You are on page 1of 91

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHOA DU LỊCH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐẠI HỌC NGÀNH VIỆT NAM HỌC

KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐỀN LỰU


PHỐ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở TỈNH NAM
ĐỊNH

Họ và tên sinh viên : Bùi Thị Họa My


Lớp, khóa : Việt Nam học 02 – K12
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Phương Thảo

HÀ NỘI - 2021

1
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian làm đề tài khóa luận “Khai thác giá trị di tích và lễ hội đền
Lựu Phố gắn với phát triển du lịch ở tỉnh Nam Định”, với sự cố gắng của bản
thân cùng sự hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo, em đã hoàn thành luận
văn tốt nghiệp của mình. Em xin chân thành cảm ơn cô TS. Nguyễn Phương Thảo
đã nhiệt tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành tốt đề tài khóa luận này.
Em xin cảm ơn tới Ban quản lý khu di tích đền Lựu Phố đã cung cấp cho
em những tư liệu về đền để em có thể khai thác tốt những thông tin và hoàn thiện
bài luận văn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn đến Khoa Du Lịch và Trường Đại học
Công Nghiệp Hà Nội đã tạo điều kiện cho em có thể hoàn thiện tốt bài luận văn này.
Nội dung luận văn của em còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô đóng góp
những ý kiến để em có thể làm hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Bùi Thị Họa My

2
DANH MỤC BẢNG BIỂU, CHỮ VIẾT TẮT

Stt Chữ viết chính thức Chữ viết tắt


1 Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Bộ VH-TT&DL
2 Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Sở VH-TT& DL
3 Ban Quản lý BQL

3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 2
DANH MỤC BẢNG BIỂU, CHỮ VIẾT TẮT .................................................. 3
MỤC LỤC ............................................................................................................ 4
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 7
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 7
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 8
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 8
5. Bố cục của khóa luận ...................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI, DI TÍCH TRONG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH .............................................................................................. 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu............................................................... 11
1.2. Các khái niệm cơ bản ................................................................................. 12
1.2.1. Di tích ........................................................................................................ 12
1.2.2. Lễ hội ........................................................................................................ 14
1.2.3. Du lịch....................................................................................................... 19
1.3. Vai trò của di tích và lễ hội trong hoạt động du lịch .............................. 21
1.3.1. Vai trò của lễ hội ...................................................................................... 21
1.3.2. Vai trò của di tích ..................................................................................... 22
1.4. Giá trị của di tích và lễ hội đối với phát triển du lịch ............................. 22
1.4.1. Giá trị của di tích ...................................................................................... 22
1.4.2. Giá trị của lễ hội ....................................................................................... 23
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................. 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH VÀ LỄ HỘI
ĐỀN LỰU PHỐ HUYỆN MỸ LỘC, NAM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH ................................................................................................................... 26
2.1. Khái quát về huyện Mỹ Lộc ...................................................................... 26
2.2. Giới thiệu về đền Lựu Phố......................................................................... 28
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của đền ............................................... 28
4
2.2.2. Di tích đền Lựu Phố ................................................................................. 30
2.2.3. Lễ hội đền Lựu Phố.................................................................................. 36
2.3. Các giá trị của di tích và lễ hội đền Lựu Phố .......................................... 38
2.3.1. Giá trị lịch sử ............................................................................................ 38
2.3.2. Giá trị nghệ thuật kiến trúc ..................................................................... 39
2.3.3. Giá trị tâm linh ......................................................................................... 41
2.3.4. Giá trị di vật, cổ vật ................................................................................... 43
2.3.5. Giá trị hướng về cội nguồn và bảo tồn văn hóa...................................... 43
2.4. Thực trạng khai thác giá trị di tích và lễ hội đền Lựu Phố trong hoạt
động du lịch ........................................................................................................ 44
2.4.1. Đánh giá của khách du lịch về mục đích, nhu cầu du lịch tại di tích ... 44
2.4.2. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch .......................... 47
2.4.3. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch ............................................................. 48
2.4.4. Chất lượng sản phẩm ............................................................................... 49
2.4.5. Hoạt động tuyên truyền, quảng bá .......................................................... 50
2.4.6. Môi trường cảnh quan của di tích........................................................... 50
2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch của di tích và lễ hội đền
Lựu Phố .............................................................................................................. 51
2.5.1. Những điểm tích cực ................................................................................ 51
2.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 51
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................. 54
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH VÀ LỄ
HỘI ĐỀN LỰU PHỐ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH NAM ĐỊNH
............................................................................................................................. 55
3.1. Định hướng phát triển du lịch tại di tích và lễ hội đền Lựu Phố........... 55
3.1.1. Định hướng phát triển du lịch tỉnh Nam Định ...................................... 55
3.1.2. Định hướng phát triển du lịch tại đền Lựu Phố..................................... 57
3.2. Giải pháp phát triển du lịch tại di tích và lễ hội đền Lựu Phố .............. 58
3.2.1. Đẩy mạnh sản xuất, phát triển các sản phẩm du lịch ............................ 58
3.2.2. Tôn tạo lại khu di tích đền Lựu Phố ....................................................... 59
5
3.2.3. Duy trì và tổ chức lễ hội đền Lựu Phố .................................................... 59
3.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất, kĩ thuật phục vụ du lịch. ................... 59
3.2.5. Quảng bá du lịch và các sản phẩm du lịch ............................................. 60
3.2.6. Đào tạo nguồn lực .................................................................................... 61
3.2.7. Tổ chức liên kết, quản lý quy hoạch và đảm bảo an ninh trật tự .......... 62
3.2.8. Bảo vệ tài nguyên và môi trường trong khu di tích ................................ 63
3.3. Một số kiến nghị ......................................................................................... 63
3.3.1. Đề xuất với Sở VH - TT&DL tỉnh Nam Định......................................... 63
3.3.2. Đề xuất với Ban quản lý đền Lựu Phố.................................................... 64
Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................. 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 68
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 70

6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khai thác giá trị của di tích và lễ hội là một trong những yếu tố cần thiết
nhằm thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Các giá trị lịch sử, văn hóa hay nghệ thuật
sẽ mang đến cho khách du lịch cái nhìn mới mẻ về di tích và lễ hội đó.
Nam Định là một trong những vùng nổi tiếng về văn hóa, là nơi ghi lại
những dấu tích lịch sử, là nơi với những mái đình, chùa cổ kính rêu phong. Theo
thống kê, hiện nay trên địa bàn tỉnh Nam Định có hơn 1.330 di tích lịch sử văn
hóa, trong đó có 2 di tích quốc gia đặc biệt là: Khu di tích Đền Trần - chùa Phổ
Minh (thành phố Nam Định) và chùa Keo Hành Thiện (xã Xuân Hồng, huyện
Xuân Trường). Có thể nói, Nam Định là một trong những địa chỉ đỏ về văn hóa
mà khách du lịch trên cả nước đang hướng đến. Cùng với sự phát triển du lịch
trên cả nước, Nam Định cũng đang cố gắng rất nhiều trong việc tu bổ, sửa sang
các di tích lịch sử văn hóa nhưng không làm mất đi nét truyền thống văn hóa của
cha ông để lại, phấn đấu trở thành một trong những tỉnh thành có nền du lịch phát
triển về văn hóa trên cả nước. Để hội nhập với sự phát triển du lịch của tỉnh và cả
nước, Đền Lựu Phố thuộc huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định cũng đang từng bước có
những chính sách thu hút khách du lịch trên cả nước và dần trở thành một trong
những địa điểm di tích văn hóa nổi bật của tỉnh.
Đền Lựu Phố thuộc xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định là một
trong những di tích thuộc Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Trần vừa được Bộ VH
- TT&DL xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đây là nơi thờ Thống quốc Thái
sư Trần Thủ Độ, Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung; Quốc công tiết chế Hưng
Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, công chúa Trần Bạch Hoa, hai cha con Thám
hoa Hà Nhân Giả và đức Bản cảnh Thành Hoàng. Đây cũng là căn cứ địa của cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Đền Lựu Phố là một trong những di tích
ghi lại nhiều dấu ấn của lịch sử và trở thành một trong những di tích có giá trị đặc
biệt đối với tỉnh Nam Định.

7
Mặc dù, đền Lựu Phố vẫn giữ được những giá trị văn hóa cổ kính, tuy nhiện
hiện nay những giá trị đó vẫn chưa được phát huy với tiềm năng phát triển của
đền, những hạn chế trong việc bảo tồn vẫn còn tồn đọng.
Vì vậy, là một sinh viên Khoa Du lịch chuyên ngành Việt Nam học, em lựa
chọn đề tài: “Khai thác giá trị di tích và lễ hội đền Lựu Phố gắn với phát triển du
lịch tỉnh Nam Định” làm khóa luận tốt nghiệp và cũng mong muốn rằng mọi
người sẽ biết đến nhiều hơn về đền Lựu Phố cũng như góp phần trong việc đẩy
mạnh việc phát triển du lịch tại di tích.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về lễ hội, di tích lịch sử văn hóa.
Phân tích thực trạng phát triển du lịch tại di tích và lễ hội đền Lựu Phố.
Giải pháp nhằm phát huy các giá trị của di tích và lễ hội đền Lựu Phố gắn
với phát triển du lịch tỉnh Nam Định.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nhiên cứu của Khóa luận là các vấn đề liên quan đến các giá trị
cần bảo tồn của di tích và lễ hội đền Lựu Phố như: giá trị lịch sử, giá trị kiến trúc,
giá trị tâm linh và giá trị di vật, cổ vật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Không gian nghiên cứu của Khóa luận về di tích
đền Lựu Phố bao gồm di tích đền Lựu Phố, các giá trị bao trùm lên di tích, không
gian lễ hội đền gắn với cảnh quan đền Lựu Phố.
- Thời gian nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu về các giá trị nổi bật của di
tích đền Lựu Phố giai đoạn 2017 - 2020
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:
Phương pháp này được tác giả sử dụng chính trong khóa luận. Trên cơ sở
thu thập thông tin từ công trình nghiên cứu, các bài giảng, bài báo có liên quan tới

8
đề tài nghiên cứu tác giả sẽ xử lý, thu thập, sử dụng những thông tin quan trọng,
có giá trị để tiến hành làm khóa luận.
Để thu thập được các tài liệu và số liệu, tác giả đã tham khảo qua nhiều tư
liệu sách báo, các tài liệu có trong, thư viện quốc gia, thư viện tỉnh, thư viện thành
phố, thư viện trường, để tìm kiếm thu thập các thông tin có liên quan đến đề tài.
Bên cạnh đó, tác giả đã tham khảo Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch tỉnh
Nam Định đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030. Từ đó, tìm hiểu, xử lý các số
liệu để hoàn thành luận văn.
- Phương pháp thực địa:
Đây là phương pháp nhiên cứu truyền thống, định tính để áp dụng vào việc
thu thập dữ liệu, nghiên cứu gắn với thực tiễn. Việc có mặt tại địa điểm nghiên
cứu sẽ giúp ích trong việc tìm hiểu thông tin một cách chính xác hơn và việc đưa
ra những thông tin có tính thuyết phục hơn.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã đi khảo sát thực tế ở di tích đền Lựu
Phố. Thu thập thông tin từ ban quản lý khu di tích, người dân và khách du lịch.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp:
Phương pháp này dung để thống kê các thông tin, số liệu đã tìm hiểu. Từ
đó phân chúng thành từng bộ phận khác nhau nhằm tìm hiểu một cách trực diện
về đối tượng. Cuối cùng tổng hợp hoàn thành việc xử lý.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Đây là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng và quá trình trong
điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể nhằm đưa ra những thông tin và số liệu
chính xác về thông tin cần tìm hiểu.
Tác giả đã điều tra qua hình thức phát phiếu điều tra để lấy thông tin số liệu.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lễ hội, di tích trong phát triển du lịch
Chương 2: Thực trạng khai thác giá trị di tích và lễ hội đền Lựu Phố huyện
Mỹ Lộc, Nam Định trong hoạt động du lịch
9
Chương 3: Giải pháp nhằm phát huy những giá trị di tích và lễ hội đền Lựu
Phố gắn với phát triển du lịch tỉnh Nam Định

10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI, DI TÍCH TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu


Nghiên cứu, tìm hiểu về di tích lịch sử, văn hóa là điều cần thiết để giữ gìn
bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam. Du lịch tìm hiểu về văn hóa, lễ hội,
di tích lịch sử góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, mở rộng tình
hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau về truyền thống, lịch sử giữa các quốc gia trên thế
giới, tạo nên sự hoà bình trên toàn nhân loại.
Trước xu thế phát triển du lịch về văn hóa thì việc tìm hiểu nghiên cứu về
giá trị các di tích lịch sử và lễ hội là rất cần thiết.
Cuốn sách Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch của tác giả Dương
Văn Sáu [8] đã trình bày một cách tổng quan về lễ hội Việt Nam, các lại hình lễ
hội Việt Nam và lễ hội trong sự phát triển du lịch cụ thể như đặc điểm, mục đích,
hoạt động diễn ra trong lễ hội du lịch.
Cuốn sách Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam của tác giả Nguyễn Lan Phương
[7] đã nêu khái quát được các di tích lịch sử văn hóa Việt Nam đồng thời cũng
giới thiệu được một vài di tích văn hóa tiêu biểu gắn với dòng chảy của lịch sử
văn hóa dân tộc.
Nghiên cứu về đền Lựu Phố, Nam Định, cuốn sách Di tích lịch sử - văn hóa
đền, chùa Lựu Phố tỉnh Nam Định của tác giả Trần Thị Nga, Trần Viết Trường
[5] nói rõ về những thông tin tổng quát về đền Lựu Phố như lịch sử hình thành
ngôi đền, kiến trúc, bài trí thờ thự, lễ hội đền Lựu Phố đồng thời giới thiệu bốn
nhân vật thời Trần được thờ tại đền Lựu Phố là Thống đốc Thái sư Trần Thủ Độ,
Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và
Công chúa Bạch Hoa.
Nghiên cứu về khai thác giá trị của di tích và lễ hội, sinh viên trường Đại học
Công Nghiệp Hà Nội cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu về mảng này như:
Đề tài Khai thác giá trị Khu du lịch Quốc gia Tam Chúc gắn với phát triển
du lịch văn hóa tỉnh Hà Nam của tác giả Nguyễn Bích Thủy [10] đã đưa ra được
11
cơ sở lý luận thực tiễn đối với việc khai thác giá trị của khu du lịch Quốc gia, thực
trạng phát triển, các giá trị của khu du lịch. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp
để thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa ở Khu du lịch Tam Chúc.
Đề tài Khai thác giá trị di tích đình Tây Đằng phục vụ hoạt động du lịch
của tác giả Nguyễn Tiến Nam [4] đã phân tích một cách tổng quan về những giá
trị của đình Tây Đằng. Đồng thời, đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển hoạt
động du lịch ở đây.
Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về giá trị di
tích lễ hội đền Lựu Phố. Vì vậy, đề tài “Khai thác giá trị di tích và lễ hội đền Lựu
Phố trong phát triển du lịch tỉnh Nam Định” là cách tiếp cận mới để tìm hiểu về
giá trị của di tích.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Di tích
Di tích
Theo Tự điển tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản, Di tích là dấu vết của quá
khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch
sử [9; tr.339].
Theo Hán Việt từ điển của Thiều Chửu, di tích có nghĩa là: “Di” là sót lại,
rớt lại, để lại; “tích” là tàn tích, dấu vết; Di tích là tàn tích, dấu vết còn để lại trong
quá khứ [2].
Theo điều 29 Luật di sản văn hóa 2001, di tích được phân thành 5 loại: di
tích lịch sử - văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ, di tích danh
thắng và di tích lịch sử cách mạng [14].
Về phân cấp di tích bao gồm: Di tích nằm trong danh mục kiểm kê di sản
văn hóa; Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương và Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ là người quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh; Di tích
cấp quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch quyết định xếp hạng di tích quốc gia; Di tích quốc gia đặc biệt là di tích

12
có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia, Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt [21].
Di tích lịch sử
Di tích lịch sử là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
“Di tích lịch sử là những khu vực địa điểm, các công trình có quy mô và
tính chất khác nhau, ở đó lưu giữ và ghi lại những dấu ấn về các sự kiện và nhân
vật lịch sử tiêu biểu có tác động, ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp hoặc gián tiếp đến
tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của địa phương, đất nước và dân tộc”
Đây là các công trình hay địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong
quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước như Đền Hùng, Đền Cổ Loa... Cũng
có thể là những công trình, những địa điểm gắn với thân thế, sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước như Đền Trần, Khu Di tích lịch sử Kim
Liên...
Trong số các di tích lịch sử còn có các công trình, các địa điểm liên quan
đến sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Những công trình này có tên gọi là di tích lịch sử cách mạng.
Di tích lịch sử - văn hóa
Theo Luật di sản văn hóa của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 28/2001/qh10 về di sản văn hoá, thì di sản văn hoá Việt Nam là tài
sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn
hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân
dân ta [14].
Theo khoản 3, điều 4 Luật di sản văn hóa 2001, thì Di tích lịch sử - văn hóa
là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công
trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học [14].
Theo khoản 1, điều 28, Luật di sản văn hóa 2001, Di tích lịch sử - văn hóa
phải có một trong các tiêu chí sau đây:
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá
trình dựng nước và giữ nước.
13
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng
dân tộc, danh nhân của đất nước.
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời
kỳ cách mạng, kháng chiến [14].
Di tích lịch sử văn hóa luôn mang tính xác thực, thể hiện chính xác những
giá trị về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật mang lại tính độc đáo và tạo nên tính hào
hùng của di tích.
Việt Nam là một trong những quốc gia còn lưu giữu được rất nhiều di tích
lịch sử văn hóa. Việc đẩy mạnh và bảo tồn các di tích này là một trong những điều
cần thiết để giữ gìn cho mai sau.
1.2.2. Lễ hội
Lễ hội là một trong những truyền thống tốt đẹp của mọi dân tộc. Lễ hội tạo
nên tính thiêng liêng, tính truyền thống, từ đó nó thổi hồn vào trong chính những
bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam cũng vậy, lễ hội mang
đến những luồng gió mới cho cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Cuốn sách Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch của tác giả Dương Văn
Sáu hiểu rằng: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa
bàn dân cư trong thời gian và không gian nhất định nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân
vật lịch sử hay huyền thoại. Đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của
con người với thiên nhiên - thần thánh và con người trong xã hội [8; tr.35].
Cuốn sách Những điều cần biết về lễ hội truyền thống Việt Nam của tác giả
Lê Hồng Phúc cho rằng: “Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân
gian mang tính cộng đồng cao, diễn ra theo chu kỳ không gian, thời gian nhất định
để tiến hành những nghi thức về đối tượng được sung bái, tưởng niệm và bày tỏ
ước mơ, khát vọng, các quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan của cộng đồng
nhằm thỏa mãn và phục vụ lợi ích của các tần lớp nhân dân trong xã hội” [6; tr.7].
Theo nhà nghiên cứu Mikhail Mikhailovich Bakhtin người Liên Xô lại cho
rằng: “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là
cuộc sống lao động, chiến đấu của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, bản thân cuộc
sống không thể trở thành lễ hội được nếu như chính nó không được thăng hoa,
14
liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng vượt
lên trên thế giới của phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống
thứ hai thoát ly tạm thời thực tại, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ đều
trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả...”
Theo bài viết của Tổng cục du lịch: “Lễ hội truyền thống là loại hình sinh
hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong
quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống
nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng
đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” -
những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần
linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống
giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những
người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những
nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng
thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân
công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc. Lễ hội là dịp con người được
trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng
liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa
phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu
đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc” [20].
Tóm lại, tuy khái niệm về lễ hội của mỗi tác giả đều khác nhau một phần
nào đó trong cách hiểu, nhưng nhìn chung đều thống nhất một quan điểm rằng:
“Lễ hội là một hệ thống sinh hoạt văn hóa, tôn giáo nghệ thuật của một cộng đồng
người gắn liền với các nghi lễ đặc thù và các cuộc vui chung nhằm đáp ứng nhu
cầu tinh thần của con người.
Ở nước ta, lễ hội truyền thống là một trong những nét đẹp văn hóa của đất
nước ta mà khởi đầu hầu hết là hội nông nghiệp. Lễ hội nông nghiệp phản ánh
cuộc sống của những người nông dân trong quá trình sinh hoạt đời sống, khai thác
tự nhiên, làm ăn sinh sống.

15
Trong lễ hội truyền thống chủ thể sáng tạo và hưởng thụ giá trị văn hóa là
cộng đồng làng xã địa phương, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng nghề
nghiệp và cộng đồng quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, để lễ hội phù hợp trong đời
sống ở mỗi giai đoạn, các lễ hội đều dần thay đổi và ngày càng phong phú trong
các hoạt động hay nội dung diễn ra trong lễ hội nhưng vẫn giữu được truyền thống
văn hóa đặc biệt là văn hóa trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc
hoặc thể hiện khát vọng trong đời sống của nhân dân.
Lễ hội truyền thống Việt Nam có thể kể đến các lễ hội như lễ hội nông
nghiệp, lễ hội lịch sử, lễ hội văn nghệ, giải trí, thi tài, lễ hội phồn thực, lễ hội mang
tính chất tôn giáo. Tùy theo hình thức, mỗi lễ hội sẽ có những đặc điểm và nội
dung khác nhau.
Lễ hội nông nghiệp với nội dung phản ánh cuộc sống đời thường của người
nông dân và thể hiện khát vọng của người dân trong cuộc sống. Điển hình như lễ
hội Lồng tồng Việt Bắc, lễ hội cày tịch điền, lễ hội cầu mưa, lễ hạ điền.
Lễ hội lịch sử diễn ra chủ yếu để tưởng nhớ, tôn vinh các anh hùng dân tộc,
các nhân vật lịch sử có công với dân, với nước. Ngoài ra, trong lễ hội còn diễn ra
hội diễn tái hiện nhân vật lịch sử đó. Chẳng hạn như Hội đền Trần, Hội Gióng,
Hội đền Lựu Phố, Hội đền Hai Bà Trưng, Hội đền Hùng, Hội Yên Thế...
Lễ hội văn nghệ, giải trí, thi tài với nội dung thiên về sinh hoạt văn hóa
như hát quan họ, hát xoan, hát ả đào, hát trống quân... hoặc các trò diễn mang tính
nghệ thuật sân khấu thể hiện tinh thần thượng võ như đấu vật, đua thuyền, đánh
đu, kéo co…
Lễ hội phồn thực với nội dung thể hiện ước mơ về giống nòi trong đời sống
nhân dân, thể hiện ước nguyện sinh sôi nảy nở.
Lễ hội mang tính chất tôn giáo chủ yếu thể hiện tín ngưỡng của tôn giáo
đó. Có thể kể tới các lễ hội chùa như lễ hội chùa Hương, lễ hội chùa Thầy, lễ hội
chùa Dâu…
Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có
7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ

16
hội tôn giáo(chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn
lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%)
Cấu trúc của lễ hội truyền thống:
Lễ hội truyền thống Việt Nam rất đa dạng và nhiều màu sắc. Lễ hội Việt
Nam gồm 2 phần đó là: phần lễ và phần hội
Phần Lễ
+ Lễ cáo yết (lễ túc yến)
Chủ tế hành lễ xin phép thần linh cho dân làng mở hội. Lễ vật để thực hiện
lễ cáo yết: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực.
Trong buổi tối diễn ra lễ cáo yết, tất cả mọi người dù già hay trẻ đều sẽ túc
trực tại nơi lễ để tạo ra không khí nhộn nhịp, đông đủ.
Thành phần tham dự: ban tổ chức và ban khánh tiết.
+ Lễ tỉnh sinh: là lễ dâng con vật cúng thần hay là lễ “tam sinh”: trâu hoặc
bò, lợn, dê.
+ Lễ rước nước: Là một hành động thị phạm của nghi thức cầu mưa, cầu
nước cho sản xuất và sinh hoạt của cư dân trên khắp mọi miền đất nước, đặc biệt
là cư dân sản xuất, canh tác nông nghiệp.
Nước để thực hiện nghi lễ sẽ được lấy ở giếng đình của làng hoặc lấy nước
giữa dòng sông. Dòng nước thiêng giữa dòng sông được hình thành từ trời và đất
đã băng qua bao nẻo đường phù sa, thấm đẫm linh vị của bốn phương trời đất
được đem về tắm tượng như là đem một lời ước mong, một lời chúc phúc tốt đẹp
cho một năm mới được mùa, no đủ. Khi lấy nước phải có lời chú, niệm thần linh,
trời đất... Dụng cụ lấy nước như chóc sứ, giáo đồng, phải dùng vải đỏ bịt miệng
chóe và phủ toàn bộ chóe. Nghi thức lấy nước còn mang những ý nghĩa tinh thần
khác như bình gốm sứ biểu trưng cho thổ; gáo đồng biểu trưng cho kim; cán gáo,
thuyền gỗ, hoa quả biểu trưng cho. Đoàn rước nước thường có quy mô lớn với
đầy đủ đội cờ, đội múa lân, sư, rồng, phường bát âm, đội tế nam quan, nữ quan…
+ Lễ mộc dục
Lễ mộc dục (lễ tắm tượng thần hay thần vị): lễ này thường được tiến hành
vào nửa đêm hôm trước ngày khai hội. Trước khi làm lễ mộc dục, có nơi người ta
17
tổ chức lễ rước nước. Trước khi thực hiện việc tắm tượng (lau chùi tượng thờ) phải
làm lễ cáo thần. Lễ mộc dục diễn ra một cách trang nghiêm, người tham gia sẽ là
người phụ trách buổi lễ và những người có trách nhiệm. Nước tắm tượng chủ yếu
là nước từ giếng làng hoặc sông. Sau khi tắm tượng, bước tiếp theo là tắm bằng
nước thơm và cuối cùng là đưa tượng hoặc bài vị về vị trí cũ, làm lễ an vị tượng.
+ Lễ gia quan
Là lễ khoác áo, mũ cho thần tượng, thần vị. Có thể là áo mũ đại trào được
triều đình bạn theo chức tước, phẩm hàm lúc đương thời hoặc là áo mũ tượng
trưng được làm ở các hàng mã đã để sẵn ở nơi thân đang ngự. Những chân kiệu,
nghĩa là những người được dân làng cử để khiêng kiệu đức thần trong những buổi
rước phải trai giới tử mấy hôm trước và chỉ những người này mới được tham dự
việc phong mũ áo. Trong lúc vào phong mũ áo, mỗi người phải bịt miệng bằng
một chiếc khăn điều để trần khi không xông tới thánh cung, mang tội bất kính.
Mũ áo đại măng phong lại, được an phụng lên long kiệu rồi tế một tuần chờ sáng
hôm sau rước về đình. Tuần tế này là tế gia quan.
+ Tế đại tế
Là một hành vi mới triệu thần về, hiến dâng lễ vật cho thần linh và cầu xin
thần linh ban phúc lộc. Đó cũng là khi vào hội. Tế khác cũng và lễ thông thường
ở chỗ phải có âm nhạc kèm theo. Chiêng to hòa với trống cái, còn trống đồng văn,
phường bát âm thường hỗ trợ thay phiên nhau tấu làm không khí buổi tế trở lên
linh thiêng hấp dẫn.
+ Lễ túc trực
Đây là nghi lễ canh giữ các bài vị trong thời gian diễn ra lễ hội đến khi kết
thúc lễ hội.
+ Lễ rã đám
Lễ rã đám cũng tiến hành đầy đủ trình tự của lễ tế, duy lễ vật thì không có
mổ trâu, mổ bỏ... chỉ có xôi, quả.
Phần Hội
Được cấu thành bởi những hình thức sinh hoạt vui chơi, không gian, thời
gian, hội chợ ẩm thực…
18
+ Trò diễn dân gian bao gồm diễn xướng tâm linh, diễn xướng sự tích, diễn
xướng thi hài, và diễn xướng vui chơi giải trí.
Diễn xướng tâm linh: biểu thị tâm tư tình cảm, ước vọng của các cư dân
khác nhau để thiêng hóa mối quan hệ trần tục chiếm vị trí chủ yếu trong các lễ hội.
Diễn xướng sự tích: tái hiện một sự tích nhắc về lai lịch công trạng của các
vị thần được thờ trong các lễ hội.
Diễn xướng thi hài: tìm ra cá nhân, cộng đồng nổi trội nhằm giải trí, tôn
vinh con người và sự kiện.
Diễn xướng vui chơi giải trí: trò diễn nhằm tích tụ và thu nạp năng lượng
cho cuộc sống mới.
+ Hội hè đình đám: thường được diễn ra trong phần hội, thể hiện cách ứng
xử, mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, đa dạng,
phong phú phù hợp với sở thích, cá tính của nhiều đối tượng.
Bao gồm các trò chơi như trò chơi chiến trận, trò chơi luyến ái, trò chơi giải
trí, trò chơi thi tài, trò chơi nghề nghiệp, trò chơi phong tục.
1.2.3. Du lịch
Du lịch đang trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt
Nam. Du lịch gắn liền với nhu cầu vui chơi, giải trí, thư giãn của con người. Nói
về du lịch có rất nhiều khái niệm, mỗi khái niệm lại đều hiểu theo những góc độ
khác nhau nhưng hiện tại vẫn chưa có những khái niệm chính xác về du lịch.
Vào năm 1941, ông W.Hunziker và Kraff (Thuỵ Sỹ) đưa ra định nghĩa: “Du
lịch là tổng hợp những hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc di chuyển
và dùng lại của con người ở nơi không phải là nơi cư trú thường xuyên của họ,
hơn nữa, họ không ở lại đó vĩnh viễn và không có bất kỳ hoạt động thu nhập nào
tại nơi đến.” [4; tr.9].
Theo Guer Freuler cho rằng “Du lịch là một hiện tượng thời đại của chúng
ta dựa trên sự tăng trưởng của nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự thay đổi môi
trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của
thiên nhiên” [4; tr.9].

19
Theo nhà kinh tế Kalfiotis “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân
hay tập thể từ nơi này đến nơi khác nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức,
do đó tạo nên các hoạt động kinh tế”.
Theo quan điểm của Robert W.McIntosh, Charles R.Goeldner, J.R Brent
Ritche “Du lịch là các mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa khách du
lịch, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ nhà trong quá trình thu hút và
đón tiếp khách du lịch” [4; tr.9].
Liên hợp quốc (1963) định nghĩa về du lịch như sau: "Du lịch là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành
trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ
hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi
làm việc của họ" [4; tr.9].
Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, du lịch được hiểu trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực - người
ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng - di tích
lịch sử, công trình văn hoá nghệ thuật. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở
góc độ cầu, góc độ người đi du lịch.
Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều
mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc,
từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình
hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại
hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ một ngành kinh tế [4; tr.10].
Trong pháp lệnh du lịch do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày
08/12/1999 tại chương I, điều 19: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”[15].
Theo Luật du lịch 2017 tại chương I, điều 3: “Du lịch là các hoạt động có
liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời
gian không quá một năm liên tục nhằm đáp ứng nh cầu tham quan, nghỉ dưỡng,
20
giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp
pháp khác” [13].
Các nhận định trên suy cho cùng đều có cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên ở góc
độ nào đó mỗi nhận định đều cùng một ý kiến là: Du lịch là hoạt động rời khỏi
nơi cư trú thường xuyên của con người đến một nơi khác nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
1.3. Vai trò của di tích và lễ hội trong hoạt động du lịch
1.3.1. Vai trò của lễ hội
Việt Nam là một trong những quốc gia có lễ hội văn hóa đặc sắc bậc nhất.
Lễ hội mang những giá trị riêng biệt, nó tổng hòa mọi thứ tạo nên đặc sắc riêng
trong chính hình thức của nó. Và đặc biệt, nó có vai trò to lớn trọng mọi mặt.
Đầu tiên, lễ hội có giá trị phản ánh, bảo lưu và lưu truyền các giá trị văn
hóa của dân tộc từ đời này sang đời khác. Thông qua lễ hội, bản sắc văn hóa dân
tộc được giới thiệu đến bạn bè khắp nơi trên thế giới.
Thứ hai, lễ hội mang tính cộng đồng cao, nó mang lại sự liên kết giữa các
dân tộc trong một đất nước. Lễ hội là hình thức sinh hoạt cộng đồng của nhân dân,
giúp nhân dân có tinh thần thoải mái trong lao động cũng như đời sống thường
ngày. Trong xã hội phát triển, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
chúng ta hiện nay, giá trị văn hóa tiêu biểu này càng có giá trị to lớn. Lễ hội không
chỉ làm sống lại những nét đẹp văn hóa truyền thống mà còn làm giàu và sáng tạo
những giá trị mới trong đời sống cộng đồng. Lễ hội trở thành một trong những nét
văn hóa nổi bật phục vụ du lịch.
Thứ ba, lễ hội là dịp vui chơi, giải trí thu nạp những năng lượng mang cuộc
sống mới, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng nhân dân tại
địa phương như lễ hội đền Bảo Lộc (Nam Định). Thông qua lễ hội, con người có
niềm vui, yêu đời, tinh thần thoải mái để bắt đầu vào một môi trường làm việc mới.
Thứ tư, lễ hội giúp nhân dân tưởng nhớ, tạ ơn và thể hiện ước nguyện của
đông đảo quần chúng nhân dân đối với đối tượng mà họ thờ cúng, từ đó tạo cho lễ
hội một chức năng vô cùng quan trọng đó là chức năng giáo dục thế hệ trẻ mai sau.

21
1.3.2. Vai trò của di tích
Di tích góp phần vào việc phát triển trí tuệ, tài năng của con người. Góp
phần vào việc phát triển tài nguyên du lịch nhân văn, lịch sử.
Bên cạnh đó, di tích tạo ra sức hấp dẫn cho điểm đến du lịch. Nó là động
cơ thúc đẩy chuyến đi và là những trải nghiệm tuyệt vời cho khách du lịch đến
tham quan, chiêm ngưỡng hoặc nghiên cứu, tìm tòi. Qua đó trở thành tài nguyên,
nguồn lực chiến lược cho phát triển du lịch.
Di tích mang lại sự sáng tạo cho con người trong việc tìm tòi từ đó giúp có
những sản phẩm mới mẻ từ di tích nhằm phát triển du lịch, thu hút khách du du
lịch.
1.4. Giá trị của di tích và lễ hội đối với phát triển du lịch
1.4.1. Giá trị của di tích
Giá trị lịch sử - văn hóa
Nhắc đến lịch sử là nhắc dến dấu ấn, những mốc thời gian và sự kiện quan
trọng diễn ra trong qua khứ của một quốc gia. Giá trị lịch sử được hiểu là những
địa điểm hay công trình ghi dấu những chiến tích hay danh nhân văn hóa quan
trọng trong quá khứ góp phần phản ánh những truyền thống đấu tranh tốt đẹp cho
nhân dân đến tận bây giờ. Ngoài ra giá trị lịch sử văn hóa còn là những sản phẩm
vật chất và tinh thần từ xa xưa góp phần phát triển du lịch để con người có thể tự
tìm hiểu thông tin về nó.
Giá trị kiến trúc nghệ thuật
Giá trị kiến trúc được hiểu là những phong cách nghệ thuật hay sự thiết kế
hài hòa của một công trình kiến trúc đặc sắc của một địa phương hay một đất nước
trong mỗi thời kỳ khác nhau của lịch sử. Giá trị kiến trúc ấy gắn liền với di tích
lịch sử quan trọng của đất nước mang đến những đặc sắc mới mẻ và lý thú cho
khách du lịch khi tham quan, tìm hiểu và nghiên cứu.
Giá trị kiến trúc gắn liền với không gian kiến trúc của đình, đền, chùa, miếu,
mạo. Giá trị kiến trúc nghệ thuật mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc của một
đất nước, được ghi dấu ấn đến tận bây giờ.
Giá trị tâm linh
22
Giá trị tâm linh được hiểu là tính thiêng của địa điểm đó. Khi đi du lịch,
con người có những cảm xúc và những trải nghiệm mới lạ về sự thiêng liêng của
một địa điểm di tích nào đó.
Giá trị tâm linh dựa vào những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang
lại sự mới mẻ trong nhận thức của con người. Giá trị tâm linh của di tích mang
đến cho con người sự ước vọng và niềm tin trong cuộc sống.
Giá trị di vật, cổ vật
Giá trị cổ vật được hiểu là những giá trị hiện vật được lưu truyền lại, có giá
trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên gắn liền
với di tích lịch sử văn hóa.
Giá trị cổ vật được nhìn nhận và đánh giá qua nhiều khía cạnh và mỗi khía
cạnh đại diện cho những giá trị riêng biệt, nó là một trong những di sản quý được
bồi đắp qua dòng chảy thời gian.
1.4.2. Giá trị của lễ hội
Giá trị hướng về cội nguồn
Cội nguồn là một thứ gì đó rất thiêng liêng. Lễ hội là nguồn cội tự nhiên
mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng
đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá .Vì vậy đối với
lễ hội truyền thống luôn có tính hướng về cội nguồn.
Trong thời đại ngày nay, với xu thế phát triển toàn cầu, con người dường
như phải gắn liền với những hoạt động công nghiệp hóa, hiện đại hóa tưởng chừng
như đã quên đi những nét truyền thống xưa kia của mình. Tuy nhiên, con người
vẫn tìm đến chính cội nguồn của mình là những lễ hội, một phần là để ghi nhớ nơi
sinh ra, một phần nữa để tìm chính niềm vui trong cuộc sống xua tan những mệt
mỏi trong công việc. Vì vậy, lễ hội với tính cội nguồn vẫn tồn tại và phát triển đến
tận ngày nay.
Giá trị cân bằng đời sống tâm linh
Các lễ hội được tổ chức góp phần cân bằng đời sống tâm linh của con người.
Đời sống tâm linh mang đến cho con người sự ước vọng và niềm tin trong cuộc
sống, Nó có đầy đủ niềm tin mong ước của nhận dân về cái chân, thiện, mĩ trong
23
đời sống thường ngày. Trong lễ hội thường bao gồm các nghi lễ, chính các nghi
lễ với không gian thiêng, thời gian thiêng làm cho con người sự tin tưởng, tâm
hồn thoải mái khi cầu nguyện.
Giá trị tự quản trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội truyền thống mang lại những hoạt động vô cùng ý nghĩa cho nhân dân.
Trong lễ hội, người dân trong lễ hội tự tổ chức, tự điều hành, tự dàn xếp để lễ hội tại
địa phương diễn ra êm xuôi, tốt đẹp, hoan hỉ cho nhiều đối tượng trong cộng đồng
của họ. Trong lễ hội, con người dường như được hòa mình vào không gian văn hóa
thiêng liêng, họ cùng nhau hưởng thụ chính những văn hóa mà mình sáng tạo ra.Vì
vậy, lễ hội từ xưa đến nay lúc nào cũng mang tinh thần sáng tạo và hưởng thụ.
Giá trị bảo tồn văn hóa
Lễ hội là một không gian điển hình làm nổi bật giá trị văn hóa của dân tộc
trong mỗi thời kỳ lịch sử dựng nước và giữu nước. Ngoài việc trao truyền văn hóa
từ thế hệ này sang thế hệ khác phải gắn liền với việc bảo tồn văn hóa.
Các lễ hội truyền thống thường được tổ chức ở các vùng quê địa phương.
Việc quan tâm của chính quyền địa phương trong việc bảo tồn văn hóa lễ hội sẽ
giúp ích rất nhiều cho việc giữ gìn bẳn sắc văn hóa xưa kia của dân tộc Việt Nam.

24
Tiểu kết Chương 1
Nghiên cứu về di tích và lễ hội là một trong những điều cấp thiết để giữ gìn
bản sắc văn hóa Việt Nam. Với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, những giá trị lịch sử văn hóa để lại là những tài sản quý báu mà cộng
đồng dân tộc cần gìn giữ, phát huy và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Lễ hội là nguồn cội của văn hóa, lễ hội mang những vai trò và giá trị riêng
của nó. Nghiên cứu về lễ hội cũng có rất nhiều cuốn sách và đề tài nghiên cứu
khoa học khai thác về nó trên các khái cạnh giá trị của lễ hội trong đời sống nhân
dân, các nghi lễ tiến hành một lễ hội.
Di tích và lễ hội mang đến nhiều giá trị tinh thần cho cộng đồng dân cư.
Việc khai thác các giá trị là điều vô cùng cần thiết để con người có thể vừa gìn
giữ, phát huy, lưu truyền nền văn hóa đó cho đời sau.
Việc nghiên cứu đề tài: “Khai thác giá trị của di tích và lễ hội đền Lựu Phố
trong phát triển du lịch tỉnh Nam Định” sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn về giá trị
lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của di tích, ngoài ra giúp mọi người có thể nắm được
hình thức nội dung diễn ra lễ hội, từ đó có những giải pháp cụ thể để phát huy
những giá trị của di tích.

25
Chương 2
THỰC TRẠNG KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐỀN LỰU PHỐ
HUYỆN MỸ LỘC, NAM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH

2.1. Khái quát về huyện Mỹ Lộc


Mỹ Lộc là một huyện nằm ở cửa ngõ phía bắc tỉnh Nam Định. Phía bắc
giáp tỉnh Hà Nam, ngăn cách bởi sông Lý Nhân và sông Châu Giang; phía nam
giáp thành phố Nam Định; phía tây giáp huyện Vụ Bản; phía đông giáp tỉnh Thái
Bình, ranh giới là con sông Hồng. Mỹ Lộc có lợi thế về giao lưu kinh tế với tất cả
các vùng trong cả nước thông qua quốc lộ 10, quốc lộ 21, đường sắt Bắc-Nam và
đường sông. Với diện tích 73,69 km 2 , có số dân là 72.514 người (Theo tổng cục
thống kê dân số và nhà ở năm 2019) bao gồm thị trấn Mỹ Lộc và 10 xã là Mỹ
Trung, Mỹ Phúc, Mỹ Hưng, Mỹ Hà, Mỹ Thắng, Mỹ Thịnh, Mỹ Tiến, Mỹ Thuận,
Mỹ Thành, Mỹ Tân.
Lịch sử hình thành và phát triển:
Mỹ Lộc xưa là một trong các huyện thuộc phủ Thiên Trường. Thời thuộc
Pháp, vùng đất của huyện Mỹ Lộc rất rộng lớn, bao gồm cả phần đất của thành
phố Nam Định ngày nay. Từ sau Cách mạng Tháng Tám, huyện Mỹ Lộc đã qua
nhiều lần điều chỉnh địa giới. Ngày 1/9/1950 cắt bốn xã Lộc An, Mỹ Xá, Lộc Hạ,
Lộc Hoà vào thành phố Nam Định. Năm 1953, cắt các xã Mỹ Toàn, Mỹ An, Mỹ
Đồng, Mỹ Phong, Mỹ Điền sang huyện Nam Trực. Đến ngày 25/9/1954, cắt các
xã Lộc An, Mỹ Xá, Lộc Hạ, Lộc Hoà trả về huyện Mỹ Lộc. Thời kỳ 1965-1975,
huyện thuộc tỉnh Nam Hà. Ngày 13/6/1967, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định
số 76-CP sáp nhập toàn bộ huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định. Từ 1975-
1981, thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Sau năm 1981, trở về thuộc tỉnh Nam Định. Ngày
16/2/1997, Chính phủ ra Nghị định số 19-CP tái lập huyện Mỹ Lộc trên cơ sở tách
ra từ thành phố Nam Định.
Với ưu thế của miền đất phù sa bồi màu mỡ, Mỹ Lộc là nơi cung cấp rau
sạch, hoa tươi cho thành phố Nam Định và các thành phố lớn khác. Với thế mạnh

26
về vị trí địa lý và điều kiện giao thông, Mỹ Lộc là lựa chọn lý tưởng cho các nhà
đầu tư trong nước và quốc tế.
Mỹ Lộc là một trong những trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế thuộc tỉnh
Nam Định.
Là vùng phát triển về thương mại, dịch vụ và công nghiệp. Đồng thời, Mỹ
Lộc còn là đầu mối giao thông quan trọng, nằm trên trục đường kết nối Nam Định
với Hà Nội.
Nhắc đến huyện Mỹ Lộc mặc dù là một huyện có diện tích rất nhỏ nhưng
nơi đây lại có rất nhiều làng nghề. Nằm trong một tỉnh khi chưa có nhiều các khu
công nghiệp nhưng Nam Định bằng sự cần cù, sáng tạo, khéo léo từ đôi bàn tay
mà nơi đây đã hình thành nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề mới và
nhiều nghề phụ đã đưa Nam Định thành tỉnh thứ hai trong cả nước hoàn thành xây
dựng nông thôn mới. Các làng nghề, nghề phụ, công việc đa dạng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế tại huyện: May, chăn, ga, gối, đệm Sắc (Mỹ Thắng); Nghề may,
thợ may Mỹ Thắng; Mây tre đan Gôi, Gạo; Trồng hoa ở Mỹ Tân; Một số ở Lưu
Phố có nghề thợ mộc; Mây tre đan ở Vạn Đồn; Phường hát chèo xưa Đặng Xá
(nét đẹp); Chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lao động ở ngoài nước...
Tình hình kinh tế - xã hội:
Các ngành kinh tế chính của huyện là cơ khí sửa chữa, vật liệu xây dựng, chế
biến thực phẩm.
Về nông nghiệp, năm 2019 vừa qua, huyện Mỹ Lộc đã chủ động xây dựng kế
hoạch, triển khai thực thiện tốt các giải pháp tổ chức sản xuất trồng trọt, chăn
nuôi, thủy sản... Nhờ vậy, giá trị sản xuất nông - lâm - thuỷ sản ước đạt 762,6 tỷ
đồng (theo giá so sánh 2010), tăng 2,7% so với năm 2018 (vượt chỉ tiêu kế hoạch
đề ra). Giá trị sản phẩm trên 1 ha canh tác ước đạt 111,2 triệu đồng. Năm 2020,
Nông nghiệm chiếm 11,5% trong tổng tỷ lệ cơ cấu kinh tế.
Về Công nghiệp - xây dựng của huyện tiếp tục duy trì phát triển và đạt tốc độ
tăng trưởng cao: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp, xây dựng (theo giá 2010)
ước đạt 2.272,8 tỷ đồng, tăng 19,9% so với năm 2018 (theo số liệu của Chi cục
Thống kê). Năm côn nghiệp xây dựng đạt 60% tổng tỷ lệ cơ cấu kinh tế.
27
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.046,9 tỷ đồng, tăng
15,2% so với năm 2018, vượt kế hoạch đề ra.
Hệ thống giao thông:
Về giao thông, huyện có quốc lộ 10, quốc lộ 21, quốc lộ 38B, đường sắt Bắc
Nam chạy qua.
Khu điểm tham quan du lịch: Đền Bảo Lộc, lăng mộ Trần Hưng Đạo (xã
Mỹ Phúc), đền thờ Trần Thủ Độ (làng Lựu Phố, xã Mỹ Phúc), đền Vạn Khoảnh,
đền Cây Quế (xã Mỹ Tân), đình miễu Cao Đài (xã Mỹ Thành), đình Sùng Văn (xã
Mỹ Thuận) .
Lễ hội tiêu biểu: Lễ Trần Quốc Toản ra quân (đền Bảo Lộc), hội đền chùa Lựu
Phố, hội đền Cây Quế...
2.2. Giới thiệu về đền Lựu Phố
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của đền
Đền Lựu Phố nằm trên địa phận xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam
Định) là một trong những di tích thuộc Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Trần vừa
được Bộ VH-TT&DL xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đền Lựu Phố là nơi
thờ Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ, Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung, Quốc
công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, công chúa Trần Bạch Hoa,
hai cha con Thám hoa Hà Nhân Giả và đức Bản cảnh Thành Hoàng.
Sử sách chép rằng, Lựu Phố xưa có tên là xã Thái Thuần, lộ Hải Thanh.
Thời Trần được xây dựng trên địa danh cổ Lựu Viên, tương truyền xưa kia Thái
sư Trần Thủ Độ đã từng qua lại sinh sống, thư giãn và làm việc mỗi khi ông về
chầu và yết kiến với vua Trần và Thái Thượng hoàng tại cung điện Trùng Quang,
Trùng Hoa xưa nay là đền Trần nằm trên đường Trần Thừa thuộc phường Lộc
Vượng thành phố Nam Định. Sau khi Thái sư Trần Thủ Độ qua đời nhân dân địa
phương đã xây dựng đền thờ ông trên nền dinh thự xưa.
Với địa thế nằm trên khu đất cao, bên trái có ao cá, xung quanh là cây cối
mát mẻ, đền Lựu Phố được cho rằng là một nơi có đầy đủ các yếu tố tự nhiên tạo
nên giá trị cảnh quan.

28
Nói về quá trình xây dựng đền Lựu Phố, hai câu đối dưới đây đã nói lên
phần nào lịch sử xây dựng đền:
“Dấu thánh ở Lựu Viên, sử Trần ghi rõ,
Thống quốc Thái sư, nhà cũ trở thành đền”
Theo lịch sử ghi chép lại, Thống đốc thái sư Trần Thủ Độ là con thứ 3 của
Trần Hoằng Nghị và là một trong bốn người con xuất sắc nhất của Trần Hoằng
Nghị. Về sự tài giỏi của Trần Thủ Độ, Đại Việt sử kỷ toàn thư chép như sau: "Thủ
Độ tuy không có học vấn, nhưng tài trí hơn người, làm quan triều Lý được mọi
người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ vào mưu sức của ông cả, vì
thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua”.
Cuối triều Lý giặc đến cướp nước, nạn đói diễn ra triền miên, nhân dân rơi
vào tình trạng đói khổ, các thế lực cát cứ nổi lên. Trần Thủ Độ là một võ tướng
có tài dưới quyền Trần Tự Khánh dẹp được loạn và tôn phò Thái tử Lý Sảm. Lý
Sảm lên nối ngôi lấy hiệu là Lý Huệ Tông. Quyền hành họ Trần ban đầu trong tay
Trần Tự Khánh.
Vào năm 1223, với tài năng hơn người của mình Trần Thủ Độ được triều
đình phong làm Điện tiền chỉ huy sứ, ngoài ra ông còn được giao một trọng trách
vô cùng quan trọng đó là người thay thế nắm quyền trong triều sau khi Trần Tự
Khánh mất. Sau khi nắm quyền trong triều ông đưa cháu là Trần Bồ vào hầu cận
Lý Chiêu Hoàng. Sự thông minh cũng như mưu trí của Trần Thủ Độ đã khiến ông
có công rất lớn trong việc đảo chính đổi mới từ vương triều Lý sang vương triều
Trần. Theo sử sách ghi lại, việc đảo chính này của Trần Thủ Độ rất khôn ngoan,
không hỗn loạn mà vô cùng thành công, từ đây Trần Bồ lên ngôi lấy vương hiệu
là Trần Thái Tông. Sau khi lên ngôi vua, Trần Thái Tông đã phong Trần Thủ Độ
thái ấp tên “Quắc Hương” thuộc Thiên Trường nay thuộc huyện Bình Lục, Hà
Nam tuy nhiên Trần Thủ Độ vẫn về xây dựng Lựu Viên gần cung điện Tức Mặc
đề dễ bề trong việc di chuyển yết kiến vua tại điện Trùng Quang.
Mùa xuân năm 1226 Trần Thủ Độ được phong làm Thái sư thống quốc
hành quân vụ chinh thảo sự. Cũng cùng năm đó triều đình đã tổ chức hôn lễ cho
Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung.
29
Tại Lựu Viên, Thái sư Trần Thủ Độ cùng Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị
Dung đã tập hợp nhân dân khai hoang mảnh đất thời đó là Thái Thuần (nay là
thôn Lựu Phố) và một số địa danh khác như: Bàn Cờ, Xạ Đích… tuy nhiên nay
các địa danh đã mất hết.
Năm 1258, quân Mông - Nguyên xâm lược đất nước ta, trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung
đưa toàn bộ hoàng tộc từ kinh thành Thăng Long về Thiên Trường tìm kế sách
chống giặc. Lúc đó thái ấp Lựu Phố liền kề với cung điện Trùng Quang, Trùng
Hoa giữ một vị trí quan trọng đế quan gia và Thái Thượng hoàng bàn việc cơ mật.
Nằm trong quần thể di tích đền Trần, xung quanh đền Lựu Phố còn có
những địa điểm di tích nổi tiếng đất nước như Đền Trần, Tháp Phổ Minh, đền Bảo
Lộc, đền Trần Quang Khải (Đền Hậu Bồi), Đình Cả (Mỹ Trung), đây đều là những
di tích được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Lựu Phố hiện nay là một trong 15 thôn thuộc xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc.
Đây là thôn gần như phát triển nhất về mặt văn hóa của xã, đi đầu trong những
chính sách bảo vệ giá trị văn hóa địa phương. Lựu Phố nằm ngay đầu đường quốc
lộ 10. Từ đầu thành phố Nam Định theo đường thẳng đường Trường Chinh, sau
đó rẽ trái vào đường Trần Thái Tông đi thẳng đến chợ Viềng xã Mỹ Phúc khoảng
7 km, sau đó đi tiếp khoảng 200m, rồi rẽ trái theo đường làng Lựu Phố khoảng
300m là tới di tích đền Lựu Phố. Xung quanh đền Lựu Phố có rất nhiều di tích nổi
tiếng khác được Bộ VHTT&DL công nhận là di tích lịch sử quốc gia như: đền
Bảo Lộc, khu di tích lịch sử - văn hóa đền Trần, chùa Tháp, Đình Cả (xã Mỹ
Trung) là những di tích lịch sử - văn hoá thời Trần đã được Nhà nước xếp hạng.
Đền Lựu Phố với tống diện tích là 13.620,6 m2 nằm trên một khu vực nổi bật sẽ
mang tới rất nhiều dấu ấn về giá trí văn hóa lịch sử, nghệ thuật, thu hút khách du
lịch, tạo động lực phát triển du lịch của vùng.
2.2.2. Di tích đền Lựu Phố
Đền Lựu Phố (xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) là một trong
những di tích thuộc Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Trần vừa được Bộ VH-
TT&DL xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
30
Đền Lựu Phố được xây dựng trên địa danh cổ Lựu Viên, lịch sử ghi chép
lại rằng lúc sinh thời Thái sư Trần Thủ Độ đã từng sống và làm việc nơi đây mỗi
khi ông về chầu, tham tán vua Trần và Thái thượng hoàng tại cung điện Trùng
Quang và Trùng Hoa ở phủ Thiên Trường. Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ xâm lược, đền Lựu Phố cũng là một trong những căn cứ cất giữu lương
thực, thực phẩm cho kháng chiến, hoàn thành tốt nhiệm vụ của một cú điểm quan
sự trong thời chiến.
Đền Lựu Phố có quy mô tương đối rộng với vị trí thuận lợi để phát triển
du lịch. Đền gồm nhiều hạng mục được xây dựng trên gò đất cao mặt quay về
hướng tây. Di tích đền được bố trí lần lượt từ ngoài vào trong: Nghi môn đền, sân
đền, trung tâm Đền, nhà tổ, phủ Mẫu, nhà khách và sân sau.
- Về kiến trúc
Trong những công trình kiến trúc cổ xưa kia, người Việt Nam thường dựng
những cây cột lớn thường gọi là nghi môn hay trụ biểu ngay ở trung tâm trước
công trình, nó thường xuất hiện ở các công trình đền, chùa, đình. Và đền Lựu Phố
cũng vậy, nghi môn đền luôn có những kiến trúc độc đáo. Nghi môn trước sân
đền gồm hàng đồng trụ được xây bằng gạch vữa. Trước nghi môn là một khung
cảnh thoáng đãng, rộng rãi. Bên phải và bên trái đều có rất nhiều cây xanh bóng
mát tạo nên phong cảnh hài hòa với di tích đền Lựu Phố. Cổng chính của đền rộng
4,7m được tạo bởi 2 đồng trụ cao trên 5m, chân cột được làm theo kiểu thắt cổ
bồng, thân cột xung quanh đắp gờ chỉ tạo thành các rãnh lớn, trong rãnh có đắp
nổi câu đối bằng chữ Hán. Từ dưới nhìn lên trên cổng chính, có thể nhìn rõ bệ
nghê và hai con nghê chầu nhau. Theo quan niệm xưa của người Việt, nghê là một
con vật biểu tượng cho sự linh thiêng và nó có khả năng nhận diện được kẻ thiện
hay ác, và nó có nhiệm vụ là trông giữ, giám sát những người vào trong đền, chùa
hay miếu mà nó canh giữ, bảo vệ sự tôn nghiêm của đền, chùa, miếu. Từ cột đồng
trụ đến tả môn, hữu môn là bức tường dài hơn 1m cao 2m. Tiếp theo là kiến trúc
tả môn, hữu môn, hai cổng này được làm kiểu cố đẳng tám mái, ngói cửa được
làm theo kiểu ngói ống, trên mặt các bờ dải dười nóc được xây nổi các viền mang
giá trị thẩm mỹ cao. Mặt cổng cả trước và sau đều được xây nổi hình hổ phù; hổ
31
là một con vật có thật và theo tín ngưỡng dân gian xưa, hổ là một con vật thiêng
liêng, là một vị thần bảo vệ trấn giữ các phương chống lại tà ma, thường xuất hiện
trọng đình, miếu. Nối liền với tả môn và hữu môn còn có hai trụ góc cao 3,7m,
đỉnh trụ đắp họa tiết hình phượng. Đắp họa tiết hình phượng với ý nghĩa tượng
trưng cho điềm lành, cuộc sống ấm no, đủ đầy.
Đền quay hướng tây trông ra cánh đồng, gồm 3 tòa 12 gian được làm theo
kiểu kiến trúc “tiền Nhất, hậu Đinh”. Khung đền được làm chủ yếu bằng gỗ lim,
mái đền được lợp bằng ngói nam.
Trước cửa đền Lựu Phố là một sân lát gạch rộng khoảng trên 200m2, xung
quanh xây tường bao và có nhiều cây cối bảo vệ công trình vừa thoáng mát vừa
kín đáo.
Kiến trúc phần phía trong Đền Lựu Phố bao gồm: tiền đường, trung đường
và chính cung.
Tiền đường có kích thước 13,25m x 6,8m, được làm theo kiểu chữ nhất
gồm 5 gian, xây bít đốc hai mái dốc (xây phần vách đứng hình tam giác từ đỉnh
mái đến nóc).
Bộ khung tòa tiền đường thiết kế theo kiểu chồng rường giá chiêng là kiểu
các thanh rường chồng lên nhau để cùng đỡ cho hệ đòn tay giữ bộ mái, đây là một
trong những kĩ thuật xây dựng cổ truyền Việt Nam. Phần khung mái của tòa tiền
đường được xây dựng bao gồm 6 vì, trong đó có 4 vì giữa mỗi vì có 2 cột cái, các
vì được chạm khắc rất tinh xảo. Hai vì nóc chính là vì giá chiêng, các con rường
đỡ hoành mái ở đầu rường, các vì nách gian làm kiểu cốn chồng rường, vì nách
trái làm kiểu kẻ ngồi. Hai vì đầu hồi thì được dựng lên bằng các cột quân. Cột cái
và cột quân đều có hệ thống xà kép. Ở cột cái có các chấn song tạo sự thông thoáng
cho cả kiến trúc. Đại bờ đắp họa tiết lưỡng long chầu nguyệt là một hình ảnh xuất
hiện khá nhiều trong kiến trúc cổ Việt Nam với ý nghĩa cân bằng sự âm dương.
Bờ bảng đắp họa tiết lá lật hóa long với chất liệu bằng gạch vữa, 2 đồng trụ hai
đầu hồi được xây nhô ra kéo từ nền sân vượt hắn lên cao 4,5m và được kết cấu 3
phần: chân đế, thân và đầu trụ. Chân đế đắp hình khối vuông to có nhấn đường
chỉ tạo dáng vững chắc, đỉnh đắp nghê chầu. Ngoài ra còn có một điểm thú vị là
32
thân cột nhấn câu đối chữ Hán với nội dung là ca ngợi công lao sự nghiệp của
Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ. Điểm đặc biệt ở tiền đường là đại bờ còn được
đắp họa tiết lưỡng long triều nguyệt, bờ bản được đắp họa tiết lá lật. Đây là những
họa tiết xuất hiện nhiều trong kiến trúc đình, đền xưa.
Công trình tòa tiền đường chủ yếu được xây dựng bằng gỗ lim, đây là một
loại gỗ chắc, tốt, được dùng nhiều trong các công trình kiến trúc thời xưa. Với
thiết kế kiểu xưa là dùng nhiều cột để đỡ phần khung mái, tòa tiền đường đền Lựu
Phố được bố trí với 20 cột lim với kích thước lớn gồm 2 cột chính là cột cái và
cột quân. Cột cái và cột quân có tác dụng chống đỡ các vì và phần khung mái. Cột
cái được tạo dáng búp đòng ở giữa phình to, 2 hai đầu nhỏ có tác dụng làm giảm
sự thô cứng, cột quân nhỏ hơn cột cái cũng được tạo dáng búp đòng. Để tạo sự
cững chãi cho cột cái, dưới chân cột được gắn kết những tảng đá rất to làm bệ đỡ.
Một phần đặc biệt của bệ đỡ đó là nghệ thuật trang trí dưới những chân tảng đá
còn mang phong cách nghệ thuật thế kỉ XIII – XIV đó là nghệ thuật trang trí đục
chạm cánh sen kép, những đường nét này được chạm khắc một cách dứt khoát,
mạch lạc, phóng đãng của người nghệ sĩ.
Hệ thống cánh cửa tòa bái đường gồm 5 ô cửa chạy suốt 5 gian, mỗi ô được
lắp 4 cánh bằng gỗ lim, tất cả được đặt trên ngưỡng bằng gỗ có chân quay rất
thuận tiện cho việc đóng mở hàng ngày và những dịp lễ hội. Phần tiền đường có
mật độ trang trí, chạm khắc dày đặc. Mọi ngóc ngách, mọi khoang trống trong
từng mặt gỗ đều được chạm khắc một cách tỉ mỉ, công phu. Những kiểu chạm
khắc ở đây chủ yếu khắc nổi những con vật và những hình tượng mang yếu tố linh
thiêng, tạo cảm giác tâm linh.
Tiếp theo là tòa Trung đường, tòa Trung đường gồm ba gian chạy song
song với tòa tiền đường với ước lệ 8m x 5,l m. Đằng trước là hệ thống cửa được
làm theo kiểu thượng chấn song, hạ bức bàn. Đặt trên ngưỡng bằng gỗ lắp chân
quay. Bộ khung được thiết kế theo kiểu ba hàng chân cột, gồm một cột cái và hai
cột quân. Cũng giống như tiền đường hệ thống cột ở đây cũng được thiết kế theo
kiểu búp đòng và để thêm phần chắc chắn thì tất cả các cột đều có chân đá phái
dưới. Trung đường gồm 3, các gian được liên kết với nhau bằng 4 vì kèo. Phần
33
mái gồm các vì nóc và vì nách được thiết kế theo kiểu chồng rường. cột ở trung
đường hầu như đều ở phía sau, được sắp xếp thành một hàng, phía trước để trống
tạo không gian thờ cúng.
Theo thiết kế của đền, phần cuối là Chính cung. Chính cung được thiết kế
theo kiểu chữ Đinh với kích thước 9,7 m x 4,5 m . Cột quân gian giữa phía sau
trung đường đỡ vì nóc thứ nhất của chính cung. Vì nóc tiếp theo của hậu cung
cũng được thiết kế bằng vì kèo. Các vì còn lại được thiết kế kiểu vì chồng rường.
Tất cả các vì đều được chạm khắc công phu tỉ mỉ. Cung ngoài ba gian, cung trong
một gian, ngăn cách bằng cửa cung cấm. Cửa trong chính cung được chia làm 5
cửa. Cửa giữa lớn hơn được chạm theo kiểu khám thờ và được đóng cổ định, có
chạm họa tiết long phượng. Hai cánh cửa bên chạm hai bức phù điêu họa tiết
khóm lựu trĩu quả. Hai cánh cửa ngoài cùng là lối ra vào cung cấm được thiết kế
với kích thước thấp, nhỏ theo kiểu ván bưng chạm họa tiết tứ quý, phía trên đục
chạm chữ thọ và họa tiết con dơi tạo sự thông thoáng, đây là một nghệ thuật chạm
khác khá công phu và tỉ mỉ. Việc thiết kế hai cánh cửa lối ra vào có kích thước
thấp và nhỏ với ý nghĩa là khi vào đều phải cúi đầu để thể hiện sự thành kính. Cửa
cung cấm là bức thuận gồm bốn cột được bịt kín bởi mê nóc nơi tiếp giáp với nóc
được làm theo kiểu mê cổn chạm lưỡng long chầu nguyệt.
Theo điều tra thực tế, Đền Lựu Phố đã được Nhà nước đầu tư kinh phí trùng
tu công trình cách đây 5 năm về trước tức năm 2016.
- Về bài trí thờ tự
Bài trí thờ tự tại tòa tiền đường:
Tòa tiền đường gồm có 3 ban, ở giữa là ban thờ công đồng Trần triều, bên
trái và bên phải là ban thờ hậu.
Hiện vật bài trí trong tòa bái đường được sắp xếp vô cùng hợp lý theo hướng
quan sát từ trong ra ngoài cũng như từ ngoài vào trong. Mỗi hiện vật ở đây đều
mang những nét truyền thống riêng của thời kì đó với giá trị cổ vật, di vật đặc sắc.
Hiện nay, tòa bái đường vẫn còn lưu giữ và trang trí những câu đối, đại tự, bức
châm như bài thơ của các Tiến sĩ thời Lê, Nguyễn viết tặng.

34
Giống như những nghệ thuật trang trí bàn thời xưa, trên ban thờ đền Lựu
Phố có đặt lư hương, hạc, chân nến, mâm chè. Đây đều là những đồ thờ mang
những giá trị tâm linh sâu sắc của người dân Việt. Ngoài ra, hai bên ban thờ còn
đặt hai bộ binh khí nghi trượng bằng đồng. Trước nhang án có đặt một đỉnh thờ
cao gần 1m cùng với chiêng, trống bằng đồng cỡ lớn. Ban thờ hậu có tấm bia có
niên đại Tự Đức 23 (1870). Trước ban thờ có treo nhiều thư tịch cổ liên quan đến
Thái sư Trần Thủ Độ như các bức đại tự ca ngợi ông: “Tứ thời báo mỹ” (bốn mùa
dâng lễ để báo ơn đức của thần), “Nhất đại tôn thần” (người bề tôi dòng dõi nhà
vua, tài giỏi trung thành nổi tiếng một thời), “Trần triều danh tướng” (vị tướng tài
giỏi của triều Trần). Tòa bái đường hiện có 15 bức đại tự, 7 câu đối, 2 biển thờ, 1
tấm bia ký hậu.
Bài trí thờ tự tại toà đệ nhị
Tòa đệ nhị cũng có ba ban thờ, ban thờ giữu là ban thờ công triều Trần và
tả văn quan, hữu võ tướng. Bên trái và bên phải là ban thờ hai ông ngựa thờ.
Ở ban giữa có đạt nhan áng được chạm khắc họa tiết lưỡng long triều
nguyệt, tứ quý. Ở giữa là lô nhang thòe Thái sư Trần Thủ Độ, hai bên trái phải đặt
lô nhan thờ tả văn quan và hữu võ quan.
Trên ban thờ có mâm bồng, bộ tam sự bằng đồng, lọ hoa, ổng hương, đông
bình, tây quả trang nghiêm và có treo câu đối, đại tự ca ngợi công lao và sự nghiệp
của các vị thần được thờ ở đây.
Bài trí thờ tự trong toà chính cung
Tòa chính cung gồm bốn gian chạy dọc được bài trí như sau: Ba gian ngoài
và một gian cung cấm. Tòa chính cung gồm bốn gian chạy dọc được bài trí như
sau: Ba gian ngoài và một gian cung cấm.
Bài trí thờ tự tại tòa lần lượt được bố trí như sau: Lô nhang thờ Thái sư Trần
Thủ Độ, Tượng Thái sư Trần Thủ Độ, Lô nhang thờ Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị
Dung, Tượng thờ Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, Lô nhang công đồng tại
cung cấm, Bài vị thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Bài vị thờ Thám hoa
Hà Nhân Giả và thành Hoàng làng, Bài vị đặt trên ngai thờ Thống quốc Thái sư
Trần Thủ Độ.
35
2.2.3. Lễ hội đền Lựu Phố
Từ xưa đến nay, lễ hội đền Lựu Phố được tổ chức rất trang trọng, mang
đậm những giá trị truyền thống cổ truyền của dân tộc.
Hiện nay, đền Lựu Phố vẫn diễn ra cac lễ hội và các hoạt động nhằm kỷ
niệm những ngày trọng đại của các vị được thờ trong đình. Những ngày lễ phải
kể đến như:
Kỷ niệm ngày mất của Thái sư Trần Thủ Độ tổ chức vào ngày 7 tháng giêng
âm lịch hàng năm. Đây là ngày kỉ niệm nhằm tưởng nhớ đến Thái sư Trần Thủ
Độ, người có công rất lớn trong việc mở ra một triều đại mới, triều đại Nhà Trần.
Ngày này dân làng và khách thập phương tập trung tại đền tổ chức dâng hương
tưởng nhớ ngài
Kỷ niệm ngày mất của Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung tổ chức vào ngày
14 tháng giêng âm lịch hàng năm. Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung là vợ của
Thống đốc Thái sư Trần Thủ Độ. Bà là người có công rất lớn trong việc xây dựng
Lựu Viên và cũng là người thông minh, tài giỏi. Ngày này, người dân địa phương
và khách thập phương đến để dâng hương, cầu lộc, cầu tài, cầu ấm no hạnh phúc.
Kỷ niệm ngày mất của Thám hoa Hà Nhân Giả tổ chức vào ngày 12 tháng
4 (âm lịch). Dân làng tố chức dâng hương tế lễ trong một ngày.
Kỷ niệm ngày Thái sư Trần Thủ Độ về xây dựng quê hương Lựu Phổ được
tổ chức vào ngày 7 tháng 7 (âm lịch) gọi là ngày khánh hạ.
Ngày lễ Vu Lan (15 tháng 7 âm lịch) báo hiếu, xá tội vong nhân.
Kỷ niệm ngày mất của Bạch Hoa công chúa tổ chức vào ngày 6 tháng 8
(âm lịch), dân làng tổ chức dâng hương hoa tại đền, chùa, phủ.
Kỷ niệm ngày mất của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc
Tuấn (hội truyền thống Trần Hưng Đạo) được tổ chức trọng thể vào ngày 20 tháng
8 (âm lịch). Trần Hưng Đạo là một vị anh hùng có công rất lớn trong việc đánh
tan quân Mông - Nguyên xâm lược lần 3, Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại vương
Trần Quốc Tuấn được thờ ở hơn 200 di tích toàn tỉnh Nam Định trong đó có đền
Lựu Phố để nói lên lòng biết ơn sâu sắc đối với ngài. Để kỉ niệm ngày này nhân
dân địa phương tổ chức dâng hương tế lễ.
36
Ngày mồng 3 tháng 10 (âm lịch) hàng năm tổ chức kỷ niệm ngày mất của
đức thành hoàng làng và lễ cơm mới.
Tuy nhiên, ngày lễ chính được tổ chức long trọng nhất là ngày tưởng nhớ
Thái sư Trần Thủ Độ về xây dựng quê hương Lựu Phổ được tổ chức vào ngày 7
tháng 7 (âm lịch).
Trong những năm gần đây dân làng Lựu Phố từng bước phục dựng lễ hội
theo nghi lễ truyền thống. Lễ hội được tổ chức theo từng bước: Dâng hương, rước
kiệu, tế lễ.
Những công việc chuẩn bị cho lễ hội thường được dân làng chuẩn bị trước
đó nhiều ngày, bao gồm các công việc: chuẩn bị đồ thờ tự, đội tế, rước tập luyện
và các tiết mục văn nghệ, trò chơi dân gian.
Về phần lễ:
Phần lễ được diễn ra đầu tiên vào ngày mùng 6 với nghi thức đầu tiên là lễ
tế cáo. Lễ tế cáo này được diễn ra trang trọng, các bậc cao niên và Ban tổ chức lễ
hội của làng sẽ cử hành nghi lễ dâng hương, dâng lễ vật cẩn cáo thần linh để mở
màn đầu cho lễ hội. Và trong màn tế cáo, các vị cao niên sẽ tiến hành các nghi lễ
cầu ấm no, hạnh phúc, đủ đầy cho nhân dân.
Đến ngày mùng 7, đây là ngày lễ chính trong lễ hội. Cũng giống như bao lễ
hội truyền thống khác, lễ hội đền Lựu Phố sẽ tổ chức rước kiệu quanh làng. Trước
khi rước kiệu sẽ nổi chiêng trống báo hiệu chuẩn bị đám rước. Đám rước kiệu bao
gồm có kiệu của Thái sư, kiệu võng, kiệu long đình. Đoàn rước kiệu sẽ đi rước từ
đền Lựu Phố, đám rước đi ven đê Châu Giang sau đó đi một vòng quanh làng.
Tham gia vào đoàn rước gồm nhiều thành phần: đội cờ ngũ sắc bao gồm màu đỏ,
xanh, trắng, đen, vàng; cờ Tứ linh; sau đó là đội phụng nghinh ba cỗ kiệu: kiệu bát
cống, kiệu võng (sẽ do các nữ tú đảm nhiệm), kiệu long đình. Tiếp sau là phường
bát âm và các loại nhạc cụ cổ truyền. Theo cùng đoàn rước là đội bát biểu, đội trống
lớn, đội sư tử, đội múa sênh tiền và các đội tế nam quan, nữ quan cùng các vị bô
lão trong làng cúng tất cả nhân dân thập phương tham gia rước kiệu. Khi lễ rước
kiệu kết thúc, các vị bô lão sẽ tổ chức lễ dâng hương tế nam quan và nữ quan.

37
Văn tế trong lễ hội thường theo mẫu sẵn. Nội dung văn tế chủ yếu ca ngợi
công đức của các vị anh hùng được thờ tại đền - những người có công trong công
cuộc đánh giặc giữ nước, đem lại cuộc sống ấm no cho dân làng.
Phần hội:
Phần hội diễn ra sau phần lễ, trong Lễ hội đền Lựu Phố có tổ chức phần hội
đặc sắc phải kể đến như các trò chơi dân gian hay các tiết mục văn nghệ ca trù,
hát chèo độc đáo. Các trò chơi dân gian như: kéo co, đấu vật,… hay giải bóng đá
“Hào khí Đông A”.
Ngoài ra, trong lễ hội còn có khu trưng bày về sách, tư liệu, hiện vật về
Thái sư Trần Thủ Độ và những nhân vật được thờ trong đền Lựu Phố.những cuốn
sách về kiến trúc đền cũng được trưng bày tại đây.
Trong đời sống hiện nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng bậc anh
hùng, vị thần thánh, thành hoàng làng tại đình, đền khá nhiều. Nó xuất phát từ
chính cội nguồn văn hóa, quá trình sinh sống, khai hoang, quá trình đấu tranh
giành độc lập. Những lễ hội diễn ra hiện nay, chủ yếu là muốn con người nhớ về
nguồn cội của mình và tỏ lòng biết ơn đến những người đã có công lao lớn trong
việc xây dựng đất nước.
2.3. Các giá trị của di tích và lễ hội đền Lựu Phố
2.3.1. Giá trị lịch sử
Đền Lựu Phố là một trong những ngôi đền lưu lại những dấu tích lịch sử
của dân tộc.
Theo sử sách, Đền Lựu Phố được xây dựng trên địa danh cổ Lựu Viên.
Tương truyền lúc sinh thời Thái sư Trần Thủ Độ đã từng sống và làm việc nơi đây
mỗi khi ông về chầu, yết kiến vua Trần và Thái thượng hoàng tại cung điện Trùng
Quang, Trùng Hoa (Phủ Thiên Trường).
Truyền thuyết địa phương cho biết thời kỳ đó Thái sư Trần Thủ Độ cùng
Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung đã chiêu tập nhân dân phiêu tán về đây khai
hoang mảnh đất xã Thái Thuần nay là thôn Lựu Phố xã Mỹ Phúc huyện Mỹ Lộc
tỉnh Nam Định.

38
Trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, quân
đội, lương thực, thực phẩm đều do các điền trang thái ấp của giới quý tộc họ Trần
cung cấp, chính điều này đã góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến. Ngoài
ra các điền trang thái ấp này không khác gì những căn cứ phòng ngự của vương
triều Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược. Một trong
những thái ấp phải kể tới đó chính là Lựu Viên (Lựu Phố ngày nay).
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất, để giữ
an toàn cho hoàng tộc và cũng để tìm nơi bàn việc cơ mật, Linh Từ Quốc mẫu
Trần Thị Dung đưa toàn bộ hoàng tộc từ kinh thành Thăng Long về Thiên Trường
tìm kế sách chống giặc, Lựu Phố liền kề với cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa
giữ một vị trí quan trọng đế quan gia và Thái Thượng hoàng bàn việc cơ mật.
Không chỉ là công trình văn hóa tín ngưỡng quan trọng của thời địa, Đền
Lựu Phố còn là di tích gắn liền với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân địa phương Nam Định. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Đền Lựu Phố là nơi cất giữ lương thực, thực phẩm, là địa điểm tập kết, luyện tập
của binh sĩ và lực lượng dân quân tự vệ địa phương.
2.3.2. Giá trị nghệ thuật kiến trúc
Đền Lựu Phố là một trong những di tích quốc gia vẫn bảo lưu được phong
cách kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn vào thế kỷ XVIII. Nằm trong khuôn viên
rộng trên 13 nghìn m2, Đền Lựu Phố bao gồm 5 hạng mục chính: Nghi môn, tiền
đường, trung đường, chính cung.
Đền Lựu Phố mặt quay hướng Tây, thiết kế theo kiểu “tiền chữ Nhất, hậu
chữ Đinh”; tiền đường và trung đường có mái lợp ngói nam.
Theo quan sát cũng như theo sử sách ghi lại, bộ cửa tiền đường và trung
đường được làm bằng gỗ lim:
Đầu tiên là cửa tiền đường, của tiền đường được thiết kế theo kiểu bức bàn,
5 khoang, trên mỗi bộ cửa thường có nhiều cánh, số cánh cửa thường là số chẵn:
2, 4, 6 tùy thuộc theo diện tích không gian mỗi khoang. Hoa văn được chạm khắc
trên cửa hết sức giản dị nhưng tinh xảo phản ánh và bảo lưu được kiến trúc nghệ
thuật thời Nguyễn.
39
Cửa trung đường thiết kế theo kiểu thượng chấn song, hạ bức bàn, 3 khoang.
Đây là kiểu cửa truyền thống thời xưa, cánh cửa có khung bằng gỗ thanh, phần
dưới được thưng ván đặc và phần trên được gắn chấn song.
Giá trị thẩm mỹ là một điều quan trọng trong kiến trúc xưa. Cung cấm Đền
Lựu Phố xây giao mái với trung đường tạo thành mặt bằng kiến trúc kiểu chữ
“Đinh”. Toàn bộ mặt cửa trước và ngách được làm theo kiểu “thượng song hạ
bản”, mỗi khoang 2 cánh. Hai cánh cửa bên cung cấm chạm hai bức phù điêu họa
tiết khóm lựu trĩu quả. Hai cánh cửa ngoài của cung cấm cùng là lối ra vào cung
cấm được thiết kế theo kiểu ván bưng chạm họa tiết tứ quý, phía trên đục chạm
chữ thọ và họa tiết con dơi tạo sự thông thoáng.
Tiền đường và trung đường của đền Lựu Phố đều được điêu khác một cách
tỉ mỉ với mật độ điêu khắc khá nhiều. Các biểu tượng tự nhiên bao gồm các hình
ảnh khóm lựu, hoa sen được chạm khắc khá tỉ mỉ. Các họa tiết trang trí như:
“lưỡng long chầu nguyêt”, “lá lật”, “trúc hóa long” được đắp nổi khá công phu.
Ngoài ra trên các ván mê còn chạm khắc họa tiết “triện tàu lá dắt”. Đặc biệt, trong
số các chân tảng kê ở đền Lựu Phố còn giữ được 4 chiếc trên mặt trang trí đục
chạm cánh sen kép với đường nét dứt khoát mạch lạc, mang phong cách nghệ
thuật thế kỷ XIII - XIV, triều Trần.
Các linh thú đắp nổi và chạm khắc trong đền khá phong phú: như rồng,
phượng, dơi. Tất cả các con vật đều được chạm khắc một cách tinh xảo. Rồng
được chạm khắc trên các khung gỗ tòa tiền đường được mô tả rất tỉ mỉ về thân và
đầu. Con nghê được đắp nổi ở cổng chính hay gọi là nghi môn. Hổ là một con vật
biểu tượng cho sự thiêng liêng, diệt trừ tà mà, hình tượng hổ được đắp nổi trên
mặt trước và sau của cổng chính tạo sự thiêng liêng cho chính ngôi đền. Tiếp đến
là hình tượng phượng, phượng được chạm nổi rất đẹp nối liền hai cổng tả môn và
hữu môn, ngoài ra còn được chạm khắc trong chính cung. Cuối cùng là con dơi,
con dơi được chạm khắc trên cánh cửa, họa tiết con dơi còn mang một ý nghĩa
đặc sắc, trong tiếng Trung Quốc, con dơi có phát âm gần với từ Phúc vì vậy, khi
chạm khắc con dơi thể hiện ý nghĩa mong muốn nhân dân hạnh phúc, ấm no.

40
Những hình tượng con vật thiêng liêng này tạo dấu ấn độc đáo về nghệ thuật kiến
trúc tiêu biểu thế kỉ XIII.
Đền Lựu Phố còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị tiêu biểu như:
khám, ngai, bài vị, tượng thờ Thái sư Trần Thủ Độ; ngai, bài vị Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn và hai cha con Thám hoa Hà Nhân Giả cùng 5 đạo sắc
phong các niên hiệu Duy Tân 5 (1911), Khải Định 9 (1924).
2.3.3. Giá trị tâm linh
Đền Lựu Phố thờ Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ (1194-1264) - vị Thái
sư đầu tiên triều Trần. Ông là một nhà chính trị khôn ngoan và sáng suốt. Là người
có công rất lớn trong cuộc chiến đấu chống quân Mông - Nguyên đồng thời là
người có công đổi mới từ triều đại nhà Lý sang triều đại nhà Trần. Trong cuộc
chiến đấu chống quân Mông - Nguyên lần 1 (1258), khi lúc thế giặc đang gay go
và khốc liệt nhất ông đã nói với nhà vua: “Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ
đừng lo”. Ông chính là người chỉ huy quân ta và đánh thắng quân Mông - Nguyên
trong trận Đông Bộ Đầu, sau đó buộc quân giặc phải rút lui. Với 40 năm giữ chức
Thái sư, Trần Thủ Độ có công lao lớn trong việc giúp vua, giúp nước thoát khỏi
giặc xâm lược. Sau khi qua đời, Vua Trần Thái Tông truy tặng ông chức Thượng
phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương.
Ngoài ra đền Lựu Phố còn thờ Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, Bạch
Hoa công chúa, Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung là con của Trần Lý và vợ của Trần Thủ
Độ. Bà đã có công rất lớn trong chiến thắng chống quân Mông – Nguyên lần thứ
nhất. Nhờ sự thông minh, mưu trí, bà đã nhanh chóng sơ tán triều đình về Tức Mặc,
bảo vệ tài sản cho hoàng cung, tích trữ lương thực chuẩn bị kháng chiến. Mọi việc
bà đều quán xuyến một các gọn gang mà hiệu quả. Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận xét
trong sách Đại Việt sử kỷ toàn thư như sau: “Đến khi người Nguyên tắt đường vào
cướp, kinh thành thất thủ, Linh Từ ở Hoàng Giang giữ gìn Hoàng thái tử, cung phi,
công chúa và vợ con các tướng lĩnh thoát khỏi giặc cướp, lại khám xét các nhà có
chứa giấu quân khí đều đưa dùng vào việc quân”. Sau này, bà đã được phong làm

41
Linh từ Quốc mẫu. Sau khi bà mất ở tuổi 66, nhân dân làng Lựu Phố đã tach tượng
của bà để thờ trong làng. Bà là người nhân dân vô cùng kính trọng.
Quốc công tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn sinh ra ở phủ
Thiên Trường, Lựu Phố thuộc phủ Thiên Trường. Xưa kia, ông thường cùng Trần
Thủ Độ về Lựu Viên để bàn chuyện đất nước. Vì vậy Lựu Phố cũng là nơi mà ông
gắn bó trong thời gian dài. Về sự nghiệp của Trần Quốc Tuấn, ông có công rất lớn
trong chiến thắng chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ 3 (1288), đây là
một chiến thắng lớn trong lịch sử nước nhà. Sau khi ông qua đời, nhân dân làng
Lựu Phố đã lập bài vị của ông để thờ. Hàng năm cứ đến ngày mất của ông, nhân
dân địa phương đều tổ chứ lễ tế và dâng hương.
Bạch Hoa công chúa là còn của vua Trần Thuận Tông, mẹ là thứ phi Diệp
Diệu Hiền người thôn Lựu Phố. Tương truyền, Bạch Hoa công chúa là người
thông minh ham học hỏi. Lớn lên, Bạch Hoa công chúa giúp nhân dân Lựu Phố
chăm non việc làm nông nghiệp, dẫn nước vào ruộng để cày cấy, mở mang buôn
bán giữu Lựu Phố với các vùng, giảm tô thuế ,…vì vậy Bạch Hoa công chúa được
nhân dân rất kính trọng. Sau khi mất nhân dân đã lập bài vị để thờ. Ngoài ra làng
Lựu Phố vẫn còn duy trì việc dâng cơm gạo đỏ và muối vừng để tưởng nhớ đến
Bạch Hoa công chúa.
Ngoài việc thờ 4 nhân vật triều Trần, đền Lựu Phố còn thờ hai cha con Thám
hoa Hà Nhân Giả (Thời Lê). Thám Hoa Hà Nhân Giả tên thật là Nguyễn Mạnh
Trinh bố là Nguyễn Tân Thanh. Hai cha con ông là người Kinh Bắc sau đó xin về
Lựu Phố ngụ cư. Năm 1502, Nguyễn Mạnh Trinh đỗ Thám Hoa và làm quan Hiến
sát xứ. Vì ông có công lớn trong việc xây dựng địa phương, sau khi ông mất dân
làng địa phương đã thờ ông cùng cha ông tại đền Lựu Phố. Phần lăng mộ của cha
Thám Hoa Hà Nhân Giả vẫn còn ở địa phương và cách đền khoảng 100m.
Lễ hội Đền Lựu Phố tổ chức vào ngày 7-7 (âm lịch) hàng năm nhân kỷ
niệm ngày Thái sư Trần Thủ Độ đặt chân lên mảnh đất quê hương. Lễ hội đã thu
hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách thập phương về dự. Ngoài các
nghi thức như dâng hương, tế lễ, rước kiệu; phần “hội” còn tổ chức các giải thể
thao mang đậm tinh thần thượng võ của dân tộc như: giải bóng đá phong trào
42
“Hào khí Đông A”, biểu diễn võ thuật cùng nhiều trò chơi dân gian, loại hình nghệ
thuật dân tộc: hát chèo, tổ tôm điếm, cờ người, đấu vật… Đặc biệt, trong lễ hội
làng Lựu Phố, người dân vẫn duy trì tục cúng Bạch Hoa công chúa với lễ vật là
cơm gạo đỏ (hoặc xôi gấc), muối vừng.
2.3.4. Giá trị di vật, cổ vật
Ngoài giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, đền Lựu Phố còn bảo lưu
được một số di vật, cổ vật có giá trị như khám và tượng thờ Thái sư Trần Thủ Độ
được bài trí trang trọng trên ban thờ tại tòa trung đường; Ngai và bài vị thờ Thái
sư Trần Thủ Độ, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và hai cha con Thám hoa
Hà Nhân Giả và 5 đạo sắc phong ghi nhận công đức của Thái sư Trần Thủ Độ,
Trần Hưng Đạo và hai cha con Thám hoa Hà Nhân Giả, trong đó có 4 đạo niên
hiệu Khải Định 9 (1924) và 1 đạo niên hiệu Duy Tân 5 (1911); Đại tự và biển nhờ
về thân thế, sự nghiệp của Thám hoa Hà Nhân Giả.
Tượng thờ thái sư Trần Thủ Độ ở đền Lựu Phố được làm từ chất liệu đồng
dát vàng.
Bài vị thái sư Trần Thủ Độ và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đặt
trên ngai thờ được sơn son thếp vàng mang phong cách thời Hậu Lê.
Bài vị Thám hoa Hà Nhân Giả được đặt trên long ngai sơn son thếp vàng
khắc duệ hiệu thờ Thám hoa Hà Nhân Giả và thành hoàng làng mang phong cách
nghệ thuật thời Nguyễn
Tất cả các di vật, cổ vật còn lưu lại tại đền Lựu Phố đều góp phần tạo nên
nét đặc sắc trong ý nghĩa lịch sử, văn hóa của ngôi đền. Giữ gìn và phát huy các
giá trị di vật, cổ vật là điều cần thiết để phát triển nền văn hóa xưa.
2.3.5. Giá trị hướng về cội nguồn và bảo tồn văn hóa
Lễ hội đền Lựu Phố được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 (âm lịch) hàng năm
nhằm tưởng nhớ Thống đốc Thái sư Trần Thủ Độ về xây dựng quê hương Lựu
Phố. Nhân dân địa phương thường tổ chức lễ hội theo nghi lễ truyền thống xưa
mang tính cội nguồn cao.
Giá trị bảo tồn văn hóa phải nhắc đến trong lễ hội đó là các nghi lễ. Lễ hội
đền Lựu Phố gồm 2 phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ dược diễn ra trang trong
43
với từng phần như lễ tế cáo, rước nước, rước kiệu, đọc văn tế, đây là những nghi
thức truyền thống trong văn hóa lễ hội của người Việt Nam. Ngoài ra phần hội
của lễ hội đền Lựu Phố còn diễn ra nhiều trò chơi dân gian hay tiết mục nghệ thuật
độc đáo thu hút đông đảo khách du lịch.
2.4. Thực trạng khai thác giá trị di tích và lễ hội đền Lựu Phố trong hoạt
động du lịch
2.4.1. Đánh giá của khách du lịch về mục đích, nhu cầu du lịch tại di tích
Mục đích, nhu cầu chuyến đi của khách du lịch:
Theo số liệu thống kê qua khảo sát, mục đích của chuyến đi của khách du
lịch, khách du lịch khi đến du lịch tham quan và du lịch tại đền Lựu Phố chủ yếu
với mục đích là du lịch thuần túy (du lịch tham quan, du lịch lễ hội, du lịch giải
trí) chiếm 80% ( 40 phiếu). Du lịch học tập - nghiên cứu được khách du lịch lựa
chọn thứ 2 chiếm 10% (5 phiếu). Và cuối cùng là du lịch công vụ và du lịch thăm
thân chiếm tỉ lệ lần lượt là 6% (3 phiếu) và 4% (2 phiếu). (Biểu đồ 2.1).

4%
10%

6%

80%

Du lịch thuần túy Du lịch công vụ Du lịch nghiên cứu học tập Du lịch thăm thân

Biểu đồ 2.1: Biểu đồ mục đích chuyến đi của khách du lịch (Đơn vị %)
(Nguồn: Điều tra bằng phiếu điều tra tại đền Lựu Phố)
Với tỷ lệ này, khách du lịch đến tham quan đền Lựu Phố chủ yếu với mục
đích đi du lịch thuần túy, tham gia lễ hội và được thư giãn.
44
Thời gian đi du lịch:
Khách du lịch đến tham quan đền Lựu phố chủ yếu vào thời gian mùa lễ
hội chiếm 62% (31 phiếu). Tiếp theo, thời gian khách du lịch chọn là vào dịp nghỉ
hè chiếm 24% (12 phiếu). Cuối cùng, thời gian khách du lịch lựa chọn ít nhất để
đi là cuối tuần và thời gian rảnh rỗi lần lượt chiếm 10% (5 phiếu) và 4% (2 phiếu).
(Biểu đồ 2.2)

4%
10%

24%

62%

Dịp lễ hội Nghỉ hè Cuối tuần Thời gian rảnh

Biểu đồ 2.2: Biểu đồ về thời gian du lịch của du khách tại đền Lựu Phố (Đơn vị %)
(Nguồn: Điều tra bằng phiếu điều tra tại đền Lựu Phố)
Vì vậy mùa lễ hội là mùa mà khách du lịch đến tham quan di tích đền Lựu
Phố nhiều nhất. Đây mà một trong những thời gian lý tưởng để khách du lịch có
thể vừa tham gia lễ hội, vừa có thể tham quan di tích đền Lựu Phố để nắm được
những giá trị cốt lõi mà di tích vẫn còn lưu giữ đến tận bây giờ.
Khách du lịch:
Đền Lựu Phố là nơi thờ Thống đốc Thái sư Trần Thủ Độ, là một vị bậc hiền
nhân xuất sắc về học vấn. Vì vậy, số lượng khách đến tham quan phải kể đến đó
là học sinh, sinh viên. Số lượng học sinh sinh viên đi tham quan trải nghiệm tại

45
đền rất nhiều, phần lớn đến để dâng hương với ước mong học tập suôn sẻ, thi cử
đỗ đạt.
Ngoài ra, khách đến đền để tham quan còn có những người độ tuổi trung
niên như giáo viên, công nhân viên chức. Họ đến để tìm hiểu về đền ngoài ra du
khách muốn thỏa mãn nhu cầu tâm linh cầu Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung
tài lộc, cầu Thống đốc Thái sư Trần Thủ Độ, Thám Hoa Hà Nhân Giả công danh
thành đạt, cầu Bạch Hoa công chúa cho gia đình sức khỏe, ấm no, hạnh phúc.
Dịp lễ hội 7/7 âm lịch hàng năm, có tới hàng nghìn lượt khách du lịch tới
thăm đền và tham gia vào các hoạt động trong lễ hội, dâng hương bày tỏ lòng
thành kính với Thái sư Trần Thủ Độ và các nhân vật được thờ tự trong đền.
Mức độ hấp dẫn của di tích đối với khách du lịch:
Theo số liệu điều tra tại đền Lựu Phố, mức độ hấp dẫn của di tích khi khách
du lịch đánh giá chiếm 82%. Tiếp theo, mức độ không hấp dẫn chiếm 10%. Cuối
cùng, mức hộ rất hấp dẫn chiếm 8%. (Biểu đồ 2.3).

8% 10%

82%

Không hấp dẫn Hấp dẫn Rất hấp dẫn

Biểu đồ 2.3: Biểu đồ về mức độ hấp dẫn của đền Lựu Phố đối với khách du lịch (Đơn vị %)
(Nguồn: Điều tra bằng phiếu điều tra tại đền Lựu Phố)

46
Do vậy, nhìn vào mức độ đánh giá của khách du lịch khi đến thăm đền Lựu
Phố, chủ yếu du khách đánh giá mức độ hấp dẫn. Vì vậy để nâng cao thêm nữa
mức độ hấp dẫn của di tích, ban quản lý nên có những sách phù hợp để thu hút
khách du lịch khi tới tham quan di tích.
2.4.2. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch
Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật là những điều kiện tất yếu để tạo
nên một địa điểm du lịch phát triển và thu hút khách. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật
chất kỹ thuật bao gồm: cơ sở lưu trú, ăn uống, phương tiện giao thông và các dịch
vụ khác như: hệ thống điện nước,…
- Cơ sở vật chất kĩ thuật
Cơ sở lưu trú:
Cơ sở lưu trú là một trong những điều kiện không thể thiếu để phục vụ và
phát triển du lịch. Hiện nay, gần đền Lựu Phố rất ít cơ sở lưu trú như khách sạn
và nhà nghỉ. Vì vậy, việc phát triển du lịch ở đây chưa phát triển mạnh. Đa số
khách du lịch đến đây chỉ đi trong ngày và họ không có nhu cầu lưu trú lại vì nếu
lưu trú thì phải đi một chặng đường rất xa. Để phát triển du lịch mạnh mẽ, phải
có những chính sách nhằm cải thiện và phát triển cơ sở lưu trú gần đền Lựu Phố
để thu hút khách du lịch đến tham quan.
Cơ sở ăn uống:
Để phát triển du lịch, việc xây dựng cơ sở ăn uống là điều cần thiết tại mỗi
khu du lịch dù lớn hay nhỏ. Xung quanh đền Lựu Phố hiện nay tuy là đã có quán
ăn, nhưng chủ yếu là những quán đồ ăn nhanh, đồ uống và chưa có nhiều quán ăn
phục vụ khách du lịch khi đến thăm quan. Nếu có quán ăn thì phải đi một chặng
đường dài và thực đợn cũng không được đa dạng. Hiện nay, chính quyền địa
phương cũng đang thực hiện một số chính sách đầu tư, ký kết với các doanh
nghiệp để đầu tư xây dựng nhiều nhà hàng phục vu khách du lịch khi đến tham
quan đền chùa Lựu Phố.
- Cơ sở hạ tầng
Hệ thống giao thông:

47
Trong những năm gần đây, Ban quản lý đền Lựu Phố và chính quyền địa
phương đã có những chính sách xây dựng lại đường giao thông để khách du lịch
có thể di vào tham quan một cách thuận tiện nhất. Việc xây dựng bãi đỗ xe cho
xe du lịch đã hoàn thành và đã được đưa vào sử dụng.
Mạng lưới giao thông trên địa bàn thuộc khu di tích dễ dàng cho việc di
chuyển. Đường xá lân cận điểm di tích đã được chính quyền địa phương xây dựng
và nâng cấp, việc di chuyển sẽ trở nên thuận tiện hơn, đặc biệt, hiện tại khu di tích
đã có bãi để xe dành cho xe du lịch, đáp ứng được phần nào việc giữ gìn an ninh
trật tự trong lễ hội.
Phương tiện giao thông: Đền Lựu Phố nằm khu ngoại thành của thành phố
Nam Định, các tuyến xe ở đây rất ít. Tuy nhiên, hiện nay, vì đã được quy hoạch
hóa, nên số lượng các xe như taxi, xe khách, các phương tiện khác vào khu di tích
nhiều hơn trước kia. Các xe du lịch trở khách du lịch theo tuyến du lịch cũng vào
điểm di tích nhiều hơn. Vì vậy, việc phát triển du lịch của di tích đền Lựu Phố
cũng đạt hiệu quả hơn.
Hệ thống điện:
Hệ thống điện trên địa bàn di tích đền Lựu Phố được cung cấp đầy đủ, điện
năng tốt. Tuy nhiên, đường dây dẫn điện được sắp xếp lộn xộn, không theo trình
tự, ảnh hưởng rất lớn đến an toàn của người dân.
2.4.3. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch
Nguồn nhân lực là một nhân tố thiết yếu trong sự phát triển của một điểm
du lịch.Việc đào tạo bồi dưỡng nhân lực của khu du lịch là cần thiết.
Theo thống kê của Ban quản lý đền Lựu Phố hiện nay, nguồn nhân lực chủ
yếu của khu di tích đền Lựu Phố là ban quản lý đền, lao công, bảo vệ và nguồn
nhân lực chủ yếu là ở địa phương. Theo điều tra, đa số các lao động như bảo vệ,
lao công, hay nhân viên bán hàng đều chưa qua đào tạo. Vì vậy, gây khó khăn rất
nhiều trong việc phát triển dịch vụ ở đây.
Theo chia sẻ của Ban quản lý đền Lựu Phố, hiện nay đền không có hướng
dẫn viên tại điểm, nếu có chỉ là từ đền giới thiệu về ngôi đền. Vì vậy, nguồn nhân
lực của đền còn kém và chưa phát triển. Để phát triển du lịch, ngoài việc bổ sung
48
kiến thức lý thuyết cho nhân lực mà ngoài ra còn phải bổ sung kiến thức về kĩ
năng mềm cho nhân lực như: Kĩ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử. Có những kĩ
năng ấy nhân lực sẽ nhận được sự tin tưởng từ khách du lịch.
Hiện nay, để đảm bảo phát triển nguồn nhân lực tại đền Lựu Phố, tỉnh Nam
Định đã có chính sách đầu tư. Sở Văn hóa -Thể thao và Du lịch Nam Định đã tổ chức
“Khóa cập nhật kiến thức cho hướng dẫn viên du lịch năm 2019” với nội dung là
cập nhật và bổ sung kiến thức chuyên môn trong du lịch cho hướng dẫn viên du lịch
để có đủ các tiêu chí hành nghề. Tham gia khóa đào tạo, hướng dẫn viên sẽ được
truyền đạt những kiến thức cơ bản với các chuyên đề như: Tình hình du lịch thế giới,
xu hướng phát triển trong du lịch, tình hình phát triển du lịch tại Việt Nam, các biện
pháp đảm bảo an ninh, an toàn cho du khách. Đây là một trong những chương trình
cần thiết, phù hợp với sự phát triển nguồn nhân lực đền Lựu Phố.
2.4.4. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm trong du lịch cũng là một trong những điều kiện níu
giữ khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch tốt sẽ đi kèm với việc khách du
lịch sẽ quay lại tham quan điểm du lịch đó.
Di tích và lễ hội đền Lựu Phố đã làm khá tốt điều đó. Ban quản lý khu di
tích và chính quyền địa phương đã biết kết hợp giá trị truyền thống của lễ hội với
việc quảng bá lễ hội. Trong khuôn khổ lễ hội đền Lựu Phố diễn ra rất nhiều các
hoạt động văn hóa thể thao và văn nghệ như: hát chèo, hát ca trù, hoạt động thể
thao như giải đá bóng thể hiện “Hào khí Đông A” của dân tộc, các tiết mục múa
dân gian. Một hoạt động thu hút khách du lịch trong lễ hội đền Lựu Phố đó là
những những trò chơi dân gian như: đấu vật, kéo co. Trưng bày sách, tư liệu, hiện
vật về Thái sư Trần Thủ Độ cũng đã được diễn ra tại chính di tích và lễ hội.
Tuy nhiên, trong việc xây dựng các sản phẩm du lịch, cũng cần có những
nét đặc sắc riêng của chính địa phương hay liên quan chính đến các nhân vật được
thờ tự trong đền, nên chính quyền địa phương cũng cần chú ý đến điểm này để
phát triển du lịch văn hóa.

49
2.4.5. Hoạt động tuyên truyền, quảng bá
Quảng bá du lịch là một trong yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng phát
triển tại một điểm du lịch.
Để xây dựng hình ảnh cho khu di tích, Ban quản lý đền Lựu Phố đã có
những đầu tư trong việc quảng bá đền bằng những quảng cáo về lễ hội trên các
kênh thông tin truyền hình của huyện và của tỉnh. Đồng thời, Tổ chức các giải
bóng đá trong lễ hội để thu hút khách du lịch mọi nơi về tham gia. Việc này giúp
ích nhiều cho sự thành công về phát triển du lich tại đền.
Tuy nhiên, chính quyền địa phương và Ban quản lý Đền Lựu Phố cần phát
huy hơn nữa việc quảng bá để du khách tham quan được hiểu hơn về những giá
trị tiêu biểu của đền Lựu Phố.
Trong thời gian gần đây chính quyền địa phương đã xác định vấn đề xây
dựng sản phẩm du lịch đặc thù và quảng bá thương hiệu du lịch là vấn đề quan
trọng và cấp thiết và cần được triển khai trực tiếp.
2.4.6. Môi trường cảnh quan của di tích
Trải qua rất nhiều thăng trầm của lịch sử, đền Lựu Phố vẫn tồn tại đến tận
bây giờ. Tuy nhiên, việc trải qua một thời gian dài như vậy cũng khiến di tích bị
mất đi phần nào dáng vẻ của đền khi bị thời gian bào mòn.
Ngoài ra, lễ hội đền Lựu Phố cũng thu hút rất nhiều du khách thập phương
về tham dự. Việc một số người dân không có ý thức xả rác trên đường đi hoặc
trong khu vự di tích làm ảnh hưởng rất nhiều đến cảnh quan của di tích.
Để giữ gìn cảnh quan của khu di tích, huyện Mỹ Lộc ban hành về việc tăng
cường đảm bảo trật tự an ninh đặc biệt là việc kinh doanh hàng hóa tại khu vực di
tích đền Lựu Phố, các dịch vụ này phải được sắp xếp đúng địa điểm, thực hiện
đúng pháp luật, phải đăng ký kinh doanh trực tiếp với chính quyền xã, không được
kinh doanh trực tiếp trong khu vực thuộc khu di tích.
Hiện nay thực hiện Quyết định số 252/2005/QĐ-TTg ngày 12/10/2005 của
Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Nam Định cũng đã có những chính sách tu bổ, tôn tạo
các di tích có trên địa bàn, để tạo cảnh quan đẹp thu hút khách du lịch đến tham quan.

50
2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch của di tích và lễ hội đền
Lựu Phố
2.5.1. Những điểm tích cực
Đền Lựu Phố là một trong những ngôi đền vẫn còn giữ được những giá trị
lớn lao về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Hiện nay, chính quyền địa phương và
ban quản lý khu di tích đang làm rất tốt trong việc tôn tạo, trùng tu lại đền nhưng
vẫn không làm mất đi những nét cổ kính và những giá trị đích thực của nó.
Lượng khách du lịch về thăm di tích và lễ hội đền Lựu Phố khá đông trong
mùa lễ hội.
Việc du lịch đền Lựu Phố phát triển dẫn đến thu nhập bình quân của địa
phương cũng phát triển, nhân dân địa phương có nguồn thu nhập từ việc kinh
doanh mặt hàng du lịch trong địa bàn được đăng ký kinh doanh theo đúng quy
định của pháp luật.
Cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật được đầu tư xây dựng. Đặc biệt là hệ thống
giao thông được chính quyền địa phương xây dựng và nâng cấp, thuận tiện cho
việc đi lại tham quan du lịch của du khách thập phương.
Chính quyền địa phương biết kết hợp những nét truyền thống và những giá
trị của di tích để tạo những sản phẩm du lịch độc đáo. Lễ hội đền Lựu Phố còn thu
hút du khách với những trò chơi dân gian hay những tiết mục nghệ thuật độc đáo
và mới mẻ, để lại ấn tượng sâu sắc với du khách.
Hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch cũng được chính quyền và ban quản
lý triển khai. Việc đăng bài trên website của địa phương hay những bài báo về du
lịch cũng đã góp phần rất lớn trong việc thúc đẩy du lịch và thu hút khách du lịch.
2.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Khách du lịch đến tham quan đền Lựu Phố với số lượng lớn chủ yếu trong
một thời gian nhất định, nhất là dịp Lễ hội đền Lựu Phố diễn ra, còn hầu như
những thời gian khác trong năm rất ít khách đến tham quan di tích đền Lựu Phố.
Vì là một địa điểm du lịch tâm linh, nên khách du lịch đến đây chủ yếu là
khách du lịch tâm linh, họ đi chủ yếu để dâng hương, cầu may mắn. Ngoài ra thời
51
gian đi là trong ngày, không qua đêm. Vì vậy, địa phương cần có thêm những hoạt
động du lịch để tạo sức hút cho khách du lịch.
Cơ sở hạ tầng quanh khu vực di tích còn nhiều hạn chế. Cơ sở ăn uống chưa
được nâng cấp và xây dựng, rất ít khu vực ăn uống cho du khách. Cơ sở lưu trú
còn nhiều bất cập như không có nhà nghỉ hay khách sạn nào gần khu di tích.
Những vấn đề hạn chế này sẽ là một rào cản rất lớn trong việc phát triển du lịch
tại đây.
Đội ngũ nguồn nhân lực trong khu di tích rất ít, thiếu đội ngũ hướng dẫn
viên, những chuyên gia nghiên cứu. Việc đào tạo nhân sự còn yếu kém, không có
những lớp bổ sung kiến thức về du lịch cho nhân sự. Vì vậy, điều này ảnh hưởng
rất lớn đền trình độ của nhân sự cũng như sự phát triển du lịch của di tích.
Các sản phẩm du lịch dường như đã được chính quyền địa phương chú ý
phát triển, tuy nhiên vẫn còn nhiều thiếu sót trong việc đầu tư.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
Du lịch nói chung của tỉnh Nam Định chưa được đầu tư và phát triển, Nam
Định chưa có những chính sách đầu tư phát triển du lịch, những sản phẩm du lịch
thiếu tính đặc thù, cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật không được đầu tư và phát triển.
Những tác nhân đó đã dẫn đến tình trạng du lich Nam Định chưa phát triển mặc
dù Nam Định là trung tâm nôi văn minh sông Hồng và là địa điểm tâm linh và
sinh thái bậc nhất của khu vực miền Bắc.
Đối với Đền Lựu Phố cũng vậy, dù là địa điểm tâm linh văn hóa nổi tiếng
của Nam Định, tuy nhiên nho chính quyền địa phương chưa có những chính sách
để phát triển du lịch nên ở đây tồn đọng khá nhiều vấn để chưa được giải quyết
Cơ sở hạ tầng không được đầu tư nâng cấp, chính quyền địa phương không
chú ý đến sự đầu tư cho di tích.
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng trong khu du lịch,
tuy nhiên nhân lực ở đền Lựu Phố rơi vào tình trạng thiếu thốn vì không được
tuyển chọn, chính quyền địa phương chưa đầu tư về vấn đề này. Năng lực của
nhân sự yếu kém do chưa mở những lớp bổ sung kĩ năng về du lịch.

52
Các sản phẩm du lịch không có tính đặc thù địa phương vì vậy làm di tích
và lễ hội không có gì mới mẻ trong mắt khách du lịch.
Di tích chưa được đầu tư nguồn vốn để phát triển du lịch vì vậy du lịch
không có sự phát triển theo từng năm.

53
Tiểu kết Chương 2
Đền Lựu Phố là một trong những ngôi đền được Bộ VH - TT&DL xếp hạng
di tích lịch sử quốc gia. Tại đây, vẫn còn lưu giữ được những giá trị lịch sử, văn
hóa và nghệ thuật thời xưa để lại nhiều dấu ấn cho khách tham quan.
Đền Lựu Phố là nơi Thái sư Trần Thủ Độ từng sinh sống và cũng là nơi ông
bàn những chuyện cơ mật ở nơi đây. Hiện nay, đền Lựu Phố là nơi thờ Thống
quốc Thái sư Trần Thủ Độ, Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung, Quốc công tiết chế
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, công chúa Trần Bạch Hoa, hai cha con
Thám hoa Hà Nhân Giả và đức Bản cảnh Thành Hoàng, những vị có công rất lớn
đối với nhân dân địa phương và địa phương và đất nước, mang đậm những dấu ấn
tâm linh sâu sắc. Ngoài ra, đền Lựu Phố còn nổi bật với những giá trị nghệ thuật
đặc biệt nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, đền Lựu Phố xây dựng theo kiểu đền
chùa truyền thống, được chạm khắc một các tinh xảo mà vẫn giữ được những giá
trị của kiểu phong cách nghệ thuật thế kỉ XIII.
Hiện nay, tuy đền Lựu Phố du khách đến tham quan chủ yếu vào những
ngày lễ, song chính quyền địa phương đã có những chính sách để phát triển du
lịch và thu hút khách về nơi đây.
Với những nét giá trị đặc sắc của đền và những chính sách đầu tư của địa
phương, chắc chắn trong thời gian không lâu, đền Lựu Phố sẽ trở thành một trong
những địa điểm tâm linh không chỉ nổi tiếng ở phía Bắc mà còn sẽ là địa điểm
tâm linh nổi tiếng cả nước.

54
Chương 3
GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐỀN LỰU
PHỐ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH NAM ĐỊNH

3.1. Định hướng phát triển du lịch tại di tích và lễ hội đền Lựu Phố
3.1.1. Định hướng phát triển du lịch tỉnh Nam Định
Nam Định là một vùng đất giàu bản sắc văn hóa với nhiều lễ hội truyền
thống. Nam Định hiện có gần 4.000 di tích lịch sử văn hóa. Nhiều di tích lịch sử
văn hóa, kiến trúc tiêu biểu như: Phủ Dầy, chùa Cổ Lễ, đền Trần, chùa Keo Hành
Thiện, đền Bảo Lộc, đền Lựu Phố, cầu Ngói, chùa Lương, cột cờ Nam Định.
Ngoài ra, còn có các di tích lịch sử văn hóa gắn với các danh nhân như: Trạng
nguyên Nguyễn Hiền, Trạng lường Lương Thế Vinh, Thái sư Trần Thủ Độ, Hưng
đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, nhà thơ Tú Xương, nhà lưu niệm Nguyễn Bính,
khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh…
Hướng tới sự phát triển du lịch chung trên cả đất nước, Nam Định đã sẵn
sàng trở thành một trong những điểm đến du lịch văn hóa và tâm linh trên cả nước
nhằm thu hút khách du lịch không chỉ nội địa mà cả khách du lịch quốc tế.
Trong quyết định phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng
đồng bằng sông Hồng và duyên hải đồng bằng Bắc bộ năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030” của Thủ tướng Chính phủ [11] bao gồm thủ đô Hà Nội, thành phố Hải
Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình, Nam
Định, Thái Bình, Quảng Ninh. Trong đó nêu rõ quan điểm phát triển du lịch của
các tỉnh nói riêng và của vùng nói chung, phát triển du lịch theo hướng tăng cường
liên kết, phát huy tối đa tiềm năng và thế mạnh du lịch của mỗi tỉnh, phát triển
đồng thời du lịch văn hóa, sinh thái trong đó du lịch văn hóa được ưu tiên hàng
đầu để phát triển du lịch và liên kết với các loại hình du lịch khác, đồng thời nêu
xây dựng sản phẩm du lịch phải kết hợp giữa truyền thống và hiện đại nhằm khai
thác hiệu quả các giá trị của điểm tham quan. Mục tiêu cụ thể trong phát triển du
lịch năm 2025 thu hút 8,91 triệu khách quốc tế (4,6%/năm) và 30,9 khách nội địa
(3.2%/năm); năm 2030 thu hút 10,59 triệu lượt khách quốc tế (3,2%/năm), 36

55
triệu lượt khách nội địa (3,1%/năm). Định hướng đẩy mạnh cả khách du lịch quốc
tế và nội địa, mở rộng các thị trường du lịch mới. Ngoài ra, tổ chức các tuyến
điểm du lịch chính trong vùng như Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng
- Quảng Ninh hay tổ chức những tuyến du lịch chuyên đề như lễ hội tâm linh Phủ
Giầy, Đền Trần (Nam Định), Yên Tử. Ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch như
nhóm sản phẩm gắn với giá trị của nền văn minh sông Hồng hay nhóm du lịch tự
nhiên, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch. Nam Định Là một trong những tỉnh nằm
trong quy hoạch tổng thể nên cần triển khai sớm các kế hoạch đề ra nhằm phát
triển du lịch tỉnh.
Mặc dù có tiềm năng rất lớn, nhưng trong những năm gần đây số lượng khách
du lịch tại tỉnh Nam Định giảm so với những năm khác. Trong Hội thảo “Xây dựng
và quảng bá thương hiệu sản phẩm du lịch đặc thù của tỉnh Nam Định” đã đề ra
những nguyên nhân đẫn đến sự bão hòa trong việc phát triển du lịch là xây dựng
sản phẩm du lịch như điều kiện cơ sở hạn tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật chuyên ngành
Du lịch, chất lượng dịch vụ, nguồn nhân lực… còn nhiều hạn chế, sản phẩm du lịch
của tỉnh còn nghèo nàn, đơn điệu, phần lớn khai thác ở dạng tự nhiên, chưa được
đầu tư nâng cấp chất lượng đồng bộ và hoàn chỉnh để tăng sức hấp dẫn, thu hút đối
với du khách, một số sản phẩm như du lịch văn hóa tâm linh, lễ hội tính cạnh tranh
thấp. Ngoài ra còn đưa ra một số chính sách để đầu tư phát triển du lịch và nâng
cao chất lượng của các ản phẩm du lịch, mang đến sự mới mẻ cho khách du lịch
khi du lịch tại khu di tích nằm trên địa bản tỉnh Nam Định. Những chính sách trong
việc liên kết, xây dựng những chương trình du lịch liên tỉnh cũng được hội thảo đề
ra để ngoài việc tạo điểm nhấn cho khu vực mà còn mang lại lượng khách du lịch
lớn cho tỉnh Nam Định và các tỉnh liên kết tuyến tour du lịch.
Sở VH - TT& DL tỉnh Nam Định đã nêu ra những chiến lược cụ thể như
xác định vấn đề xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù và quảng bá thương hiệu du
lịch là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Điều này có ý nghĩa đặc biệt khi trong thời
gian tới toàn ngành Du lịch nói chung, Nam Định nói riêng tập trung triển khai
Chương trình hành động của Chính phủ và Kế hoạch hành động của Bộ VHTTDL
thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát triển
56
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn [12], trong đó có các nhiệm vụ: đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, xúc tiến quảng bá, phát triển
nhân lực du lịch.
3.1.2. Định hướng phát triển du lịch tại đền Lựu Phố
 Chính sách xây dựng thị trường du lịch
Nghiên cứu, xây dựng, phát triển thị trường khách du lịch trong và ngoài nước.
Thị trường khách quốc tế:
Sở VHTT&DL tỉnh Nam Định cũng như Ban quản lý đền Lựu Phố cũng đã
có những chính sách nhằm nâng cao sự phát triển trong du lịch. Ngoài ra sự vào cuộc
quyết liệt của các cấp, ban, ngành, doanh nghiệp du lịch sẽ góp phần nào cho sự tăng
trưởng khách du lịch quốc tế ở Nam Định nói chung và đền Lựu Phố nói riêng. Các
chính sách mở rộng thu hút khách quốc tế chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á.
Thị trường khách du lịch nội địa.
Tập trung khai thác nguồn khách du lịch các tỉnh Phía Bắc vùng Đông bằng
Sông Hồng, sau đó dần dần tiếp cận ra các vùng lân cận. Vì đền Lựu Phố chủ yếu
là các giá trị văn hóa, lịch sử, tâm linh nên phù hợp với khách du lịch mọi lứa tuổi
hoặc những khách du lịch đi theo tour, khách du lịch đi tham quan giá trị văn hóa,
tâm linh hay học sinh - sinh viên đi học tập thực tế.
 Chính sách đẩy mạnh phát triển các sản phẩm du lịch
Trong Hội thảo do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnhNam Định phối hợp
với Tạp chí Du lịch (Tổng cục Du lịch) tổ chức ngày 19/12/2017 tại Nam Định đã
nêu ra phương hướng đảy mạnh sản phẩm du lịch văn hóa cho các điểm du lịch
văn hóa lịch sử: “Xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm du lịch đặc thù
tỉnh Nam Định”.
Đền Lựu Phố là một trong những điểm đến lịch sử văn hóa hấp dẫn đối với
du khách thập phương. Vì vậy cần tập trung xây dựng những sản phẩm đặc thù,
đặc sắc, phải kiểm soát được tính chất lượng, phát triển trên quy mô lớn.
 Tổ chức các tuyến du lịch

57
Hiện nay, tại tỉnh Nam Định nói riêng và trên cả nước nói chung có rất
nhiều các tuyến du lịch văn hóa, di tích lịch sử. Việc tổ chức, xây dựng những
tuyến du lịch là điều cần thiết để phát triển, thu hút khách du lịch.
Tuyến du lịch nội tỉnh: Đền Trần - Đền Bảo Lộc - Đền Lựu Phố - Phủ Giày
(1 ngày)
Tuyến du lịch liên tỉnh: Hà Nội - Đền Trần - Đền Bảo Lộc - Đền Lựu Phố
- Hành Cung Vũ Lâm - Hà Nội (1 ngày)
3.2. Giải pháp phát triển du lịch tại di tích và lễ hội đền Lựu Phố
3.2.1. Đẩy mạnh sản xuất, phát triển các sản phẩm du lịch
Trong những năm gần đây, sản phẩm du lịch đang đang dần trở thành một
giá trị thiết yếu để làm hài lòng du khách trong mọi hành trình du lịch. Sự đa dạng
và tính hấp dẫn trong sản phẩm du lịch tạo ra giá trị cao của điểm du lịch và đóng
vai trò lớn trong việc thu hút du khách.
Di tích và lễ hội đền Lựu Phố là một trong những di tích lịch sử quan trọng
của tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung. Nhận thức được tính quan
trọng của di tích, Ban quản lý khu di tích cũng đã đầu tư rất nhiều trong việc xây
dựng những sản phẩm đặc thù của điểm như: Tổ chức lễ hội thường niên, có những
hoạt động văn hóa nghệ thuật trong lễ hội. Tuy vậy việc phát triển các sản phẩm
đó vẫn chưa đủ để thu hút khách du lịch, tính hấp dẫn trong các sản phẩm vẫn còn
hạn chế, thiếu sự thu hút, chưa có sự mới mẻ. Vì vậy đa dạng hóa sản phẩm du
lịch là điểu mà chính quyền địa phương và ban quản lý Khu di tích cần tích cực
khai thác để sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cao tiến tới xây dựng sản phẩm
du lịch địa phương và vùng đồng thời xây dựng thêm sản phẩm du lịch chuên đề
để tăng thời gian lưu trú của khách du lịch.
Những giải pháp cần thiết ngay lúc này đó là phải đưa ra các chính sách,
chiến lược quy hoạch tổng thể, kêu gọi đầu tư vốn, hợp tác của người dân trong
việc đa dạng hóa và hiện đại hóa các sản phẩm.
Vì sản phẩm du lịch gồm nhiều yếu tố tạo thành, đòi hỏi phải có sự phối
hơp chặt chẽ giữa các bộ phận tham gia phục vụ khách để tạo ra một sản phẩm du
lịch có chất lượng tốt, đem lại sự hài lòng cho khách hàng.
58
3.2.2. Tôn tạo lại khu di tích đền Lựu Phố
Việc tôn tạo lại khu di tích cần phải có hoạch định cụ thể của địa phương
các cấp chính quyền. Hiện nay khu di tích đền Lựu Phố tuy giá trị văn hóa rất nổi
bật nhưng không gian tham quan vẫn còn hơi gò bó và thiếu cảnh quan tự nhiên.
Trùng tu, tôn tạo gần gũi với thiên nhiên là một điều cần thiết.
Hệ thống cây xanh ở mỗi di tích tạo nên một không gian xanh, giúp các
công trình bê tông, gạch, đá như hòa quyện mềm mại với thiên nhiên để trở thành
tiểu cảnh gần gũi với con người. Đặc biệt, cây xanh giúp nâng cao giá trị cảnh
quan, thẩm mỹ cho di tích, làm cho người đến tham quan thư thái hơn.
Ở nhiều di tích đền Lựu Phố việc trồng cây xanh cũng chưa được quan tâm,
hoặc đã quan tâm nhưng chưa phù hợp với cảnh quan. Không gian di tích bị bí
bách trong khi cây xanh ít làm giảm đi sự thâm nghiêm, cổ kính, thiếu không gian
nghỉ ngơi.
Ngoài ra việc xây dựng thêm hồ sen sẽ giúp cho cảnh quan hài hòa hơn, đậm
nét văn hóa truyền thống, mang lại sự dễ chịu cho khách du lịch khi đến tham quan.
Việc trùng tu thêm nhiều cây xanh và xây thêm hồ sen sẽ làm không gian
xung quanh đền trở nên thoáng đãng, làm cho khách du lịch cảm thấy thư giãn
hơn. Đền Lựu Phố nên trông thêm nhiều lại cây như: cây đa, cây trúc hay xây
dựng hồ sen để đáp ứng giá trị cảnh quan cho khu du lịch.
3.2.3. Duy trì và tổ chức lễ hội đền Lựu Phố
Lễ hội đền Lựu Phố chiếm một vị trí quan trong trong sự phát triển của xã
Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Nó không chỉ mang yếu tố tâm linh mà
còn đem lại giá trị cộng đồng vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam. Vì vậy lễ
hội đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch của tỉnh Nam Định.
Giống như các lễ hội khác, để tránh tình trạng pha tạp các hoạt động văn
hóa với thương mại hóa, tình trạng quá tải, hay tệ nạn trong lễ hội, Ban quản lý
cần phối hợp với chính quyền địa phương và nhân dân để có định hướng và tổ
chức lễ hội một cách an toàn.
3.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất, kĩ thuật phục vụ du lịch.
 Cơ sở hạ tầng, vật chất, kĩ thuật
59
Tổ chức hệ thống dịch vụ tốt để phục vụ và đáp ừng nhu cầu thiết yếu của
du khách như ăn uống, lưu trú, các dịch vụ khác. Đáp ứng những điều này tốt, khu
du lịch đã đạt được những thành công nhất định trong việc níu giữ du khách.
+ Cơ sở lưu trú:
Hiện nay trên địa bàn đền Lựu Phố có rất ít và hầu như là không có một cơ
sở lưu trú nào đủ điều kiện để phục vụ khách du lịch. Vì vậy Huyện Mỹ Lộc nên
có nhưng phương án cần thiết như: khuyến khích nhân dân sửa sang, nâng cấp
những nhà nghỉ, khách sạn hiện có, kêu gọi đầu tư vốn để xây dựng thêm cơ sở
lưu trú để đáp ứng những nhu cầu cần thiết phục vụ khách du lịch.
+ Cơ sở ăn uống:
Xây dựng thêm nhiều nhà hàng phục vụ nhu cầu ăn uống cho khách du lịch,
điều này rất quan trọng trong việc phát triển du lịch, và đây cũng là diểm quan
trọng nhất trong chuyến đi. Những năm gần đây, trên đại bàn thôn Lựu Phố đa
xây dựng được một vài quán ăn nhưng chủ yếu là quán ăn bình dân, còn những
quán ăn dành cho khách du lịch lại nằm rất xa điểm du lịch. Vì vậy, chính quyền
địa phương cũng nên có những chính sách hỗ trợ vốn khuyến khích nhân dân mỏe
rộng, xây dựng nhiều nhà hàng phục vụ ăn uống cho khách du lịch.
 Các dịch vụ khác
Hệ thống điện, nước cần được đầu tư hơn. Tuy đã được đầu tư nâng cấp,
tuy nhiên hệ thống điện nước vẫn chỉ đủ cho sinh hoạt của người dân. Đối với
nước, hàu như trong đền không có khu rửa tay cho khách du lịch, khu vệ sinh
không được sạch sẽ. Vì vậy, Ban quản lý đền Lựu Phố cần chú ý trong việc xây
dựng thêm các công trình vệ sinh, ngoài ra cần đảm bảo nguồn điện nước cần thiết
phục vụ du lịch.
3.2.5. Quảng bá du lịch và các sản phẩm du lịch
Quảng bá du lịch là điều kiện cần thiết cho mỗi điểm du lịch dù lớn hay
nhỏ, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch và các sản phẩm du lịch là một trong
những biện pháp để đảy mạnh phát triển du lịch.
Theo đặc trưng của sản phẩm du lịch thì nó tồn tại ở dạng vô hình, khách
du lịch chỉ cảm nhận chứ không nhìn thấy việc chúng mang lại cảm giác phấn
60
chấn, dễ chịu hay khó chịu, không cầm nắm được như những hàng hóa khác.
Thông thường thì sản phẩm du lịch được đánh giá theo cảm nhận của khách hàng.
Vì vậy, cần có những biện pháp tuyên truyền, quảng bá du lịch và sản phẩm du
lịch đến khách du lịch trong và ngoài nước.
Trước tiên, phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để tạo ra sản phẩm du
lịch phù hợp với nhu cầu của họ. Từ đó mới triển khai các chiến lược xúc tiến
quảng bá du lịch.
Tính chuyên nghiệp trong hoạt động quảng bá du lịch cần nâng cao đồng
thời phải quảng bá theo chiến dịch trọng diểm, đẩy mạnh xúc tiến hóa quảng bá
du lịch.
Tăng cường nguồn lực để thúc đẩy hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch,
tăng cường vốn ngân sách cho hoạt động quảng bá
Việc đăng tải thông tin điểm du lịch lên các website du lịch cũng là điều
cần thiết để phát triển quảng bá như website của huyện Mỹ Lộc, của tỉnh Nam
Định hay các trang mạng điện tử như Facebook, Zalo.
Để thu hút khách, Ban quản lý cũng đầu tư vốn để làm tờ gấp hay soạn sách
hoặc có những tranh ảnh in ấn để quảng bá cho điểm du lịch.
Có sự đầu tư và hợp tác liên tỉnh trong việc phát triển du lịch vùng. Từ đó,
từng bước quảng bá du lịch đến bạn bè thế giới.
Vì đền Lựu Phố nằm trên địa bàn tâm linh xung quanh đều là các đền chùa
nổi tiếng như: đền Trần, đền Bảo Lộc, chùa tháp Phổ Minh. Vì vậy, BQL đền Lựu
Phố nên kết hợp với BQL các đền khác xây dựng một trung tâm thông tin online
mà trong đó có tát cả những thông tin mà khách du lịch cần biết về điểm du lịch
mà mình muốn đến. Việc xây dựng sẽ giúp khách du lịch tìm điểm đến dễ hơn và
cũng cùng lúc quảng bá du lịch của khu du lịch
3.2.6. Đào tạo nguồn lực
Nguồn lực dù ở ngành nghề nào nó cũng là mấu chốt của sự phát triển. Du
lịch cũng vậy, nguồn nhân lực rất cần thiết đặc biệt là ở những khu di tích hay khu
du lịch tự nhiên.
Nguồn lực của di tích đền Lựu Phố bao gồm:
61
Nhóm quản lý: Quản lý đền, bảo vệ, lao công vệ sinh.
Nhóm dịch vụ bao gồm hướng dẫn viên tại điểm, chuyên gia du lịch: hiện
tại chưa có
Thực hiện Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch theo quyết
định trong “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng và
Duyên hải Đông Bắc đền năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Thủ tướng
chính phủ, chương trình phát triển nguồn nhân lực phải phù hợp với nhu cầu phát
triển du lịch từng địa phương.
Phát triển nguồn nhân lực tại đền cần đủ số lượng, đảm bảo chất lượng
nguồn nhân lực phải đáp ứng được những yêu cầu phát triển của khu di tích.
Vì vậy, để phát triển du lịch, chính quyền địa phương cần đào tạo Hướng
dẫn viên du lịch tại điểm cho khách du lịch. Vì hướng dẫn viên là người trực tiếp
cung cấp thông tin cho du khách khi đến tham quan khu di tích, qua đó truyền tải
được hồn của lịch sử khu di tích đền Lựu Phố đến với du khách. Ngoài ra, cần mở
những lớp nghiệp vụ du lịch cho nguồn nhân sự tại đền Lựu Phố. Hiện nay, đền
Lựu Phố là một trong những địa điểm nổi trội về du lịch văn hóa tại tỉnh Nam
Định, việc đào tạo hướng dẫn viên tại điểm càng nhanh chóng sẽ giúp ích rất nhiều
trong sự phát triển của toàn tỉnh.
Tỉnh thành Nam Định cũng cần đầu tư một nguồn vốn để có thể đào tạo các
hướng dẫn viên du lịch tại điểm tương lai cho khu di tích đền Lựu Phố, trang bị
về nghiệp vụ, kiến thức hướng dẫn du lịch.
3.2.7. Tổ chức liên kết, quản lý quy hoạch và đảm bảo an ninh trật tự
Ban quản lý đền Lựu Phố cần liên kết công tác tổ chức quản lý di tích và lễ
hội với xã, huyện, tỉnh ủy. Ngoài ra, có thể liên kết phát triển với các địa phương
trong vùng. Liên kết trong việc tổ chức phát triển nguồn nhân lực, phát triển đầu
tư các sản phẩm du lịch, liên kết trong công tác quy hoạch, quản lý tài nguyên văn
hóa tại địa phương.
Đáp ứng việc tổ chức phải gắn liền với việc gắn kết ứng dụng khoa học
công nghệ vào trong phát triển du lịch.

62
Liên kết việc phát triển du lịch tại điểm tham quan ở địa phương với các
điểm tham quan khác trong tỉnh đồng thời liên kết phát triển du lịch trong tỉnh với
phát triển du lịch tỉnh khác tạo động lực phát triển cho vùng, xúc tiến quảng bá
một cách hiệu quả.
Đảm bảo an ninh trật tự tại điểm tham quan, phối hợp công tác quản lý giữa
Ban quản lý đền với công an xã hoặc huyện, đảm bảo an toàn cho khách du lịch,
giữu gìn trật tự tại khu di tích.
3.2.8. Bảo vệ tài nguyên và môi trường trong khu di tích
Ban quản lý đền và chính quyền địa phương cần có những giải pháp hiệu
quả để nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường trong khu di tích đặc biệt là trong
thời gian diễn ra lễ hội.
Trong “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng
và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn 2030” đã rêu rõ các địa phương
cần khuyến khích các hoạt động thân thiện với môi trường, khuyến khích cộng
đồng chia sẻ lợi ích trách nhiệm trong việc giữu gìn tài nguyên thiên nhiên.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đề xuất với Sở VH - TT&DL tỉnh Nam Định
Thường xuyên nâng cấp cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật ở các điểm
di tích, đảm bảo chất lượng để phục vụ du lịch.
Đa dạng hóa các sản phẩm du lich về văn hóa gắn liền với truyền thống và
gái trị của điểm di tích, tạo sự thu hút cho du khách thập phương khi đến tham
quan điểm di tích.
Bồi dưỡng nguồn nhân lực hiện có, mở thêm nhiều lớp giáo dục về nghiệp
vụ hướng dẫn du lịch. Đặc biệt mở thêm các lớp bồi dưỡng giáo dục kỹ năng mềm
cho nguồn nhân lực du lịch tại tỉnh.
Đầu tư xây dựng, tu bổ các điểm tham quan nhưng vẫn giữu được giá trị
hiện có của di tích.
Phối hợp cùng với công ty lữ hành trong tỉnh để mở thêm những tuyến du
lịch về văn hóa, từ đó xây dựng chương trình và đưa vào hoạt động.

63
3.3.2. Đề xuất với Ban quản lý đền Lựu Phố
Cần có giải pháp huy động nguồn kinh phí từ xã hội hóa một cách cụ thể,
khoa học.
Bồi dưỡng nguồn nhân lực hiện có. Mở thêm nhiều lớp giáo dục về nghiệp
vụ du lịch, nâng cao kĩ năng giao tiếp với khách du lịch. Đào tạo hướng dẫn viên
du lịch tại điểm.
Khuyến khích nhân dân địa phương bảo vệ môi trường xung quanh khu di
tích tạo không gian trong lành, mát mẻ mang lại sự thư giãn cho khách du lịch
khu đến tham quan.
Ban quản lý đền Lựu Phố cần đẩy mạnh và khuyến khích nhân dân kinh
doanh đúng khu vực đăng ký và phải kinh doanh đúng pháp luật trong phạm vi
khu vực di tích.
Ban quản lý đền Lựu Phố cần có những chính sách để đảm bảo trật tư an
ninh mỗi khi mùa lễ hội đến, tránh tình trạng xảy ra những tệ nạn không đáng có
khi diễn ra lễ hội.

64
Tiểu kết Chương 3
Với xu thế toàn cầu hóa, hiện đại hóa như ngày nay, các ngành kinh tế đều
theo đuổi mục tiêu hướng tới sự tăng trưởng cao trong toàn ngành, ngành Du lịch
cũng vậy, là một ngành công nghiệp không khói, du lịch đang tiến tới phát triển
đạt lợi nhuận cao mang lại kinh tế không chỉ cho một vùng mà cho cả một đất
nước để sánh vai với các nước trong khu vực. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta
cần có những chính sách để phát triển du lịch nhằm thu hút khách du lịch đến Việt
Nam. Ngoài ra cần phải đưa ra các giải pháp hay kiến nghị nhằm phát triển và
nâng tầm ảnh hưởng của điểm du lịch.
Đối với tỉnh Nam Định, hướng tới sự phát triển du lịch tâm linh với những
địa điểm di tích văn hóa lịch sử mang dấu ấn thời đại và có nhiều giá trị nhân văn
sâu sắc. Nam Định đã có nhiều chính sách trong việc đẩy mạnh công tác phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh như: đầu từ cải tạo, trùng tu các khu di tích lịch sử văn
hóa, đầu tư vốn để địa phương phát triển du lịch, sáng tạo ra nhiều sản phẩm đặc
thù nhằm thu hút khách du lịch. Những chính sách đó đã mang lại nhiều lợi ích
về kinh tế cho địa phương và cho toàn tỉnh.
Đền Lựu Phố là một trong những nơi được tỉnh đầu tư và chú trọng tròn
việc phát triển du lịch. Những giải pháp đưa ra nhằm phát triển du lịch nơi đây là
rất cần thiết như: chú trọng đầu tư về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật, đào
tạo nguồn nhân lực khu di tích hay đẩy mạnh quảng bá du lịch của di tích là những
giải pháp phù hợp để thu hút khách du lịch đến với di tích.
Những đề xuất kiến nghị cũng là điều cần ban quản lý hay địa phương khu
di tích cần lắng nghe và tham khảo vì nó mang lai nhiều lợi ích cho khu di tích.

65
KẾT LUẬN

Khai thác những giá trị độc đáo của di tích lịch sử văn hóa là một trong
những điều cần thiết để phát triển du lịch. Giá trị của di tích gắn liền với lịch sử,
văn hóa và cả kiến trúc nghệ thuật, mang lại những sắc thái riêng gắn với thời kì
lịch sử xây dựng nên di tích.
Nhắc đến truyền thống văn hóa Việt Nam là nhắc đến lễ hội, lễ hội là cái
nôi của văn hóa, là không gian điển hình mang đậm màu sắc dân tộc. Lễ hội mang
những vai trò đích thức trong cuộc sống của con người và có thể nói đến những
vai trò như lễ hội có giá trị phản ánh, bảo lưu và lưu truyền các giá trị văn hóa của
dân tộc từ đời này sang đời khác, lễ hội mang tính cộng đồng cao, lễ hội là dịp vui
chơi giải trí hay lễ hội giúp nhân dân tưởng nhớ, tạ ơn và thể hiện ước vọng đông
đảo của quần chúng nhân dân. Tất cả những vai trò đó đã nói lên bản sắc truyền
thống của lễ hội mà cộng đồng nhân dân vô cùng coi trọng.
Vì vậy, di tích lịch sử văn hóa và lễ hội mang một ý nghĩa cực kì quan trọng
trong qua trình phát triển du lịch ngày nay.
Nam Định - một mảnh đất với nhiều di tích lịch sử văn hóa mang giá trị
tâm linh đặc sắc của đất nước như: Đền Trần, Đền Bảo Lộc, chùa Phổ Minh, cột
cờ Thành Nam, Phủ Dày, đền Lựu Phố,… mang lại cho khách du lịch những tò
mò về mảnh đất nơi đây, một mảnh đất thiêng liêng của tổ quốc.
Đền Lựu Phố (thuộc xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) với
những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, cổ vật độc đáo thuộc thế kỉ 13 đã mang
lại những sự tò mò nhất định cho du khách mỗi khi về tham quan nơi đây. Ở đây,
vẫn còn lưu giữu được những giá trị lịch sử độc đáo, đây là nơi ở của Thái sư Trần
Thủ Độ mỗi khi ông về đây để chầu và yết kiến vua triều Trần, là một trong những
căn cứ trong cuộc đấu tranh của nhân dân chống quân xâm lược Mông – Nguyên,
ngoài ra nơi đây cũng là căn cứ của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ xâm lược. Kiến trúc thế kỉ 13 là một điều thú vị trong di tích kiến trúc Lựu
Phố, hiện nay tại đền vẫn còn lưu giữ được kiểu kiến trúc thời Trần và thời
Nguyễn, đền được xây dựng theo trật tự từ ngoài vào trong: nghi môn, tiền đường,
66
hậu đường, chính cung. Ngoài những giá trị về kiến trúc và lịch sử, đền Lựu Phố
còn có cả những giá trị về cổ vật. Hiện nay, đền Lựu Phố vẫn còn lưu giữ được
một số di vật, cổ vật như: khám và tượng thờ Thái sư Trần Thủ Độ được bài trí
trang trọng trên ban thờ tại tòa trung đường; Ngai và bài vị thờ Thái sư Trần Thủ
Độ, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và hai cha con Thám hoa Hà Nhân Giả
và 5 đạo sắc phong ghi nhận công đức của Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo
và hai cha con Thám hoa Hà Nhân Giả, trong đó có 4 đạo niên hiệu Khải Định 9
(1924) và 1 đạo niên hiệu Duy Tân 5 (1911); Đại tự và biển nhờ về thân thế, sự
nghiệp của Thám hoa Hà Nhân Giả.
Với những giá trị đặc sắc đó, đền Lựu Phố thu hút khá đông khách tham
quan nhưng chủ yếu là học sinh, sinh viên đi nghiên cứu học tập thực tế, ngoài ra
cũng có đông khách đi cầu may mắn, ít du khách về thăm chơi. Thời gian khách
đi du lịch ở đây cũng khá ngắn chủ yếu là trong ngày. Theo phiếu điều tra thực tế,
du khách chủ yếu đi tham quan chính trong mùa diễn ra dịp lễ hội và ngày lễ khác.
Vì vậy, tỉnh Nam Định và ban quản lý khu di tích cũng đã có những chính sách
quan trọng trong việc đẩy mạnh phát triển du lịch, thu hút khách du lịch đến tham
quan tại di tích. Đẩy mạnh công tác xây dựng sản phẩm du lich đáo, mang lại
hứng thú cho du khách.
Việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển du lịch nơi đây là điểm cần thiết
để nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Chính quyền địa phương, các cấp, ban,
ngành cần đưa ra nhanh và kịp thời để thúc đẩy du lịch địa phương.

67
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt


[1] Hoàng Đạo Cương (2019), Kiến trúc đền Việt Nam qua tư liệu Viên Bảo
tồn di tích T.1, NXB Văn hóa Dân tộc
[2] Thiều Chửu (1999), Hán Việt từ điển, NXB Văn hóa Thông tin
[3] Lê Thu Hương (2015), Nhập môn du lịch học, NXB Giáo dục Việt Nam
[4] Nguyễn Tiến Nam (2020), Khai thác giá trị di tích đình Tây Đằng phục
vụ hoạt động du lịch, Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội
[5] Trần Thị Nga (2012), Di tích lịch sử văn hóa đền, chùa Lựu Phố, NXB
Văn hóa dân tộc
[6] Lê Hồng Phúc (2013), Những điều cần biết về lễ hội truyền thống Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc
[7] Nguyễn Lan Phương (2018), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB
Văn hóa dân tộc
[8] Dương Văn Sáu (2004), Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch,
Trường Đại học Văn Hóa
[9] Nguyễn Kim Thản (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Sài Gòn
[10] Nguyễn Bích Thủy (2020), Khai thác giá trị khu du lịch Quốc gia Tam
Chúc gắn với phát triển du lịch văn hóa tỉnh Hà Nam, Trường Đại học Công
Nghiệp Hà Nội
[11] Thủ tướng Chính phủ (2020), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải đồng bằng Bắc bộ năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030
[12] Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 về phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
[13] Quốc hội (2017), Luật du lịch
[14] Quốc hội (2001), Luật Di sản văn hóa
[15] Ủy ban thường vụ Quốc hội (1999), Pháp lệnh du lịch
II. Tài liệu tham khảo trên Internet
68
[15] http://myphuc.namdinh.gov.vn/xamyphuc/2422/35303/44337/Gioi-
thieu/?fbclid=IwAR3nVyHVe5x2gt8VNRagSykPrnd5Tnxc15qbkjTHwz81Oq_
QFUXSesMWsDk
[16] http://www.tapchidulich.net.vn/xay-dung-va-quang-ba-thuong-hieu-
san-pham-du-lich-dac-thu-tinh-nam-
dinh.html?fbclid=IwAR0oDWvYAtCjyYVz1pp3CRMldfuSZaX3hboQdNHZ3
M6QB2H-3B19R-GuQeE
[17] http://vietnamhotel.org.vn/vn/tourism/654/289/Cac-nghi-le-trong-le-
hoi.vha?fbclid=IwAR17vGWxEzaQyuQJit-
UY7Bs3MOjRCIlZQPg__i0rNzypJPIHlOUjs0Lw3k
[18] https://enternews.vn/nam-dinh-my-loc-day-manh-phat-trien-kinh-te-
xa-hoi-
169630.html?fbclid=IwAR3HtCXE01kOjx3LA81DsgGsZpgz6QOaqljHe0daaa
kgjzVAgWgce-D8Ozs
[19] http://www.baonamdinh.vn/channel/5093/201109/den-Luu-Pho-
duoc-cong-nhan-la-di-tich-Lich-su-Van-hoa-cap-quoc-gia-
2124268/?fbclid=IwAR207pPqiOAy68_o6itrPE-
A_WJU49nZB8vDTYBCAPl2p14u6QtyrQPynOc
[20] http://www.vietnam-
tourism.com/index.php/about/items/2391?fbclid=IwAR0f64_IkgO3A5rH9rrptO
eXU95zV92sQcA2o9iApoklAtCwzw5txNPSAaY
[21]https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_Vi%E1%BB%87t_Na
m

69
PHỤ LỤC
Trang
Phụ lục 1: Một số tour du lịch sưu tầm. 71
Phụ lục 2: Sưu tầm bản phiên âm và dịch nghĩa của một số di vật, cổ 76
vật còn lưu giữ tại đền Lựu Phố.
Phụ lục 3: Mẫu phiếu điều tra khảo sát của khách du lịch tại đền Lựu 81
Phố và kết quả.
Phụ lục 4: Một số hình ảnh tại đền Lựu Phố 84

70
Phụ lục 1: Một số tour du lịch sưu tầm
HÀ NỘI - NAM ĐỊNH - HÀ NỘI (1 NGÀY)
Hà Nội - Đền Trần - Đền Bảo Lộc - Đền Lựu Phố - Phủ Dày - chùa Cổ Lễ -
Hà Nội
Thời gian: 1 ngày Phương tiện: Ô tô
06h30: Xe và hướng dẫn viên đón Quý
khách tại điểm hẹn khởi hành đi Nam
Định. Trên đường đi Quý khách dừng
nghỉ ngơi ăn sáng tại Phủ Lý (chi phí tự
túc).
08h30: Quý khách bắt đầu hành trình
đến với Đền Trần để tìm hiểu về vị
tướng tài ba của dân tộc Hưng Đạo Đại
Vương. Tiếp tục thăm Chùa Phổ Minh với tháp cao 14 tầng là biểu tượng của
phật giáo Việt Nam.
19h30: Đoàn về Đền Bảo Lộc - một
trong ba nơi linh thiên gắn liền với tích
truyện của vua Trần “Sinh Kiếp Bạc,
Thác Trần Thương, Quê Hương Bảo
Lộc” cùng tìm hiểu về huyền tích mà
Đức thánh Trần đã để lại cho thế hệ ngày
nay.
10h30: Đoàn thăm đền Lựu Phố - nơi thờ Thống đốc Thái sư Trần Thủ Độ, bên
cạnh đó quý khách sẽ được tìm hiểu giá trị kiến trúc, lịch sử, văn hóa tồn tại đến
tận bây giờ.
11h30: Đoàn về nhà hàng, ăn trưa, nghỉ ngơi tại nhà hàng
13h30: Đoàn tiếp tục thăm Phủ Dày - một quần thể kiến trúc tín ngưỡng truyền

71
thống của người Việt, nơi có đền thờ bà chúa Liễu Hạnh (phủ chính) phủ Tiên
Hương, phủ Vân Các, Công Đồng từ, đền thờ Lý Nam Đế, chùa Linh Sơn.
15h30: Đoàn thăm quan Chùa Cổ Lễ - với tháp Cửu Phẩm Liên Hoa - một biểu
tượng tiêu biểu của phật giáo từ thới Lý Trần
17h30: Đoàn lên xe trở về Hà Nội
19h30: Đoàn về tới điểm hẹn tại Hà Nội, chia tay quý khách và kết thúc chương
trình.
Hẹn gặp lại Quý khách trong những chuyến du lịch tiếp theo.
GIÁ TOUR TRỌN GÓI: 580.000VNĐ/ KHÁCH
(Áp dụng cho khách lẻ. Khách đoàn vui lòng liên hệ để có giá tốt nhất)
GIÁ TOUR TÂM LINH NAM ĐỊNH 1 NGÀY BAO GỒM:
 Xe ô tô máy lạnh, đời mới đưa đón đoàn đi tham quan theo chương trình.
 Mức ăn: 120.000 đ/suất/bữa chính.
 Bảo hiểm du lịch.
 Hướng dẫn viên kinh nghiệm, nhiệt tình theo suốt tuyến.
 Vé tham quan, thắng cảnh vào cửa 1 lần.
 Nước uống 1 chai 0.5l /người/ngày.
GIÁ TOUR TÂM LINH NAM ĐỊNH 1 NGÀY KHÔNG BAO GỒM:
 Thuế VAT.
 Chi tiêu cá nhân: giặt là, điện thoại, đồ uống ngoài chương trình.
GIÁ TOUR TÂM LINH NAM ĐỊNH 1 NGÀY CHO TRẺ EM:
 Trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí (ăn uống cha mẹ tự lo) mỗi phòng chỉ được
kèm 01 trẻ em miễn phí, trường hợp 2 trẻ miễn phí sẽ tính ½ suất người lớn.
 Trẻ em từ 6 đến 11 tuổi tính 50% giá của người lớn, ngủ chung giường với người
lớn.
 Trẻ em từ 11 trở lên tính giá như người lớn.

72
HÀ NỘI - NAM ĐỊNH - NINH BÌNH - HÀ NỘI (1 NGÀY)
Hà Nội - Đền Trần - Đền Bảo Lộc - Đền Lựu Phố - Hành Cung Vũ Lâm -
Hà Nội
Thời gian: 1 ngày Phương tiện: Ô tô
05h00: Xe và hướng dẫn viên đón Quý khách tại điểm hẹn, khởi hành đi
Nam Định. Trên đường đi dừng chân tự túc ăn sáng tại Phủ Lý.
08h30: Tới Nam Định, Quý khách thăm quan và thắp hương tại Phủ Thiên
Trường - tức Đền Trần, nơi được các vua Trần sau khi nhường ngôi cho thái tử
thường lui về đây an dưỡng tuổi già. Đền Trần được xây dựng trên nền Thái miếu
cũ của nhà Trần đã bị quân Minh phá hủy
vào thế kỷ thứ 15. Đền Trần Nam Định
gồm 3 công trình kiến trúc chính, là đền
Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố
Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Cả 3
đền đều có kiến trúc chung và quy mô
ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa tiền đường
5 gian, tòa trung đường 5 gian và tòa
chính tẩm 3 gian. Nối tiền đường và trung đường là kinh đàn (thiêu hương) và 2
gian tả hữu vu.
10h30: Tiếp tục chương trình, xe đưa Quý khách về thăm đền Bảo Lộc và
đền Lựu Phố nơi thờ Thống đốc Thái sư Trần Thủ Độ, Linh Từ Quốc mẫu Trần
Thị Dung và Công chúa Bạch Hoa
12h00: Quý khách ăn trưa tại nhà hàng trong thành phố, sau đó tự do thăm
quan và chụp ảnh bên tượng đài Trần Hưng Đạo, bức tượng bằng đồng nặng 18
tấn, cao 2,15m bên bờ hồ Vị Xuyên.
14h00: Đoàn khởi hành đi Ninh Bình hành trình đưa quý khách tới bến
thuyền, tham quan Hành cung Vũ Lâm - một căn cứ quân sự thời Trần, nằm
ngay trong vùng núi thành Nam của kinh đô Hoa Lư xưa và gắn với sự kiện các
vua Trần xuất gia tu hành, mở mang phật giáo cũng từ đây. Hiện nay, khu vực di

73
tích hành cung Vũ Lâm thuộc quần thể
danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình...
Thuyền sẽ đưa Quý khách thưởng
ngoạn phong cảnh non nước hữu tình
và cùng trải nghiệm những cảm giác thú
vị khi đi xuyên qua những hang động
nơi đây. Tiếp tục hành trình quý khách
sẽ được đến tham quan, làm lễ dâng
hương tại Đền Trần (Ninh Bình) - một di tích thuộc Hoa Lư tứ trấn. Đền do vua
Đinh Tiên Hoàng xây dựng cùng thời với đền Hùng ở Phú Thọ.
16h30: Quý khách lên xe về Hà Nội.
18h00: Về đến Hà Nội, chia tay đoàn kết thúc chuyến đi. Hẹn gặp lại Quý
khách trong các chương trình tour lễ hội tiếp theo!
GIÁ TOUR TRỌN GÓI: 615.000 VNĐ/ KHÁCH
GIÁ TOUR TÂM LINH HÀ NỘI - NAM ĐỊNH – NINH BÌNH – HÀ NỘI 1
NGÀY BAO GỒM:
 Xe ô tô máy lạnh, đời mới đưa đón đoàn đi tham quan theo chương trình.
 Mức ăn: 130.000 đ/suất/bữa chính.
 Bảo hiểm du lịch.
 Hướng dẫn viên kinh nghiệm, nhiệt tình theo suốt tuyến.
 Nước uống 1 chai 500ml /người/ngày.
GIÁ TOUR TÂM LINH NAM ĐỊNH, NINH BÌNH 1 NGÀY KHÔNG BAO
GỒM:
 Thuế VAT.
 Chi tiêu cá nhân: giặt là, điện thoại, đồ uống ngoài chương trình.
GIÁ TOUR TÂM LINH NAM ĐỊNH, NINH BÌNH 1 NGÀY CHO TRẺ EM:
 Trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí (ăn uống cha mẹ tự lo) mỗi phòng chỉ được
kèm 01 trẻ em miễn phí, trường hợp 2 trẻ miễn phí sẽ tính ½ suất người lớn.
 Trẻ em từ 6 đến 11 tuổi tính 50% giá của người lớn, ngủ chung giường với người
lớn.
74
 Trẻ em từ 11 trở lên tính giá như người lớn.

75
Phụ lục 2: Sưu tầm bản phiên âm và dịch nghĩa của một số di vật, cổ vật
còn lưu giữ tại đền Lựu Phố.
Bài vị thái sư Trần Thủ Độ
Phiên âm: Trần triều Thái sư chiêu vũ linh ứng hoằng văn đại vưcmg hoang
văn tôn thần.
Dịch nghĩa: Vị tôn thần đại vưcmg Thái sư triều Trần có văn công rõ rệt
thiêng liêng hiếu biết sâu rộng
Bài vị thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn
Phiên âm: Trần triều hiển thánh, sắc phong Thái sư thượng phụ thượng
quổc công, nhân vũ Hưng đạo thượng thượng thượng đẳng đại vương
Dịch nghĩa: Vị đại vương bậc thượng thượng hiển thánh dưới triều Trần
sắc phong là Thái sư thượng phụ thượng quốc công khoan nhân thần vũ Hưng
Đạo đại vương.
Bài vị Thám hoa Hà Nhân Giả
Phiên âm: Bản cảnh thành hoàng Giám sát uy linh tôn thần
Dịch nghĩa: Vị tôn thần Giám sát thiêng liêng được phong là bản cảnh thành
hoàng
Sắc phong:
Đền Lựu Phố còn lưu giữ được 5 đạo sắc phong, trong đó có 4 đạo niên
hiệu Khải Định 9 (1924) và một đạo niên hiệu Duy Tân thứ 5 (1911). Các đạo sắc
phong được làm bằng giấy dó, có kích thước rộng 0,50 m; dài l,32 m. Trang trí
trên sắc phong là họa tiết rồng chầu, vân mây và dấu ấn màu đỏ khắc chữ triện
“Sắc mệnh chi bảo”. Nội dung các đạo sắc phong ghi nhận công đức của Thái sư
Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, hai cha con Thám hoa Hà Nhân Giả và Bạch Hoa
công chúa. Dưới đây là các đạo sắc phong:
+ Sắc xã Lựu Phổ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định phụng thờ Thái sư Trần Thủ
Độ. Ngày 25 tháng 7 năm 1924 ban sắc.
Phiên âm: Sắc Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Lựu Phố xã phụng sự Trần
triều Thái sư chiêu vũ linh ứng hoằng văn đại vương tôn thần, hộ quốc tí dân nẫm
trứ linh ứng. Tứ kim chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kinh ban bảo chiếu đàm
76
ân, lễ long đăng trật trứ phong vi Quang ý dực bảo trung hưng trung đẳng thần.
Đặc chuẩn phụng sự thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân.
Khâm tai!
Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa: sắc xã Lựu Phố, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định phụng thờ tôn
thần đại vương Thái sư triều Trần có võ công rực rỡ, linh thiêng ứng nghiệm, hiểu
biết sâu rộng, giúp nước cứu dân linh ứng rõ rệt. Nay gặp dịp Trẫm mừng thọ 40
tuổi, đã ban ơn tặng bảo chiểu, long trọng làm lễ tăng thưởng phẩm trật, phong
tặng rõ ràng là thần trung đẳng tốt đẹp vẻ vang, phò giúp cơ đồ thịnh trị. Đặc biệt
chuẩn cho phụng thờ thần, thần sẽ che chở, bảo vệ dân ta.
Kính thay!
Ngày 25 thảng 7 năm Khải Định 9 (1924).
+ Sắc xã Lựu Phố, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định phụng thờ tôn thần đại vương
Trần Hưng Đạo. Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định 9 (1924) ban sắc.
Phiên âm:
Sắc Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Lựu Phố xã phụng sự Trần triều hiển
thánh Hưng Đạo đại vương tôn thần, hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng. Tứ kim
chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật,
trứ phong vi Trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Chuẩn kỳ phụng sự
thần kỳ tưcmg hựu bảo ngã lê dân.
Khâm tai!
Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc xã Lựu Phố, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định theo trước phụng thờ tôn
thần Hưng Đạo đại vương, thánh sáng triều Trần, giúp nước cứu dân, linh thiêng
ứng nghiệm rõ rệt. Nay gặp dịp Trẫm mừng thọ 40 tuổi, đã ban ơn tặng bảo chiếu,
long trọng làm lễ tăng thưởng phẩm trật, phong tặng rõ ràng là thần thượng đẳng
tài giỏi lớn lao, phò giúp cơ đồ nước nhà thịnh trị. Chuẩn cho phụng thờ thần, thần
sẽ che chở bảo vệ dân ta.
Kính thay!
77
Ngày 25 thảng 7 năm Khải Định 9 (1924)
+ Sắc xã Lựu Phố, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định phụng thờ tôn thần đỗ Đệ nhất
giáp triều Lê, Hà Nhân Giả. Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định 9 (1924) ban sắc.
Phiên âm:
Sắc Nam Định tỉnh, Mỳ Lộc huyện, Lựu Phố xã tòng tiền phụng sự nguyên
tặng dục bảo trung hưng linh phù Lê triều Đệ nhất giáp Hà Nhân Giả tôn thần, hộ
quốc tí dân nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc phong chuẩn hứa phụng sự.
Tứ kim chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long
đăng trật, trứ gia tặng Quang ý trung đắng thần, đặc chuẩn phụng sự dụng chí
quốc khánh nhi thân tự điển.
Khâm tai!
Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật
Dịch nghĩa:
Sắc xã Lựu Phổ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định theo trước phụng thờ vị
thần vốn được tặng là tôn thần Hà Nhân Giả đỗ Đệ nhất giáp triều Lê, linh thiêng
phò giúp cơ đồ nước nhà thịnh trị, giúp nước cứu dân linh thiêng ứng nghiệm rõ
rệt, đã từng ban cấp sắc phong chuẩn cho phụng thờ. Nay gặp dịp Trẫm mừng thọ
40 tuổi, đã ban ơn tặng bảo chiếu, long trọng làm lễ tăng thưởng phẩm trật, ban
tặng thêm rõ ràng là thần trung đẳng tốt đẹp vẻ vang. Đặc biệt chuẩn cho phụng
thờ dùng để ghi sự vui của nước mà tỏ rõ ở sách thờ.
Kính thay!
Ngày 25 thảng 7 năm Khải Định 9 (1924)
+ Nhân dân thôn Lựu Phố còn giữ được đạo sắc phong triều vua Duy Tân thứ 5
(1911) phong cho xã Lựu Phố huyện Mỳ Lộc tỉnh Nam Định tôn thờ Tiên Thiên
Bạch Hoa công chúa.
Phiên âm:
Sắc Nam Định tỉnh, Mỹ Lộc huyện, Lựu Phố xã phụng sự Thiên tiên Bạch
Hoa công chúa chi thần, hộ quổc tí dân nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị mông ban
cấp sắc văn. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh, diến niệm thần hưu, trứ phong vi Nhàn

78
uyển dực bảo trung hưng chi thần. Đặc chuẩn y cựu phụng sự thần kỳ tương hựu
bảo ngã lê dân.
Khâm tai!
Duy Tân ngũ niên nhuận lục nguyệt, sơ bát nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc xã Lựu Phố, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định phụng thờ tôn thần công
chúa Thiên tiên Bạch Hoa, giúp nước cứu dân linh thiêng ứng nghiệm rõ rệt. Từ
trước chưa được ban cấp sắc văn. Nay Trẫm được kế thừa mệnh lớn, tưởng nhớ
sâu xa sự tốt đẹp của thần, phong tặng rõ ràng là tôn thần yểu điệu nhún thuận,
phò giúp cơ đồ nước nhà thịnh trị. Đặc biệt chuẩn cho phụng thờ thần như cũ, thần
sẽ che chở bảo vệ dân ta.
Kính thay!
Ngày 8 tháng 6 nhuận, năm Duy Tân 5 (1911)
Văn tế trong lễ hội
Văn tế Trung Vũ vương Trần Thủ Độ
Ư vị tiền viết: Cung duy
Đại vương ư hoàng tộc nội, đương loạn thế trung. Thiếu cư thuyền
thượng, trưởng tại giang biên. Dĩ lương du tụ chúng bảo gia nhân nhân tịnh
phục, tương đại lược tứ phương phụ quốc xứ xứ quân an.
Hoặc ngôn hữu đắc thiên chi táng vị lịch binh nhung, hoặc giả vô thức địa
chi hình nan thành công đại. Lâm sự năng minh bỉ thử cổ khởi đa nhân, điều
binh tế nhận khứ lai kim hà hữu đối.
Trát dinh dĩ phụ cựu hoàng tuy cư cựu ấp, khước tặc lực phù kim thượng
phi vụ kim thì.
Vị tư công tư đức ư tiền niên, toại dĩ lễ dĩ thành tuân cổ lệ.
Cung vọng: Đại vương thiên trung quán sát phương dân, địa thượng tất
minh sở xứ. Trừ quan tham lại nhũng sách mao gia, tảo thứ phá tặc xam vu bạch
ốc. Đông tây nam bắc nan vọng sinh ương, lão thiếu gia viên quân Mông hóa vũ.

79
Kính cập hương trung linh dị tòng lai cứu hộ đồng lâm, hựu cáo tân cựu
sở cư tự cổ chứng tri bất khiếm. Lân mẫn hữu tinh thể thượng đế hiếu sinh chi
đức, phù trì bất tị thố hạ dân đồng tại dĩ an.
Cẩn cáo dĩ văn!
Dịch nghĩa: Tới trước linh vị mà kêu rằng: Kính trông Đại vương, ở
trong hoàng tộc, đang lúc loạn ly. Thuở nhỏ ngụ tại thuyền bè, lớn lên lại qua
sông nước. Dùng mưu hay tụ hội nhiều người khiến mọi nhà tình nguyện đi
theo, lời dụ phải các nơi giúp nước cho làng xóm trẻ già yên ổn.
Hoặc bảo rằng có mộ của trời cho, chưa trải thấu sao nơi trận mạc; hoặc ai
nói không hiểu miền đất hiểm, dễ đâu mà lập được công to. Đen việc xét rõ ràng
ta địch, xưa chẳng nhiều người; điêu quân từng hiểu thấu tiến lui, nay ai so
được?
Đóng dinh để giúp đỡ cựu hoàng, tại nơi cựu quán; chổng giặc hết lòng vì
kim thượng, đâu chỉ kim thì.
Vì nhớ đức nhớ công thuở trước; nên bày lời bày lễ nếp xưa.
Kính trông đại vương: ở trên trời soi rõ phương dân, nơi dưới đất xét
tường nhà cửa. Trừ bọn quan tham lại nhũng, quấy rối nhà tranh, quét quân
chuột phá cưóp vào, tại nơi xóm khố. Đe đông tây nam bắc, không dễ vào gây
vạ với ai, cho già trẻ ruộng vưòm, tất thảy được chở che không sót!
Xin kính cập: các bậc thiêng liêng nổi tiếng chốn quê hương, từ xưa cứu
giúp đều ra; còn kêu với chư vị cựu tân vẫn ở nơi gần gũi, thời cổ lại qua chớ
thiếu.
Thương xót hữu tình, thể đức hiếu sinh ngài thượng đế; phù trì tất cả,
khiến người quê quán được yên lành.
Kính cẩn bày lời, xin mong soi xét!
(Dương Văn Vượng dịch)

80
Phụ lục 3: Mẫu phiếu điều tra khảo sát của khách du lịch tại đền Lựu Phố
và kết quả.
Mẫu phiếu:
PHIẾU KHẢO SÁT

Phiếu khảo sát này được thiết lập để phục vụ công tác nghiên cứu về nhu
cầu khách du lịch tại đền Lựu Phố. Tôi cam kết rằng những thông tin anh/chị cung
cấp sẽ được xử lý và báo cáo nhằm mục đích đưa ra số liệu cụ thể từ đó đề ra
những giải pháp để phát triển du lịch tại đền Lựu Phố, xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ
Lộc, tỉnh Nam Định. Tôi rất mong nhận được sự hợp tác, giúp đỡ của anh/chị.

Các câu hỏi khảo sát

Khoanh tròn vào ý kiến của anh/chị

1. Mục đích chuyến đi tham quan đền Lựu Phố của anh/chị?
A. Du lịch thăm thân B. Du lịch thuần túy (lễ hội, tham
quan, giải trí…)
C. Du lịch công vụ D. Du lịch học tập nghiên cứu
2. Thời gian anh/chị đi du lịch tại đền Lựu Phố?
A. Dịp lễ hội đền Lựu Phố B. Nghỉ hè
C. Cuối tuần D. Thời gian rảnh
3. Anh/chị hãy đánh giá về mức độ hấp dẫn tại đền Lựu Phố.
A. Không hấp dẫn B. Rất hấp dẫn
C. Hấp dẫn

Xin chân thành cảm ơn!

81
Bảng 1: Mục đích chuyến đi của khách du lịch
Đơn vị: %

Mục đích chuyến đi Tổng phiếu Tỉ lệ (%)

Du lịch thăm thân 2 4

Du lịch thuần túy 40 80

Du lịch công vụ 3 6

Du lịch học tập – nghiên cứu 5 10

Tổng 50 100
(Nguồn: Điều tra bằng phiếu điều tra tại đền Lựu Phố)

Bảng 2: Thời gian du lịch của khách du lịch tại đền Lựu Phố
Đơn vị: %

Thời gian Tổng phiếu Tỷ lệ

Dịp lễ hội 31 62

Nghỉ hè 12 24

Cuối tuần 5 10

Thời gian rảnh 2 4

Tổng 50 100
(Nguồn: Điều tra bằng phiếu điều tra tại đền Lựu Phố)

82
Bảng 3: Mức độ hấp dẫn của đền Lựu Phố đối với khách du lịch
Đơn vị: %

Mức độ Số phiếu Tỷ lệ (%)

Không hấp dẫn 5 10

Hấp dẫn 41 82

Rất hấp dẫn 4 8

Tổng 50 100

(Nguồn: Điều tra bằng phiếu điều tra tại đền Lựu Phố)

83
Phụ lục 4: Một số hình ảnh tại đền Lựu Phố

Hình 1: Nghi môn đền Lựu Phố

Hình 2: Đền Lựu Phố


84
Hình 3: Ban thờ Công đồng triều Trần

Hình 4: Ban thờ Thái sư Trần Thủ Độ

85
Hình 5: Ban thờ quan văn

Hình 6: Ban thờ quan võ

86
Hình 7: Ban thờ Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung

Hình 8: Họa tiết trên cửa tại tòa chính cung

87
Hình 9: Cửa theo lối kiến trúc xưa tại đền Lựu Phố

Hình 10: Trang trí hình rồng tại khung gỗ mái tòa tiền đường và trung đường

88
Hình 11: Phần khung mái tại tòa tiền đường

Hình 12: Họa tiết hoa sen được chạm khắc ở chân cột cái

89
Hình 13: Thông tin nhân vật lịch sử được thờ trong đền

90
LVTN 07
TRƯỜNGĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆPHÀNỘI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHOA DU LỊCH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

PHIẾU
THEO DÕI TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐA/KLTN

Tên đề tài: Khai thác giá trị di tích và lễ hội đền Lựu Phố gắn với phát triển du
lịch ở tỉnh Nam Định
Họ tên sinh viên: Bùi Thị Họa My Mã SV: 2017604866
Lớp: Việt Nam học 02 Ngành: Việt Nam học Khóa: 12
Ngày kiểm
Tuần Kết quả đạt được Nhận xét của CBHD
tra
1
2
3
4

Kiểm tra của Bộ môn □ Được tiếp tục


□ Không tiếp tục Ngày: ……………………………..
Đánh giá kết quả đạt được: …….%.
TBM:………………………………………………….

Đánh giá chung:


.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Cho phép sinh viên bảo vệ ĐA/KLTN: □ Có □ Không

Hà Nội, ngày … tháng… năm 20…


GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

91

You might also like