You are on page 1of 31

Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

Văn bản:

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nguyễn Tuân

"...Đọc "Sông Đà" thấy Tổ quốc ta thật là giàu đẹp. Chỉ nói riêng Than Uyên có nào mỏ xi măng thiên
tạo, mỏ thạch anh làm thủy tinh ngũ sắc và đồ sứ, mỏ than mở, mỏ lân tinh, mỏ đồng, mỏ chì...Cảnh
Tây Bắc thì tuyệt đẹp, ở đâu tác giả cũng nổi hứng nghệ sĩ muốn cắm ngay giá vẽ mà vẽ. Núi lớp lớp
mênh mông như biển, sông trắng xóa như từng súc lụa tung trải rã, những thung lũng lúa chín vàng
chóe lên, trên đó mây trắng điểm lơ lửng như thêu nổi ...

Nhưng "Sông Đà" không chỉ nói vẻ đẹp thiên nhiên mà còn đi tìm vẻ đẹp của lòng người. Ông gọi đó
là chất vàng mười của tâm hồn con người Tây Bắc. Ông ngược dòng lịch sử tìm chất vàng đó ở những
chiến sĩ cách mạng kiên cường đã theo gương bất khuất ở nhà tù Sơn La, ở những cán bộ hoạt động
bí mật hồi Tây Bắc bị giặc chiếm đóng, đã vượt qua những thử thách khủng khiếp để gây cơ sở cách
mạng, ở những chiến sĩ quân đội, những anh chị em dân công hồn tiến quân vào.

(Nguyễn Đăng Mạnh -‘'Sông Đà" Trích "Nhà văn Tư tưởng và phong cách" NXB Văn học -1983)

I. THÔNG TIN TÁC GIẢ

Nguyễn Tuân

● Tài hoa, uyên bác


Từ
● Phong cách nghệ thuật: ngông
khóa
● Nhà văn – nghệ sĩ
T
E

● Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp


N
I.
H

● Mạnh mẽ, tự do, phóng túng, ý thức về cái “tôi” cá nhân”


T
N

● Yêu tiếng Việt và có những đóng góp trong việc phát triển tiếng Việt
O
U
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
Nguyễn Tuân là gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà trí thức giàu lòng
yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của nhà văn thường không được phát biểu một cách trực tiếp
mà ẩn đằng sau những bức tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền. Nguyễn Tuân là nhà văn tài
hoa, uyên bác. Thể hiện sự tài hoa, Nguyễn Tuân thường nhìn nhận và khám phá mọi sự vật, hiện tượng ở
phương diện thẩm mĩ và miêu tả con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Thể hiện sự uyên bác, văn Nguyễn
Tuân đầy ắp những hiểu biết phong phú, đa dạng về nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống từ các bộ
môn nghệ thuật. Nguyễn Tuân còn là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Ông không thích những
cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt cũng như không ưa mọi khuôn phép gò bó. Trái lại, nhà văn luôn có hứng thú
với những biểu hiện mạnh mẽ, phi thường của tạo vật và con người. Vì vậy khi nhắc đến Nguyễn Tuân là
chúng ta nhắc đến một hồn văn tự do, phóng túng và rất ngông.

Câu chuyện thú vị về Nguyễn Tuân:

Tình bạn Nguyễn Tuân - Ngô Tất Tố

Nhà văn Nguyễn Tuân sinh năm 1910, so với nhà văn Ngô Tất Tố (sinh năm 1894) thì thuộc thế hệ “đàn
em”, nhưng sinh thời, hai ông đã từng có những kỷ niệm rất mật thiết với nhau, như bạn bè đồng trang lứa.

Tác giả Vang bóng một thời có lần nhớ lại: Hồi ấy (quãng những năm ba mươi), nhiều đêm Ngô Tất Tố
thường ngồi ở tòa soạn một báo nọ trong góc phố Hàng Da để viết bài. Nguyễn Tuân trẻ trai thường hay đi
chơi về khuya nên thỉnh thoảng lại tạt qua đây ngủ nhờ. Bao giờ cũng vậy, trông thấy bộ dạng Nguyễn
Tuân, Ngô Tất Tố lại vui vẻ hỏi: “Thế nào, có vui và đông lắm không? Thôi bác thức, tôi đi ngủ đây”. Và
Nguyễn Tuân tâm sự: “Nhiều đêm về oi ả quá, tôi chỉ muốn ngủ, còn viết gì thì viết, mai hãy hay. Nhìn
những trang viết dở của bác Tố trên bàn, tự nhiên trong người thấy đứng đắn trở lại. Và ngồi vào trước tờ
giấy trắng, vừa ngáp vừa nhìn ông bạn vong niên ngon giấc sau khi đã viết một số trang kia”.

Đấy là một kỷ niệm với Ngô Tất Tố lúc ông còn sống, trong đó Nguyễn Tuân không hề phủ nhận vai trò
“động viên” tinh thần của bậc đàn anh trong quá trình sáng tác.

Sau khi Ngô Tất Tố mất (1954), năm 1962, Nguyễn Tuân có viết lời giới thiệu cho cuốn Tắt đèn tái bản,
T

ông được trả nhuận bút tới... 500 đồng. Giới xuất bản cho đấy là mức “tuyệt trần cao của loại văn đề tựa”
E
N

(vì theo Nguyễn Tuân cho biết, phở lúc bấy giờ chỉ ba hào một bát). Chưa hết, khi vào vai Chánh tổng trong
I.
H

phim Chị Dậu (chuyển thể từ tiểu thuyết Tắt đèn), ngoài thù lao vai diễn, Nguyễn Tuân càng có thêm nhiều
T
N
O

quần chúng biết đến. Ông kể lại: “Đi trên hè phố, nhiều người tôi không quen nhưng nhìn tôi với nụ cười
U
IE

cảm tình với một nhân vật màn ảnh họ vừa nhận ra”.
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
Đối với Nguyễn Tuân, ông có niềm vui thật trọn vẹn khi nhớ về tình bạn giữa ông và Ngô Tất Tố: Một tình
bạn buổi ban đầu đến với văn chương, một tình bạn trong những năm kháng chiến gian khổ, một tình bạn
trên trang sách mà ông viết lời giới thiệu và một tình bạn trên những thước phim mà ông tham gia một cách
tâm huyết.

Phạm Quang Chung

II. THÔNG TIN TÁC PHẨM

● Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực
tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
● Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút
và một bài thơ ở dạng phác thảo.
● Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân
tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng
tạo.
● ·Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện
những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là
chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Cách ghi nhớ về hoàn cảnh sáng tác chi tiết của bài như sau:

Sông Đà – 1960 – Chuyến đi thực tế năm 1958 – phong cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ – “ Chất vàng mười trong
tâm hồn con người”

Để hiểu rõ hơn về tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò sông Đà, các em có thể tham khảo bài
báo dưới đây:
T
E
N
I.

Nguyễn Tuân (1910-1987) là một cây bút bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong nền văn xuôi
H
T

Việt Nam hiện đại. Song song với những đóng góp về chủ đề, nội dung, tư tưởng cho nền văn học nước
N
O

nhà, ở phương diện hình thức nghệ thuật văn học thì Nguyễn Tuân là người có công không nhỏ trong
U
IE

việc làm cho thể tùy bút đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Với thể tùy bút, Nguyễn Tuân đã góp phần làm
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
phong phú ngôn ngữ dân tộc, ông đem đến cho văn xuôi Việt Nam một phong cách viết đặc biệt tài hoa
và độc đáo.

Có thể khẳng định thành công lớn nhất của Nguyễn Tuân trên phương diện hình thức nghệ thuật thể loại
tùy bút chính là ở nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Thành công ấy được tạo nên bởi ý thức lao động nghệ
thuật nghiêm túc, công phu của nhà văn. Tiếp cận các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Tuân, chúng ta
nhận thấy mỗi trang viết của ông luôn có ý thức rất sâu về vai trò và hiệu quả nghệ thuật của câu văn. Vì
vậy, việc sử dụng các biện pháp tu từ để làm đẹp cho câu văn theo một chuẩn mực thẩm mĩ là một trong
những nét nổi bật trong phong cách ngôn ngữ tùy bút Nguyễn Tuân.

Khảo sát các biện pháp tu từ trong văn xuôi Nguyễn Tuân chúng ta thấy được tài năng, sự sáng tạo trong
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của nhà văn bậc thầy họ Nguyễn và góp phần khẳng định phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Trong khuôn khổ bài viết ngắn, chúng tôi chỉ có thể góp thêm một cách khám phá mới
về sự “chệch chuẩn” trong câu văn Nguyễn Tuân qua tùy bút Người lái đò sông Đà bằng việc chỉ ra và
phân tích các phương tiện tu từ cú pháp mà nhà văn đã sử dụng với mong muốn sẽ hiểu được phần nào
những đặc điểm, sự sáng tạo về cấu trúc trong câu văn Nguyễn Tuân, góp phần trong việc phân tích, hiểu
hơn về tác phẩm Người lái đò sông Đà.

Qua khảo sát tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm nhà
văn đã sử dụng các biện pháp tu từ nổi bật sau:

Thứ nhất, sóng đôi cú pháp là biện pháp tu từ có gốc gác từ văn chương biền ngẫu thời trung đại. Trong
phú, văn tế, câu đối, thơ và cả trong văn xuôi, từng cặp câu, từng ngữ đoạn thường đối nhau chan chát
về từ loại, thanh điệu, ý nghĩa. Trong những trang viết của mình, Nguyễn Tuân đã vận dụng thủ pháp
sóng đôi một cách linh hoạt, làm cho câu văn hài hòa, đầy ấn tượng.

Ví dụ trong câu: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
thuở xưa”. Phép sóng đôi tạo cho câu văn thế cân đối, đều đặn, nhịp nhàng, làm hiện lên hình ảnh một
dòng sông vừa huyền sử, vừa thơ mộng lại vừa trữ tình. Việc lặp lại cấu tạo một câu như vậy đã không
làm mất đi sự năng động, linh hoạt trong cấu trúc của câu văn. Sử dụng phép sóng đôi làm câu văn
Nguyễn Tuân vừa mang sắc thái đĩnh đạc, cổ kính, lại vừa rất mới mẻ, hiện đại. Có được hiệu quả này là
do Nguyễn Tuân đã biết xử lí tinh tế, lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách mới mẻ cùng với phép so
T
E
N

sánh tu từ sáng tạo.


I.
H
T

Thứ hai, sóng đôi cú pháp thực ra cũng là một kiểu phép điệp: điệp cấu trúc. Nhưng sự lặp lại chỉ diễn ra
N
O

ở từng cặp đối ứng, nên khả năng mở rộng, phức hóa câu dù sao vẫn bị hạn chế. Phép điệp của tu từ cú
U
IE

pháp là sự biến đổi về chất so với sóng đôi, phá vỡ giới hạn của nó, mở ra nhiều hướng phát triển phong
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
phú cho câu. Bởi “Phép điệp trong câu có tác dụng kích thích tâm lí của người tiếp nhận: một yếu tố nào
đó xuất hiện nhiều lần sẽ khiến người ta chú ý”. Về phía người viết, phép điệp có tác dụng tô đậm, khắc
sâu một ấn tượng, một cảm xúc, một nhận xét, và trong nhiều trường hợp, nó tạo nên một nét nhấn trong
âm điệu lời văn.

Ở Người lái đò sông Đà, phép điệp được Nguyễn Tuân sử dụng trong nhiều câu văn nhằm tô đậm hình
ảnh miêu tả với một sắc thái mới, gây ấn tượng với người đọc. Ví dụ: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát
Loóng, dài hàng trăm cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Trong câu văn, phép
điệp được sử dụng đã phát huy triệt để hiệu quả nghệ thuật. Hình ảnh nước, đá, sóng liên tiếp, trùng điệp,
hòa lẫn vào nhau được gợi nên một cách đầy ấn tượng nhờ cách diễn đạt sáng tạo “nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió”. Câu văn của Nguyễn Tuân như một bức tranh 3D sống động khiến cho người đọc có
cảm giác như mình đang tận mắt chiêm ngưỡng cảnh tượng kì vĩ thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc.

Hay ở câu: “Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi, lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán
trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Câu văn lặp lại “như
là” ba lần với thủ pháp so sánh kép gợi cho người đọc một ấn tượng mạnh về tiếng thác nước. Với cách
miêu tả của Nguyễn Tuân, người đọc cảm nhận được cái kì bí, man sơ của cảnh rừng thiêng nước độc.

Ở câu: “Làm cái nghề vận tải đường nước này thật là vất vả, người cứ dựng đứng lên mà luôn tay, luôn
chân, luôn mắt, luôn gân và luôn tim nữa”. Cái khác biệt ở câu này không phải là sự lặp lại từ “luôn”
mà là những yếu tố đi kèm với nó. “Luôn tay”, “luôn chân”, “luôn mắt” là những kết hợp quen thuộc,
đến “luôn gân” đã có vẻ lạ lẫm, nhưng khi nghe “luôn tim” thì người đọc không khỏi băn khoăn khi
dùng từ như vậy. Nếu dùng riêng ra, “luôn tim” có vẻ vô nghĩa, nhưng đặt trong quan hệ với những
“luôn tay”, “luôn chân”, “luôn mắt” thì nó bỗng phát ra một ý nghĩa phong phú và thú vị không ngờ.

Ở những câu văn như trên, yếu tố lặp tuy không đóng vai trò là những “tín hiệu thẩm mĩ”, nhưng nhờ
vai trò liên kết của nó, vẻ đẹp trong hình ảnh của các câu vừa tỏa ra nhiều hướng, lấp lánh nhiều màu, lại
vừa cùng chụm vào soi sáng ý nghĩa của một đối tượng. Trong sử dụng phép lặp, Nguyễn Tuân luôn song
song kết hợp với phép so sánh tu từ mới lạ càng làm cho câu văn tăng sức độc đáo và giàu giá trị biểu
đạt.
T
E
N

Thứ ba, tách câu (còn gọi là chiết cú) “là một biện pháp tu từ cú pháp nhằm tách các bộ phận của một
I.
H

câu có cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ pháp thống nhất thành những phát ngôn biệt lập bằng một chỗ ngừng,
T
N

hay một dấu chấm ngắt câu, với một dụng ý đặc biệt, hoặc do nhịp cảm xúc của giọng văn”. Xét trong
O
U

nội bộ một câu, biện pháp tách câu “là sự cố ý vi phạm chuẩn mực cú pháp”. Những câu như thế không
IE
IL

thể đứng độc lập. Tuy nhiên trong văn bản, nó lại tồn tại một cách hoàn toàn hợp lí. Thành phần thiếu
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
khuyết trong câu tách biệt (chẳng hạn danh từ làm chủ ngữ) dường như đã được giải thích bằng sự có
mặt của nó ở câu trước đó mà nó có quan hệ tất yếu về ngữ nghĩa.

Câu tách biệt thường có cấu tạo khá giống nhau. Nó có thể là một từ, một cụm danh từ, cụm tính từ hoặc
cụm động từ được tách ra từ một câu. Văn chương Nguyễn Tuân không hề đơn điệu. Luôn phức hóa,
nhưng khi cần, ông cũng biết đơn giản hóa đến tối đa. Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân ưa sử
dụng lối tách câu với một dụng ý tu từ rõ rệt. Có khi là để khẳng định, nhấn mạnh. Ví dụ: “Hùng vĩ của
sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà còn đó là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông ở
chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”.

Cũng có khi, Nguyễn Tuân tách câu để miêu tả nhịp điệu diễn biến của sự việc, hay nhịp điệu cảm xúc
vừa là để nhấn mạnh, bằng cách chen vào những câu liên tưởng như: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh
ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người”. Câu văn

“Mà tịnh không một bóng người” trở thành một ngữ trực thuộc trong đoạn văn trên để nhấn mạnh không
gian tĩnh lặng nên thơ của khúc sông mà nhà văn miêu tả.

So với ngôn ngữ khoa học, việc dùng các kiểu câu tách ra là một sự vi phạm chuẩn mực. Để đạt hiệu quả
tối đa trong miêu tả, Nguyễn Tuân sử dụng tách câu như một thủ pháp nghệ thuật cần thiết.

Thứ tư, giải ngữ còn gọi là phụ chú ngữ, là biện pháp tu từ cú pháp, trong đó, người ta “dùng một từ, một
cụm từ hay một câu, một chuỗi câu xen vào câu chính để lí giải, nhấn mạnh hoặc bổ sung một giọng điệu
khác với giọng điệu kể hay giọng trình bày các lập luận”. Giải ngữ được dùng khá phổ biến trong văn
chính luận, trong văn xuôi nghệ thuật và thỉnh thoảng trong thơ.

Trong lời văn Nguyễn Tuân, có những giải ngữ chỉ nhằm giải thích thuần túy, giúp người đọc hiểu rõ về
đối tượng. Ví dụ trong câu: “Tôi không muốn sau này làm phim truyện hoặc phim kí sự (tôi không muốn
dùng mấy chữ phim tài liệu) màu về sông Đà, nếu muốn phản ánh lên cái dữ tợn và cái lớn của sông Đà
của thác sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay”.
T

Có trường hợp, giải ngữ đảm trách chức năng của một định ngữ nghệ thuật. Ấy là khi qua giải ngữ, tác
E
N

giả cấp cho ta những thông tin cụ thể, tỉ mỉ, chính xác về một khía cạnh nào đó của đối tượng: “Tôi sợ
I.
H

hãi mà nghĩ đến một anh dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả
T
N
O

mình cả máy quay xuống đáy cá hút sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông
U
IE

chênh nhau tới một cột nước cao tới vài sải”.
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
Giải ngữ vốn tồn tại trong câu văn Nguyễn Tuân như một nhánh phụ, ít quan trọng so với các thành phần
khác, do vậy, dùng nó, thêm một dịp nhà văn được tự do phát triển câu văn theo sở thích của mình. Giải
ngữ cũng góp phần làm toát lên cái giọng văn riêng, hết sức đặc biệt của Nguyễn Tuân.

Tóm lại, là một cây bút luôn có ý thức sáng tạo, đổi mới trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ
thuật của tác phẩm văn chương, trên các trang viết của mình, Nguyễn Tuân đã thể hiện nhiều khổ công
tìm tòi, sáng tạo. Mỗi câu văn của Nguyễn Tuân là cả một “lộ trình”. Đó là lộ trình hiện đại hóa của câu
văn quốc ngữ, vừa phản ánh khá rõ nét những đặc điểm phong cách ngôn ngữ của một cá nhân. Nguyễn
Tuân luôn luôn nỗ lực tránh những lối mòn, vượt những khuôn mẫu, dùng phép tắc chung theo cách riêng
của mình để nói lên tiếng nói của chính mình. Với cách nói vừa chuẩn mực vừa “chệch chuẩn”, câu văn
của Nguyễn Tuân vì thế luôn hấp dẫn với những hình ảnh mới lạ, độc đáo và nhiều khi cũng bắt buộc
người đọc phải dừng lại một chút để suy ngẫm mới có thể hiểu hết được.

Nguyễn Thị Mỹ Lài (Theo Văn nghệ Tiền Giang số 76)

Nhận xét về tác giả và tác phẩm

1. Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để
người nông nổi thưởng thức.Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham
chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn
nữa. (Vũ Ngọc Phan)
2. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ
bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài
hoa"(Nguyễn Ðăng Mạnh)
3. Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm kiếm cái thực và cái đẹp. Thực ra, sự thực và cái đẹp của cuộc
sống là hai cái đích mà dường như bất kì ngòi bút chân chính nào cũng hướng tới nhưng không dễ chiếm
lĩnh và chạm vào được. Nguyễn Tuân cũng trên hành trình tìm kiếm nhưng tác phẩm của ông đã chạm được
đến cái đẹp, nhất là cái đẹp truyền thống và cái thực phồn hoa chốn thành thị. Nguyễn Tuân là người thưởng
thức cái đẹp với tư cách người có văn hóa, có vốn tri thức, biết giá trị của đối tượng mình chiêm ngưỡng. (
Nguyễn Đình Thi )
T
E
N
I.
H

4. Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định: "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể
T
N

gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí
O
U

của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn; vừa
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết
lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”
5. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ"
(Ý của Tố Hữu), Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một
nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam"(chữ dùng của Vũ Ngọ)
6 …Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công
thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi
hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng
của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một
biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên
những tác phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).
7.“… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một
sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách
cơ bản đối lập nhau như tác giả nói- “hung bạo và trữ tình…” .( Nguyễn Đăng Mạnh).
8. “… Nguyễn Tuân- một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say
đắm…”. (Nguyễn Đăng Mạnh).
9. Lật mở từng trang viết của nhà văn Nguyễn Tuân, không khó để nhận thấy những con người phi thường,
những cảm xúc dữ dội, mãnh liệt, những khung cảnh ấn tượng nơi thác ghềnh, rừng thiêng, núi cao, bão,
gió - Tất cả được thâu tóm qua lăng kính 'vạn hoa' của nhiều ngành nghệ thuật và diễn tả bằng ngòi bút sắc
bén, ngang tàng. Dường như, cá tính không thể trộn lẫn ấy nảy sinh từ cẩn tắc, từ trăn trở khôn nguôi trên
hành trình đi tìm cái đẹp của một con người rất mực tài hoa mà cuộc sống trong đời thực cũng rất lạ lùng…
( Trích Bài đăng trên báo giấy Đời sống & Pháp luật số 71)

10. “Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khác, vẽ và kể chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát
với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành
nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông” (Đỗ Kim Hồi).

11. “Qua bài tùy bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn nói với ta
rằng: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta hằng
ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu đâu, mà
T

ở ngay những người dân lao động bình thường kia. Cuộc đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu
E
N

khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời” (Nguyễn Đăng Mạnh).
I.
H
T
N

12. Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn
O
U

chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng
IE
IL

và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng. ( Nhà văn Thạch Lam)
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

III. NỘI DUNG TÁC PHẨM

1 Hình tượng sông Đà: dòng sông hung bạo và dòng sông trữ tình

Hình tượng người lái đò sông Đà


2

1. Lời đề từ

Kiến thức khái quát:

Nội dung

Cảm hứng - “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”
chủ đạo - ý - “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”
nghĩa lời đề - Cội nguồn sáng tác của tác phẩm bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca, yêu mến quê
từ hương đất nước và yêu mến những vẻ đẹp tìm thấy trong cuộc sống: Vẻ đẹp của
thiên nhiên, vẻ đẹp của con người.
+ Thiên nhiên: lời đề từ đã gợi mở những vẻ đẹp khác nhau của Sông Đà mà
tác giả đã chỉ ra trong bài viết của mình. Nguyễn Tuân đã nhận ra điều khác
thường của dòng sông để định hướng suy nghĩ chủ quan hướng tới thể hiện
sự khác thường đó.
+ Con người: đó là hình ảnh người lái đò như một người nghệ sĩ trí dũng, tài
hoa, được nhìn nhận, khám phá và miêu tả với tâm thế làm chủ thiên nhiên
và là người nghệ sĩ thực thụ trong công việc lao động hàng ngày.
- Tác phẩm cũng ghi dấu ấn trong lòng đọc giả về Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ với
T
E
N

phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo. Ông tìm đến sông Đà – dòng sông duy
I.
H

nhất chảy về hướng Bắc – giống như việc tìm đến chính bản ngã của bản thân mình
T
N

– một phong cách nghệ thuật độc đáo. Như TS. Phan Huy Dũng nhận định: “Độc
O
U

đáo tìm độc đáo. Đó là Nguyễn Tuân và Sông Đà.”


IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

2. Hình tượng sông Đà

Kiến thức khái quát:

Nội dung

Khái quát về sông Đà


Con sông
Sự hùng vĩ hung bạo qua diện mạo
Đà hung
● Ở những quãng sông hẹp, đá bờ sông dựng vách thành
bạo
- “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” => người đọc vừa hình dung được
độ cao của vách đá hai bên bờ sông, vừa cảm nhận được cái lạnh lẽo, âm u của những
khúc sông hẹp. Đá ở bờ sông đã chắn hết ánh nắng, chúng không cho bất kì tia nắng
nào rọi xuống mặt sông trừ lúc giữa trưa. Bởi thế quãng sông này luôn âm u, lạnh lẽo
đến rợn người.
- “Vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” => So sánh với một bộ phận
nhỏ hẹp ở cổ họng con người => cách miêu tả chính xác, sinh động. Để tô đậm cảm
giác của con người trước quãng sông nhỏ hẹp, Nguyễn Tuân sử dụng liên tiếp hai hình
ảnh: “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”, “Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.”
- “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh...tắt phụt đèn
điện.” => Liên tưởng độc đáo, so sánh cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang
sơ với một khoảnh khắc của đời sống hiện đại giữa chốn thị thành => Những so sánh
liên tưởng của tác giả vừa chính xác tinh tế, bất ngờ và lạ lẫm. Từ kho ấn tượng của
mình, nhà văn sáng tạo ra những hình ảnh gây chấn động trước tưởng tượng và cảm xúc
mỗi người đọc.
● Đặc tả mặt ghềnh Hát Lóong: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt bất cứ con
thuyền nào tóm được qua đây”.
T
E

Biện pháp nhân hóa => Khúc sông giống như một kẻ lưu manh lúc nào cũng thích gây
N

-
I.
H

gổ, lúc nào cũng muốn đòi nợ xuýt người lái đò.
T
N

- Thủ pháp điệp từ, điệp ngữ: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió.” Những thanh trắc
O
U

được gieo liên tiếp tạo âm hưởng dữ dội với nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

xô, vừa đẩy, vừa hợp sức với gió, với sóng, với đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên
giữa dòng.
- Câu văn đang đi bằng những nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiến khiến cho
những ảnh hưởng của sóng, của gió càng trở nên mãnh liệt.
=> Hình thái của dòng sông được nhà văn nén lại trong một thứ văn cheo leo, gây chấn động
mạnh vào thần kinh cảm thụ nghệ thuật của người đọc.
● Ở những cái hút nước chết người nơi quãng Tà Mường Vát.
● Về hình thù nó giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng câu. Về
âm thanh nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nó kêu ặc ặc như tiếng rót dầu
sôi => Với cách dùng từ tượng thanh, nhà văn Nguyễn Tuân đã khiến người đọc như
được nghe thấy âm thanh của một con thủy quái khổng lồ đang bị bóp cổ.
● Sự chết chóc hiện ra khi nhà văn so sánh “ trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay
lừ lừ những cánh quạ đàn”, rồi tường thuật “ có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng
sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
● Qua góc nhìn điện ảnh, ông hình dung có một nhà quay phim nào đó dũng cảm dám
ngồi trên chiếc thuyền thúng cùng với máy quay, để cái hút nó hút cả thuyền, cả người
và máy quay xuống tít đáy thế rồi quay ngược ống kính lên thu ảnh. Cái thước phim
màu quay tít ấy đã truyền cảm giác sợ hãi đặc biệt cho người đọc. Nó giống như chúng
ta đang sợ hãi ghì chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem cái cảnh tượng hãi hùng của một
thước phim 3D.
● Đặc tả thác nước:
- Âm thanh hãi hùng, ghê rợn của nước: khi thì như là “oán trách gì” rồi lại như là “ van
xin”, rồi lại như là khiêu khích, giọng “gằn và chế nhạo”. => Một câu văn ngắn mà đủ
các cung bậc âm thanh của tiếng thác vừa thể hiện vốn từ phong phú vùa thể hiện trình
độ thẩm âm tinh tế của tác giả.
- Hình ảnh so sánh: “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng” => Nhà văn đã sử dụng ngôn từ để tái hiện âm thanh, những giai
T

âm của bản nhạc giao hưởng hùng tráng, của sóng, cử gió, của thác đá.
E
N
I.

=> Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập với lửa – dòng nước; dám lấy rừng để tả sông, có lẽ chỉ
H
T

có Nguyễn Tuân mới ngông ngạo vậy thôi!


N
O
U
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

=> Với phong cách viết tài hoa kết hợp với vốn kiến thức uyên bác Nguyễn Tuân đã tạo ấn
tượng mạnh mẽ mạnh vào giác quan người đọc một hình ảnh dữ dội đến khủng khiếp khi miêu
tả những hút nước của Sông Đà.
Hung bạo ngay cả trong tâm địa
● Trùng vi thạch trận trên sông: Vòng đầu nó bày ra năm cửa trận trong đó có tới bốn
cửa tử mà chỉ có một cửa sinh duy nhất, cái cửa sinh nằm lập lờ nơi phía tả ngạn sông.
Vòng thứ hai nó lại tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh chúng
chuyển mãi qua phía bờ hữu ngạn. Vòng thứ ba thì cả hai bên gần tả hữu bờ sông đều
là luồng chết, cửa sinh duy nhất nằm ở giữa hòn đá hậu vệ của con thác.
=> Trận đồ bát quái khó nhằn, gây nỗi ám ảnh với bất cứ ai muốn đi qua.
- Mỗi hòn đá là một tên lính thủy hung tợn, tên nào cũng trông cũng “ngỗ ngược, nhăn
nhúm” sẵn sàng giao chiến. Cả một trận địa đá với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm
đã được bày sẵn ra sẵn sàng dìm chết con thuyền. Khi thì nó mai phục để đột nhiên
nhổm cả dậy vồ lấy thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con
thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh khuýp quật vô hồi, khi đã giáp lá cà thì nó đâm
thẳng vào hông thuyền, bẻ gãy cán chèo rồi đá trái, thúc gối, giở đủ đòn âm đòn tỉa…
=> Sông Đà trở thành loài thủy quái hung ác, hiểm độc.
=> Những tri thức về quân sự, võ thuật, thể thao, điện ảnh được tung ra để vẽ thành hình thành
dạng thành tính cách của con sông độc đáo này.

Phân tích chi tiết:

Phải là Nguyễn Tuân và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới không ngại nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch
sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh của sông Đà. Sông Đà phát nguyên ở huyện Cảnh Đông tỉnh
Vân Nam- Trung Quốc lấy tên là Ly Tiên, khi đi qua một vùng núi Ác đến nửa đường thì xin nhập quốc
tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên đến ngã ba Trung Hà thì nhập vào với sông Hồng. Sông có tổng cộng
bảy mươi ba con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Có thể thấy rằng, không phải là một nhà địa lý
học, nhưng tất cả những kiến thức Nguyễn Tuân đem đến cho ta qua những trang văn của mình đều là
T

những kiến thức bổ ích và có giá trị nghiên cứu cao. Nguyễn Tuân bây giờ, không coi sông Đà là một sinh
E
N
I.

thể vô tri nữa, đối với ông, đây là một nhân vật, một con người, một tâm hồn mà ông khao khát được khám
H
T

phá và tuyệt nhiên dòng sông này, thật phù hợp với nhà văn của “núi cao, vực sâu, thác dữ của những phong
N
O

cảnh tuyệt mĩ” như Nguyễn Tuân.


U
IE

Nguyễn Tuân tài tình lắm, tài tình nhất là trong việc lựa chọn những nhân vật chính trong tác phẩm của
IL
A

mình. Tôi còn nhớ Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” được miêu tả một cách “hào sảng” khi nói về tài
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
năng, sức vóc, khi miêu tả cảnh tưởng viết chữ nơi ngục tù,.. tôi vẫn còn nhớ hình ảnh ông Lý Văn trong
truyện Ném bút chì, với sức ngang tàng của cái “bút chì” ấy có thể lụy cả một cành tre, cho đến cái nghệ
thuật cầu kỵ trong việc lồng ghép cả một tích truyện vào trong chiếc đèn xẻ rãnh của ông Cử Hai làm cho
cậu con Ngộ Lang. Những cái nghệ thuật cầu kỳ phức tạp nhưng đầy ý nghĩa đó chẳng thể nào bắt gặp được
nữa ở giữa xã hội hiện đại bây giờ… Và cách lựa chọn nhân vật của Nguyễn Tuân, vẫn luôn cầu kỳ như
vậy. Nguyễn Tuân tìm đến với nhân vật “sông Đà” cũng là thêm một lần nữa tìm về cái đẹp, thêm một lần
nữa ghi dấu ấn bản ngã của chính bản thân mình lên những trang văn.
Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà hàm chứa trong đó hai vẻ đẹp thoạt nghe tưởng chừng
đối lập: hung bạo và trữ tình. Đó là 2 vẻ đẹp được phác họa ra từ cái nhìn chủ quan của tác giả và vẻ đẹp
khách quan của dòng sông. Dưới quyền năng ngôn từ của Nguyễn Tuân, nhân vật sông Đà được hiện lên
với hai vẻ đẹp – 2 nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình. Lúc hung bạo, con sông giống như một con
quái thú gầm gào, điên cuồng chỉ trực muốn nuốt những ai ngang qua khúc sông này; khi trữ tình, dòng
sông lại trở về với vẻ hiền hòa, sóng sánh chất thơ và bất chợt trở nên thân thiết với con người giống như
một “cố nhân”.
Nguyễn Quang Bích đã từng có một phát hiện thú vị về sông Đà, được thể hiện qua 2 câu: “Chúng thủy
giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” được hiểu là mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông, duy chỉ có
sông Đà là chảy về hướng Bắc. Có thể thấy rằng, ngay từ việc lựa chọn cho nhân vật của mình, Nguyễn
Tuân cũng đã bộc lộ được “tạng văn, tạng người” của mình. Được đánh giá là một nhà văn của chủ nghĩa
“xê dịch”, Nguyễn Tuân gắn cuộc đời của mình với chiếc vali, với những chuyến đi để tìm kiếm cái đẹp,
ghi lại những điều đó trong trang văn của mình. Lần này, Nguyễn Tuân kéo vali ngược đường lên Tây Bắc,
để tìm kiếm những vẻ đẹp của sông Đà, điều này thật hợp lý khi sau này nhận định về Nguyễn, đã có rất
nhiều những nhà phê bình nói ông là nhà văn của những cảm giác mạnh, của núi cao, vực sâu, của những
phong cảnh tuyệt mỹ và việc tìm đến, viết về dòng sông này thực sự là một cách giải thích hợp lý cho cảm
hứng sáng tạo của Nguyễn Tuân.
Cá tính độc đáo của sông Đà, sự khác biệt của dòng sông này chính là điều thu hút, thôi thúc Nguyễn Tuân
phải lên đường, phải viết. Để rồi lời đề từ Nguyễn Tuân chọn cho tác phẩm của mình đó là: “Đẹp vậy thay
tiếng hát trên dòng sông”. Một cảm hứng ngợi ca, tự hào về vẻ đẹp non sông đất nước đã được thể hiện
ngay từ “lối đi vào” của tùy bút đặc sắc này.

Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, sông Đà hàm chứa trong đó hai vẻ đẹp thoạt nghe tưởng chừng
T
E
N

đối lập: hung bạo và trữ tình. Đó là 2 vẻ đẹp được phác họa ra từ cái nhìn chủ quan của tác giả và vẻ đẹp
I.
H

khách quan của dòng sông. Dưới quyền năng ngôn từ của Nguyễn Tuân, nhân vật sông Đà được hiện lên
T
N

với hai vẻ đẹp – 2 nét tính


O
U
IE

Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong thiên tùy bút này.
IL

Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:


A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
(Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang
độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt
nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần
thượng lưu của sông Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm
thấy những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ lưu, lòng sông như
được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm, hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và
sông Đà lại hiện lên vô cùng lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của
con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở
những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây Bắc.
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một
cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện”.
Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo khiến con sông Đà
hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững, đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách
khi đặt chân đến đây. Người đọc có cảm giác đá ven sông vừa cao, vừa hiểm trở. Bằng nghệ thuật so sánh
độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng
nước vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì
tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi. Vách đá cao tới
mức ánh mặt trời không thể xuyên qua, có những quãng sông chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời - tức là khi
mặt trời giữa trưa lên cao nhất mới le lói vài tia sáng nơi quãng sông này. Đó cũng chính là lý do khiến cho
những người đi thuyền qua quãng sông có cảm giác lạnh lẽo, âm u dù đang là mùa hè. Vừa miêu tả hình
ảnh, vừa miêu tả cảm giác, nhà văn đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm chân thực nhất.
Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua quãng sông hẹp với
những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như ta đang đứng giữa mùa hè mà
T
E
N

ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng
I.
H

lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với
T
N

những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn
O
U
IE

Tuân. Cảm giác này giống như xung quang ta đang là ánh sáng chan hòa, đi tới quãng sông ấy đột nhiên
IL

tối sầm và lạnh, ta đang cố ngóng lên tìm nguồn sáng thì thấy hai bên bờ đá dựng vách thành cao vút. Cảm
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
giác vừa hụt hẫng, vừa lo sợ. Cái tài của Nguyễn Tuân là chỉ bằng những dòng viết lại tạo ra được thứ cảm
giác rất chân thực cho bạn đọc.

Cũng như đá bờ sông, thì“quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông
Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tác giả
đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.
Không có từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng dài ghềnh
đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn
ghè quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ
thuật nhân hóa con sông như một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy
mới thấy hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa danh với đặc
điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm
đúng vị trí Hát Loóng. Đọc tên địa danh mà phải nén hơi, uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi
qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá, với ghềnh thác của sông Đà.
Đá dựng vách thành và nước trên sông đã nguy hiểm biết bao thì những cái hút nước ở quãng Tà
Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên
mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những
cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng
qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái
hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông
đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Vẫn là nghệ
thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho người
đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người
đọc khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng
kêu như thế nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như cái giếng
sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những cánh quạ đàn; rồi âm thanh:
những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, cuối cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền
đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng
T
E
N

sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn,
I.
H

có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự
T
N

mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước
O
U
IE

sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
IL

quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác động mạnh
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
mẽ vào trực cảm của người đọc. Những cái hút nước sông Đà qua những dòng văn Nguyễn Tuân mang
dáng vẻ của loài thủy quái vừa đáng sợ, vừa nguy hiểm. Những bộ phim tài liệu ghi lại về sự dữ dội của
sông Đà cũng đã từng đưa ra những câu chuyện thật về dòng sông hung bạo này, nhiều người trong chuyến
hành trình lên thượng nguồn đã phải rất vất vả và can đảm để có thể vượt qua quãng những cái hút nước
chết người này.
Cho cảm giác thật đến từng mi-li-met nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp. Khi nhập vào
vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc
thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn
lên vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít.
Nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc dày
như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái
mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của
liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh
thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà và
trên trang văn của Nguyễn.

Hung bạo của dòng sông Đà cũng thể hiện rất rõ qua dự dữ dội của những con thác. 73 con thác trên
dòng sông dài hàng trăm cây số này. Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”,
Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn
có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau,
có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó
như một nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy
và phát ra tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng
ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng lộn mà phá tan
rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy nó va đập mạnh vào những cây tre, cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn,
liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên
hệ thần kinh người đọc để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm
T
E
N

mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đò. Nó biết: oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế
I.
H

nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế - kẻ thù số một của con người.
T
N
O
U

Khi thác đá hiện ra, sau câu văn ngắn như một tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: Tới cái thác rồi, nhà văn
IE

đã đồng thời tả cả đá và nước thác với sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Tính từ “trắng xóa” lặp
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi dữ dội, lại gợi tả làn hơi nước như mờ đi
trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn
Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà.

Đá sông Đà cùng với nước với sóng với gió sông Đà được miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc: Đá
ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông... mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện... là một số
hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí
ẩn và hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn năm mai phục, khi dữ dằn, đột
ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy vồ lấy thuyền.

Một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như “thạch trận”, “cuộc giáp lá cà”, “hàng tiền
vệ”, “boong-ke”, “pháo đài”... một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong
những câu văn ngắn, dồn dập: mặt sông rung tít như thác nước reo hò... hò la... ùa vào... bẻ gãy... thúc
gối... đội thuyền... đánh miếng đòn độc hiểm... tóm lấy thuyền... khuýp quật vu hồi... khiến thác đá sông Đà
thực sự trở thành một chiến trường với những trận “hỗn chiến” ác liệt giữa con người với thiên nhiên. Sự
ác liệt còn được tô đậm thêm bởi những âm thanh mãnh liệt của một trận nước vang trời thanh la não bạt...
Có lúc thác đá được động vật hóa để làm tăng thêm sự hung hãn hoang dại trong hình ảnh dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Thậm chí, sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác
đá sông Đà còn được nhà văn đẩy lên đến mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần
sông, thần đá.

Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và cách nhìn của nhà văn mà đá sông Đà được miêu tả trong những
cảm nhận khác nhau, khi thì “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ
oai phong lẫm liệt”, khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự
“xấc xược” trong cái “hất hàm” thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua
hình ảnh thằng đá tướng... tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng... Thác đá sông Đà còn vô cùng xảo quyệt
khi dụ chiếc thuyền của đối phương, khi dàn sẵn trận địa và nhất là khi bày thạch trận mai phục và tấn
công con người: Vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả ngạn; vòng thứ hai tăng thêm
nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn; vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng
chết… luồng sống lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…Thạch trận dàn bày với sự phức tạp và
nguy hiểm bủa vây từ đá, nước, sóng trên sông Đà, đòi hỏi người lái đò cần phải có chiến lược, tập trung
T
E

thì mới có thể tránh được những miếng đòn hiểm ác. Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy
N
I.
H

sức biểu cảm và nhân hóa là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện
T
N

lên một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng,
O
U

gió và nước thác, đá sông Đà không im lìm như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà sống động, dữ dằn, thét
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
gào, ác hiểm khiến đá sông Đà không chỉ lộ “diện mạo” mà cả “tâm địa” của thứ kẻ thù số một của con
người Tây Bắc, gợi liên tưởng đến câu đồng dao về thần sông, thần núi trong truyện cổ:

Núi cao sông hãy còn dài

Năm năm báo oán đời đời đánh ghen

Ở đây người đọc vẫn nhận ra chất Nguyễn (tức phong cách của Nguyễn Tuân) trong nhân vật của Nguyễn
Tuân có chút gì đó hơi khinh bạc, tài tử. Như vậy, chính cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nước sông Đà
là yếu tố tôn ông lái đò lên hàng oai phong tối thượng. Đó là điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân thể hiện
các ngón nghề của mình. Thiên nhiên Tây bắc đẹp đẽ, kì thú, những con người Tây Bắc thực sự là thứ vàng
mười của đất nước, tài hoa như vậy mới trị được con sông này, bắt nó phục vụ cuộc sống cho mình.

Nội dung

Con sông Đà hung bạo, dằn dữ, khắc nghiệt bao nhiêu thì càng thơ mộng, duyên dáng, trữ
Con sông Đà
tình bấy nhiêu. Mạch ý chuyển đổi bằng 1 câu văn thật lạ: "Sóng thác xèo xèo tan trong
trữ tình
trí nhớ". Từ cảm giác hồi hộp gieo neo đến rừng rợn, người đọc lại được chiêm ngưỡng
dòng sông ở góc độ lãng mạn, trữ tình.
● Dáng vẻ diễm lệ yêu kiều
- “ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân” => Từ “ áng” lại đi liền với “tóc” và “tóc’’ đi liền với
“trữ tình”, cách kết hợp này cho ta thấy dòng Sông Đà đẹp như một cô gái Tây Bắc
với mái tóc dài duyên dáng đang thả dài trong sương khói.
● Dòng sông như dải lụa đào.
- Sắc màu của nước thay đổi theo mùa. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”. Màu ngọc
bích là màu vừa có sắc vừa có ánh sáng, thứ ánh sáng mát dịu mà quyến rũ toát ra
từ bên trong. Mùa thu “ nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi
T
E
N

vì rượu bữa”. Chính sự thay đổi màu nước ấy đã khiến dòng sông luôn luôn mới
I.
H

mẻ.
T
N

- Trên sông còn có những con thuyền đuôi én lướt trên sông, có những con cá dầm
O
U

xanh, cá anh vũ “bụng trắng như bạc rơi thoi” quấy vọt lên mặt nước.
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

=> Tất cả đem đến cho Sông Đà một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa huyền ảo lại rất duyên dáng
dịu dàng giàu chất thơ.
● Vẻ đẹp tâm hồn thơ mộng
- Nhà thơ Tản Đà đã từng lấy tên núi tên sông làm bút danh thì cảm nhận: “ Dải
sông Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Còn Nguyễn Tuân,
ông thấy dòng sông như một người tình nhân chưa quen biết. Rồi có lúc Nguyễn
Tuân lại thấy sông như một “cố nhân”. => Đó là người bạn tâm giao, một người
bạn khi gần thì dạt dào cảm xúc mà khi xa thì muôn vàn nhung nhớ. Một người
bạn đã lâu rồi không gặp, mà khi gặp vẫn luôn cảm nhận được đủ đầy những xúc
cảm trong tâm hồn.
- “Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm
đằm âm ấm như gặp lại cố nhân”. Có thể nói nhà văn đã lồng cảnh vào cảnh, tình
vào tình để thú nhận với chính mình về nỗi đắm say, phải lòng trước vẻ đẹp duyên
dáng tuyệt mỹ của sóng nước Đà giang và mây trời Tây Bắc, để cảm xúc thăng
hoa, để thi ca lai láng, để dòng Sông Đà hiện lên với cảnh sắc đắm say lòng người.
● Vẻ đẹp đượm màu sắc cổ tích
- “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…” Câu văn mở đầu toàn thanh bằng, nhẹ nhàng và
êm ái. Như thể nó chứa đựng bên trong lời tự tình của con sông, tạo tâm thế của
một cuộc du ngoạn, gợi hình ảnh con đò lặng lẽ trôi.
- “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa” => Cái độc đáo của nhà văn khi miêu tả bờ sông là ở chỗ, người ta
thường lấy cái cụ thể để so sánh làm rõ cái trừu tượng hoặc ít cụ thể hơn. Nhưng ở
đây Nguyễn Tuân lại là ngược lại ông đã lấy cái trừu tượng để so sánh làm mờ cái
cụ thể.
- Ta hiểu vì sao ở đây tác giả lại thèm nghe một tiếng còi sương. Phải chăng nhà văn
Nguyễn Tuân đang thèm muốn một âm thanh để thoát khỏi cái “lặng tờ” của cảnh
vật? Chính điều này đã khiến cả cảnh vật và con người đều như đang chìm vào
không gian đượm màu cổ tích.
T
E
N
I.
H
T
N

Phân tích chi tiết:


O
U
IE

Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự tương phản – trong
IL
A

tùy bút Người lái đò sông Đà, sự tương phản đã hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả, bởi làm nên dòng
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
sông Đà thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Vẫn là
dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông vặn mình vào một cái bến cát, khi những bọt nước cuối cùng của
sóng gió thượng nguồn xèo xèo tan trong trí nhớ, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến
một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích
Nguyễn Tuân miêu tả hình dáng sông Đà nhìn từ trên cao xuống để phát hiện ra vẻ đẹp toàn diện của con
sông, thơ mộng, mềm mại và đẹp ngay từ hình dáng. Từ trên cao, tác giả nhìn thấy con sông Đà dài như
một sợi dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình. Nó biết mềm mại, uốn lượn qua các dãy núi, triền đồi,
các ghềnh thác để làm cho mình trở nên dịu dàng, nữ tính.

Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình:
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một câu văn với
nghệ thuật kết cấu trùng điệp và cách so sánh liên tưởng gần gũi, sông Đà đã hiện lên như một cô thiếu nữ
của mảnh đất Tây Bắc đẹp e lệ, dịu dàng. Cô gái ấy có mái tóc tuôn dài, mềm mại. Mái tóc ấy lại được ẩm
hiện trong mây trời của Tây Bắc, của khói sương mờ ảo khi người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân
với những chùm hoa ban với sắc trắng, sắc tím và màu đỏ tươi của hoa gạo tháng ba – phảng phất vị Đường
thi. Nếu nhìn và cảm nhận, con sông hiện lên hiền hòa và dịu dàng như một cô gái đang e lệ với mái tóc
dài buông xõa, trên mái tóc đen óng ả ấy cài điểm những bông hoa ban, hoa gạo sặc sỡ sắc màu, và cô thẹn
thùng che mặt bằng một tấm khăn voan mỏng manh màu trắng khi bước những bước chân ngập ngừng, e
ấp về nhà chồng. Còn gì đẹp, thơ mộng và trữ tình hơn khi ví dòng sông Đà với hình ảnh một cô thiếu nữ
đang thẹn thùng cất bước chân về nhà chồng. Ngòi bút của Nguyễn không chỉ thể hiện sự tài hoa mà còn
là sự tinh tế thông qua sự liên tưởng độc đáo và cách so sánh trùng điệp, một cách so sánh tài hoa, đượm
chất phong tình. Hơn nữa, nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ nhận thấy trong thơ ca cổ trung đại, các bậc tao
nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người. Làm sao quên được hình ảnh:

“Cổ tay em trắng như ngà

Đuôi mắt em sắc như là dao cau

Nụ cười như thể hoa ngâu

Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”


T
E
N
I.

Ngược lại, đến với Nguyễn, con người là chuẩn mực để so sánh. Ông kéo thiên nhiên lại gần với con người.
H
T

Với Nguyễn Tuân, con người là trung tâm của vũ trụ, là một tiểu vũ trụ. Vì vậy, ông nhìn sông Đà như áng
N
O

tóc của người thiếu nữ.


U
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, nó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn
bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn tả sắc xanh của nước sông Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc
xanh trong vắt như pha lê, ngọc thạch mà mắt người có thể nhìn thấu đáy. Để thấy được sắc xanh như màu
xanh của sông Đà là hiếm và khác biệt với nhiều dòng sông khác Nguyễn Tuân đã so sánh màu sắc của
nước sông Đà với màu nước của sông Gâm, sông Lô là màu xanh đục lờ lờ canh hến. Sắc nước mùa thu
của sông Đà tựu thân nó không thể coi là đẹp nhưng cái đẹp đáng nói ở đây chính bởi sự làm duyên của
con sông. Mùa thu nước sông Đà dần thay màu, nó lừ lừ và rồi chín đỏ như mặt người đang tím bầm vì
rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, đang bực bội mỗi độ thu về. Xanh trong, dịu dàng là thế vào
mùa xuân mà lại chuyển ngay sang sắc tím đỏ giận dỗi vào mùa thu. Thế mới biết tính khí của con sông
kia cũng thất thường lắm, dịu dàng đấy mà giận dỗi được ngay. Không chỉ có tính cách đa dạng mà chúng
ta thấy sông Đà hiện lên như một cô gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa cô ấy tự thay tấm áo đã
cũ màu, khoác cho mình tấm áo mới, luôn luôn thay đổi, luôn tự làm mới mình để đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”,
làm cho người đi rừng dài ngày bất ngờ gặp lại con sông“vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Với nghệ thuật so sánh cụ thể Nguyễn đã cho người đọc thấy được tình
cảm, cảm xúc của mình đối với con sông của miền tây tổ quốc, không chỉ đơn thuần là cảm xúc của một
con người đối với một con sông mà đó là xúc cảm của những “cố nhân” sau bao ngày xa cách. Niềm vui
ấy như tiếng cười giòn tan trong ánh nắng của mặt trời bừng chói sau một kì mưa dầm ẩm ướt, hay như
một giấc chiêm bao ngọt ngào nhưng ta choàng tỉnh giấc và giờ đây lại được nối lại. Niềm vui của sự hân
hoan và mãn nguyện sau bao nỗi đợi chờ.
Sông Đà với Nguyễn như một “cố nhân”, nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu
dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Ấy thế mà khi được gặp lại cố nhân lại trào
dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải chăng bởi con sông kia quá gợi cảm và quyến rũ. Nét quyến rũ
của một “người tình nhân chưa quen biết”.

Sông Đà còn có những khoảng không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Cái lặng lẽ của thanh
bình, yên ả mà có lẽ bất cứ một tâm hồn khó tính nào cũng muốn ở trọ nơi đây. Có những cảnh hoang vu,
T
E
N

hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
I.
H

tuổi xưa”. Chút hoang dại của lịch sử đất nước thời khai thiên lập địa, chút hồn nhiên của tuổi thơ với bao
T
N

mơ mộng gửi theo những câu chuyện cổ tích mà mẹ, bà thường hay kể, tất cả lại về đây hội tụ trên bờ sông
O
U
IE

Đà vừa hoang vu, vừa hồn nhiên, thơ trẻ.


IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang
ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Một cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp
trong mùa xuân với sự sống đang cựa mình, sinh sôi. Thực và mộng chảy tràn vào nhau. Trong lúc đang
thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật
mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”,
được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một
bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như
từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Từ quá khứ nhà văn trở về với
hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở,
những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười. Rõ ràng cảnh vật nếu không có
con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có
mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn
tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói
riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”.
Con vật hỏi người hay chính người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là
thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của
“đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh
thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với
thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc
về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của
“một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ
“như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng
nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Đó là niềm mong ước
của nhà văn nửa muốn gìn giữ những nét nguyên sơ của con sông, nửa muốn cải tạo mà khai phá nó để
phục vụ con người – đó phải chăng cũng là lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn?

Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình đồng thời vô cùng kiều
diễm. Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến thức nền chủ yếu
là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này,
T
E

Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử và kiến thức văn học với câu văn vươn
N
I.

dài ra như nhịp chèo khoan thai của “thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận
H
T
N

thấy có đến mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm
O
U

mại. Người yêu văn có thể dễ dàng chuyển thẳng những đoạn văn Nguyễn Tuân viết về dòng sông Đà ở hạ
IE

lưu thành những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Phong cách Nguyễn Tuân này trước cách mạng ta chỉ
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
bắt gặp ở nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch tính, không gay cấn, truyện
như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Đến đây, ta lại bắt gặp ở nhà ngôn ngữ tài ba Nguyễn Tuân
một phong cách nghệ thuật tương tự.

3. Hình tượng người lái đò sông Đà

Nội dung

a. Cách giới thiệu nhân vật


Hình tượng
- Nguyễn Tuân để cho người lái đò sông Đà xuất hiện trong tâm thức của người

người lái đò sông đọc đặt trong mối tương quan giữa thạch thủy trận của Đà giang.

Đà - Mối tương quan tưởng chừng như đối lập: Dòng sông Đà hung bạo, dữ tợn,
thiên nhiên bao la, choáng ngợp trong khi hình ảnh của con người bé nhỏ,
- Thế nhưng không, đối lập lại với điều này là tầm vóc của con người lao động
bình thường thoáng chốc trở nên vĩ đại, lớn lao, phi thường.
=> Dòng sông và con người soi chiếu vào nhau để từ đó phát hiện ra những vẻ đẹp của
riêng mình.
b. Lai lịch, ngoại hình
* Lai lịch:
- Ông đò quê ở Lai Châu làm nghề chèo đò trên dòng sông Đà đã hơn 10 năm,
Với khoảng thời gian chinh chiến này, đủ để đôi tay của ông vững vàng và trở
thành một tay lái lão luyện: “Trên sông Đà ông xuôi, ông ngược trên 100 lần
rồi và chính tay ông giữ lái độ 60 lần.
- Ông là một con người từng trải, là linh hồn của muôn thủa sông nước Đà giang,
ông hiểu dòng sông như chính bản thân mình. Đối với người lái đò sông Đà,
dòng sông này là nơi để ông ghi lại những dấu ấn, viết những bản thiên hùng
ca trong cuộc đời của mình. Nó thân thuộc tới mức, như cách ông nhớ một bài
văn, nhớ từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than và cả những đoạn xuống
dòng.
T

=> Nguyễn Tuân thể hiện sự cảm phục của mình với người lái đò bằng những hình ảnh
E
N

so sánh đầy chất văn, cuộc sống của ông lão, đơn giản bình thường nhưng cũng vô
I.
H

cùng phi thường.


T
N
O

* Ngoại hình:
U
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

- Là một ông lão 70 tuổi với mái tóc bạc phơ. Cái đầu bạc quắc thước đặt trên
một thân hình cao to gọn quánh những chất sừng, chất mun và hai cánh tay trẻ
tráng. Nhãn giới của ông cao vời vợi, tiếng nói ào ào như nước thác trước mặt
ghềnh sông. Hai chân khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp chặt một cái cuống
lái trong tưởng tượng, tay ông dài lêu nghêu. => một con người cưỡi sóng, đạp
gió là vẻ đẹp của người anh hùng lao động giữa cuộc sống đời thường.
- Ông lái đò được tác giả miêu tả bằng những cảm nhận phong phú từ các giác
quan, cảm hứng của người nghệ sĩ và bằng kho từ ngữ phong phú, giàu giá trị
tạo hình để cho người đọc có được đủ đầy nhất những con người sinh ra từ sóng
nước Đà Giang.
c. Phẩm chất, tính cách
Ông lái đò – con người tài hoa, trí dũng vô song
- Công việc hàng ngày của ông là vượt thác ghềnh, phá thạch trận vòng vây của
thủy thần ác quái. Bằng kinh nghiệm của mình, ông xử lý tình huống nguy hiểm
một cách khéo léo, dứt khoát, táo bạo, tài tử đến kỳ diệu.
- Nhà văn đã đặt hình ảnh của người lái đò, trong trận chiến với Đà giang dữ dội,
hung bạo, quỷ quyệt, để làm nổi bật vẻ đẹp của người lao động bình thường:
“Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên
chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.”
* Tương quan lực lượng: thoạt nhìn thì đây là cuộc đấu không cân sức
- Bên này là thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên
hàng thần thánh, có sóng nước hò reo, quyết vật ngửa con thuyền, có thạch trận
với đủ ba lớp trừng vi vây bủa được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn
hào và nham hiểm.
- Bên kia là con người nhỏ bé, không hề có phép màu, vũ khí trên tay chỉ là chiếc
cán chèo trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi.
* Cuộc chiến đấu: chia thành 3 chặng:
- Trùng vi thạch trận thứ nhất:
+ Đá sông dàn thạch trận, mở ra năm cửa: bốn cửa tử và một cửa sinh.
T

Những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Sóng nước thì hò la vang dậy,
E
N
I.

ùa vào bẻ gãy cán chèo. Thác nước sông Đà mưu mô xảo quyệt tới mức
H
T

như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng, vào
N
O

hông thuyền.
U
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

+ Ông lái đò lúc bấy giờ đã bị thương vẫn nhất định giữ lấy mái chèo, hay
chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn
gọn, tỉnh táo. Ông đò thực thụ là một người chiến sĩ, người chỉ huy vô
cùng bản lĩnh, dũng cảm.
- Trùng vi thạch trận thứ hai:
+ Đá sông tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch sang bờ hữu ngạn.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá, bám lấy thuyền
rồi lỗi vào tập đoàn cửa tử.
+ Với ông đò “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”.
Ông “nắm chặt lấy bờm sóng, đúng guồng rồi ông đò ghì cương lái mà
lái miết một đường chéo về phía cửa đá”. Chinh chiến đã lâu, ông đò
thuộc lòng binh pháp của thần sông, thần đá nơi đây, cho nên ông lão
đã vận dụng sáng tạo những chiến thuật của mình để giành lấy chiến
thắng cuối cùng. “Đứa thì ông tránh và rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn chặt đôi ra để mở đường tiến.” Ông lão ấy đã giao chiến với tướng
đá, quân đá thạch trận sông Đà như một dũng sĩ anh hùng giữa đời
thường.
- Trùng vi thạch trận thứ ba:
+ Bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữ bọn đá hậu vệ
+ Ông lái đò hiện lên với sự nhịp nhàng, điêu luyện khi chèo lái con
thuyền: “Vút, vút, cửa ngoài, của trong lại cửa trong cùng thuyền như
một mũi tên tre xuyên qua nhanh hơn nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được.”
+ Nguyễn Tuân đã đưa ra một phép so sánh độc đáo và chính xác, gây
được nhiều ấn tượng trong lòng đọc giả đó là hình ảnh người lái đò và
người lái xe đang lao xuống dốc đèo. Người lái xe khi nguy nan vẫn còn
chỗ để bám víu, đó là phanh tay, có tiến lên, lùi lại còn đối với người
lái đò bây giờ thì không còn đường lùi “Cái thuyền mà lao xuống thác
thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao
T

trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà úp xuống chứ không có
E
N
I.

lùi gì cả”.
H
T

=> Trong trận thủy chiến, ông lái đò như một chiến tướng “tả xung hữu đột”, phát huy
N
O

trọn vẹn, đủ đầy tài trí sự linh hoạt ứng biến của mình. Vượt qua ba trùng vi thạch trận
U
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021

với rất ít cửa sinh, ông lái đò đã thành công trong việc phá vỡ trùng vi thạch trận này
để giành thắng lợi về cho mình.
=> Miêu tả ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn đưa ra một triết lý, một thông điệp: “ Giữa
thế giới tàn độc, dữ dội và nham hiểm, thế giới man dại đầy những cạm bẫy ấy, con
người vẫn dũng cảm, vẫn đủ kinh nghiệm tìm lại luồn sinh bằng sự trải nghiệm và trí
tuệ tuyệt vời của mình.”
Ông lái đò – người nghệ sĩ giữa sông nước Đà giang
- Trận thủy chiến dữ dội như vậy, khó khăn như vậy thế nhưng bằng tài năng, trí
dũng của mình, ông lái đò đã vượt qua tất cả những khó khăn để trở về với cuộc
sống thanh bình. “Thế là hết thác, dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có
hang lạnh…sông nước lại thanh bình…đêm đó nhà đò đốt lửa trong hang đá,
nước ống cơm lam mà bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”
- Ông lái đò bây giờ, trải qua hết những thời khắc khó khăn vất vả đề trở về với
những phút giây thanh bình, mơ mộng, quên đi khoảnh khắc mình vừa cận kề
với cái chết, quên đi khoảnh khắc phải đối mặt với thủy quái. Có thể thấy, ông
lái đò sông Đà là một dũng tướng mang trong mình tâm thái của một người
nghệ sĩ: ung dung, tự do, tự tại. Đó là một cao nhân, đồng thời cũng là một “tao
nhân”.
=> Viết về người lái đò sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân hiện lên với tràn đầy cảm hứng
lãng mạn. Cảm hứng ấy thấm sâu và lan tỏa trong những câu văn viết về đời thực, viết
về con người thực. Cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong tùy bút, đặc biệt khi viết
về người lái đò đã tạo nên một khúc ca tươi đẹp, hào sảng khi viết về con người lao
động.

Phân tích chi tiết:

Trước 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con người đặc tuyển,
xuất chúng, vì thế, cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, và trong hoàn cảnh xã hội
T

thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, đó là những vẻ đẹp vang bóng một thời
E
N
I.

thường đem đến sự ngưỡng mộ ngậm ngùi, nuối tiếc. Sau 1945, quan niệm thẩm mĩ của nhà văn đã có
H
T

những thay đổi cơ bản. Vẫn nhìn con người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ, Nguyễn Tuân
N
O

cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều
U
IE

có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Trong những sáng tác sau năm
IL
A

1945, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động bình thường trong
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
cuộc sống đời thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng, yêu mến đối với họ. Người lái đò sông Đà
trong tùy bút cùng tên cũng là một nhân vật được nhà văn khám phá và thể hiện không chỉ ở vẻ đẹp tài hoa
mà còn trí dũng.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của quê hương
đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi
xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có
ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá
». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in
đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò
lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn
giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ
nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn
Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng. Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã
chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao
động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến
đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được
nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý
nghề ở chính con người đó.

Và để khắc họa vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả một cuộc vượt thác nguy hiểm
và ngoạn mục trong đó nổi bật sự tương phản giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí
dũng ngoan cường, đó cũng là “trận thủy chiến” dữ dội giữa một bên là những trùng vi thạch trận của đá
thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiến thuyền then đuôi én mỏng manh và những người lái đò
nhỏ bé, đơn độc. Đối thủ ghê gớm của ông đò trong cuộc vượt thác là cả một đoàn quân đá hung bạo, dữ
dằn. Những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như “dàn sẵn trận địa… dụ thuyền đối phương…
đánh khuýp quật vu hồi…” đã nhân cách hóa dòng sông khiến cho thiên nhiên sông Đà với sóng dữ, thác
dữ, đá dữ trở nên hung hãn, hiểm ác như “một thứ kẻ thù số một của con người.” Tác giả còn sử dụng một
loạt các từ láy miêu tả diện mạo gớm ghiếc của đám đá sông Đà khi thì ngỗ ngược, nhăm nhúm, méo mó,
xấc xược thách thức, khi tiu nghỉu cái mặt xanh… một loạt những động từ đặt trong các nhịp câu ngắt ngắn,
T
E

nhanh, dồn dập: “nước thác reo hò… hò la… ùa vào… bẻ gẫy… đá trái… thúc gối… đội thuyền… bám
N
I.

lấy thuyền…” rồi sử dụng cấu trúc điệp để tả “nước xô đá, đá xô sóng”… hay “sóng đánh hồi lùng, đánh
H
T
N

đòn tỉa, đánh đòn âm…” Tất cả đã làm hiện lên sự hung bạo vô cùng của sông Đà khi cùng một lúc các sức
O
U

mạnh thiên nhiên kết hợp với nhau tấn công những con thuyền đơn độc và con người nhỏ bé. Thiên nhiên
IE

sông Đà còn vô cùng xảo quyệt trong việc dàn trận tấn công con người. Để đưa con thuyền vượt thác sông
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
Đà khúc thượng nguồn, những người lái đò phải đối đầu với cả một trùng vi thạch trận trên dòng sông,
trong đó, “vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn… vòng hai tăng thêm nhiều cửa
tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn… vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồng
sống… lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…” Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên
sông Đà chính là những tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của mình khi
người lái đò luôn phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải ngoan cường, dũng cảm mới có thể đưa
con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông.

Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận, khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt “méo bệch”
đi – cách sử dụng từ độc đáo đã giúp nhà văn làm hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì
đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu
tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác: “mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng” – đây vẫn là cách miêu tả thông qua cảm giác quen thuộc của
Nguyễn Tuân – vết thương đau đớn của ông đò đã dược thể hiện bởi cảm giác toé đom đóm và rát bỏng
như lửa cháy. Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng quá chênh lệch với sóng thác sông
Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén vết thương đau đớn, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây
thứ nhất của thạch trận trên sông Đà. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm
lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng
mãnh, bình thản của người lái đò.

Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông
minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, người
đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá… Ông được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang điều khiển,
thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà khi nắm chắc bờm sóng… ghì cương… phóng nhanh
vào cửa sinh; kinh nghiệm dày dặn và trí nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết ông nhớ
mặt từng đứa trong bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước để có cách ứng phó phù hợp. Những động tác linh
hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái miết một đường chéo, khi tránh mà rảo bơi chèo, khi đè
sấn lên mà chặt đôi… cho thấy những biện pháp kì diệu của một tay lái ra hoa – trí tuệ và tài hoa con người
thậm chí đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.

Ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá
T
E

cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ
N
I.
H

đá hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngưng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông
T
N

đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ,
O
U

trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Hình ảnh con thuyền lao vút qua
IE
IL

khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
danh từ nối tiếp: vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và
sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông
đò không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái gợi hình và biểu cảm: “vút… vút”… qua hình ảnh
so sánh về một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua – bởi với
cách so sánh về một mũi tên tre xuyên qua hơi nước, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực
sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm,
sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu.

Trí tuệ, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ và trí dũng phi
thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, khi bao giờ cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa
sinh duy nhất giữa bát ngát trận đồ cửa tử của những trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn; khi không bao
giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dẫu chỉ trong khoảnh khắc; khi luôn có thể trình diễn
nghệ thuật lái đò điêu luyện của một tay lái ra hoa. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, người lái đò
lại “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… chả thấy ai
bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn.” Đối với họ, đây
không phải là cuộc chiến vĩ đại, đây là những nhiều bình thường họ phải trải qua trong công việc lao động
của mình. Tiếp nhận những điều phi thường bằng tâm thế bình thường, đó là tâm hồn của một cao nhân
đồng thời cũng là một tao nhân. Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người
anh hùng trong cuộc sống đời thường bịn rịn khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm
ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện thường ngày.

Người lái đò trí dũng và tài hoa trên dòng sông hung bạo và trữ tình. Vẻ đẹp của những người lái đò là vẻ
đẹp bình dị, thầm lặng nhưng cũng đầy trí tuệ và sức mạnh, đầy ý chí và nghị lực, tài năng và tài hoa, có
khả năng chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người xây dựng đất nước. Đó chính là “chất vàng
mười” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kì mới.

IV. Mở bài và kết bài tham khảo

Mở bài 1: Việt Nam - đất nước - nơi những dòng sông thương nhớ chảy về đã dệt nên bao vần thơ đẹp.
Đã có sông Hương thơ mộng trong trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường hay của Thu Bồn, đã có "Vàm
cỏ Đông" tha thiết chở phù sa trong thơ của Hoài Vũ, có "Sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm" trong thơ
T

Chế Lan Viên... Và nay ta lại có Sông Đà trong trang viết tài hoa tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhất
E
N
I.

định phải có một tiên cảm tiên giác nghệ thuật sáng suốt nào mách cho người nghệ sĩ tài hoa về nguồn cảm
H
T

hứng sông Đà hàng chục năm trước khi “dòng sông ánh sáng” đó thực sự là một địa chỉ lớn của thơ ca,
N
O

nhạc họa, sân khấu. Và từ ấy đến nay, cho dù đã có bao nhiêu người khắc, vẽ, kể chuyện về sông Đà, làm
U
IE

thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ chưa ai vượt được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy
IL
A

thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông.


T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
Mở bài 2: Trong lịch sử nhân loại, mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp lên một nền văn minh. Trong địa hạt
văn học Việt Nam, mỗi dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta được chiêm ngưỡng một
dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác thấm đượm nỗi nhớ nhà trong Tràng Giang của Huy
Cận hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông
Đuống của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện chỉ là cái cớ để các nhà thơ bày tỏ lòng
mình thì đến với Người lái đò sông Đà người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về một
dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hình ảnh dòng sông độc bắc lưu hiện lên rất riêng và
độc đáo.

Mở bài 3:

Tây Bắc ư? có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu

(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)

Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của tâm hồn Tây Bắc để xây dựng lại
miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với Cách mạng.
Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân - cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam,
người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút người lái
đò sông Đà - một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. Tùy bút sông
Đà là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, những đoạn tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ
dội, hoặc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt đỉnh, nhưng lấp lánh giữa những vẻ đẹp ấy là hình ảnh con sông
Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình và lãng mạn.

Kết bài

Kết bài 1: Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam - Những đồng tác giả của
T

trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên trăm dáng sông xuôi (ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm). Sông Đà
E
N

càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh dũng, ngoan cường trong lao động, ta lại càng
I.
H
T

thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình
N
O

dị ấy “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc sống quanh ta vốn rất cũ kỹ, tầm thường,
U
IE

gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày.. nhà văn chính là người đã mang lại cho ta một thế giới mới,
IL
A

tinh khôi hơn, diệu kì hơn. Và Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh của một nhà văn, ông đã góp phần mang
T

https://TaiLieuOnThi.Net
Tài Liệu Ôn Thi Group

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN


Học Văn Chị Hiên 2021
đến cho Thế giới những sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta như bước vào một
chân trời với màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của tài hoa và
sự uyên bác.

Kết bài 2: Đọc “ Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của Nguyễn
Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với
ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật
trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá
của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

Kết bài 3: Thành công xuất sắc của tùy bút Người lái đò sông Đà đó là bức tranh thiên nhiên rất thực hòa
quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân. Những đặc sắc nghệ thuật với rất nhiều
biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dòng sông Đà của thiên
nhiên vĩnh viễn trở thành dòng sông nghệ thuật. Đọc Người lái đò sông Đà, ta yêu thêm con người Việt
Nam cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên
nhiên, là hồn thiêng đất Việt.

T
E
N
I.
H
T
N
O
U
IE
IL
A
T

https://TaiLieuOnThi.Net

You might also like