You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM.....


KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH ....
VIỆN CÔNG NGHỆ VIỆT-NHẬT

TIỂU LUẬN
CƠ SỞ VĂN HÓA NHẬT BẢN

ĐỀ TÀI: GIESHA TẠI NHẬT BẢN

Giảng viên hướng dẫn : ..Đặng Thị Mỹ Ngọc....


Sinh viên thực hiện : ..Võ Thị Ngọc
Tuyền.....
Lớp : ..19DMAJA1.............

1
MSSV :
...1911230570...........

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………….
CHƯƠNG 1 :GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI……………………..
1.1 :LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………….3
1.2 GIỚI THIỆU GESHA……………………………………3
1.2.1 .GEISHA LÀ GÌ?..............................................................4
1.2.2 LỊCH SỬ GEISHA………………………………………4
1.2.3 TỪ NGUYÊN VÀ TÊN GỌI GEISHA…………………..5
1.2.4 CÁC CÁCH GỌI TÊN KHÁC CỦA
GEISHA………………..5
1.3 PHÂN LOẠI GEISHA………………………..5
1.3.1 GEISHA HIỆN ĐẠI……………………6
1.3.2 GEISHA VÀ MẠI DÂM………………………….6
1.4 CÁC CẤP BẬC GEISHA…………….7
1.4.1 SHIKOM …………………7
1.4.2 MINARAI…………………..8
1.4.3 MAIKO…………………….9
1.4.4 GEISHA…………………..9
1.5 QUÁ TRÌNH TRỞ THÀNH MỘT
GEISHA……………………….9
1.5.1 TỪ MAIKO ĐẾN GEISHA…………………………10
1.5.1.1 MIZUAGE……………………………10
1.5.1.2 ERIKAE………………………..10
1.6 KỸ NĂNG CỦA 1 GEISHA………………..11
1.7 QUY ĐỊNH GEISHA………………………11
1.8 THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN GEISHA……………………12
1.9 NGOẠI HÌNH GEISHA……………………….13
1.9.1 TRANG PHỤC……………………….13
1.9.2 TRANG ĐIỂM………………………….14
1.9.3 KIỂU TÓC …………………………15,16
2.CÁC GEISHA NỔI TIẾNG …………………….17

2
2.1.SO SÁNH GEISHA VỚI Ả ĐÀO VIỆT NAM………………
18,19
3 KẾT LUẬN………………….20
4. TÀI LIỆU KHAM KHẢO ……….21

3
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Nói tới văn hóa truyền thống Nhật Bản thì không thể không nhắc tới geisha cũng
như busido (võ sĩ đạo) hai loại văn hóa độc đáo chị nước Nhật mới có. Geisha là
một nét đẹp văn hóa của đàn bà nhật và busido là nét đẹp văn hóa của đàn ông
Nhật .Nữ giới xứ sở hoa anh đào có thể tự hào vì họ đã sáng tạo nên nền văn hóa
geisha bất hủ cho dù ngày nay nước Nhật chỉ còn ít người làm nghề geisha và giới
trẻ Nhật hầu như chẳng biết mấy về geisha hay busido.
Geisha trong nhật viết là “nghệ giả: tức là người làm nghệ thuật quả thật thì nếu như
chúng ta không đào sâu về thế giới geisha thì chúng ta sẽ không thấy nó vô cùng bí
ẩn .
Nó là một hình thức nghệ thuật lành mạnh cao cấp đầy tính nhân văn và hoàn toàn
không dung tục rẻ tiền geisha là một loại hình biểu diễn tài nghệ văn hóa đặc sắc chị
ở nước Nhật mới có trong thời thơ ấu thì giai đoạn đầu tiên đôi khi geisha làm vai
cho người hầu gái hay người giúp việc cho các geisha có kinh nghiệm sau đó có vai
trò là geisha học việc, hiện nay geisha phải học những nhạc cụ truyền thống như là
Shamisen shakuhachi .Geisha là một giá trị văn hóa cần được bảo tồn và gin giữ phát
huy ngày nay thì số lượng geisha ước chừng là khoảng 1000 đến 2000 trong khi đó
vào năm 1920 cả nước Nhật có khoảng 80,000 geisha những người Nhật đang lo
lắng rằng chỉ sau một thời gian không dậy nữa thì không ai muốn trở thành một
geisha nữa chính vì lý do của việc geisha chỉ còn một số ít tùy học tập kỷ luật cần sự
kiên nhẫn trong một thời gian dài mặt khác thì chi phí trang phục trang điểm. Ngày
nay các geisha được ít người biết đến số lượng geisha cũng có xu hướng giảm dần
nhiều người vẫn nhầm lẫn họ là kỹ nữ nhưng không phải vậy họ là những nghệ sĩ tài
ba là những người gin giữ phát huy văn hóa truyền thống của nước Nhật vì tất cả
những lý do em đã chọn đề tài này nhằm tìm hiểu sâu hơn về cuộc sống của geisha
và những đóng góp trong văn hóa Nhật nói riêng và văn hóa nhân loại nói chung.
1.2 GIỚI THIỆU GEISHA
1.2.1 GEISHA LÀ GÌ?

Geisha gọi theo ngôn ngữ Kansai là Geiko hoặc Geiki (nghệ sĩ) đây là
những cô gái được đào tạo khả năng múa, hát, chơi nhạc cụ truyền thống,
4
đặc biệt là cách nói chuyện và dẫn dắt câu chuyện trong các buổi tiệc của
giới thượng lưu. Họ rất ít xuất hiện ngoài phố và không bao giờ sử dụng các
phương tiện công cộng. 

1.2.2 LỊCH SỬ GEISHA


Geisha khởi nguồn là những người giải trí chuyên nghiệp, ban đầu họ hầu
hết là nam giới. Geisha sử dụng kỹ năng nghệ thuật truyền thống Nhật Bản,
trong đó có âm nhạc, múa và kể chuyện. "Geisha thành phố" (machi geisha)
hoạt động tự do tại các buổi tiệc bên ngoài các khu phố giải trí, trong khi
các "geisha khu phố" (kuruwa geisha) làm giải trí cho khách trong các buổi
tiệc trong các khu phố giải trí. Trong khi các kỹ năng nghệ thuật của gái
điếm hạng sang suy giảm, thì kỹ năng của các geisha, cả nam lẫn nữ, trở
nên được yêu cầu cao hơn.
Geisha nam (đôi khi được gọi là hōkan) đã dần dần suy giảm, và cho đến
năm 1800, sô lượng các geisha nữ (ban đầu được gọi là onna geisha với
nghĩa là "geisha nữ") đã gấp ba lần số geisha nam, và tên gọi geisha bắt đầu
được hiểu với nghĩa như ngày nay là người phụ nữ làm nghề giải trí với
trình độ cao.
Theo truyền thống, geisha bắt đầu được huấn luyện từ khi còn nhỏ. Một số
cô gái đã được bán cho các nhà geisha từ khi còn là trẻ con và bắt đầu học
nhiều thể loại nghệ thuật truyền thống gần như ngay lập tức.
Trong thời thơ ấu, giai đoạn đầu tiên, đôi khi geisha làm việc với vai trò
người hầu gái hay người giúp việc cho các geisha có kinh nghiệm, và tiếp
theo, trong giai đoạn huấn luyện là vai trò geisha học việc (maiko). Kiểu
đào tạo này cũng tồn tại trong các truyền thống khác của Nhật Bản, khi học
viên sống trong nhà, bắt đầu với việc làm việc nhà và giúp đỡ người thợ
chính, và cuối cùng chính người đó sẽ trở thành một người thợ chính.

5
LỊCH SỬ GEISHA
1.2.3 TỪ NGUYÊN VÀ TÊN GỌI GEISHA
Từ "nghệ giả" được hình thành từ hai chữ gei (藝 nghệ) và sha (者 giả)
xuất phát từ phương ngữ Tokyo, được các ngôn ngữ phương Tây tiếp
nhận dưới dạng geisha. Tiếng Nhật chuẩn gọi là "nghệ kĩ", Geigi (藝妓,
"nữ nghệ sĩ"), và họ được gọi theo phương ngữ Kansai (関西 Quan Tây)
là "nghệ tử", Geiko (藝子). Geisha trong thời gian học việc được gọi là
"bán ngọc", Han'gyoku (半玉) (tại Tōkyō) hay "vũ tử", Maiko (舞子),
hoặc "vũ kĩ", Maigi (舞妓), (tại Kyoto)
1.2.4 CÁC CÁCH GỌI TÊN GEISHA
Người dân ở Tokyo chủ yếu sử dụng thuật ngữ "Geisha“Ở Kyoto, thuật
ngữ Geiko được sử dụng phổ biến nhất .Một tên khác của những người
phụ nữ này là "Geiki", được sử dụng phổ biến nhất ở khu vực Niigata.
Bạn cũng có thể nghe thấy thuật ngữ “Maiko”, dùng để chỉ những cô
gái trẻ đang được đào tạo để trở thành Geisha.

1.3 PHÂN LOẠI GEISHA


1.3.1 GEISHA HIỆN ĐẠI

Geisha hiện đại vẫn sống trong những ngôi nhà geisha truyền thống gọi
là okiya tại các khu vực gọi là hanamachi (花街 - "hoa nhai" - khu phố
hoa), đặc biệt trong thời gian học việc của họ. Tuy nhiên, nhiều geisha
giàu kinh nghiệm lại chọn cách sống trong những căn hộ của chính mình.
Thế giới thanh lịch và văn hóa cao mà các geisha là một phần trong đó
được gọi là karyūkai (花柳界, "hoa liễu giới" - thế giới của hoa và liễu).

6
Hình 1 :Geisha hiện đại
Hiện nay, những người phụ nữ trẻ muốn được trở thành geisha thường bắt
đầu đợt đào tạo sau khi đã hoàn thành trung học cơ sở hay thậm chí trung
học phổ thông hoặc đại học, nhiều người bắt đầu nghề nghiệp của họ khi đã
ở tuổi trưởng thành. Geisha vẫn học những nhạc cụ truyền thống
như shamisen, shakuhachi (sáo trúc), và trống, cũng như những bài hát
truyền thống, múa cổ điển Nhật, trà đạo, ikebana (cắm hoa Nhật), văn học
và thơ ca. Từ việc quan sát các geisha khác cùng với sự giúp đỡ của chủ
nhà geisha, những người học việc cũng trở nên điêu luyện trong các truyền
thống phức tạp xung quanh việc lựa chọn và mặc kimono, cũng như cách cư
xử với khách hàng.
Ngày nay, Kyoto là nơi có truyền thống geisha còn lại mạnh nhất. Hai trong
số các khu phố geisha truyền thống và danh tiếng nhất
là Gion và Pontochō đều ở Kyoto. Geisha trong các khu phố này được gọi
là geiko. Các "khu phố
hoa" Shimbashi, Asakusa và Kagurazaka tại Tokyo cũng nổi tiếng.
1.3.2 Geisha và mại dâm
Một số nhầm lẫn, đặc biệt ở bên ngoài Nhật Bản, về bản chất của nghề
geisha. Vấn đề này đã bị làm cho thêm phần rắc rối bởi gái mại dâm Nhật,
đặc biệt tại các bể tắm onsen, những người muốn lợi dụng hình ảnh nổi
tiếng của geisha bằng cách tự quảng cáo dối trá với các khách du lịch (cả
người Nhật và người nước ngoài) rằng mình là "geisha". Các miêu tả không
chính xác về geisha trong văn hóa đại chúng phương Tây, chẳng hạn trong
tiểu thuyết và bộ phim Hồi ức của một geisha (Memoirs of a Geisha), cũng
góp phần gây ra các hiểu nhầm về geisha.

7
Theo truyền thống, geisha không được kết hôn (hoặc khi kết hôn thì phải
kết thúc sự nghiệp), tuy việc họ có con không phải là chuyện đặc biệt. Mặc
dù nhiệm vụ của geisha thường bao gồm cả tán tỉnh và đùa cợt khêu gợi
(tuy được mã hóa theo các cách truyền thống), nhưng họ không bao giờ có
quan hệ tình dục với khách hàng và không được trả tiền cho hoạt động đó.
Tuy nhiên, một số geisha có thể quyết định quan hệ với một trong những
nhà bảo trợ hoặc khách quen (patron) của mình bên ngoài thời gian làm
việc với vai trò geisha. Và vì những mối quan hệ đó có liên quan đến việc
một khách hàng có khả năng trả tiền để được hưởng các phục vụ truyền
thống của một geisha, người ta có thể dễ hiểu lầm rằng đây chẳng qua chỉ là
một hình thức mại dâm bị bóp méo.
1.4 CÁC CẤP BẬC GEISHA
1.4.1 SHIKOMI
Trước khi bắt đầu khóa đào tạo để trở thành geisha, các cô gái phải làm
người giúp việc trong okiya (nhà geisha). Thuật ngữ được sử dụng cho giai
đoạn này là shikomi.

8
Hình 2: SHIKOMI
Mặc dù đó chỉ là một số công việc nhà, Nhưng những người huấn luyện họ
sẽ
thực hiện công việc của họ một cách có mục đích.Quá trình huấn luyện
khắc
nghiệt nhằm xác định mức độ cứng rắnvà quyết tâm của shikomi.Nếu họ
làm được, họ có thể chuyển sang giai đoạn tiếp theo của khóa đào tạo. Tuy
nhiên, nếu thất bại, họ có thể rời bỏ okiya và quên đi ước mơ trở thành
geisha.
1.4.2 MINARAI
Trở thành Minarai có nghĩa là họ không còn phải đối mặt với những
công việc nhà căng thẳng nữa. Họ có thể bắt đầu học cách trở thành
geisha bằng cách quan sát cách geisha thực hiện công việc của họ.
Minarai chưa thể được mời tham dự các bữa tiệc, nhưng họ có thể tham
dự với tư cách cộng thêm của một geisha cao cấp.
Quá trình Minarai không mất nhiều thời gian trước khi họ có thể chính
thức trở thành một Maiko. Thông thường, nó chỉ mất một hoặc hai
tháng.

9
HÌNH 3 MINARAI
1.4.3 MAIKO
Geisha trẻ - trong đào tạo sẽ phải ra mắt chính thức của mình, được gọi
là misedashi.Sau đó, người học việc chính thức là một maiko (cô gái
nhảy), một giai đoạn có thể kéo dài hàng năm cho đến khi người học
việc kết thúc khóa đào tạo của mình.Trong thời kỳ maiko, họ phải học
khoảng ba mươi điệu múa truyền thống.

HÌNH 4 MAIKO
1.4.4 GEISHA
Geisha là một phụ nữ đã trưởng thành và sẵn sàng cho sự nghiệp toàn
thời gian của mình. Một người phải ít nhất 21 tuổi để có thể ra mắt với tư

10
cách là một Geisha Với tư cách là một Geisha, cô ấy có thể trả giá đầy
đủ. Cô ấy sẽ sống trong một Okiya cho đến khi cô ấy nghỉ hưu

Ở Nhật Bản, các geisha rất được coi trọng vì họ đã dành nhiều
năm đào tạo để học các nhạc cụ và điệu múa truyền thống của Nhật
Bản.
1.5 QUÁ TRÌNH TRỞ THÀNH 1 GEISHA
1.5.1 TỪ MAIKO ĐẾN GEISHA
1.5.1 MIZUAGE
Mizuage là một nghi lễ cắt bỏ hoặc mất trinh tiết. Mỗi khi một Maiko kết thúc
quá trình huấn luyện của mình, Okiya sẽ tổ chức một cuộc đấu giá cho những vị
khách trung thành của mình.
Người nào có giá thầu cao nhất sẽ giành được quyền làm hỏng Maiko cụ thể và
trở thành Danna (người bảo trợ) của cô ấy.Số tiền do Danna trả sẽ được đưa cho
Okiya như một sự "trả nợ" cho tất cả các chi phí mà Okiya phải bỏ ra để huấn
luyện một Maiko cụ thể.Tuy nhiên, sau đêm Mizuage, một Geisha không còn
phải quan hệ tình dục với Danna hoặc bất kỳ khách hàng nào của cô ấy nữa.

11
HÌNH 5 MIZUAGE
Theo truyền thống, Mizuage là một quá trình bắt buộc mà mỗi Maiko phải trải
qua để có thể trở thành Geisha.Năm 1959, chính phủ Nhật Bản đã đưa hoạt động
này trở thành bất hợp pháp, vì khái niệm này tương tự như mại dâm.Ngày nay,
Mizuage chỉ là một quá trình chấp nhận tài trợ của Danna mà không có nghĩa vụ
phục vụ tình dục.Nhiều Maiko thậm chí còn trở thành Geisha mà không cần đến
nghi lễ Mizuage.
1.5.1.2 ERIKAE
Không giống như Mizuage, Erikae vẫn được mọi Maiko thực hành vì bước này
quan trọng hơn và không liên quan đến vấn đề tình dục.Erikae là một nghi lễ trang
trọng đánh dấu một Maiko trở thành Geisha. Tại thời điểm này, một Maiko cũng
sẽ nhận được nghệ danh để sử dụng như một Geisha.Buổi lễ chủ yếu liên quan đến
việc thay đổi kiểu tóc và trang phục, vì các Maiko ăn mặc khác với Geisha.Erikae
thường diễn ra sau Mizuage vài tháng. Sau Erikae của cô ấy, một Geisha giờ đây
có thể nhận được toàn bộ tiền khi khách hàng thuê cô ấy.

HÌNH 7 ERIKAE
1.6 KỸ NĂNG 1 GEISHA

12
-Trò truyện với khách
-Trang điểm và làm tóc
-Đi bộ trên đôi giày bằng gỗ
-Ngủ bằng Takamura
-Cười thanh lịch, không hở lợi
-Biết một số trò chơi Geisha
-Biểu diễn nghệ thuật
-Hiểu biết về văn hóa Nhật Bản
1.7 QUY ĐỊNH CỦA GEISHA

QUY ĐỊNH

• Giờ giấc
• Cầu nguyện
• Chào hỏi
13
• Vâng lời
• Nghỉ ngơi
• Ăn uống cá nhân

Không nên làm


• Không được quan hệ với khách hàng
• Phải biết kín miệng
• Phải biết kiềm chế
• Không được làm bẩn tóc
• Không được sai sót khi trang điểm
1.8 THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN GEISHA
Thuận lợi
• Quen biết người có địa vị cao
• Quan hệ rộng
• Nhiều tài nghệ
• Được gia đình ủng hộ
Khó khăn
• Khổ luyện từ nhỏ
• Học đủ mọi lễ nghĩa
• Dành ít thời gian bên gia đình
• Tránh xa mọi thứ vui chơi
• Đấu giá
• Không được kết hôn
• Tránh mối quan hệ tình cảm
• Bị hiểu nhầm là gái mại dâm
1.9NGOẠI HÌNH GEISHA
1.9.1 TRANG PHỤC
Geisha thường xuyên mặc kimono. Geisha tập sự mặc bộ kimono có
nhiều màu sắc với nơ lưng (obi) rất to. Geisha lớn tuổi hơn mặc trang
phục với kiểu dáng và hoa văn dịu nhẹ hơn.
Màu sắc, hoa văn và kiểu kimono cũng phụ thuộc vào mùa trong năm và
sự kiện mà geisha tham dự. Vào mùa đông, bên ngoài áo kimono, geisha
có thể khoác một chiếc áo choàng có chiều dài khoảng bằng 3/4 so với
kimono, áo choàng này được lót bằng lớp vải lụa có hoa văn vẽ bằng
tay. Áo kimono có trần thêm vải lót sẽ được mặc khi thời tiết lạnh hơn,
14
còn áo không trần được mặc vào mùa hè. Để may một chiếc kimono có
thể cần đến 2 hoặc 3 năm do phải thêu và vẽ lên vải.
Khi ra ngoài, geisha đi dép có đế phẳng zori, còn khi ở nhà chỉ
đi tabi (tất chân có sẻ ngón màu trắng). Vào lúc thời tiết khắc nghiệt,
geisha sẽ đi một đôi guốc bằng gỗ, được gọi là geta. Maiko thường đi
đôi guốc gỗ được sơn màu đen, gọi là okobo

TRANG PHỤC GEISHA VÀ MAIKO


1.9.2 TRANG ĐIỂM
Ngày nay, việc trang điểm truyền thống của một geisha tập sự là một trong
những nét đặc trưng có thể nhận ra họ, tuy nhiên, chỉ trong các buổi trình
diễn đặc biệt, các geisha từng trải nói chung vẫn được trang điểm với bộ
mặt dày lớp phấn trắng mà tạo nên tính cách của maiko.
Trang điểm truyền thống của một geisha tập sự bao gồm một lớp phấn nền
dày, màu trắng với son môi màu đỏ và phần sắc đỏ và đen quanh mắt và
lông mày.
Việc trang điểm này khó có thể đạt đến sự hoàn hảo và là một quá trình bị
chi phối bởi thời gian. Trang điểm được thực hiện trước khi mặc trang phục
để tránh làm bẩn bộ kimono. Đầu tiên, một ít sáp ong hoặc dầu, được gọi
là bintsuke-abura, được bôi lên da. Tiếp theo, phấn trắng được trộn với một
ít nước để tạo thành một hỗn hợp sền sệt và được bôi lên mặt với một cây
cọ được làm từ tre. Lớp phấn trắng này sẽ bao phủ khắp mặt, cổ, ngực và
đôi bàn tay, và để lại hai hoặc ba vùng tối (vùng có dạng hình chữ "W"
hoặc "V") bên trái gáy, để làm nhấn mạnh vùng gợi dục truyền thống, và có
chừa lại một đường viền không đánh xung quanh chân tóc, đường này tạo
nên cảm giác "mặt nạ" của khuôn mặt sau khi trang điểm.

15
TRANG ĐIỂM GEISHA
Sau khi đã phủ xong lớp phấn nền, một miếng bọt biển sẽ được sử dụng để
dặm cho phấn đều khắp mặt, cổ, ngực và gáy để làm mất độ ẩm dư thừa và
lớp phấn được mịn. Tiếp theo, phần mắt và lông mày được vẽ lại. Bút
chì than truyền thống được sử dụng để vẽ mắt, nhưng ngày nay, người ta sử
dụng các dụng cụ trang điểm hiện đại. Lông mày và các viền mắt được tô
màu đen; một maiko thường tô một màu đỏ quanh mắt.
Người ta sử dụng một cây cọ nhỏ để tô đôi môi. Màu đỏ để tô lấy từ một
ống nhỏ, màu có thể tan trong nước. Đường kết tinh sau đó được cho thêm
vào để đôi môi được bóng hơn.
Trong ba năm đầu tiên, một maiko luôn phải trang điểm dày như thế này.
Trong giai đoạn khởi đầu của mình, maiko sẽ được một "người chị" giúp đỡ
phần trang điểm (một geisha kinh nghiệm sẽ cố vấn cho cô) hoặc "mẹ"
(okami) của ngôi nhà mà geisha đang ở và tập sự. Dần dần, maiko sẽ tự
trang điểm lấy cho bản thân.
Sau khi geisha đã làm việc được ba năm, cô sẽ thay đổi trang điểm sang
phong cách dịu hơn. Lý do cho việc làm này là cô đã trở thành một geisha
thuần thục, và kiểu trang điểm đơn giản sẽ cho thấy nét đẹp tự nhiên của cô.
Trong một vài buổi tiệc trang trọng các geisha thuần thục sẽ vẫn trang điểm
kiểu lớp phấn trắng dày. Đối với các geisha trên ba mươi tuổi, việc trang
điểm dày chỉ được thực hiện khi biểu diễn múa đặc biệt vì tính chất buổi
diễn đòi hỏi như vậy.
1.9.3 KIỂU TÓC
Kiểu tóc của geisha đã thay đổi nhiều qua các thời kỳ lịch sử. Trong quá
khứ, có thời kỳ phụ nữ thường để xoã tóc, có thời kỳ họ lại vấn tóc lên.

16
Trong thế kỷ 17, những người phụ nữ lại bắt đầu cột tóc lên lần nữa và
trong thời gian này đã phát triển kiểu tóc truyền thống shimada - một
dạng của kiểu tóc chignon mà đa số geisha thực thụ sử dụng.
Có bốn loại kiểu tóc shimada chính: kiểu taka shimada, kiểu này thường
có búi tóc cao, được những cô gái trẻ, chưa chồng sử dụng;
kiểu tsubushi shimada, có búi tóc thấp hơn được những người phụ nữ
nhiều tuổi hơn sử dụng; kiểu uiwata, kiểu tóc có búi tóc được vấn với
một mảnh vải bông màu; và kiểu tóc mà được chia múi tương tự
như quả đào, chỉ được các maiko sử dụng.
Các kiểu tóc được trang điểm cầu kỳ với lược và trâm. Vào thế kỷ 17 và
thời kỳ sau cải cách Minh Trị, những chiếc lược khá to và dễ thấy, nói
chung là với phụ nữ thuộc tầng lớp càng cao thì kiểu dáng lược càng
lộng lẫy hơn. Sau thời kỳ cải cách Minh Trị và đến giai đoạn hiện đại,
những chiếc lược nhỏ hơn và ít lộ liễu hơn đã trở nên thông dụng hơn.
Trước đây, các geisha đã được huấn luyện việc ngủ không dùng gối mà
chỉ kê gáy lên một cái kệ nhỏ (takamakura), để họ có thể giữ cho kiểu
tóc của mình được hoàn hảo sau giấc ngủ. Để rèn luyện thói quen này,
những người hướng dẫn của họ rắc gạo quanh cái kê gáy. Nếu trong khi
ngủ, đầu của geisha lăn khỏi kệ, những hạt gạo sẽ dính vào tóc và mặt
họ.
Nhiều geisha hiện đại sử dụng tóc giả trong cuộc sống chuyên nghiệp
của họ. Các bộ tóc giả đó phải được bảo dưỡng định kỳ bởi các nghệ
nhân có kỹ năng cao. Làm tóc theo kiểu truyền thống là một nghệ
thuật đang lụi tàn dần.

KIỂU TÓC GEISHA


17
2 GEISHA NỔI TIẾNG
Teruha-“Geisha chín ngón”
Đến nay, Tehura được nhắc đến là một Geisha mà tên tuổi của bà đã
được chọn để in lên bề mặt bưu thiếp ở Thủ đô Tokyo. Tehura cũng là
một Geisha kỳ lạ từ vẻ bề ngoài với bàn tay trái có một ngón nhỏ cho tới
cuộc đời với những thăng trầm, tai tiếng vượt xa trí tưởng tượng của
mọi người

ehura là người rất thích đọc sách, cô là tác giả


của rất nhiều bài thơ và cuốn sách tại Nhật Bản
12 tuổi bị cha bán vào nhà làm Geisha

Sinh năm 1896 tại Osaka, thời con gái, Tehura có tên  Tatsuko Takaoka, là
con gái ngoài dã thú và bị cha bán cho một lò đào tạo Geisha để làm maiko
(Thực tập sinh Geisha), tại đây cô có tên khác là Chiyoha. Tehura bắt đầu
bước chân vào thế giới Geisha đầy huyền bí kể từ đó.

Thuở đầu bước chân vào nghề với Tehura là những ký ức đau buồn khi 13
tuổi, Tehura được bán cho cho một người đàn ông giới thượng lưu trong
một cuộc bán đấu giá. Sau này bà đã phát biểu: “Một cách vô thức, tôi cảm
nhận được mình đã bị ô uế mà không cách nào rửa sạch

Tehura chặt ngón tay thể hiện lòng chung thủy

Thuở thiếu nữ, cô bé Tehura 13 tuổi đã gặp gỡ và có mối tình ngọt ngào với
nam tài tử Ichikawa, nhưng cùng lúc này cũng có 2 người đàn ông ngỏ lời
cầu hôn với cô, trong đó một người là doanh nhân thành đạt Sobe Stomine.
Sobe Stomine cũng chính là người sau này đưa Tehura đến với biệt danh
“Geisha chín ngón”.

18
Mối tình niên thiếu với Ichikawa nhanh kết thúc chóng vánh, Tehura nhanh
chóng lao vào mối tình cùng Sobe. Sobe là người đàn ông đã có vợ nhưng
vì quá say mê sắc đẹp “băng thanh ngọc khiết” của Tehura mà sẵn sàng bỏ
rơi người vợ của mình! Trong một chuyến nghỉ mát tại thành phố  Beppu
xinh đẹp, Sobe tình cờ phát hiện bức ảnh chụp chung tình tứ của Tehura với
người yêu cũ, Sobe nổi trận lôi đình và quyết tâm từ bỏ Tehura mặc dù hai
người sắp tiến hành hôn lễ. Về phía Tehura, nàng không hiểu vì sao Sobe
lại giận dữ tới mức như vậy, nàng cho rằng mình có quyền giữ lại những kỷ
vật riêng tư. Để chứng minh lòng chung thủy, Tehura đã tiến hành nghi
thức Yubitsume, tức chặt ngắn ngón tay út của cô và gửi cho Sobe. Tuy
nhiên, dường như điều này không thể níu giữ tình yêu của vị doanh nhân
hào hoa này. Cuộc đời sau đó của Tehura gắn với nhiều quý ông giàu có và
mạnh mẽ. Cho mãi đến năm 22 tuổi, Tehura mới kết hôn với chồng của
mình là một người môi giới chứng khoán giàu có. Nhưng có lẽ người đàn
ông tên Sobe sẽ khiến Tehura mãi mãi không thể quên, và đó cũng là người
đưa cô đến với biệt danh tai tiếng từ Osaka đến Tokyo “Geisha chín ngón”!

Ở tuổi 39, sau khi nếm trải đủ mọi cung bậc cuộc đời, Tehura chọn cuộc
sống tu hành tại ngôi đền toàn nữ giới Gio-Ji và trở thành mộ ni sư danh
tiếng. Tehura dổi biệt danh thành Chi syo, tức là “ánh sáng thông minh”. Bà
đã viên tịch ở tuổi 99 năm 1995 tại đền Gio-Ji. Giờ đây, nhắc đến Tehura,
người ta vẫn nhớ đến một Geisah hoạt bát, đa tài, cởi mở. Bà được công
nhận là một

trong những Geisha nổi tiếng nhất mọi thời đại của Nhật Bản.

2.1 SO SÁNH GEISHA VỚI Ả ĐÀO VIỆT NAM

Với khái niệm ả đào và khái niệm geisha, hai dân tộc Việt – Nhật có chung
một cách hiểu, đó là cách gọi biểu trưng cho cái đẹp, biểu tượng của văn
hóa nghệ thuật dân tộc. Người Việt Nam hình dung Geisha như một ả
đào Nhật Bản, và có lẽ, để hiểu khái niệm ả đào, người Nhật sẽ cho rằng đó
là Geisha Việt Nam.

• Geisha

Văn hóa geisha chỉ thuần túy là văn hóa giải trí, không dính dáng
gì đến tín ngưỡng tôn giáo.Nhiều loại hình nghệ thuật geisha sử dụng
như: trà đạo, hoa đạo, hương đạo, thư pháp…Xu hướng trau chuốt
cầu kỳ, điêu luyện, khắc vàng, vẽ nét Vẻ đẹp tổng quan: như búp bê
sứ xa vời Công phu, cách điệu (hát tuồng, mặt nạ, tóc giả) Kimono
và nhiều thứ phụ kiện đắt tiền Múa và nhạc cụ: múa cây tùng, cây
bách, anh đào… nhạc cụ: đàn, sáo, trống…

 Kết luận: Kết hợp cái đẹp truyền thống và hiện đại, hơi đặc biệt,
tạo sự thu hút, hiếu kỳ

19
• Ả đào

Ả đào có nguồn gốc từ văn hóa tín ngưỡng tôn giáo dân gian, từ một nghệ
nhân chuyên hát thờ ở đình làng về sau mới trở thành một cô đầu chuyên
phục vụ giải trí cho quý tộc, trí thức Nghệ thuật hát ả đào lấy cảm hứng chủ
đạo từ triết lý của nhà Phật .Xu hướng tự nhiên chân chất, mộc mạc nhưng
sâu xa, ý vị

Vẻ đẹp tổng quan: như tranh dân gian giản dị cổ điển dễ gần hài hòa, chỉnh
chu Áo dài và áo tứ thân ( bình dân)Múa và nhạc cụ: múa bài bông, nhạc
cụ: đôi phách

 Kết luận: Thiên về cái đẹp truyền thống

3.KẾT LUẬN

Từ những nội dung trên có thể hiểu phần nào về geisha và bản chất của
những người làm nghề này họ là những người cực kỳ am hiểu văn hóa
truyền thống Nhật Bản họ biết nghệ thuật cắm hoa ikebana ,những quy tắc
những lễ nghi về trà đạo Nhật Bản ngoài ra họ còn biết đánh đàn thổi sáo
múa truyền thống những nghệ thuật truyền thống đã được chính những
người nghệ sĩ geisha gin giữ phát huy thậm chí đã truyền bá những nét đẹp
về văn hóa truyền thống Nhật Bản đến nhiều nơi trên thế giới gần xa những
người phụ nữ cực kỳ chăm chỉ phải làm việc vất vả muốn trở thành geisha
phải mất từ năm đến sáu năm trong thời gian đó họ phải học rất nhiều thứ từ
cách đi lại bằng những đôi dép cao,mặc kimono, trang điểm, làm tóc để giữ
được tóc không bị xô lệch các geisha không được nằm gói khi đi ngủ mà
phải gối đầu lên một cái giá đỡ ,việc này rất khó khăn và khiến các geisha
bị đau đầu cổ và vai gáy theo nghiên cứu bột phấn trang điểm của geisha có
nồng độ cồn chị rất cao nên có nguy cơ bị ung thư, phải chịu nhiều cực khổ
như vậy nhưng khi làm việc khi biểu diễn nghệ thuật các geisha vẫn mang
trong mình sự thanh thoát nhã nhặn quý phái họ là những người nghệ
sĩ thực sự tài ba.

20
3 TÀI LIỆU KHAM KHẢO

1- https://text.123docz.net/document/5055726-tieu-luan-cao-hoc-
geisha-trong-van-hoa-nhat-ban.htm (TRUY CẬP 12/4/2022)

2- https://japan.net.vn/geisha-la-gi-nhung-bi-mat-ve-nang-geisha-
nhat-ban-lhm-3513.htm (TRUY CẬP 12/4/2022)

3- https://baophapluat.vn/geisha-bieu-tuong-cua-nen-van-hoa-
nhat-ban-post421838.html (TRUY CẬP 12/4/2022)

4- https://ngoisao.vn/theo-dong-su-kien/ho-so-tu-lieu/cuoc-doi-2-
geisha-noi-tieng-bac-nhat-nhat-ban-p1-141118.htm(TRUY
CẬP 12/4/2022)

5- https://vi.wikipedia.org/wiki/Geisha (TRUY CẬP 12/4/2022)

21
 

22
23
24

You might also like