữa
ăn đơn giản với món cá. Rõ ràng, nếu họ ăn tôm hùm ở nhà và ăn món cá ở nhà hàng thì họ có
thể tiết kiệm được tiền. Bởi vì họ suy nghĩ khác biệt về bữa ăn ở nhà hàng và bữa ăn ở nhà nên
họ sẽ lựa chọn cách tằn tiện cho việc ăn uống ở nhà. Rõ ràng, khái niệm kế toán nhận thức có
nhiều hàm ý trong lĩnh vực định giá (Thaler, 1985).
Cấu trúc kiểu khung là một thuật ngữ khoa học xã hội bao gồm tập hợp các khái niệm và phương
diện lý thuyết mô tả cách thức các thực thể tổ chức, nhận thức, và tiếp cận với hiện thực. Cùng
với kế toán nhận thức, cấu trúc kiểu khung được sử dụng
để làm rõ lý thuyết chu kỳ sống hành vi (Shefrin và Thaler, 1988). Theo đó, lý thuyết này giả
định các hộ gia đình xem các thành phần trong của cải của họ là không thể thay thế hoàn toàn
mặc dù không có những hạn chế tín dụng. Cụ thể, ở đây của cải được phân chia thành 3 loại gồm
thu nhập hiện hành, tài sản hiện hành và thu nhập tương lai. Ham muốn tiêu dùng được cho là
lớn nhất đối với thu nhập hiện tại và ít nhất đối với thu nhập tương lai. Nói cách khác, các khoản
kế toán khác nhau trên cùng nguồn lực của cải được nhận thức là không thể thay thế hoàn toàn
và khuynh hướng tiêu dùng biên trên mỗi khoản đó là khác nhau. Như vậy, cùng với ứng dụng
của kế toán tâm lý, cấu trúc kiểu khung đối với việc phân chia các lớp của cải sẽ có những hàm ý
khác nhau với hành vi hộ gia đình (đối tượng chủ thể trong lý thuyết này).
2.3. Tính điển hình và bảo thủ
Con người có khuynh hướng đánh giá thấp giá trị của các sự kiện trong dài hạn, và đặt nhiều
quan tâm lên các trải nghiệm gần nhất (Ritter, 2003). Lệch lạc này liên quan đến suy nghiệm
đánh giá tính sẵn có (đã trình bày ở trên) do được tạo ra bởi khả năng của bộ não (con người) khi
triệu hồi thông tin trong quá khứ là khác nhau ứng với độ dài quá khứ và do đó “tính sẵn có”,
theo ngôn ngữ của Kahneman và Tversky (1975), của thông tin mà bộ nhớ truy xuất lại khi gặp
một sự kiện liên quan là không giống nhau (Barberis và Thaler, 2003). Về mặt xác suất, những
sự kiện gần nhất được gán với trọng số lớn hơn và điều đó có thể làm biến tướng sự đánh giá.
Ritter (2003) đưa ra ví dụ, khi lợi tức cổ phần cao trong nhiều năm liền (ví dụ giai đoạn 1982-
2000 ở Mỹ và Tây Âu), nhiều người bắt đầu tin rằng lợi tức cổ phần cao là điều bình thường.
Ngược lại với lệch lạc điển hình là lệch lạc bảo thủ. Khi mọi thứ thay đổi, con người có khuynh
hướng chậm chạp trong việc tiếp nhận và cập nhật cái mới (Ritter, 2003). Tuy nhiên, nếu thay
đổi duy trì trong một thời gian đủ dài, con người sẽ điều chỉnh thích ứng với thay đổi và nhiều
khả năng sẽ phản ứng thái quá và đánh giá thấp những sự kiện dài hạn trước đó (lệch lạc điển
hình).
môi giới chiết khấu và nhận thấy rằng, tính bình quân, con người giao dịch càng nhiều thì kết
quả càng tệ. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nam thường giao dịch nhiều hơn, và kết quả thu được
tệ hơn, so với các nhà đầu tư nữ.
3. Lệch lạc quá tự tin nhà quản trị trong lý thuyết tài chính hành vi
Sự nổi lên và phát triển của tài chính hành vi được dựa trên động lực nhằm giải thích các bài toán
về quyết định tài chính thiếu lý trí gây ra bởi tác nhân con người. Thuật ngữ “tài chính hành vi”
được đề xuất đầu tiên bởi giáo sư Burrell khi nghiên cứu về các phương pháp thí nghiệm cho
chiến lược đầu tư (Olsen, 2001). Theo quan điểm của Burrell, khi đo lường thu nhập từ đầu tư
của nhà đầu tư cần thiết lập và áp dụng các mô hình đầu tư định lượng và nghiên cứu các mẫu
hình hành vi của nhà đầu tư. Tài chính hành vi sử dụng các phương pháp phân tích tâm lý học và
bổ sung thêm nhân tố con người. Các quan điểm của tài chính hành vi thường được xác nhận
bằng các thí nghiệm.
Trong bối cảnh xã hội thực, mặc dù hầu hết các giám đốc doanh nghiệp đã được đào tạo nghiệp
vụ về lý thuyết và có nhiều kinh nghiệm trong việc tham gia vào hoạt động điều hành hoạt động
kinh doanh doanh nghiệp, vẫn có nhiều lý do cho việc họ có thể đưa ra các quyết định thiếu lý
trí. Con người thường không thể đưa ra phán đoán lý trí do nhân tố cảm xúc. Thậm chí nếu người
giám đốc là lý trí hoàn hảo, họ cũng có thể không có đầy đủ các thông tin đáng tin cậy. Do đó,
rất khó cho con người đưa ra kết luận hiệu quả về những gì họ quan sát được. Bối cảnh thực tế
như thế là khác xa với giả thuyết về chủ thể kinh tế lý trí. Đây cũng là nguyên nhân chính lý giải
tại sao các hành vi ra quyết định của các giám đốc doanh nghiệp thường thiếu lý trí và dẫn đến
các lệch lạc trong quyết định. Có nhiều nhân tố tâm lý dẫn đến các lệch lạc ra quyết định (như đã
trình bày ở trên), trong đó bao gồm hành vi quá tự tin – một khái niệm quan trọng trong lý thuyết
tài chính hành vi về quyết định người giám đốc doanh nghiệp. Hai phần tiếp theo của chương
này trình bày tiếp cận tài chính hành vi trong lý thuyết tài chính doanh nghiệp hiện đại với một
ứng dụng quan trọng của hành vi quá tự tin nhà quản trị doanh nghiệp.
Chương 8: Nhà đầu tư cá nhân và tác động của cảm xúc.
10.2 CÓ PHẢI TÂM TRẠNG NHÀ ĐẦU TƯ HÌNH THÀNH TÂM TRẠNG THỊ TRƯỜNG ?
Trong quyển sách bán chạy nhất của nhà kinh tế học Robert Shiller " Irational Exuberance " ,
ông cho rằng “ tâm trạng của nhà đầu tư khi họ quyết định đầu tư là một nhân tố quan trọng tạo
ra thị trường có xu hướng đi lên " , xuất hiện ở nhiều nước những năm 1990. ' Có phải cảm xúc
của những nhà giao dịch đã chuyển thành tâm trạng thị trường , và sau đó chuyển dịch thị trường
? Đó là một câu hỏi thú vị . Một vài nghiên cứu gần đây kết luận hành vi tài chính bất thường có
thể được giải thích bằng cảm xúc .
Đây là một số ví dụ về vấn đề này . Một nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 26 sàn giao dịch chứng
khoán quốc tế cho rằng tâm trạng tốt do ánh nắng buổi sáng dẫn đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán
cao hơn. Một ngày nắng đẹp trời có thể làm cho con người lạc quan hơn , và sau đó họ mua
chứng khoán nhiều hơn . Những nhà nghiên cứu khác tìm thấy rằng thị trường chứng khoán giảm
điểm khi giờ sinh học của những nhà đầu tư bị phá vỡ bởi sự thay đổi giờ giấc nhằm rút ngắn
thời gian ban ngày . ” Một nghiên cứu gần đây đề xuất rằng kết quả của một trận bóng đá có
tương quan mạnh với tâm trạng nhà đầu tư . Sau khi đội bóng quốc gia thất bại ở vòng đấu loại
Word Cup sẽ dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong thị trường của quốc gia đó .
Những bài nghiên cứu tổng hợp về tác động của tâm trạng nhà đầu tư đến việc định giá trên thị
trường chứng khoán có cung cấp những bằng chứng rõ ràng về việc hành vi cá nhân chuyển
thành kết quả thị trường hay không vẫn pred còn là vấn đề gây tranh cãi . Ví dụ , thậm chí nếu
mọi người lạc quan một cách bất hợp lý vào những ngày đẹp trời , có phải là họ sẽ kéo nhau đi
mua
Nhà đầu tư cá nhân và tác động của cảm xúc chứng khoán hay không? Bạn sẽ làm gì? Thậm chí
nếu một vài người đổ xô đi mua chứng khoán vào những ngày đẹp trời, hành vi thị trường có thể
phù hợp với việc định giá hợp lí ngay cả khi hành vi cá nhân là không hợp lí, tương tự với những
lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm đã đề xuất.
Mặc dù vậy, ở mức độ cơ bản hơn, không rõ ràng là liệu có một cách thức đơn giản để mô tả mối
quan hệ giữa tâm trạng và thái độ đối với rủi ro. Như chúng ta đã thảo luận ở chương 1, thái độ
đối với rủi ro rất quan trọng bởi vì nó tác động đến việc một cá nhân định giá tài sản. Nếu thái độ
đối với rủi ro thay đổi do sự thay đổi tâm trạng , mức giá nhà đầu tư sẵn lòng trả cho chứng
khoán sẽ thay đổi. Khi một người có tâm trạng kém, họ sẽ chấp nhận nhiều hay ít rủi ro hơn?
Câu trả lời sẽ phụ thuộc vào từng hoàn cảnh và tính cách mỗi người. Ví dụ, một người mang tâm
trạng cáo gắt có thể có những hành vi đầy rủi ro như là lái xe liều lĩnh hay uống quá nhiều rượu.
Một người khác vừa trải qua một ngày không may mắn có thể né tránh rủi ro hơn thông thường
và đơn giản là xa lánh những người khác. Không có những bằng chứng thuyết phục về việc một
tâm trạng vui vẻ đứa đến thái độ e ngại rủi ro thấp hơn hay một tâm trạng tồi tệ đưa đến sự e ngại
rủi ro cao hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính .
Một vài nghiên cứu đề xuất rằng một người vui vẻ hơn thường lạc quan hơn và ấn định xác suất
cao hơn cho những sự kiện mang tính tích cực. Nhưng đồng thời, các nghiên cứu khác về việc ra
quyết định lại chỉ ra rằng mặc dù con người có thể lạc quan hơn về khả năng thắng cược khi họ
đang vui , nhưng họ lại ít sẵn lòng chấp nhận đánh cược thực sự hơn . Nói cách khác , họ e ngại
rủi ro nhiều hơn khi đang vui. Khi bạn có một tâm trạng tốt, bạn không thích mạo hiểm vì không
muốn phá hỏng tâm trạng tốt. Vì vậy, tóm lại, tình trạng cảm xúc tốt hay xấu ảnh hưởng không
rõ ràng đến thái độ đối với rủi ro và việc định giá thị trường.
Bên cạnh các nghiên cứu liên kết những biến động thị trường với sự thay đổi trong tâm trạng,
một vài nhà nghiên cứu liên hệ tâm trạng chán nản do sự giảm sút ánh nắng mặt trời và chu kì thị
trường chứng khoán. Giống như những bằng chứng về sự ảnh hưởng của tâm trạng đến sự lựa
chọn rủi ro, bằng chứng về mối quan hệ giữa thái độ rủi ro và tâm trạng chán nản không đưa ra
được một bức tranh rõ ràng. Tâm trạng chán nản rõ ràng khác với tâm trạng không tốt đơn thuần
- tâm trạng chán nản có nền tảng sinh hóa và có thể xuất hiện mà không cần đến những đánh giá
nhận thức. Các nhà tâm lý học thừa nhận rằng tình trạng chán nản có thể liên quan đến việc thay
đổi của hệ thống mạch não bộ. Một người không mất cân bằng hóa học thông thường sẽ lo lắng
trong vài tình huống (ví dụ, phỏng vấn xin việc) nhưng một người Chán nản và có thể cảm thấy
lo lắng thường xuyên. Một vài nhà nghiên cứu đặt câu hỏi về tầm quan trọng của sự lo lắng hay
tình trạng chán nản trong việc giải thích sự lựa chọn rủi ro. Những nhà nghiên cứu kết luận rằng
thái độ em ngại do có tương quan với khuynh hướng chán nản, nhưng sự tương quan giữa triệu
chứng chán nản và sự tai nạn rủi ro có thể hình thành từ mối tương quan giữa sự lo lắng và tình
trạng chán nản. Do đó vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa tình trạng chán nản và thái độ đối với
rủi ro vẫn chưa được giải quyết. Mặc dù có vẻ bất hợp lý khi cho rằng một số người chán nản né
tránh sự do mà không có cơ sở rõ ràng nhưng một người lo lắng có thể hoàn toàn hợp lý khi
quyết định thay thế bằng một lựa chọn an toàn hơn. Việc nghiên cứu sau hơn là cần thiết trước
khi đưa ra kết luận cuối cùng. Những nghiên cứu về khoa học thần kinh sẽ được thảo luận ở
chương 20 đó là thâm nhập vào hoạt động của bộ não con người.
Mặc dù có thể là vội vã Khi kết luận rằng chúng ta hiểu rõ từng nhân tố ảnh hưởng đến việc đưa
ra quyết định, tuy nhiên, một vài cảm xúc đã được chứng minh tính hữu ích trong việc tìm hiểu
những lựa chọn về tài chính của con người có lẽ đáng quý nhất là sự kiêu hãnh Và sự hối tiếc.
Hối tiếc là một cảm xúc rất tiêu cực. Bạn có thể hối tiếc về một quyết định đầu tư vào nước dạng
bạn có thể lựa chọn khác. Cảm giác tiêu cực của bạn chỉ bị phóng đại nếu bạn phải nghĩ lại thua
lỗ của mình cho vợ/chồng bạn bạn bè hay đồng nghiệp. Sự kiêu hãnh
(pride) trái ngược với sự hối tiếc. Bạn sẽ không quá quan tâm khi nói về thành quả tốt của mình
cho những người khác.
Các nhà tâm lý và kinh tế học người nhận tác động quan trọng của sự hối tiếc và sự Kiêu Hãnh
trong việc đưa ra những quyết định tài chính. Những nhà nghiên cứu tin rằng con người có động
cơ mạnh mẽ để né tránh cảm giác hối tiếc. Điều quan trọng là những ảnh hưởng của sự hối tiếc
và sự kiêu hãnh là bất cân xứng. Dường như sự hối tiếc Cảm xúc tiêu cực thường được con
người cảm nhận mạnh mẽ hơn.
Những nhà nghiên cứu nhận thấy một vài hàm ý của lý thuyết hữu dụng kỳ vọng không được
chứng minh bằng những bằng chứng thực nghiệm. Điều này dẫn đến sự phát triển của những mô
hình thay thế về việc quyết định trong điều kiện không chắc chắn và lý thuyết triển vọng và phổ
biến nhất trong những mô hình này. Như đã thảo luận trong chương 3, trọng tâm của lý thuyết
triển vọng đó là đôi khi tìm kiếm rủi ro. Điều này thường xuất hiện trong miền lỗ và trong miền
lời đối với những triển vọng có dạng xổ số. Có phải sự hối hận và kiêu hãnh đứng sau hai xu
hướng tìm kiếm rủi ro này hay không?
Trong trường hợp tìm kiếm rủi ro trong miền lỗ hổng, có thể là người muốn tránh né tcảm giác
tiêu cực do hối tiếc sẽ xuất hiện nếu họ ghi nhận thua lỗ, và vì thế họ rời xa xu hướng tự nhiên là
e ngại. Tương tự đối với hiệu ứng xổ số, khi khoản lợi nhuận lớn lại có mức xác suất thấp, việc
bạn nghĩ bạn sẽ đánh cược hay tiến hành phân tích để “đãi cát tìm vàng” được một chứng khoán
tốt bất khể khó khăn nào, có thể dẫn đến sự kiêu hãnh và thậm chí là tìm kiếm rủi ro bởi vì bạn
có thể đang nhìn thấy bản thân mình kể với bạn bè về sự nhạy bén của bản thân. Cho dù thực tế
như thế nào, rõ ràng là sự hối tiếc và niềm kiêu hãnh là những cảm xúc mạnh mẽ tác động đến
việc quyết định. Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét một hành vi tài chính cụ thể và phân tích xem
phải có cảm xúc sẽ giải thích cho những lựa chọn quan sát được hay không.
cần phải được gia tăng vị thể so với các chứng khoản lời để khôi phục lại phân bổ danh mục đầu
tư ki vọng. Odean đã nghiên cứu điều này và nhận thấy nó không phải là vấn đề đáng kể. Thứ
hai, có lẽ các nhà đầu tư thấy trước những chứng khoán thua lỗ sẽ đánh bại các chứng khoán lời
trong thời gian tới. Đây là dầu hiệu của xu hướng đào ngược trong dài hạn ở chương 4. Không
may là, các nhà đầu tư định sai thời điểm, bởi vì họ đang bản những chứng khoán lời trong trung
hạn (không phải dài hạn) và nấm giữ các chứng khoán thua lỗ trong trung hạn (không phải dài
hạn). Chính xác thì đây là điều ngược lại với những gì mà họ nên làm. Thật sự, nhin vào một
năm tới, Odean nhận thấy rằng các chứng khoán lời đã bản có thành quả tốt hơn các chứng
khoản thua lỗ được nắm giữ vào khoảng 3.41% trên cơ sở đã điều chỉnh rủi ro. Với lý do này,
các nhà nghiên cứu đồi khi nói về hiệu úng ngược vị thế như là việc bán các chứng khoán lời quả
sớm trong khi nắm giữ các chứng khoản thua lỗ quả lâu.
Bảng 10.1 PGR và PLR
Cả năm Tháng 12 Tháng 1-11
PLR 0.098 0.128 0.094
PGR 0.014 0.108 0.152
Chênh lệch -0.050 0.020 -0.058
Thống kê t -35 4.3 -38
Nguồn: Odean, T. 1998 "Are investors reluctant to realize their losses?" Journal of Finance
53(5), 1775-1798. 1998 Wiley Publishing, Inc.
LÝ THUYẾT TRIÊN VỌNG: MỘT LỜI GIẢI THÍCH CHO HIỆU ỨNG NGƯỢC VỊ THÉ
Hersh và Meir Statman là những người đầu tiên cố gắng giải thích hiệu ứng ngược vị thế 18 Lời
giải thich của họ nghiêng về hai phạm trù lý thuyết triển vọng (kết hợp với tỉnh toán bất hợp lý
và sự e ngại hối tiếc (kết hợp với vấn đề tự kiểm soát). Mặc dù không có gi loại bỏ khả năng có
vai trò kết hợp của cả hai giải thích hành vi trên, Shefrin và Statman nhân mạnh vai trò của lý
thuyết triển vọng hơn so với cảm xúc hồi tiếc, và nhiều nhà bình luận sau đó cũng theo gợi ý này.
Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy cảm xúc có thể là một nhân tố quan trong.
Đầu tiên chúng ta bắt đầu với giải thích theo lý thuyết triển vọng. Xem hình 10.1 chỉ ra các
khoản lời và lỗ theo lý thuyết triển vọng, giả định rằng cáe kết quả ban đầu được tích hợp. Chứng
khoản A và B gánh chịu khoản lỗ trong khi chứng khoán C và D thu được lợi nhuận. Các khoản
lời và lỗ nảy tác động như thế nào đến hành vị của bạn nếu bạn là một nhà đầu tư? Sau khi thu
được lợi nhuận lớn (D), bạn đã dịch chuyển tới miền e ngại rủi ro của hàm giá trị. Chị những sự
đảo ngược đáng kể mới có thể đưa bạn về điểm khởi đầu. Ngược lại, sau khi gánh chịu khoản lỗ
lớn (A) bạn đã dịch chuyển tới khu vực tim kiếm rủi ro của hàm giá trị, một lần nữa bạn không
thể dịch chuyển nhanh chóng về lại điểm tham chiếu. Hàm ý là bởi vì bạn t e ngại rủi ro đối với
các chứng khoản thua lỗ hơn các chứng khoán lời, cho nên bạn dễ dàng nắm giữ chúng hơn.
Hình 10.1 Lãi, lỗ, và hàm giá trị trong lý thuyết triển vọng
Giá trị
C D
Lỗ Lãi
B
A
Tuy nhiên, tại sao không kết hợp với một hoán đổi thuế (mua và bản hà chứng khoán đồng thời
vì lý do thuế) để giảm khoản chi trả thuế? Với mộ hoản đối thuế, một nhà đầu tư bán một chứng
khoản thua lỗ và mua một chứng khoán khác có rủi ro tương tự để thực hiện một khoản lỗ vì mục
đích.
BẰNG CHỨNG VỀ HIỆU ỨNG THU NHẬP NGOÀI KỲ VỌNG TRÊN QUY MÔ LỚN
Bằng chứng đầu tiên về hành vi phụ thuộc chiều hướng trong việc đưa ra quyết định đến từ các
khảo sát mang tính giả thuyết hay từ những thí nghiệm với các đối tượng là sinh viên, do đó liệu
những kết quả đạt được có đúng với các quyết định tài chính có rủi ro cao hay không vẫn là một
thách thức. Để ngăn chặn vấn đề này, một số nhà nghiên cứu đã chuyển qua nghiên cứu các
quyết định của con người khi các khoản đặt cược tương đối lớn.
Theo một nghiên cứu gần đây của Thierry Post, Martijin J. van den Assem, Guido Baltussen và
Richard Thaler nghiên cứu những lựa chọn được đưa ra trong một gameshow nổi tiếng "Deal or
No Deal?". Gameshow này là sóng lần đầu ở Hà Lan vào năm 2002 và sau đó đã được phát sóng
ở nhiều nước như Đức, Mexico, Tây Ban Nha và Mỹ. Thực vậy, tiền đặt cược rất lớn, ở Hà Lan
các kết quả dao động từ 0,01 euro đến 5.000.000 euro. Mặc dù, luật chơi của gameshow thay đôi
từng nước, nhưng cách chơi cơ bản là như nhau. Người chơi sẽ chọn một trong 26 chiếc cặp.
Chiếc cặp này sẽ được giữ lại. Người chơi sẽ chọn lần lượt 6 chiếc cặp khác và xem ẩn số bên
trong. Kế tiếp, ngân hàng sẽ chào mua chiếc cặp được giữ lại với mức giá nào đó, nếu người chơi
đồng ý thì sẽ về với số tiền mà ngân hàng chào mua. Người chơi có thể không chấp nhận và tiếp
tục cuộc chơi. Người chơi giữ lại chiếc cặp ban đầu lựa chọn và mở tiếp 5 chiếc cặp và xem ẩn
số chứa bên trong. Ngân hàng sẽ tiếp tục chào mua chiếc cặp người chơi đang giữ và gameshow
cứ diễn ra khi người chơi chấp nhận mức giá mà ngân hàng chào mua hoặc sẽ về với số tiền có
trong cặp người chơi chọn lúc đầu. Tuy mức giá mà ngân hàng chào mua không được dự đoán
chính xác, nhưng ngân hàng thường sẽ chào mua ở mức giá thấp và tăng dần theo thời gian, và sẽ
tăng (hoặc giảm) khi chiếc cặp được mở ra có giá trị là thấpm(cao).
Các nhà nghiên cứu tìm thấy những quyết định của người chơi bị phân phối mạnh mẽ bởi những
gì xảy ra trước đó. Khi chiếc cặp được mở ra có giá trị thấp thì người chơi sẽ mạo hiểm hơn.
Điều này cũng tương tự như hiệu ứng thu với nhập ngoài kỳ vọng bởi vì chiếc cặp giá trị thấp
được mở ra thì thì người chơi mạo hiểm hơn. Điều này cũng tương tự như hiệu ứng thu nhập
ngoài kỳ vọng bởi vì chiếc cặp giá trị thấp hơn bị loại bỏ thì khoản tiền thắng kỳ vọng sẽ cao hơn
và người chơi thấy một lời. Ngược lại, khi chiếc cặp giá trị lớn được mở ra thì người chươi thấy
một
Trong mô hình của họ , nếu một chứng khoán ban đầu có thành quả tốt , một nhà đầu tư sẽ nắm
giữ một vị thể khiến họ hòa vốn cả trong tương . hợp xấu nhất , đó là chứng khoán giảm giá
trong kỳ tới . Ngược lại , nếu chứng khoán ban đầu có thành quả không tốt , các nhà đầu tư sẽ lựa
chọn . một vị thế dẫn họ đến mức hòa vốn trong trường hợp tốt nhất . Giả dụ chứng khoán có
khởi đầu tốt và tăng giá đến $ 60 . Bởi vì sau khoản lợi . phần lên . Điều này là do hàm giá trị chỉ
hơi lỗi trong miền lời , vì vậy các nhuận $ 10 thì khoản lỗ chỉ có $ 5 , các nhà đầu tư sẽ tăng gấp
đôi lượng Cổ . nhà đầu tư gần như trung lập với rủi ro . Ngược lại , giả dụ chứng khoán . giảm
xuống $ 45 trong thời kỳ đầu . Với khoản lỗ $ 5 trên mỗi chứng khoán , chỉ cần một nửa lượng
chứng khoán sẽ đủ bù đắp cho các nhà đầu tư khi chứng khoán tăng giá . Điều này hàm ý sự
thanh lý một phân , Với việc nhà đầu tư bản đi một nửa lượng cổ phần . Tóm lại , trái với hiệu
ứng ngược vị thế , nhà đầu tư với những ưu tiên theo lý thuyết triển vọng , sẽ mua sau khi có lợi
nhuận và bán sau khi lỗ.
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
Bằng chứng thực nghiệm gần đây của Barbara Summers và Darren Duxbury cũng ủng hộ cảm
xúc hơn lý thuyết triển vọng trong việc giải thích hiệu ứng ngược vị thế . Mô hình thực nghiệm
của họ dựa vào việc các cá nhân có lựa chọn việc đầu tư của họ hay không . Giả sử , trái với
những gì thường xảy ra trong thực tế , không có sự lựa chọn và đơn thuần bạn phải ngồi lại và
quan sát thành quả chứng khoán của bạn . Khi một chứng khoán có thành quả kém , bạn thấy thất
vọng , và khi chứng khoán có thành quả tốt , bạn cảm thấy phấn chấn . Nếu bạn thực sự tự chọn
lựa các chứng khoán , người ta cho rằng bạn sẽ trải qua các cảm xúc với hóa trị cao hơn - khi đối
diện với khoản lỗ , bạn trải qua sự hối tiếc ( mạnh hơn nỗi thất vọng ) . Và khi đối mặt với một
khoản lời , bạn cảm thấy vui mừng mạnh hơn sự phấn chấn ) . Summers và Duxbury đưa ra giả
thiết rằng niềm vui và sự hối tiếc dự đoán là cần thiết để tạo ra hành vi phù hợp với hiệu ứng
ngược vị thế . Để tách biệt các phản ứng cảm xúc , Summers và Duxbury đã vận dụng Sự lựa
chọn và trách nhiệm liên quan đến vị thế các cổ phiếu hiện tại của nhà đầu tư . Họ tiến hành thử
nghiệm như sau : mỗi nhà đầu tư được cho xem một đồ thị của một chứng khoán riêng lẻ , trong
đó vài nhà đầu tư xem đồ thị của chứng khoán lời , một số khác thì xem đồ thị của chứng khoán
lỗ . Các nhà đầu tư có thể bán một phần hay tất cả chứng khoán của họ .
thử nghiệm đầu tiên , không có lựa chọn ban đầu - các chủ thể thừa hưởng chứng khoán từ một
người họ hàng . Trong thử nghiệm thứ hai , vào giai đoạn đầu các nhà đầu tư có thể tự do quyết
định số lượng chứng khoán . đàm giữ . Theo lý thuyết triển vọng không bao hàm cảm xúc , nếu
các nhà tư không chịu trách nhiệm cá nhân về các khoản lời lỗ trong quyết định đầu tư ( thử
nghiệm đầu tiên ) thì sẽ chỉ có trải nghiệm lời hay lỗ gây ra hiệu ứng ngược vị thế . Tuy nhiên ,
điều này không đúng . Tuy nhiên , trong thử nghiệm thứ hai khi các nhà đầu tư có sự lựa chọn ,
tồn tại hiệu ứng ngược vị thế , với PGR lớn hơn PGL ( với ý nghĩa thống kê dưới 1 % ) Summers
và Duxbury kết luận rằng trách nhiệm đối với các quyết định của mình là yếu tố tiên quyết gây
nên hiệu ứng ngược vị thế , điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc trong việc tìm hiểu
các lựa chọn của nhà đầu tư . Hiệu ứng ngược vị thế được dẫn chứng trong một nghiên cứu thử
nghiệm khác của Martin Weber và Colin Camerer.19 Điều thú vị là , trong một điều kiện , chứng
khoán của các nhà đầu tư được bán tại thời điểm kết thúc mỗi thời kì , bất kể sự ưa thích của họ .
Khi các cổ phần được bán một cách tự động , hiệu ứng ngược vị thế ở mức vừa phải . Phát hiện
này nhất quán với vai trò của cảm xúc trong sự lựa chọn của các nhà giao dịch , bởi vì khi họ bắt
đầu lại mỗi kỳ mới , cảm giác tiêu cực của sự hối tiếc và sự vui mừng bị kìm nén lại .
10.5 HIỆU ỨNG THU NHẬP NGOÀI KỲ VỌNG
Tiếp theo , chúng ta cùng đi đến một ví dụ khác về hành vi phụ thuộc chiều hướng ( path -
depedent behavior ) . Hành vi này có nghĩa là quyết định của một người sẽ bị ảnh hưởng bởi
những gì diễn ra trước đó . Richard Thaler và Eric Johnson đưa ra những bằng chứng cho thấy
hành vi cá nhân sẽ bị ảnh hưởng như thế nào bởi những khoản lời và lỗ trước đó . Sau một khoản
lời , con người dễ dàng hơn trong việc chấp nhận rủi ro . Hành vi này được quy cho hiệu ứng thu
nhập ngoài kỳ vọng , ám chỉ những con bạc sẵn sàng mạo hiểm với số tiền vừa thắng được . Sau
một thua lỗ thì vấn đề lại không rõ ràng . Một mặt , con người dường như muốn hòa vốn , vì thế
một người bị lỗ trước đó muốn tiếp tục cuộc may rủi để cố gắng hòa vốn . Hành Vì này được quy
cho hiệu ứng hòa vốn . Mặt khác , lần thua lỗ đầu tiên có thể làm gia tăng sự e ngại đối với rủi ro
và cái này được gọi là hiệu ứng vết rắn cắn ( snake - bit effect ) .
BẰNG CHỨNG VỀ HIỆU ỨNG THU NHẬP NGOÀI KỲ VỌNG TRÊN QUY MÔ LỚN
Bằng chứng đầu tiên về hành vi phụ thuộc chiều hướng trong việc đưa ra quyết định đến từ các
khảo sát mang tính giả thuyết hay từ những thí nghiệm với các đối tượng là sinh viên, do đó liệu
những kết quả đạt được có đúng với các quyết định tài chính có rủi ro cao hay không vẫn là một
thách thức. Để ngăn chặn vấn đề này, một số nhà nghiên cứu đã chuyển qua nghiên cứu các
quyết định của con người khi các khoản đặt cược tương đối lớn.
Theo một nghiên cứu gần đây của Thierry Post, Martijin J. van den Assem, Guido Baltussen và
Richard Thaler nghiên cứu những lựa chọn được đưa ra trong một gameshow nổi tiếng "Deal or
No Deal?". Gameshow này là sóng lần đầu ở Hà Lan vào năm 2002 và sau đó đã được phát sóng
ở nhiều nước như Đức, Mexico, Tây Ban Nha và Mỹ. Thực vậy, tiền đặt cược rất lớn, ở Hà Lan
các kết quả dao động từ 0,01 euro đến 5.000.000 euro. Mặc dù, luật chơi của gameshow thay đôi
từng nước, nhưng cách chơi cơ bản là như nhau. Người chơi sẽ chọn một trong 26 chiếc cặp.
Chiếc cặp này sẽ được giữ lại. Người chơi sẽ chọn lần lượt 6 chiếc cặp khác và xem ẩn số bên
trong. Kế tiếp, ngân hàng sẽ chào mua chiếc cặp được giữ lại với mức giá nào đó, nếu người chơi
đồng ý thì sẽ về với số tiền mà ngân hàng chào mua. Người chơi có thể không chấp nhận và tiếp
tục cuộc chơi. Người chơi giữ lại chiếc cặp ban đầu lựa chọn và mở tiếp 5 chiếc cặp và xem ẩn
số chứa bên trong. Ngân hàng sẽ tiếp tục chào mua chiếc cặp người chơi đang giữ và gameshow
cứ diễn ra khi người chơi chấp nhận mức giá mà ngân hàng chào mua hoặc sẽ về với số tiền có
trong cặp người chơi chọn lúc đầu. Tuy mức giá mà ngân hàng chào mua không được dự đoán
chính xác, nhưng ngân hàng thường sẽ chào mua ở mức giá thấp và tăng dần theo thời gian, và sẽ
tăng (hoặc giảm) khi chiếc cặp được mở ra có giá trị là thấpm(cao).
Các nhà nghiên cứu tìm thấy những quyết định của người chơi bị phân phối mạnh mẽ bởi những
gì xảy ra trước đó. Khi chiếc cặp được mở ra có giá trị thấp thì người chơi sẽ mạo hiểm hơn.
Điều này cũng tương tự như hiệu ứng thu với nhập ngoài kỳ vọng bởi vì chiếc cặp giá trị thấp
được mở ra thì thì người chơi mạo hiểm hơn. Điều này cũng tương tự như hiệu ứng thu nhập
ngoài kỳ vọng bởi vì chiếc cặp giá trị thấp hơn bị loại bỏ thì khoản tiền thắng kỳ vọng sẽ cao hơn
và người chơi thấy một lời. Ngược lại, khi chiếc cặp giá trị lớn được mở ra thì người chươi thấy
một
Các thí nghiệm khác cũng cho thấy hình ảnh của công ty có tác động đáng kể đến việc phân bổ
danh mục đầu tư của những người tham gia. Trong tương lai, chúng ta có thể sẽ thấy thêm nhiều
lớp về trò chơi 254 Chương 10 rằng những người phản ứng mang lại cảm xúc sẽ ảnh hưởng đến
việc phê bình và đưa ra quyết định, ngay cả khi không có những người đánh giá Nhận thức, tuy
nhiên chúng ta không hiểu một cách đầy đủ về các bức ảnh hưởng sẽ được đưa đến các địa
phương như thế nào.2 Ngoài ra, các nhà tâm lý học đề xuất khi có những phản hồi mang tính
chất cảm xúc và những điều đánh giá về nhận thức được đưa ra với những hành động khác nhau,
cảm xúc sẽ là nhân tố đóng vai trò chi phối đối với hành vi của con người. ° Tuy nhiên, một lần
nữa, ảnh hưởng trong các quyết định tài chính. Các nhà tâm lý học chúng ta còn phải nghiên cứu
rất nhiều nếu chúng ta muốn biết được nó thì một áp lực cụ thể có thể sử dụng ưu tiên. CHÍNH
ĐIỂM 1. Một số nhà nghiên cứu cho điểm tâm của nhà tư vấn sẽ chuyển đến. to mind of the
market, and to the this điêu khắc sẽ tác động đế. các kết quả của trường thị. Tuy nhiên cũng
phải cân nhắc những điều này quan trọng bởi vì chúng ta không xác định được mỗi quan hệ cảm
xúc và chế độ đối mặt với rủi ro. sẽ 2. Nhiều bằng chứng nhận rằng hai cảm xúc, kiêu ngạo và
hối tiếc. value in the give up the management document of all kernel. 3. Theo vị trí ngược, con
người bán những lời quá sớm và giữ những tài khoản thua lỗ quá lâu. Nghiệm thức băng đã ghi
nhận This hướng dẫn. Vị trí ngược lại thường được giải thích bởi lý thuyết triển vọng. Do
format of function value, nhà đầu tư thường ít gặp rủi ro hơn đối với những chứng khoán lỗ, vì
thế họ có thể giữ chúng lâu hơn. 5. Những bài thuyết minh và những bằng chứng thực nghiệm ở
đây cho thấy sự thua lỗ vì tâm lý sợ hãi, có thế giải thích tốt hơn cho vị trí ngược.