Professional Documents
Culture Documents
Đánh giá
STT HỌ VÀ TÊN Ghi chú
Mức độ hoàn
Thang điểm
thiện
của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao
động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.”
Tình huống trên không nêu rõ công ty V có đóng BHTN đầy đủ cho ông Hồng hay
không. Trong trường hợp công ty V đã đóng đầy đủ các khoản bảo hiểm thất nghiệp
cho ông Hồng hằng tháng thì thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp của ông Hồng
được tính từ ngày 1/1/2009 đến ngày 3/12/2015, còn thời gian ông Hồng không tham
gia BHTN là 3 tháng vì ông bắt đầu làm việc từ tháng 10/2008. Như vậy, thời gian ông
Hồng không tham gia BHTN là 3 tháng. Do ông Hồng làm việc cho công ty V đã hơn
12 tháng do đó công ty V có nghĩa vụ phải thanh toán trợ cấp thôi việc của 3 tháng cho
ông Hồng.
Căn cứ khoản 5 Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP về tiền lương để tính trợ cấp
thôi việc là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi
người lao động thôi việc. Vì vậy, số tiền trợ cấp thôi việc bằng tổng 6 tháng liền kề (tính
từ tháng 6/2015 đến tháng 11/2015) chia 6 được tiền lương bình quân mà ông Hồng có
thể nhận.
- Về tiền thù lao Hội đồng quản trị do Công ty V chi trả:
BLLĐ 2019 không quy định về thù lao Hội đồng quản trị. Điểm a khoản 2 Điều
163 của Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về Tiền lương, thù lao, thưởng và lợi ích
khác của thành viên Hội đồng quản trị như sau:
“Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì tiền lương, thù lao, thưởng
và lợi ích khác của thành viên Hội đồng quản trị được trả theo quy định sau đây:
a) Thành viên Hội đồng quản trị được hưởng thù lao công việc và thưởng. Thù lao
công việc được tính theo số ngày công cần thiết hoàn thành nhiệm vụ của thành viên
Hội đồng quản trị và mức thù lao mỗi ngày. Hội đồng quản trị dự tính mức thù lao cho
từng thành viên theo nguyên tắc nhất trí. Tổng mức thù lao và thưởng của Hội đồng
quản trị do Đại hội đồng cổ đông quyết định tại cuộc họp thường niên”.
Theo quy định trên, nếu Điều lệ của Công ty V. không có quy định khác so với Luật
Doanh nghiệp thì ông Hồng được hưởng tiền thù lao công việc khi ông là thành viên
Hội đồng quản trị của Công ty V và chưa được Công ty V chi trả hết thù lao trước thời
điểm yêu cầu.
3
(ii) Tự ý mua hàng đắt hơn so với giá khảo sát đối với các mặt hàng: Bảng tên
nhân viên, số phòng Mica, In mark nhôm, lắc khóa tròn. Với hành vi này, Công ty có
thể áp dụng biện pháp khấu trừ tiền lương đối với ông Thanh, bởi việc mua hàng đắt
hơn so với giá khảo sát mà không thông báo trước với Công ty là đã gây ra thiệt hại về
tài sản cho Công ty theo Điều 129 BLLĐ 2019. Do đó, ông Thanh phải bồi thường
thiệt hại cho Công ty và Công ty có thể áp dụng biện pháp khấu trừ tiền lương của ông
Thanh cho thiệt hại này.
2. Các yêu cầu trên đây của ông Thanh được giải quyết như thế nào?
Yêu cầu thanh toán cho ông tiền lương tháng 3/2016; 13 ngày công tháng 4/2016
số tiền làm tròn 60.000.000 đồng như Công ty đã xác nhận sẽ không được chấp nhận.
Bởi còn phải trừ số tiền mà ông Thanh phải bồi thường thiệt hại cho Công ty vì hành vi
tự ý mua hàng đắt hơn so với giá khảo sát đối với các mặt hàng. Do đó, số tiền lương
ông Thanh được nhận sẽ nhỏ hơn 60.000.000 đồng.
Yêu cầu thanh toán số tiền lãi chậm trả theo quy định pháp luật, tính từ ngày
13/4/2016 đến ngày xét xử là đúng pháp luật bởi theo khoản 1 Điều 94 BLLĐ 2019
Nguyên tắc trả lương: “Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng
hạn cho người lao động”. Đồng thời, tại khoản 4 Điều 97 BLLĐ 2019 cũng quy định:
“Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện
pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày;
nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho
người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi
suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động
mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương”.
Trong tình huống này, Công ty S không có lý do bất khả kháng để chậm trả lương
cho ông Thanh, cho nên, Công ty S phải trả tiền lãi chậm trả theo quy định pháp luật,
tính từ ngày 13/4/2016 (là ngày chính thức ông Thanh nghỉ việc) đến ngày xét xử.
5
nhiệm. Tại HĐLĐ số 30/VP-HĐLĐ ngày 18/6/2012 được ký giữa Công ty G với ông
Quang không nêu rõ hợp đồng này là HĐLĐ có thời hạn hay không có thời hạn.
+ Trường hợp khi HĐLĐ giữa ông Quang và công ty G chưa kết thúc, ông Quang
vẫn là nhân viên của công ty G nên xét về nguyên tắc trả lương thì Công ty G có nghĩa
vụ phải trả lương đầy đủ đúng hạn cho ông Quang theo Điều 94 BLLĐ 2019: “1. Người
sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động.” và
Khoản 1 Điều 95 BLLĐ 2019: “1. Người sử dụng lao động trả lương cho người lao
động căn cứ vào tiền lương đã thỏa thuận, năng suất lao động và chất lượng thực hiện
công việc”. Về chế độ tiền lương của ông Quang - Phó Tổng giám đốc được quy định
tại Nghị quyết số 07 của HĐTV. Ông C với chức danh là Tổng giám đốc Công ty G có
nghĩa vụ tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐTV theo điểm a Khoản 2 Điều 82 LDN
2020. Nếu trong trường hợp này, ông Lee Dong C muốn thay đổi phương án trả lương
với chức danh Phó Tổng giám đốc thì chỉ có quyền kiến nghị và HĐTV sẽ quyết định
xem xét theo điểm i khoản 2 Điều 82 LDN 2020, trên cơ sở quyết định của HĐTV thì
ông C mới có quyền thực hiện. Tình huống còn cho biết, HĐTV và Ban điều hành của
Công ty không có quyết định nào về việc thay đổi chế độ tiền lương, thưởng, phụ cấp
và các chế độ khác của mọi người lao động. Như vậy, ông C không có cơ sở nào tự ý ra
chỉ thị không trả lương cho ông Quang.
+ Trường hợp khi HĐLĐ của ông Quang với công ty hết hạn vào tháng 9/2014
nên ông Lee Dong C ra chỉ thị không trả lương cho công Quang từ 9/2014 cũng không
đúng. Bởi khi hết hạn hợp đồng lao động, các bên phải giao kết hợp đồng mới, sau 30
ngày nếu không giao kết hợp đồng mới và ông Quang vẫn đang tiếp tục làm việc cho
công ty thì HĐLĐ chuẩn bị kí kết sẽ trở thành HĐLĐ không xác định thời hạn. Như
vậy, ông Quang vẫn làm việc cho công ty do đó ông Quang vẫn được hưởng lương theo
quy định tại Nghị quyết số 07 của HĐTV trên cơ sở các nguyên tắc trả lương tại khoản
1 Điều 94 BLLĐ 2019.
Ông Quang buộc Công ty G thực hiện việc trả lương từ tháng 9/2014 đến ngày
xét xử sơ thẩm (20/5/2015). Yêu cầu này của ông Quang có cơ sở được chấp nhận nếu
tính đến ngày xét xử sơ thẩm ông Quang vẫn đang làm việc tại Công ty G và ông Quang
phải cung cấp được bằng chứng rằng mình vẫn còn làm việc tại công ty dù từ tháng
9/2014 đã không được nhận lương. Trường hợp ông Quang không còn làm việc tại ông
Quang chỉ có thể yêu cầu công ty thanh toán lương theo thời gian làm việc thực tế của
ông Quang chứ không được yêu cầu tính đến ngày xét xử sơ thẩm.
Bên cạnh đó, nhóm em nhận thấy tranh chấp về tiền lương trong tình huống này tranh
chấp lao động cá nhân phát sinh giữa NLĐ và NSDLĐ, cụ thể là ông Bùi Quang với
công ty G. Căn cứ khoản 1 Điều 188 BLLĐ 2019 phải được giải quyết thông qua thủ
8
tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động
hoặc Tòa án giải quyết vì tranh chấp này không thuộc các trường hợp không bắt buộc
phải qua thủ tục hòa giải. Trong tình huống này không nói rõ ông Quang có thông qua
thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện hay không. Trong trường hợp hòa giải không thành
căn cứ theo Khoản 7 Điều 188 BLLĐ 2019 thì ông Quang mới có thể khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết.
2. Yêu cầu trả các khoản tiền thưởng tháng, quý của ông Quang được chấp nhận
hay không? Vì sao?
Theo Điều 104 BLLĐ 2019 quy định về tiền thưởng thì Công ty sẽ căn cứ vào
kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của ông Quang để chi trả
các khoản tiền thưởng tháng, quý. Đồng thời, trong Nghị quyết số 07/HĐTV..., đã thống
nhất tại mục 4 ghi: “tiền thưởng 500 USD/tháng; hoàn thành công việc được giao
300USD/tháng; tiền thưởng quý (3 tháng) 1.500 USD/quý,...”. Tuy nhiên, quy định này
cũng chưa nêu rõ điều kiện được hưởng khoản tiền thưởng này.
Theo đề, trước khi xảy ra vụ việc, ông Quang vẫn làm việc bình thường. Từ khi
xác lập HĐLĐ với Công ty G là từ năm 2012 đến 2014, ông Quang vẫn chưa được nhận
khoản tiền thưởng nào từ Công ty G nhưng hàng năm thì Tổng giám đốc, Phó tổng giám
đốc người nước ngoài lại được nhận đầy đủ các khoản thưởng hàng tháng, quý và Tết
Dương lịch. Để có căn cứ yêu cầu Công ty trả khoản tiền thưởng này, ông Quang phải
cung cấp bằng chứng chứng minh đã thỏa các điều kiện để nhận thưởng như ông đã
hoàn thành công việc được giao tốt hay rất tốt, đáp ứng yêu cầu của nội quy Công ty G
đặt ra để làm căn cứ yêu cầu được nhận khoản tiền thưởng này. Đồng thời, Hội đồng
thành viên cũng chưa lần nào tổ chức cuộc họp hoặc lập biên bản đánh giá về việc hoàn
thành tốt công việc hay không mà đã không trả khoản tiền này cho ông Quang là không
hợp lý. Vì vậy, yêu cầu này của ông Quang là có căn cứ được chấp nhận.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Lao động năm 2019, được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày
20/11/2019 tại kỳ họp thứ 8 theo Luật số 45/2019/QH14.
2. Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Bộ luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao đông.