You are on page 1of 25

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ

THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ


Lời mở đầu
Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới muốn có nền kinh tế phát triển nhất thiết phải
quan tâm đến vấn đề mấu chốt là đầu tư. Tuy nhiên, để đầu tư đạt mục tiêu đề ra, tạo
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời mang lại lợi ích cho nhà đầu tư thì một
trong những khâu quan trọng là phải tiến hành lập dự án đầu tư và thẩm định dự án
đầu tư một cách khoa học. Thẩm định dự án là công việc cần phải thực hiện trước khi
ra quyết định đầu tư, quyết định tài trợ hay cấp giấy phép đầu tư đối với bất kỳ dự án
nào. Một dự án đầu tư sẽ có nhiều chủ thể cùng tham gia vào với các mục đích khác
nhau. Do đó, các quan điểm thẩm định dự án của các chủ thể này cũng khác nhau
Trong chương này, chúng ta sẽ hiểu được dự án đầu tư là gì, nội dung cơ bản của một
dự án và một số loại dự án. Tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu thẩm định dự án là gì?
vai trò của thẩm định dự án trước khi ra quyết định cũng như những nội dung phải
thực hiện trong quá trình thẩm định dự án và các quan điểm thẩm định dự án.
1.1 TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1.1 Khái niệm dự án đầu tư:
Mặc dù thuật ngữ “Dự án đầu tư” (DAĐT) thường được nhắc đến và sử dụng
nhiều nhưng đến nay chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh. Tuỳ theo giác độ xem xét,
nghiên cứu mà người ta đưa ra những khái niệm về dự án.
Ngân hàng thế giới (WB), một định chế tài chính đa quốc gia rất nổi tiếng trong
lĩnh vực tài trợ dự án ở khắp nơi trên thế giới đã nêu ra khái niệm về DAĐT như sau:
“DAĐT là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được
hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định”.
Theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định số
52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 thì DAĐT được hiểu là: “Một tập hợp những đề xuất
có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng
sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định”.
Theo Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam ban hành thì “Dự án là một tập hợp đề xuất về nhu cầu vốn,

1
cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được trong một khoảng thời gian xác
định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc
phục vụ đời sống”.
Như vậy, từ các định nghĩa hay khái niệm trên cho thấy một dự án đầu tư phải
bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
- Các mục tiêu mà dự án cần phải đạt được: Mục tiêu sẽ khác nhau theo các dự
án khác nhau. Suy cho cùng thì các mục tiêu này bao gồm hai nhóm mục tiêu: (1)
Mục tiêu của các dự án sản xuất kinh doanh thông thường có thể là tối đa hoá lợi
nhuận. (2) Trong khi đó mục tiêu của các dự án công cộng là đảm bảo lợi ích kinh tế -
xã hội.
- Phải được hoàn thành trong một khoảng thời gian nhất định: Khoảng thời gian
này thường được gọi là chu trình dự án và nó được diễn ra qua các giai đoạn như sau:
Nghiên cứu cơ hội đầu tư – Nghiên cứu tiền khả thi và/hoặc khả thi – Thực hiện dự án
– Vận hành dự án – Kết thúc dự án.
- Phải có đủ vốn: Để thực hiện dự án, trước hết các chủ đầu tư phải huy động
được vốn đầu tư ban đầu, bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay. Vốn đầu tư ban đầu
này được sử dụng để trang trải các khoản chi phí đầu tư ban đầu bao gồm: chi phí
chuẩn bị đầu tư, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, chi phí xây dựng, lắp đặt thiết bị và VLĐ ban đầu cho dự án. Vốn đầu tư ban đầu
bỏ ra có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau như: tiền, giấy tờ có giá,
bất động sản, máy móc thiết bị, tài sản vô hình, v.v.; Vì vậy, các chính sách, giải
pháp, đề xuất về nguồn vốn đầu tư, các nguồn lực cần thiết để thực hiện dự án được
hoạch định, lập kế hoạch và tính toán cụ thể.
Đối với các dự án tư nhân, ba yếu tố này có tầm quan trọng như nhau. Ngược
lại, đối với dự án Nhà nước, thì yếu tố mục tiêu và kỳ hạn quan trọng hơn yếu tố vốn.
Bởi vì, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô sẽ không khó khăn lắm khi tạo vốn cho dự
án. Ví dụ về một dự án cụ thể: Dự án Thuỷ điện Trung Sơn
+ Tổng mức đầu tư: 411,57 triệu đô la Mỹ nằm ở vùng Tây Bắc
+ Nguồn vốn: Vốn tự có và vay Ngân hàng Thế giới
+ Mục tiêu của dự án: Dự án Thủy điện Trung Sơn sẽ giúp Việt Nam đảm bảo
an ninh năng lượng bằng cách bổ sung thêm 260MW công suất phát điện đáp

2
ứng chương trình mở rộng hệ thống điện sẽ giúp Việt Nam đảm bảo an ninh
năng lượng bằng cách bổ sung thêm 260MW công suất phát điện đáp ứng
chương trình mở rộng hệ thống điện. Nó cũng giúp đáp ứng nhu cầu sử dụng
năng lượng của Việt Nam khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ hơn 7%/năm
trong suốt những năm qua.
+ Thời gian thực hiện dự án: Trong 4 năm
1.1.2 Đặc điểm của dự án đầu tư
Có thể tổng hợp các đặc trưng cơ bản của một dự án như sau:
Dự án có chu kỳ phát triển riêng và có thời gian tồn tại hữu hạn. Nói cách khác,
vòng đời của dự a đầu tư giới hạn với thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc xác
định. Dự án luôn bị ràng buộc bởi bốn yếu tố về nguồn lực, thời hạn, ngân sách và kết
quả.
Dự án có tính bất định và độ rủi ro cao do đặc điểm mang tính dài hạn của hoạt
động đầu tư phát triển. Trong đó, bao gồm những thay đổi và rủi ro do bản thân dự án
gây ra cũng như do các yếu tố bên ngoài gây ra.
Dự án là sản phẩm duy nhất. Do tính chất duy nhất, các dự án đầu tư đều có
những đặc điểm riêng, đòi hỏi những nghiên cứu phân tích chuyên sâu để có thể đưa
ra những quyết định phù hợp. Vì vậy, dự án không phải là một dự định hay phác thảo
mà có tính cụ thể và mục tiêu xác định nhằm đáp ứng một nhu cầu chuyên biệt.
Quá trình thực hiện dự án đòi hỏi có sự tham gia của nhiều bên như: Chủ đầu
tư, các cơ quan quản lý Nhà nước, đối tác tiêu thụ sản phẩm, đối tác cung cấp nguyên
liệu, người soạn thảo dự án, nhà thầu tư vấn xây dựng, nhà thầu thi công xây dựng.
1.1.3 Yêu cầu của một dự án đầu tư
Khi soạn thảo một dự án đầu tư, người viết phải đảm bảo đạt được các yêu cầu
sau đây:
Tính pháp lý: Dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với chính
sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự án phải nghiên
cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản luật pháp có liên quan
đến các hoạt động đầu tư đó để không vi phạm an ninh, quốc phòng, môi trường,
thuần phong mỹ tục và phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của
vùng.

3
Tính khoa học thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau: (1) Về số liệu thông
tin: Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải đảm bảo trung thực, chính xác,
tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất xứ của những thông tin và những số
liệu đã thu thập được (do các cơ quan có trách nhiệm cung cấp, nghiên cứu tìm hiểu
thực tế... (2) Phương pháp phân tích phải logic, chặt chẽ và hợp lý: Các nội dung của
dự án không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất,
đồng bộ. Ví dụ, vấn đề mối quan hệ giữa các yếu tố thị trường, kỹ thuật và tài chính
của dự án; (3) Về phương pháp tính toán: Khối lượng tính toán trong một dự án
thường rất lớn. Do đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo dễ hiểu và
chính xác. Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích
thước, tỷ lệ.
Tính thực tiễn: thể hiện ở khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Các nội
dung, khía cạnh phân tích của dự án đầu tư không thể chung chung mà dựa trên
những căn cứ thực tế phải được xây dựng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về mặt
bằng, thị trường, vốn... Ngoài ra, bất kỳ một dự án đầu tư nào cũng có yêu cầu về tính
hiệu quả của dự án được thể hiện thông qua hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã
hội mà dự án mang lại.
Tính thống nhất: Lập và thực hiện dự án đầu tư là cả một quá trình gian nan,
phức tạp. Đó không phải là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó liên quan đến
nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, các nhà tài
trợ... Dự án phải tuân thủ các quy định chung của cơ quan chức năng.
1.1.4 Vai trò của dự án đầu tư
- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: DAĐT là cơ sở để các cấp có thẩm
quyền xét duyệt, cấp giấy phép đầu tư, quyết định tài trợ vốn… Là căn cứ pháp lý để
toà án xem xét, giải quyết khi có sự tranh chấp giữa các bên tham gia đầu tư trong quá
trình thực hiện dự án sau này.
- Đối với chủ đầu tư: Là một căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết định có
nên tiến hành đầu tư dự án hay không; Công cụ để tìm đối tác trong và ngoài nước
liên doanh bỏ vốn đầu tư cho dự án; Phương tiện để chủ đầu tư thuyết phục các tổ
chức tài chính tiền tệ trong và ngoài nước tài trợ hoặc cho vay vốn; Cơ sở để xây
dựng kế hoạch thực hiện đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện dự

4
án; Cơ sở để xin phép được nhập khẩu máy móc thiết bị, xin hưởng các khoản ưu đãi
trong đầu tư; Căn cứ quan trọng để xem xét các mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên tham gia trong dự án.
- Đối với nhà tài trợ: DAĐT là căn cứ quan trọng để các cơ quan này xem xét
tính khả thi của dự án, từ đó sẽ đưa ra quyết định có nên tài trợ cho dự án hay không
và nếu tài trợ thì tài trợ đến mức độ nào để đảm bảo rủi ro ít nhất cho nhà tài trợ.
1.1.5 Phân loại dự án đầu tư
Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư tuỳ theo mục đích, tính chất, quy mô, đặc
điểm và mức độ phức tạp. Sau đây là các tiêu thức phân loại DAĐT thường được sử
dụng trong thực tế:
1.1.5.1 Căn cứ vào mối quan hệ giữa các dự án
Căn cứ vào mối quan hệ giữa các dự án, người ta chia chúng ra làm ba nhóm dự
án: dự án đầu tư độc lập, dự án đầu tư phụ thuộc và dự án đầu tư loại trừ.
- Dự án đầu tư độc lập: là những dự án có thể tiến hành đồng thời. Việc chấp
nhận hay loại bỏ dự án này không ảnh hưởng đến dự án khác.
- Dự án phụ thuộc: Hai dự án được gọi là phụ thuộc lẫn nhau khi dòng tiền của
dự án này sẽ chịu ảnh hưởng bởi quyết định đầu tư của dự án khác. Hay quyết định
đầu tư của dự án này sẽ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của dự án khác và ngược
lại. Ví dụ về hai dự án phụ thuộc về mặt kinh tế với nhau là việc phát triển điện thoại
di động và việc phát triển phần mềm bổ sung. Phần mềm tốt có khả năng làm tăng
doanh số của điện thoại di động về mặt sử dụng và điện thoại di động cũng có khả
năng làm gia tăng mức cầu đối với phần mềm của nó.
- Dự án loại trừ lẫn (thay thế): là những dự án không thể tiến hành đồng thời.
Nếu hai dự án loại trừ nhau thì khi quyết định thực hiện dự án này sẽ loại bỏ việc thực
hiện dự án kia. Ví dụ, việc doanh nghiệp cân nhắc là có nên mua sắm thêm một thiết
bị nữa hay phải thuê dài hạn có lợi hơn.
Việc phân loại các DAĐT theo tiêu thức mối quan hệ của dự án sẽ giúp cho
người có thẩm quyền ra quyết định đầu tư lựa chọn được các DAĐT tối ưu nhất.
1.1.5.2. Căn cứ vào tầm quan trọng và quy mô xây dựng công trình
Căn cứ vào quy mô vốn đầu tư ban đầu, tầm quan trọng của dự án, diện tích đất
sử dụng, số lao động dự án tạo ra người ta chia dự án thành:

5
- Dự án cấp quốc gia: Là dự án do Quốc hội thông qua chủ trương và cho phép
đầu tư. Đây là những dự án mang tầm chiến lược quốc gia và quốc tế. Căn cứ theo
Nghị định số 11/2006/NĐCP, Dự án, công trình có một trong năm tiêu chí sau đây là
dự án, công trình quốc gia:
1. Quy mô đầu tư từ hai mươi nghìn tỷ đồng Việt Nam trở lên đối với dự án công
trình có sử dụng từ ba mươi phần trăm vốn Nhà nước trở lên.
2. Dự án có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng đến
môi trường, bao gồm:
a) Nhà máy điện hạt nhân;
b) Dự án đầu tư sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng
hộ đầu nguồn từ hai trăm ha trở lên; đất rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển từ năm
trăm ha trở lên; đất rừng đặc dụng từ hai trăm ha trở lên, trừ đất rừng là vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên; đất rừng sản xuất từ một nghìn ha trở lên.
3. Dự án, công trình phải di dân tái định cư từ hai mươi nghìn người trở lên ở
miền núi, từ năm mươi nghìn người trở lên ở các vùng khác.
4. Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về
quốc phòng, an ninh hoặc có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử,
văn hóa.
5. Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được
Quốc hội quyết định.
Ví dụ dự án cấp quốc gia: Dự án Đường cao tốc TP HCM – Long Thành – Dầu
Dây và Long Thành – Vũng Tàu.
- Dự án nhóm A: Là những dự án thuộc thẩm quyền quyết định hoặc cho phép
đầu tư của Thủ tướng Chính phủ. Đây là các dự án lớn với tổng kinh phí lớn, số lượng
các bên tham gia nhiều, thời gian thực hiện dự án dài và ảnh hưởng đến môi trường
kinh tế và sinh thái.
- Dự án nhóm B: Tương tự như dự án lớn nhưng với quy mô nhỏ hơn. Thường là
những dự án do tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan Bộ và ngang Bộ phê
duyệt và thống nhất quản lý.
- Dự án nhóm C: Là những dự án thuộc thầm quyền quyết định định hoặc cho
phép đầu tư của Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố.

6
1.1.5.3. Căn cứ vào hình thức đầu tư
Theo tiêu thức phân loại này, các DAĐT được phân thành ba loại như sau:
-  DAĐT mới: Là DAĐT lần đầu tiên được chủ đầu tư thực hiện gắn liền với việc
thành lập DNDA để quản lý và vận hành khi dự án đi vào hoạt động; Đặc điểm của
hoạt động đầu tư này đòi hỏi một lượng vốn khá lớn, trình độ công nghệ và bộ máy
quản lý mới.
-  DAĐT mở rộng: Là việc thực hiện các DAĐT nâng cấp hay mở rộng công suất
trên cơ sở các DAĐT hiện đang trong giai đoạn vận hành của chủ đầu tư. Dự án đầu
tư mở rộng là dự án đầu tư phát triển dự án đầu tư đang thực hiện nhằm mở rộng quy
mô sản xuất (tăng sản lượng nhưng không tăng năng suất), dựa trên công nghệ đã có
từ trước.
- DAĐT chiều sâu: Là DAĐT nhằm mục đích cải tiến, nâng cao chất lượng sản
phẩm hàng hóa dịch vụ, hợp lý hóa quy trình sản xuất của chủ đầu tư. So với đầu tư
mới thì đầu tư chiều sâu đòi hỏi ít vốn hơn, thời gian thu hồi vốn nhanh, chi phí phí
cho công tác đào tạo lao động thấp vì những lao động này đã quen với công việc, bộ
máy quản lý hầu như không có sự thay đổi đáng kể. Là hoạt động đầu tư được thực
hiện trên cơ sở cải tạo nâng cao, đồng bộ hoá, hiện đại hoá, cơ sở vật chất kỹ thuật
máy móc thiết bị hiện có nhằm: tăng cường khối lượng sản xuất và nâng cao năng
suất và hiệu quả sản xuất hơn.
Việc phân loại các DAĐT theo tiêu thức hình thức đầu tư sẽ làm cơ sở cho việc
vận dụng nguyên tắc dự toán dòng tiền thích hợp cho từng loại DAĐT trên cơ sở
dòng tiền tăng thêm.
1.1.5.4. Căn cứ vào chủ thể thực hiện đầu tư
- Dự án đầu tư công: là các dự án do Chính phủ thực hiện chủ yếu là vì mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội.
- Dự án đầu tư tư nhân: là các dự án do khu vực tư nhân thực hiện nhằm vào mục
tiêu lợi ích tài chính.
- Dự án đầu tư liên kết giữa Nhà nước và tư nhân (Public Private Partnership-
PPP): là dự án liên kết lĩnh vực tư nhân và lĩnh vực Nhà nước nhằm kết hợp nhiệm
vụ của dịch vụ công với hiệu quả tài chính của một hay nhiều doanh nghiệp tư nhân.
Một số hình thức hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư: Dự án Xây

7
dựng – Hoạt động – Chuyển giao (còn được gọi là Dự án BOT); Dự án Xây dựng –
Chuyển giao – Hoạt động (còn được gọi là Dự án BTO); Dự án Xây dựng – chuyển
giao (còn được gọi là Dự án BT).

1.1.6 Chu trình của dự án đầu tư


Chu trình dự án là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua từ khi
dự án mới là ý định đầu tư cho đến khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng và chấm
dứt hoạt động. Ở mỗi giai đoạn, người ta thực hiện các bước, các công việc cụ thể
theo một trình tự nhất định hoặc đan xen nhau và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình thực hiện đầu tư. Chu trình dự án đầu tư bao gồm ba thời kỳ với bảy
giai đoạn cụ thể như sau:
Thời kỳ chuẩn bị đầu tư Thời kỳ thực hiện Thời kỳ kết thúc
đầu tư đầu tư
Nghiên Nghiên Nghiên Xây Dự án Đánh giá Thanh lý,
cứu cơ cứu tiền cứu khả dựng dự hoạt dự án sau phát triển
hội đầu khả thi thi án động thực hiện dự án
tư mới

1.1.6.1 Nghiên cứu cơ hội đầu tư


Xác định cơ hội đầu tư là giai đoạn đầu tiên, có nhiệm vụ phát hiện những lĩnh
vực có tiềm năng phù hợp với chủ đầu tư và tính bức thiết của dự án, để từ đó hình
thành ý tưởng về một dự án đầu tư. Để phát hiện các cơ hội đầu tư cần xuất phát từ
những căn cứ sau:
- Chiến lược phát triển ngành hay chiến lược phát triển kinh tế quốc gia, dự án có
phù hợp với địa phương không? Đây là căn cứ quan trọng để đảm bảo định hướng lâu
dài cho đầu tư phát triển.

8
- Đánh giá sơ bộ nhu cầu thị trường đối với sản phẩm, dịch vụ của dự án. Nhu cầu
ở hiện tại, nhu cầu trong tương lai và thị trường mục tiêu của dự án, cũng như mức độ
cạnh tranh trong thị trường.
- Đánh giá triển vọng của dự án và khả năng thực hiện của dự án. Hiện trạng của
sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ đó trên thị trường trong và ngoài nước. Tiềm
năng sẵn có cần và có thể khai thác để thực hiện dự án. Dự náy có phù hợp với
chuyên môn, chiến lược của công ty về vốn, kỹ thuật, lao động, kinh nghiệm quản lý
và đáp ứng được lợi ích của các bên tham gia: Chủ đầu tư, cơ quan quản lý, cổ đông
và ngân hàng. Điều này rất quan trọng vì trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
nào có ưu thế hơn sẽ có khả năng chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Từ đó, tìm ra những
lợi thế so sánh với thị trường nước ngoài, so với các địa phương, các đơn vị sản xuất
khác trong nước.
- Những kết quả về tài chính, kinh tế xã hội sẽ đạt được nếu thực hiện dự án. Hiệu
quả tài chính của dự án đó chính là lợi nhuận mà dự án mang lại cho nhà đầu tư. Bên
cạnh lợí ích tài chính, dự án sẽ góp phần tạo ra lợi ích cho cho nền kinh tế và xã hội.
Kết quả của bước nghiên cứu cơ hội đầu tư là báo cáo kinh tế - kỹ thuật, bao gồm
các nội dung sau:
(1) Giới thiệu sơ lược về dự án như mục tiêu và sự cần thiết của dự án;
- Tên dự án
- Sự cần thiết đầu tư
- Mục tiêu, nhiệm vụ của đầu tư
(2) Hình thức vốn đầu tư dự tính;
- Tổng vốn đầ tư cho dự án
- Vốn đầu tư cố định
- Vốn đầu tư lưu động
(3) Nguồn vốn đầu tư vào dự án;
- Nguồn vốn cấp phát
- Nguồn vốn tự có
- Nguồn vốn vay
- Vốn cổ phần, liên doanh
- Nguồn vốn khác

9
(4) Hiệu quả của dự án
- Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính
- Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội
(5) Kết luận về cơ hội đầu tư
Việc xác định và sàng lọc các ý tưởng về cơ hội đầu tư có ảnh hưởng quyết định
tới quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án.
1.1.6.2 Nghiên cứu tiền khả thi
Là nghiên cứu tất cả mọi phương diện của dự án nhằm đánh giá, lựa chọn dự án
đầu tư có triển vọng và phù hợp nhất với chủ đầu tư trong các cơ hội đưa ra và khẳng
định thêm lần nữa về tính khả thi của ý tưởng đầu tư ban đầu. Trong giai đoạn này
cũng nhằm nghiên cứu sâu một số nội dung mà chủ đầu tư hay người soạn thảo cho là
quan trọng và các thông tin thứ cấp, lạc quan thường được sử dụng.
Nghiên cứu tiền khả thi thường xuất hiện đối với những dự án có quy mô lớn,
mức độ phức tạp về công nghệ cao như những dự án trọng điểm cấp quốc gia. Ngược
lại có những dự án cần loại bỏ trong giai đoạn này bao gồm: Các dự án bấp bênh (về
thị trường, về kỹ thuật); Không thuộc loại ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh; Những dự án đầu tư mà kinh phí đầu tư quá
lớn, mức sinh lời không như kỳ vọng. Bên cạnh đó, có những dự án không cần nghiên
cứu tiền khả thi như: Đối với các cơ hội đầu tư quy mô nhỏ, không phức tạp về mặt
kỹ thuật, triển vọng đem lại hiệu quả rõ ràng.
Nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu tiền khả thi:
- Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư, các điều kiện thuận lợi và khó khăn trong
bối cảnh chung về kinh tế - xã hội, pháp luật, các điều kiện tư nhiên, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, các điều kiện pháp lý…
- Nghiên cứu thị trường: Phân tích thị trường, dự báo khả năng thâm nhập thị
trường sản phẩm của dự án, xác định phương án cho sản phẩm, hình thức đầu tư và
năng lực sản xuất.
- Nghiên cứu kỹ thuật: Xác định địa điểm của dự án đảm bảo sản xuất giảm chi
phí vận chuyển an toàn môi trường, công nghệ và kỹ thuật xây dựng và xác định các
yếu tố đầu vào của dự án và giải pháp cung cấp đầu vào của dự án. Trong đó, chú

10
trọng nghiên cứu nguồn cung cấp công nghệ, giá cả, vận hàng và tốc độ lạc hậu công
nghệ, thời gian thay thế..
- Nghiên cứu cơ cấu tổ chức quản lý và nhân sự của dự án: Tổ chức các phòng,
ban; số lượng lao động trực tiếp và gián tiếp, chi phí đào tạo tuyển dung.
- Phân tích về mặt tài chính của dự án: Xác định sơ bộ tổng mức đầu tư, phương
án huy động các nguồn vốn, khả năng hoàn trả nợ vay và dự tính các chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả tài chính của dự án.
- Tính toán sơ bộ hiệu quả đầu tư về mặt kinh tế xã hội của dự án: Các chỉ tiêu
phản ánh sự đóng góp của dự án cho nền kinh tế - xã hội như: đóng góp vào nguồn
thu ngân sách Nhà nước, tạo ra công ăn việc làm… từ đó làm gia tăng phúc lợi xã hội.
Tóm lại, từ việc nghiên cứu các nội dung trên trong giai đoạn này nhằm để trả lời
cho câu hỏi:
+ Dự án có khả thi về mặt tài chính và kinh tế xã hội trong suốt thời gian hoạt
động hay không?
+ Biến chủ yếu ảnh hưởng đến dự án là gì? Giá cả các yếu tố đầu vào hay giá
bán hàng hoá dịch vụ?
+ Các yếu tố rủi ro của dự án có nguyên nhân từ đâu và làm thế nào để giảm bớt
rủi ro.
Đây là giai đoạn thứ hai trong chu trình dự án. Chúng ta phải thực hiện nghiên
cứu bước này vì nghiên cứu khả thi rất tốn kém. Vì vậy, chỉ khi nào có kết luận về
nghiên cứu tiền khả thi có hiệu quả thì mới bắt đầu giai đoạn nghiên cứu khả thi. Sản
phẩm của nghiên cứu tiền khả thi là báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
1.1.6.3 Nghiên cứu khả thi
Sau khi tiến hành nghiên cứu tiền khả thi, chúng ta cần nghiên cứu để xem liệu
dự án có triển vọng đáp ứng được tiêu chuẩn về tài chính, kinh tế, xã hội trong suốt
tuổi thọ của nó không? Mục tiêu cuối cùng của giai đoạn này là phải trả lời được câu
hỏi “Quyết định đầu tư vào dự án có được đưa ra hay không?”. Ở Việt Nam, nghiên
cứu khả thi dự án đầu tư được gọi là luận chứng kinh tế kỹ thuật hay còn gọi là lập dự
án đầu tư.
Đây là quá trình nghiên cứu dự án một cách đầy đủ và toàn diện nhất, nhằm
chứng minh khả năng thực hiện dự án về tất cả các phương diện có liên quan. Đây là

11
bước sàng lọc lần cuối cùng để lựa chọn được dự án tối ưu. Nội dung nghiên cứu
cũng tương tư như giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, nhưng khác nhau ở mức độ chi
tiết hơn, chính xác hơn. Để tăng cường mức độ chính xác cho giai đoạn nghiên cứu
này, sẽ có yêu cầu thêm số liệu đặc biệt là số liệu sơ cấp và các khía cạnh nghiên cứu
đều được xem xét ở trạng thái động tức là có tính đến các yếu tố bất định có thể xảy
ra để tăng tính chính xác của việc phân tích. Chúng ta cũng tiến hành phân tích độ
nhạy để biết được các biến số chủ yếu nào đóng vai trò quyết định đối với kết quả dự
án. (Chẳng hạn, trong mô hình tài chính cơ sở giá mua nguyên liệu đầu vào là 20 triệu
đồng/tấn, khi nghiên cứu tiền khả thi người ta sử dụng giá 20 triệu đồng/tấn với ý
nghĩa là trong điều kiện thuận lợi nhất dự án sẽ đạt được kết quả như thế nào? Tuy
nhiên, trong nghiên cứu khả thi dữ liệu sơ cấp và dữ liệu có xu hướng “bi quan” được
sử dụng với ý nghĩa là trong điều kiện khó khăn nhất dự án sẽ đạt được kết quả ra
sao? Tiếp theo ví dụ trên, trong nghiên cứu khả thi chúng ta sử dụng giá 25 triệu/tấn).
Trên cơ sở biết được mức độ rủi ro của dự án, nhà đầu tư sẽ xem xét chi tiết các
phương án dự phòng, ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro đảm bảo cho dự án có hiệu quả.
Thực tiễn đã chứng minh vai trò của bước phân tích này trong giai đoạn soạn thảo dự
án. Chuẩn bị tốt và phân tích kỹ sẽ giảm những khó khăn trong giai đoạn thực hiện,
cũng như cho phép đánh giá đúng đắn hơn tính hiệu quả và khả năng thành công của
dự án.
Nội dung của bản dự án khả thi là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa của dự án tiền khả thi
với những căn cứ, số liệu đáng tin cậy nhằm đảm bảo khả năng khả thi cao cho dự án.
Kết quả nghiên cứu của giai đoạn này được cụ thể hoá trong báo cáo nghiên cứu
khả thi. Nội dung của báo cáo nghiên cứu khả thi được quy định chi tiết tại Nghị định
59/2015/NĐ – CP ngày 18/06/2015 Quản lý đầu tư và xây dựng.
Thời kỳ chuẩn bị dự án bao gồm các giai đoạn: nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên
cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi. Đối với các dự án có quy mô lớn và mức độ
phức tạp cao cần phải tiến hành tất cả ba giai đoạn trên nhằm đảm bảo cho các kết
quả nghiên cứu khả thi có độ chính xác cao, giảm thiểu chi phí không đáng có nếu dự
án không được chấp nhận, tăng mức độ chính xác trong việc ra quyết định.
1.1.6.4 Xây dựng dự án

12
Kết thúc thời kỳ chuẩn bị dự án, dự án khả thi đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt thì công việc tiếp theo là triển khai việc thiết kế chi tiết dự án và thực hiện dự
án. Trong giai đoạn này cần thực hiện các công việc sau:
Thiết kế chi tiết: Xác định rõ yêu cầu kỹ thuật: nhu cầu lao động kỹ thuật, hoàn
tất hồ sơ, bản vẽ thiết kế chi tiết và quy cách kỹ thuật cho việc xây dựng nhà xưởng,
trang thiết bị...; Lên kế hoạch và thời gian biểu thực hiện dự án, kế hoạch dự phòng
bất trắc,... để lên kế hoạch thực hiện chính thức.
Thực hiện dự án: Giai đoạn này bao gồm đàm phán, ký kết hợp đồng thi công,
hợp đồng cung ứng máy móc thiết bị nguyên vật liệu, năng lượng, hợp đồng lao động,
thiết lập dự toán thi công, thực hiện thi công công trình… và thành lập ban quản lý dự
án với trách nhiệm và quyền hạn được giao một cách rõ ràng. Sau khi hoàn tất giai
đoạn xây dựng, chủ đầu tư sẽ tiến hành chạy thử, nghiệm thu công trình, đưa vào sử
dụng và chuyển sang giai đoạn khai thác dự án.
1.1.6.5 Dự án hoạt động
Được tiến hành dựa trên cơ sở kết quả của các giai đoạn trước đó. Hiệu quả của
giai đoạn này phụ thuộc vào quá trình tổ chức hoạt động của chủ dự án. Sản phẩm của
giai đoạn này là sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ mà dự án sản xuất ra và cung ứng
trên thị trường. Khi dự án đi vào hoạt động cũng chính là lúc nhà đầu tư có nguồn thu
và khai thác những tài sản đã bỏ ra đầu tư.
1.1.6.6 Đánh gía dự án sau hoạt động
Đây là giai đoạn xem xét lại những gì dự án đã thực hiện được thông qua việc so
sánh với kết quả dự toán. Đánh giá hậu dự án nhằm xác định xem dự án có đạt được
mục tiêu đề ra hay không, xác định nguyên nhân của những tồn tại hạn chế và rút ra
kinh nghiệm về những thành công và thất bại của dự án. Từ việc xem xét dự án sau
hoạt động, có thể đánh giá kỹ năng lập và thẩm định dự án. Tuy nhiên, ở Việt Nam
giai đoạn này không được chú trọng, thường bị bỏ qua.
1.1.6.7 Thanh lý, phát triển dự án mới
Đây là giai đoạn cuối cùng trong vòng đời dự án và cũng là điểm bắt đầu cho việc
hình thành dự án mới. Dự án được thanh lý và phát triển dự án mới khi:
+ Dự án chấm dứt thời gian hoạt động
+ Khi dự án không còn hoạt động có hiệu quả do khả năng sinh lời thấp

13
+ Dự án cần được thanh lý để thực hiện những dự án khác có hiệu quả hơn.
1.2 TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.2.1 Thẩm định dự án đầu tư là gì?
Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét – đánh giá một cách khách quan, có cơ
sở khoa học và toàn diện trên các nội dung cơ bản liên quan trực tiếp đến thực hiện
dự án, đến tính hiệu quả và tính khả thi của dự án làm cơ sở để quyết định đầu tư, cấp
phép đầu tư hoặc tài trợ vốn cho dự án.
Các nội dung cơ bản có liên quan đến thực hiện dự án bao gồm phương diện thị
trường, kỹ thuật, nhân sự và quản lý thực hiện dự án, khả năng đứng vững về mặt tài
chính trong suốt đời sống hữu dụng của dự án. Khi thẩm định tài chính của dự án,
chúng ta dựa vào giá tài chính. Đây là giá các đầu vào và đầu ra thuộc chi phí và lợi
ích tài chính, được sử dụng trong phân tích dự án. Giá tài chính trong phân tích dự án
không phải lúc nào cũng phản ánh giá trị xã hội thực tế của chúng. Chẳng hạn, trong
nền kinh tế thị trường có thể tồn tại nhiều mặt hàng (hàng hoá, dịch vụ công cộng)
được bán với giá thấp hơn chi phí giá thành.
Bên cạnh đó, chúng ta cần đánh giá để xác định xem dự án có giúp quốc gia đạt
được các mục tiêu xã hội không. Nếu có thì bằng cách nào và liệu dự án có đạt hiệu
quả kinh tế hay không khi đạt được các mục tiêu xã hội. Thẩm định kinh tế được thực
hiện bằng cách điều chỉnh các biến số tài chính thành các biến số kinh tế để các chi
phí và lợi ích tài chính phản ánh chi phí và lợi ích của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy,
trong phân tích kinh tế dự án chúng ta sử dụng giá kinh tế - là giá có tính đến chi phí
cơ hội của các nguồn lực trong nền kinh tế. Giá kinh tế = Giá tài chính * Hệ số điều
chỉnh (Trong đó, hệ số điều chỉnh là hệ số để biến đổi giá tài chính về giá trị xã hội
thực tế của chúng, được biểu hiện bằng giá kinh tế)
Đây là quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập với
quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu
tư có hiệu quả và khả thi. Thẩm định dự án cũng nhằm đánh giá các lợi ích và chi phí
tài chính, cũng như các lợi ích và chi phí kinh tế, hiệu quả xã hội của dự án một cách
chính xác và khoa học; Ra quyết định đầu tư đúng đắn, xác định chế độ ưu tiên đầu tư
hợp lý, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển đầu tư, chiến lược và quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội; Bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về dự án đầu

14
tư. Trên thực tế, bất kỳ dự án đầu tư nào cũng gặp ít nhiều rủi ro nên mục đích của
thẩm định dự án đầu tư nhằm xác định tính chất khả thi của dự án, đảm bảo hiệu quả
kinh tế xã hội và hiệu quả tài chính mong muốn.
Việc chú trọng các phương diện thẩm định nào trong các phương diện thẩm định
là tuỳ thuộc vào quan điểm của các tổ chức tham gia vào các giai đoạn thẩm định.
Theo quan điểm chủ đầu tư hay các tổ chức tài trợ thì yêu cầu về tính khả thi ở các
phương diện thị trường, kỹ thuật, nhân sự quản lý và tài chính được quan tâm cao
nhất. Tuy nhiên, theo quan điểm toàn bộ nền kinh tế và xã hội thì tính khả thi ở
phương diện kinh tế và xã hội lại được chú trọng nhất.
Như vậy, thẩm định dự án đầu tư là một quá trình giải quyết các công việc sau:
Rà soát lại toàn bộ nội dung; So sánh các tính toán và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
dự án với các tiêu chuẩn quy định của nhà nước, hoặc những tiêu chuẩn mà nhà đầu
tư kỳ vọng; Kết luận dự án có được chấp nhận đầu tư hay không?
1.2.2 Vai trò của thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án nhằm tránh được việc thực hiện các dự án không có hiệu quả,
đồng thời cũng không bỏ mất các cơ hội đầu tư vào những dự án tốt. Trong đó, dự án
không hiệu quả là những dự án làm tiêu hao nguồn lực và lãng phí vốn đầu tư để
tránh gây tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế.
Thẩm định dự án nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát trong suốt giai
đoạn thẩm định, đảm bảo mọi số liệu ban đầu phải được cân nhắc một cách hợp lý.
Chẳng hạn, chúng ta xem xét các số liệu về lợi ích và chi phí của dự án có phù hợp,
có hợp lý với nhau không. Cụ thể, khi xác định lãi suất chiết khấu theo từng quan
điểm đầu tư khác nhau, hay giá mua nguyên vật liệu đầu để sản xuất sản phẩm cho dự
án có dựa trên mặt bằng giá cạnh tranh không?
Đứng ở góc độ lợi ích của nền kinh tế thì việc thẩm định dự án sẽ giúp chúng ta
tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên do có được thông tin tốt hơn và nhờ đó mà
tránh được việc thực hiện những dự án tồi hoặc những dự án mà việc thiết kế và hoạt
động không đáp ứng được các mục tiêu quốc gia . Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi
nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước.
Bởi vậy, trước khi ra quyết đầu tư hay cho phép đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền

15
của Nhà nước cần biết xem dự án đó có góp phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay
không? Nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào?
Một dự án đầu tư nên được thẩm định bởi một chủ thể khác để đảm bảo tính
khách quan bởi vì dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng mang tính
chủ quan của người soạn thảo. Người soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn
nhận các vấn đề của dự án. Các nhà thẩm định thường có cách nhìn rộng hơn trong
việc đánh giá dự án. Họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả cộng đồng
để xem xét các lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại nên sẽ có tính toàn diện hơn.
1.2.3 Các giai đoạn thẩm định dự án
Các giai đoạn thẩm định dự án được thực hiện từ thời điểm nghiên cứu cơ hội đầu
tư đến khi thực hiện dự án. Mỗi giai đoạn có vai trò quan trọng trong việc ra quyết
định chấp nhận hay bác bỏ dự án. Và các giai đoạn thẩm định này được thực hiện
theo một trình tự nhất định và theo sơ đồ sau:

Sơ đồ: Các giai đoạn thẩm định dự án

Nghiên cứu cơ hội


đầu tư

Nghiên cứu tiền


khả thi

Nghiên cứu khả thi

Xây dựng dự án

Thực hiện dự án

1.2.3.1 Thẩm định ở giai đoạn nghiên cứu cơ hội đầu tư


Đây là bước thẩm định đầu tiên nhằm xác định khả năng đầu tư trên cơ sở những
thông tin cơ bản (các ước tính tổng hợp, hoặc các dự án đang hoạt động) để nhà đầu

16
tư cân nhắc, xem xét và đi đến quyết định có triển khai tiếp sang giai đoạn nghiên cứu
sau hay không.
1.2.3.2 Thẩm định ở giai đoạn tiền khả thi
Trong giai đoạn thẩm định này, việc sử dụng thông tin thiên lệch về một hướng
nào đó lại là cần thiết bởi vì các biến số đầu vào của dự án có mức độ chắn chắn
không cao. Chính vì vậy, để tránh việc chấp thuận dự án dựa trên những ước tính quá
lạc quan về chi phí và lợi ích, chúng ta nên sử dụng các thông tin thiên lệch về hướng
làm giảm bớt lợi ích của dự án trong khi làm tăng cao mức ước tính chi phí. Nếu dự
án vẫn mang lại mức sinh lời như mong đợi của nhà đầu tư thì dự án sẽ có nhiều cơ
hội được chấp nhận hơn trong việc thẩm định chi tiết, chặt chẽ ở bước kế tiếp.
1.2.3.3 Thẩm định ở giai đoạn nghiên cứu khả thi
Nhiệm vụ của giai đoạn thẩm định này là nhằm tăng cường mức độ chính xác của
việc tính toán các biến số chủ yếu nếu như dự án cho thấy có nhiều triển vọng khả thi
và hiệu quả. Đến đây cũng là lúc nhà đầu tư phải ra quyết định có chấp nhận dự án
hay không trước khi phải tốn kém nhiều chi phí cho các giai đoạn kế tiếp.
1.2.3.4 Thẩm định ở giai đoạn xây dựng dự án
Thẩm định dự án ở giai đoạn này được tiến hành sau khi hoàn tất việc thiết kế và
lên kế hoạch quản lý vận hành dự án. Dự án sẽ được đánh giá một lần nữa để xem có
đáp ứng được các tiêu chuẩn đã đề ra để được phê duyệt và thực hiện hay không.
1.2.3.5 Thẩm định ở giai đoạn thực hiện dự án
Khi dự án chuyển sang giai đoạn vận hành, chúng ta cũng cần phải duy trì việc
thẩm định kỹ lưỡng về các kết quả của dự án trong suốt thời gian hoạt động của nó.
Công tác thẩm định còn có chức năng không chỉ nhằm đánh giá kết quả hoạt động của
dự án và chỉ ra những lợi ích tài chính và kinh tế - xã hội mà dự án đạt được. Bên
cạnh đó, còn xác định được những nhân tố nào là chủ đạo và đóng vai trò quan trọng
trong việc quyết định sự thành công hay thất bại của dự án.
1.2.4 Nội dung thẩm định dự án
Bất kỳ một dự án đầu tư nào thì nội dụng thẩm định cũng bao gồm việc thẩm định
ở các khía cạnh sau:
1.2.4.1 Thẩm định môi trường đầu tư của dự án

17
- Môi trường pháp lý: Tính pháp lý của dự án là yếu tố quan trọng đảm bảo dự án
được triển khai và vận hành thông suốt. Tính pháp lý của dự án được đảm bảo bằng
các văn bản chính thức của cơ quan quản lý mà hoạt động dự án có liên quan như
giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép nhập khẩu, giấy
phép khai thác tài nguyên môi trường,… Các dự án đầu tư phải tuân thủ chủ trương,
quy hoạch, chính sách phát triển ngành, vùng, địa phương đã được phê duyệt. Những
rủi ro khi dự án không đáp ứng được về trình tự, thủ tục pháp lý:
o Mất cơ hội kinh doanh;
o Tiến độ thực hiện dự án có thể bị kéo dài;
o Hiệu quả đầu tư bị giảm sút, nhiều dự án có nguy cơ phá sản;
o Tổn hại đến uy tín của chủ dự án.
- Môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hoá – xã hội
Môi trường tự nhiên: Tuỳ thuộc vào từng dự án mà môi trường tự nhiên được
nghiên cứu khác nhau bao gồm: dữ kiện về địa lý, tự nhiên như địa hình, khí hậu, địa
chất… Những yếu tố này ảnh hưởng lớn đến sản xuất, phân bố dân cư và tài nguyên.
Đối với các dự án nông nghiệp, môi trường tự nhiên là đất, khí hậu, thổ nhưỡng, gió.
Đối với các dự án công nghiệp: khí hậu, địa chất.. Dựa trên cơ sở nghiên cứu, dự án
phải có các kế hoạch cải tạo, xây dựng… cho phù hợp.
Môi trường kinh tế: Tình hình kinh tế có ảnh hưởng tác động trực tiếp đến dự án
từ lúc quyết định đầu tư, thi công cho đến lúc dự án đi vào hoạt động. Môi trường
kinh tế vĩ mô của dự án được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu:
o Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội: Nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến đầu tư, tiêu thụ và tích luỹ của toàn bộ nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu về thu
nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng trưởng của các ngành chủ
lực. Các thông tin này phải được khai thác từ những nguồn đáng tin cậy như: tổng cục
Thống kê, Ngân hàng Thế giới hay Quỹ tiền tệ Quốc tế. Tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế cao và ổn định sẽ tạo thuận lợi cho các ngành công nghiệp mới, dự án dịch vụ
có chất lượng cao và ngược lại.
o Lãi suất: Tác động trực tiếp đến chi phí sử dụng vốn của dự án. Nếu lãi
suất quá cao thì chi phí sử dụng vốn của dự án sẽ cao.

18
o Lạm phát: Một tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lạm phát
sẽ ảnh hưởng đến giá cả trong dự án. Vì vậy, trong phân tích tài chính dự án cần phải
tính tới yếu tố lạm phát.
o Chính sách ngoại thương: Nhà đầu tư nghiên cứu cán cân thanh toán, dự
trữ ngoại tệ, chính sách thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, mối quan hệ quốc tế…
Nhà đầu tư sẽ rất quan tâm đến số liệu này nhất là khi dự án phải nhập khẩu nguyên
liệu, thiết bị… Vì vậy, trong khi lập và thẩm định dự án cần phải đề ra các biện pháp
phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Các nhà đầu tư nước ngoài càng quan tâm đến chính sách
ngoại thương để xem có thu hồi vốn dễ dàng không, liệu có thể xuất khẩu sản phẩm
để thu được ngoại tệ nhằm đảm bảo cho dự án được hoạt động liên tục.
Môi trường văn hoá – xã hội, dân số và lao động: Tính đặc thù về văn hoá của
từng địa phương ảnh hưởng đến dự án. Nhà đầu tư cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng tập
quán sinh hoạt, văn hoá của dân cư nơi tiến hành dự án cũng như nơi tiêu thụ sản
phẩm của dự án. Tình hình dân số và lao động sẽ cung cấp dữ kiện cần thiết cho việc
ước tính nhu cầu sản phẩm và khuynh hướng tiêu thụ của các tầng lớp dân cư, tính
theo tuổi tác và thu nhập.

1.2.4.2 Thẩm định thị trường sản phẩm của dự án


Thẩm định thị trường là một trong những nội dung quan trọng của dự án khả thi.
Bởi vì, thị trường quyết định đến việc lựa chọn mục tiêu và quy mô đầu tư. Nghiên
cứu thị trường liên quan tới các khía cạnh: xác định thị trường mục tiêu, đặc tính sản
phẩm, nhu cầu sản phẩm của dự án trên thị trường hiện tại và tương lai, giá bán sản
phẩm, chiến lược cạnh tranh, tiếp thị và phân phối sản phẩm..
- Thẩm định thị trường mục tiêu: Thị trường mục tiêu là thị trường mà việc đầu tư
cho dự án có thể tiến hành một cách hiệu quả nhất. Thị trường này bao gồm các khách
hàng có cùng nhu cầu hoặc mong muốn mà sản phẩm của dự án có khả năng đáp ứng
tốt nhất. Thẩm định xem sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của dự án sẽ được tiêu thụ ở
khu vực thị trường nào (trong nước hay ngoài nước hay cả hai thị trường) và cũng cần
chú ý đến đặc điểm của từng vùng miền, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, thu nhập… để
xác định vùng thị trường tiêu thụ đảm bảo hiệu quả cao nhất.

19
- Thẩm định đặc tính sản phẩm: bao gồm hai nội dung là xem xét loại sản phẩm
và chu kỳ sản phẩm. Xem xét sản phẩm tiêu thụ của dự án thuộc loại nào thuộc ngành
nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ. Những ngành nghề này có đối tượng khách
hàng tiềm năng là ai? Có nhưng chính sách ưu đãi, hỗ trợ gì của Nhà nước không?
Ngoài ra, sản phẩm của dự án phải được thiết kế để thoả mãn nhu cầu của khách hàng
mục tiêu và tạo sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh.
- Chu kỳ sản phẩm: Nhà đầu tư phải biết được sản phẩm của dự án đang ở giai
đoạn nào của chu kỳ sản phẩm để từ đó quyết định quy mô, thời gian hoạt động và
chiến lược giá cả phù hợp.
- Nhu cầu thị trường ở hiện tại và tương lai:Thẩm định nhu cầu thị trường để biết
được mức độ tiêu thụ sản phẩm của dự án hiện nay trên thị trường. Trong thực tế việc
xác định nhu cầu thị trường rất phức tạp, từng thị trường mà các nhà đầu tư sẽ áp
dụng các phương pháp khác nhau. Thông thường nhà đầu tư ký hợp đồng với các
công ty tư vấn để nghiên cứu thị trường, đặc biệt là khi xuất khầu hàng hoá sang nền
kinh tế có mức độ cạnh tranh cao.
- Thẩm định chiến lược tiếp thị: Để đưa sản phẩm của dự án đến tay người tiêu
dùng một cách hữu hiệu nhất, trong quá trình thẩm định cần xem xét đến đối tượng
khách hàng, các hình thức phân phối (phân phối không thông qua trung gian hay có
sự tham gia của những nhà trung gian) và hiệu lực của chúng, các chi phí để đưa hàng
hoá đến tay người tiêu dùng.
- Thẩm định khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm: Khả
năng cạnh tranh là khả năng mà doanh nghiệp cố gắng giành được và duy trì thị
trường để có được lợi nhuận nhất định. Tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của sản
phẩm dự án đó chính là giá cả, chất lượn sản phẩm và nhãn hiệu sản phẩm.
+ Giá cả: Người ta sẽ so sánh giá bán dự kiến của sản phẩm dự án so với giá bán
sản phẩm cùng loại trên thị trường đế biết được khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự
án. Tuy nhiên, định giá cao, thấp hay ngang bằng với thị trường là tuỳ thuộc vào
chiến lược marketing của doanh nghiệp, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay
tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
+ Chất lượng sản phẩm: Là khả năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Khi
thẩm định cần so sánh những đặc điểm nổi bậc về chất lượng, mẫu mã.. của dự án so

20
với sản phẩm hiện có trên thị trường. Sản phẩm của dự án có chất lượng cao sẽ làm
tăng uy tín của nhà đầu tư, kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường.
1.2.4.3 Thẩm định các vấn đề kỹ thuật, công nghệ và các yếu tố đầu vào
Thẩm định kỹ thuật và công nghệ là nội dung quan trọng có liên quan đến tính
khả thi ở khía cạnh kỹ thuật của dự án bao gồm: Phân tích nhu cầu đầu vào, các yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn khu vực đặt dự án, Phân tích lựa chọn kỹ thuật-
công nghệ, đánh giá tác động môi trường của dự án. Thẩm định kỹ lưỡng không
những giúp loại bỏ các dự án không khả thi về mặt kỹ thuật để từ đó đảm bảo cho quá
trình đầu tư và vận hàng dự án thông suốt sau này.
- Thẩm định nhu cầu đầu vào: Những khía cạnh cần đánh giá của nội dung này
đó là xác định các loại nguyên liệu cần thiết cho quá trình vận hành của dự án, những
yêu cầu về kỹ thuật và kinh tế của những nguyên liệu đó, mức chi phí dự kiến và
những rủi ro liên quan đến khả năng đảm bảo nguồn nguyên liệu của dự án đầy đủ
trong suốt vòng đời hoạt động của dự án.
- Thẩm định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn khu vực đặt dự án:
Phân tích lựa chọn khu vực nhằm xác định các khu vực phù hợp cho dự án đang được
xem xét. Để việc lựa chọn địa điểm được thuận lợi cần phải phân tích kỹ các vấn đề
có liên quan như: Gần nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ; Cơ sở hạ
tầng thuận lợi; Phù hợp với quy hoạch ngành và quy hoạch tổng thể của nơi định chọn
địa điểm.
- Thẩm định kỹ thuật công nghệ và thiết kế cơ sở: chúng ta sẽ cần phải phân
tích những nội dung liên quan xác định quy mô của dự án, xác định công nghệ phù
hợp áp dụng cho dự án, xác định các cách thức để có thể có được công nghê dự kiến,
xác định thiết kế cơ sở của dự án và lựa chọn các loại máy móc thiết bị phù hợp. Việc
lựa chọn công nghệ áp dụng cho dự án đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định
khả năng thành công của dự án. Để lựa chọn một công nghệ phù hợp nhà thẩm định
phải dựa trên cơ sở xem xét các yếu tố đặc thù của dự án như điều kiện kinh tế xã hội
xung quanh, khả năng hấp thụ công nghệ của nền kinh, những yêu cầu của nguồn
nguyên liệu và những tác động đến sinh thái và môi trường dự kiến và xu hướng công
nghệ trong tương lai.
- Thẩm định tác động môi trường: Nhằm mục đích phát hiện tác động xấu của
dự án đến môi trường để tìm ra các biện pháp kiểm soát, khắc phục và ngăn ngừa
trong quá trình thực hiện dự án. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với những dự án có khả
năng gây ô nhiễm môi trường. Những tác động của dự án đến môi trường có thể làm
thay đổi điều kiện sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến cảnh quan môi

21
trường thiên nhiên… Đặc biệt trong điều kiện môi trường đang ô nhiễm như hiện nay
thì vần đế thẩm định tác động môi trường càng có ý nghĩa nhằm đảm bảo dự án phát
triển gắn liền với bảo vệ môi trường.
1.2.4.4 Thẩm định các vấn đề liên quan đến tổ chức quản lý, nhu cầu nhân sự
Thẩm định nhu cầu nhân sự và quản lý tổ chức của dự án đầu tư là rất cần thiết
để xác lập và đảm bảo hiệu quả công tác quản lý vận hành dự án. Bên cạnh đó, từ mô
hình tổ chức quản lý hiện tại sẽ giúp người thẩm định đánh giá xem có phù hợp với
quy mô, ngành nghề và loại hình doanh nghiệp và đáp ứng yêu cầu cho dự án hay
không. Mỗi dự án khác nhau có yêu cầu khác nhau về số lượng và chất lượng lao
động, trong đó bao gồm lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Ngoài ra, tiền lương
và tiền công lao động phải được trả dựa trên sự thoả thuận được ghi trong hợp đồng
lao động và phù hợp với quy định hiện hành.
1.2.4.5 Thẩm định tài chính của dự án
Thẩm định tài chính là một nội dung quan trọng trong quá trình thẩm định dự
án đầu.Kết quả của phân tích tài chính sẽ giúp cho chủ đầu tư kết luận được tính khả
thi về khía cạnh tài chính của dự án và là căn cứ để các bên tham gia vào dự án (cổ
đông, chủ đầu tư, tổ chức tài trợ vốn cho dự án, cơ quan có thẩm quyền quyết định
đầu tư của Nhà nước…) quyết định có nên đầu tư vào dự án hay không? Bởi mối
quan tâm của các tổ chức và cá nhân đầu tư, là đầu tư vào dự án này có mang lại lợi
ích cao hơn so với các dự án khác hay không.
Thẩm định tài chính của dự án đầu tư thực chất là việc xác định được và so
sánh tất cả các chi phí và lợi ích của dự án để xác định dòng tiền của dự án. Dựa vào
dòng tiền ròng của dự án, chúng ta sẽ tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án
như NPV, IRR, B/C, PP, DPP trên cơ sở đó mới đánh giá và lựa chọn được những dự
án hiệu quả nhất.
1.2.4.6 Thẩm định hiệu quả kinh tế và xã hội của dự án
Đây là một nội dung mà các cơ quan quản lý Nhà nước rất quan tâm, xem xét
lợi ích mà dự án mang lại cho nền kinh tế và tìm cách tối đa hoá lợi ích đó. Nguyên
tắc thẩm định cũng giống như thẩm định tài chính, đó là so sánh giữa lợi ích và chi
phí của dự án. Song điểm khác biệt ở đây là quan niệm về lợi ích và chi phí trên góc
độ xã hội: lợi ích và những đóng góp thực sự của dự án vào phúc lợi chung của quốc
gia, chi phí là những khoản tiêu hao nguồn lực thực sự của nền kinh tế. Do đó để
thẩm định hiệu quả kinh tế của dự án, trước tiên cần tiến hành điều chỉnh giá tài chính
về giá kinh tế. Đối với nhà đầu tư, khả năng sinh lời của dự án là yếu tố chính quyết
định việc nên hay không nên bỏ vốn đầu tư vào một dự án; Trong khi đó, lợi ích kinh

22
tế - xã hội là những luận cứ nhằm thuyết phục các cấp có thẩm quyền chấp nhận dự
án.
1.2.5 Các quan điểm thẩm định dự án đầu tư
Một dự án đầu tư được xem là khả thi và có hiệu quả khi nó thuyết phục được
các bên tham gia đưa ra quyết định chấp nhận dự án. Một dự án đầu tư có thể được
thẩm định theo những quan điểm khác nhau tuỳ theo nghĩa vụ và quyền lợi của các
bên liên quan.
1.2.5.1 Thẩm định tài chính
Các dự án sẽ được thẩm định trên cơ sở giá tài chính (là giá hạch toán trong
dự án) của các khoản xuất lượng và nhập lượng dự kiến của dự án.
- Quan điểm toàn bộ vốn chủ sở hữu (AEPV_ All Equity point of view):
Theo quan điểm này có nghĩa là toàn bộ vốn đầu tư cho dự án được tài trợ bằng vốn
chủ sở hữu nên dòng tiền này hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư. Mục đích của việc thẩm
định là để đánh giá hiệu quả của dự án khi không sử dụng vốn vay là có hiệu quả hay
không để từ đó đưa ra quyết định đầu tư phù hợp.
- Quan điểm tổng vốn đầu tư (TIPV_Total investment point of view): Thẩm
định dự án theo quan điểm TIPV là nhằm đánh giá hiệu quả dự án đứng trên góc độ
tổng thể dự án, không xem xét hiệu quả dự án được tài trợ từ các nguồn vốn riêng lẻ
hay không phân biệt tài sản của dự án được tài trợ từ vốn vay hay vốn tự có, nghĩa là
không thẩm định dự án một cách phiến diện, một chiều (ĐH Harvard). Mục đích của
thẩm định dòng tiền theo quan điểm này là đánh giá hiệu quả tổng thể của dự án có sử
dụng vốn vay. Quan điểm TIPV còn được xem như là quan điểm của Ngân hàng bởi
vì dựa vào đó ngân hàng đánh giá khả năng sinh lời và nhu cầu vay vốn và khả năng
trả nợ vốn vay của dự án.
- Quan điểm vốn chủ sở hữu (EPV_Equity point of view): Cũng giống như
ngân hàng, chủ đầu tư xem xét lợi ích cuối cùng mà họ nhận được khi thực hiện dự án
so với những gì mà họ có thể kiếm được trong trường hợp không có dự án. Mục đích
của thẩm định dòng tiền theo quan điểm chủ sở hữu là đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
chủ sở hữu trong một dự án có sử dụng vốn vay.
1.2.5.2 Thẩm định theo quan điểm của cơ quan ngân sách Nhà nước
Về phía cơ quan quản lý ngân sách, các dự án có thể cần chi dưới dạng cấp
vốn, trợ giá, cho vay ưu đãi. Và đồng thời, dự án cũng tạo ra nguồn thu cho ngân sách
thông qua các khoản đóng thuế, lệ phí… Khi thực hiện dự án sẽ có những khoản thu
và những khoản chi liên quan đến dự án. Như vậy, thu nhập ròng do dự án tạo ra đối

23
với cơ quan ngân sách nhà nước là: Thuế và phí trực tiếp và gián tiếp – Trợ giá và trợ
cấp trực tiếp và gián tiếp.
1.2.5.3 Thẩm định kinh tế
Thẩm định dự án theo quan điểm kinh tế là việc xem xét, đánh giá chi phí và
lợi ích mà dự án mang lại cho toàn bộ nền kinh tế. Trong thẩm định kinh tế, chúng ta
sử dụng giá kinh tế để xác định giá của các nhập lượng và xuất lượng của dự án. Nếu
căn cứ vào giá tài chính để xác định giá kinh tế bằng cách loại bớt thuế, trợ cấp, vay
nợ và trả nợ. Ngoài ra, chúng ta cần tính đến ngoại tác (lợi ích và chi phí mà dự án tạo
ra bên ngoài khu vực dự án) tích cực và tiêu cực từ dự án. Thẩm định theo quan điểm
kinh tế thường được sử dụng để đánh giá và lựa chọn các dự án mục đích công ích,
các dự án liên quan đến sự tài trợ của nhà nước, hay các tổ chức viện trợ quốc tế. Đối
với chủ đầu tư, khả năng sinh lời của dự án là yếu tố chính quyết định việc nên hay
không nên bỏ vốn vào một dự án; trong khi đó lợi ích kinh tế - xã hội lại là những
luận cứ nhằm thuyết phục các cấp có thẩm quyền chấp nhận dự án, hay các tổ chức tài
trợ quốc tế quyết định tài trợ cho dự án.
Lợi ích kinh tế xã hội của dự án đầu tư = lợi ích nền kinh tế và xã hội thu được
– đóng góp mà nền kinh tế và xã hội bỏ ra khi thực hiện dự án.
Lợi ích kinh tế được xét trên phạm vi toàn xã hội, toàn bộ nền kinh tế quốc dân
(tầm vĩ mô)
Hiệu quả tài chính: tầm vi mô, phạm vi doanh nghiệp
Để đánh gía hiệu quả kinh tế sử dụng phương pháp: định giá định tính và định
lượng.
Định tính: Đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, thực hiện theo các
chủ trương của nhà nước, góp phần cải thiện môi trường, giải quyết công ăn việc làm,
phát triển ngành nghề khác.
Định lượng: Gia tăng GDP bao nhiêu; Đóng góp cho ngân sách bao nhiêu; Gia
tăng nguồn thu ngoại tệ bao nhiêu; Giải quyết được bao nhiêu việc làm?
Ngoại tác: là chi phí hay lợi ích tăng thêm của các dự án khác, do dự án đang
xem xét tạo nên.
Các quan điểm thẩm định dự án:
- Có hiệu quả kinh tế không có hiệu quả tài chính -> Nên thực hiện
- Không có hiệu quả kinh tế, có hiệu quả tài chính -> Nên không thực hiện
1.2.5.4 Thẩm định phân phối thu nhập
Theo quan điểm thẩm định này, chúng ta phải tính lợi ích kinh tế ròng cho
những nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của dự án. Từ đó, đề ra

24
những giải pháp phù hợp cho các đối tượng có liên quan đến dự án. Để tránh tình
trạng có bên này được hưởng lợi nhiều trong khi bên kia bị thiệt hại do dự án gây ra.
Chẳng hạn, dự án chống ngập triều có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu. Dự án có tổng
mức đầu tư gần 10.000 tỷ đồng, được thực hiện bằng hình thức PPP, thông qua hợp
đồng BT (xây dựng - chuyển giao) giữa UBND TP HCM và nhà đầu tư. Theo đó,
người dân trên địa bàn TP HCM sẽ được hưởng lợi do không còn tình trạng ngập
nước do triều cường, cũng có một số hộ dân được hưởng lợi thông qua việc tăng giá
đất, đồng thời lại có nhiều hộ gia đình bị thiệt hại vì mất đất quá nhiều so với lợi ích
nhận được.
Tóm lại, thẩm định dự án theo các quan điểm khác nhau là rất cần thiết vì
thông qua việc thẩm định có thể cho các bên liên quan tới dự án biết được mức độ hấp
dẫn của dự án và ra quyết định. Trong thực tế phát sinh những trường hợp dự án
mang lại hiệu quả tài chính cho chủ đầu tư nhưng gây thiệt hại cho nền kinh tế thì sẽ
gặp khó khăn trong khâu xét duyệt. Hoặc có những dự án tạo ra lợi ích ròng cho xã
hội nhưng gây thiệt hại cho nhà đầu tư thì cơ quan nhà nước có thể trợ cấp để khuyến
khích chủ đầu tư thực hiện dự án. Như vậy, để đảm bảo cho việc chấp thuận và thực
hiện thành công, một dự án hấp dẫn đối với tất cả những người đầu tư và những người
thực hiện có liên quan tới dự án.
Tài liệu tham khảo:
1. Glenn P.Jenkins và Arnold C.Harberger, Sách hướng dẫn phân tích chi
phí và lợi ích cho các quyết định đầu tư (bản dịch của chương trình
Fulbright Việt Nam – Chương 1,2).
2. PGS TS Nguyễn Quang Thu (Chủ biên), Thiết lập và thẩm định dự án
đầu tư (Chương 1), NXB Thống kê, 2009
3. PGS TS Vũ Công Tuấn, Thẩm định dự án đầu tư (Chương 1), NXB
Tp.HCM, 2002.

25

You might also like