You are on page 1of 13

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


Học phần: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI: NỘI DUNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG –


CÁI RIÊNG VÀ VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.

Giảng viên hướng dẫn : Đào Thị Hữu


Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Thu Hà
Lớp : F14D
Mã sinh viên : F14076

Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2022


Table of Content

No table of contents entries found.

s
I. MỞ ĐẦU:
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính
tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do
những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế
nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân
thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế.
Sau đại hội Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi
mới: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới, nền kinh tế nước ta ngày càng ổn định, vững
chắc hơn, các cân đối nền kinh tế cơ bản được đảm bảo, tốc độ tăng trưởng duy trì
ở mức khá cao, quy mô và tiền lực kinh tế tăng lên. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu Đảng và nhà nước ta đạt được thì nền kinh tế thị trường vẫn còn nhiều
hạn chế, điều này đòi hỏi sự học tập, tiếp thu những kinh nghiệm của nhân loại
trên cơ sở cân nhắc, lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam.
Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác – Lênin, đặc biệt là phạm trù triết học
cái chung và cái riêng có vai trò làm kim chỉ nam trong mọi hoạt động nhận thức
về kinh tế thị trường.
Vì vậy em đã chọn đề tài “Nội dung cặp phạm trù cái chung – cái riêng và vận
dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.” làm nội dung cho bài tiểu luận này với mong muốn tìm hiểu
rõ hơn về vai trò của cái chung và cái riêng trong trong quá trình phát tiển nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, từ đó liên hệ thực tiễn và liên hệ đến bản
thân nhằm góp phần xây dựng nước ta ngày càng giàu mạnh, phát triển, văn minh,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu về cặp phạm trù cái chung – cái riêng và mối quan hệ giữa chúng, từ đó
liên hệ, vận dụng đến quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Để đạt được mục đích này thì đề tài phải giải quyết 2 nội
dung. Thứ nhất là làm rõ khái niệm, mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Thứ
hai là làm rõ tính quy luật chung và đặc điểm đơn nhất của quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ đó liên hệ bản thân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái
riêng vào phân tích kinh tế thị trường ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Việt Nam
Phạm vi về thời gian: hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Cơ sở lý luận:
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phạm trù cái chung và cái
riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày tiểu luận, tác giả sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời vận dụng quan điểm khách
quan, quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể, quan
điểm thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
5.1. Ý nghĩa lý luận:
Tiểu luận góp phần làm rõ các vấn đề về cặp phạm trù cái chung – cái riêng và
mối quan hệ của cái chung – cái riêng. Đồng thời, vận dụng vào quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tiểu luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để tiếp tục đi sâu nghiên cứu cặp
phạm trù cái chung – cái riêng và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái
chung và cái riêng vào phân tích kinh tế thị trường ở Việt Nam.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy đường lối phát triển
kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình chuyển biến nền
kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, nước ta hiện
nay phải trau dồi thêm cho mình những kiến thức, kinh nghiệm để phát triển,
vững mạnh thêm nữa. Hơn thế nữa, nước ta còn là một nước lạc hậu, kém phát
triển so với các quốc gia khác. Vì vậy, ta phải học tập thêm kinh nghiệm, cách
làm việc của các quốc gia khác, điển hình là một số nước đang thuộc top như Mỹ,
Singapo, Nhật Bản, Trung Quốc,…
I. NỘI DUNG:
Phần 1: Phần lý luận:
1. Cặp phạm trù cái chung – cái riêng:
1.1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất:
“Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một trong những sự vật, hiện tượng,
quá trình riêng lẻ, xác định trong thế giới khách quan mà trong chúng có chứa
thuộc tính hay yếu tố chung”. Ví dụ: Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường
xuyên tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau như ngôi nhà, cái
bàn, cái ghế, hiện tượng ô nhiễm không khí, quá trình ra hoa của một cái cây,...
Mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ đó được gọi là cái riêng.
“Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ một mặt (thuộc tỉnh, yếu tố) không
chỉ có ở trong cái riêng (sự vật) này mà còn được lập lại trong những cái riêng (sự
vật) khác”. Ví dụ: Cái chung của người Việt Nam là có một lòng nồng nàn yêu
nước, cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân
làm thuê, cái chung của sinh viên là đi học, thi cử....
“Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những
thuộc tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất
cứ một kết cấu vật chất nào khác. Về mặt ngữ nghĩa, “cái đơn nhất” gần giống với
cái cá biệt. Ví dụ: Đỉnh núi Everest cao nhất thế giới với độ cao 8.850 mét. Độ
cao 8.850 mét của Everest là cái đơn nhất vì không có một đỉnh núi nào khác có
độ cao này.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất:
“Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong những cái riêng và thông qua những
cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của chính mình”. Ví dụ: Không có cái cây nói
chung tồn tại bên cạnh cây mai, cây đào, cây quất... Nhưng cây mai, cây đào, cây
quất nào cũng có rễ, thân, lá, có quá trình lý hóa để duy trì sự sống. Những đặc
tính này lặp lại ở những cây riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm “cây”. Đó
là cái chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng
không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
“Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung và thông
qua cái chung mà những cái riêng có liên hệ chuyển hóa lẫn nhau”. Ví dụ,
mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài mối liên
hệ với tự nhiên và xã hội. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy
luật sinh học và quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người. Như
vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung trong nó.
“Thứ ba, cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng, do đó cái riêng không
gia nhập hết vào trong cái chung, bên trong cái riêng còn chứa cái đơn nhất”.
Có thể khái quát mối quan hệ cái chung, cái riêng bằng công thức như sau:
Cái riêng = Cái chung + Cái đơn nhất
Công thức trên có thể không đúng một cách tuyệt đối, nhưng trong một chừng
mực nào đó thì nó có thể nói lên được quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái
riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn
cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn
tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa
có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau.
“Thứ tư, trong những điều kiện xác định, cái đơn nhất và cái phổ biến hay
cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau: Cái mới thường xuất hiện dưới dạng
cái đơn nhất, qua quá trình phát triển mở rộng, cái mới sẽ chiến thắng cái cũ
và trở thành cái phổ biến. Cải cũ ban đầu thường tồn tại dưới dạng cái phổ
biến, sau đó nó ngày càng suy yếu, thu hẹp dần thành cái đơn nhất và cuối
cùng mất đi”. Ví dụ: Trong quá trình phát triển của sinh vật xuất hiện những biến
dị ở một hoặc một số ít cá thể riêng biệt biểu hiện thành đặc tính mà khi ngoại
cảnh thay đổi nó trở nên phù hợp hơn thì đặc tính được bảo tồn, duy trì ở nhiều
thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Ngược lại những đặc tính không
phù hợp sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất; hoặc là trước Đại hội Đảng lần
thứ VI thì kinh tế thị trường chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp;
nhưng từ sau Đại hội thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế
tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số lĩnh vực quan
trọng như an ninh quốc phòng, an ninh năng lượng...
Đôi khi sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất chỉ mang tính tương đối. Có
những đặc điểm xét trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng nếu xét trong
nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ: Cá trê là cái chung nếu xem xét trong
các loại cả trẻ ( vàng, đen, trắng....) nhưng nó lại là cái riêng nếu xem xét trong tất
cả các loại cá ( cả trẻ, cả phi, cá rô...).
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận:
1.3.1. Ý nghĩa lý luận:
Vì “cái chung” chỉ tồn tại trong và thông qua “cái riêng”, nên chỉ có thể tìm
hiểu, nhận thức về “cái chung” trong “cái riêng” chứ không thể ngoài “cái
riêng”. Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu “cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu
từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ
quan của con người.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Để giải quyết những vấn đề riêng, phải giải quyết những vấn đề chung có tính lý
luận. Vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại bên ngoài
mối liên hệ dẫn tới “cái chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng
một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua việc giải quyết những vấn đề chung. Nếu
không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý luận – thì
sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết những vấn đề
riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng
mạch lạc.
Bất cứ cái chung nào cũng tồn tại trong cái riêng nhưng đã được cải biến, vì thế
khi áp dụng cái chung vào từng trường hợp riêng cần được cá biệt hóa. Vì “cái
chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với
những bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”, nên
bất cứ “cái chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến.
Tức là, luôn có sự khác biệt một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái
riêng” này và “cái chung” nằm trong “cái riêng” kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu,
rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của “cái chung”.
Nếu cái đơn nhất có lợi, biến nó thành cái chung. Cái chung không mong muốn,
biến nó thành cái đơn nhất. Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những
điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại,
nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện thuận lợi cho “cái đơn
nhất” phát triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi. Ngược lại, phải tìm
cách làm cho “cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái
chung” không còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.
2. Vận dụng cặp phạm trù cái chung và cái riêng của phép duy vật biện
chứng vào việc phân tích kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam hiện nay:
2.1. Quy luật chung của quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Quá trình phát triển mô hình KTTT mỗi quốc gia đều có màu sắc riêng đó là
những điều kiện đặc thù về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó
nhất thiết có đặc điểm chung mang tính quy luật mà khi theo mô hình kinh tế này
đất nước chúng ta buộc phải trải qua.
Một đặc điểm chung cơ bản dễ nhận ra đó là cũng như mọi nước khác, chúng ta
cũng chịu sự phận công lao động theo nhiều ngành nghề, có sự khác biệt về sở
hữu tài sản và đặc biệt lợi nhuận là động lực cho sự phát triển. Nền kinh tế nước
ta cũng vận động theo quy luật vốn có của nền KTTT đó là quy luật cung cầu, quy
luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ và phát triển các loại thị trường như thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường lao động...đây là những đặc
điểm tốt mà kinh tế thị trường đem lại.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN do người lao động làm chủ. Điều này có thể
trên cơ sở nhà nước thực sự của dân, do dân và chế độ công hữu. Trong đó, người
lao động đóng vai trò sở hữu tư liệu sản xuất.
Đặc điểm chung nữa là những vấn đề tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại, đó là
sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên
gây ô nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp gây khó khăn cho cuộc sống của nhiều
người, các tệ nạn xã hội cũng gây sức ép to lớn cho nền kinh tế nước ta làm cho
kinh tế nước ta phát triển mất cân đối.
2.2. Đặc điểm đơn nhất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Thứ nhất là mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Để có thể phân biệt nền kinh tế thị trường của nước ta so với nền kinh tế thị
trường khác phải nói đến mục đích chính trị mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và
nhân dân đã chọn. Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu
người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã
hội ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường
cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an
ninh, quốc phòng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích
ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết
các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về
kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lấy lợi ích và phúc lợi
toàn dân làm mục tiêu. Phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản
xuất, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất; xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội nâng cao đời sống nhân dân bằng việc đẩy mạnh xóa đói, giảm
nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người
khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Kinh tế thị trường bản thân nó là nội
lực thúc đẩy tiến trình kinh tế – xã hội. Mục tiêu này thể hiện rõ mục đích phát
triển kinh tế thị trường là vì con người, nâng cao đời sống nhân dân, mọi người
điều được hưởng thụ thành quả của sự phát triển.
Thứ hai là vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tồn tại nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Theo quan
điểm tại đại hội XII của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có bốn thành phần
kinh tế gồm: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần
kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần
kinh tế độc lập với nhau bình đẳng với nhau trước pháp luật. Nhà nước khuyến
khích mọi thành phần kinh tế phát triển. Ngoài ra mỗi thành phần kinh tế chịu sự
tác động của các quy luật kinh tế riêng bên cạnh tính thống nhất giữa các thành
phần kinh tế cũng có sự khác nhau thậm chí có thể có mẫu thuẫn khiến cho nền
kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những hướng khác nhau.
Các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên các quan hệ sở hữu khác nhau và
thường đại diện cho những giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Do đó trong quá
trình cùng phát triển chúng đan xen đấu tranh mâu thuẫn và phát triển theo những
khuynh hướng khác nhau. Vì vậy kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo là để
giữ vững định hướng xả hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế.
Thứ ba là hoạt động quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đại diện cho đa số nhân dân trong xã hội và
phải bảo vệ quyền lợi, lợi ích của nhân dân. Quản lý nền kinh tế bằng pháp luật,
bằng chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sự dụng cơ chế thị trường, các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và khắc phục những tiêu cực,
hạn chế do cơ chế thị trường mang lại, bảo vệ lợi ích của nhân dân và xã hội.
Thứ tư kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hóa các
hình thức phân phối. Mỗi chế độ xã hội lại có hình thức phân phối đặc trưng. Các
hình thức phân phối là một bộ phận của quan hệ sản xuất và do quan hệ sở hữu
quyết định. Nhưng ngược lại quan hệ phân phối là hình thức thực hiện về mặt
kinh tế của quan hệ sở hữu. Tại Việt Nam hiện đang thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Cơ chế phân phối này tạo
động lực để kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động, sản xuất,
kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Do trình độ của lực
lượng sản xuất còn chưa đồng đều nên tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, do đó tất yếu cần có sự tồn tại đa dạng về quan hệ phân phối.
Thứ năm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với bảo đảm công bằng xã hội
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế luôn gắn tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng con người và thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội. Nền kinh tế đó luôn có sự gắn kết chặt chẽ chính sách
kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân, mọi người đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện.
Đây cũng là một trong những mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thể hiện sự khác biệt so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa về
việc phân cực giàu nghèo, phân hóa xã hội.
Phần 2. Phần liên hệ bản thân:
Qua việc lựa chọn và đi vào nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái chung,
cái riêng vận dụng vào xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. Giúp em một lần
nữa bồi dưỡng thêm hành trang kiến thức về kinh tế thị trường. Đặc biệt giúp em
nhìn nhận sâu hơn một kiến thức rất bổ ích mà trước khi làm đề tài này vẫn còn
hiểu rất mơ hồ. Đó là một tỷ lệ thích hợp giữa cái chung và cái đơn nhất để tạo
nên một thực thể riêng biệt. Nếu chỉ có cái chung có nghĩa là ''tôi giống tất cả
nhưng tôi chẳng giống ai, tôi không tồn tại'', nếu chỉ có cái đơn nhất nghĩa là ''tôi
quái dị '' và ''tôi không thể tồn tại''. Vì vậy, trong mọi hoạt động thực tiễn cần
phải kết hợp tốt mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng để tồn tại tốt hơn.
Để thị trường nước ta ngày càng phát triển, mỗi công dân chúng ta đều phải có sự
đóng góp của mình dù ít hay nhỏ. Ví dụ như:
Thực hiện phong trào người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, tăng cường
dùng hàng trong nước để khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, tái
đầu tư sản xuất.
Khi tham gia vào thị trường cần mua bán lành mạnh, không buôn bán gian lận để
tạo một thị trường đảm bảo, có uy tín được người mua tin tưởng. Tránh để xảy ra
tình trạng lạm phát. Bởi xảy ra lạm phát rất dễ nhưng giải quyết được lạm phát rất
khó.
Học tập tốt, rèn luyện tốt ban thân để có thể trở thành một công dân tố, người lao
động tốt có kiến thức để đóng góp cho đất nước.
II. KẾT LUẬN:
Sau bao nhiêu năm giữ vững nền độc lập tự chủ, chiến thắng hai đế quốc mạnh
nhất nhì thế giới  là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đảng ta lại bắt đầu tìm tòi,
nghiên cứu để tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế vẫn còn hết sức yếu kém.
Nền kinh tế nước ta đi sau các nước hàng chục năm, thâm chí đối với các quốc gia
mạnh giới hạn đó có thể lên đến hàng trăm năm. Đứng trước điểm xuất phát đó,
Đảng ta luôn phải đứng trước hai con đường cái chung hay cái đơn nhất. Việc duy
trì và phát triển cái riêng, cai vốn có và việc tiếp thu cái hay cái đẹp tư bên ngoài
để ta vừa có thể khẳng định được cái tôi vừa kết hợp cái tinh hoa từ bên ngoài
không phải là chuyện dễ, ngày một ngày hai có thể làm được. Đứng trước tình
hình đó, triết học Mác-Lênin  đã trở thành kim chỉ nam định hướng  cho toàn bộ
quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Đặc biệt trong môi trường toàn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng  gay gắt, các chủ
thể cạnh tranh luôn tìm mọi cách để tạo thế mạnh riêng, thì việc  cố gắng  tìm
kiếm, tạo dựng  và phát triển những nét đặc sắc, đơn nhất là vô cùng quan trọng,
là nhân tố quyết định  đến quá trình  xây  dựng  kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa mang đậm màu sắc Việt Nam.
Không nằm ngoài hệ thống kinh tế thế giới, nền kinh tế thị trường nước ta cũng
chịu sự ảnh hưởng của những quy luật kinh tế vốn có. Nhưng kinh tế thị trường
mà chúng ta muốn xây dựng và hướng tới là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế luôn gắn liền với công bằng và tiến bộ xã hội.
Chúng ta phải trau dồi thêm cho mình những kiến thức, kinh nghiệm để phát
triển, vững mạnh thêm nữa.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. TS. Nguyễn Sinh Cúc - Kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. PGS, TS Đặng Quang Định (2021) - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – NXB Tạp chí
Cộng sản
3. Giáo trình triết học Mác - Lênin - NXB Chính Trị Quốc Gia.

You might also like