Professional Documents
Culture Documents
Chương 6:
Hệ thống phanh có chức năng giảm tốc độ chuyển động của xe tới vận tốc
chuyển động nào đó, dừng hẳn hoặc giữ xe ở một vị trí nhất định.
Trên ôtô sự phanh xe được tiến hành bằng cách tạo ma sát giữa phần quay và
phần đứng yên của cụm liên kết với bánh xe: giữa tang trống với má phanh hoặc đĩa
phanh với má phanh. Quá trình ma sát trong các cơ cấu phanh dẫn tới mài mòn và
nung nóng các chi tiết ma sát, nếu không xác định kịp thời và tiến hành hiệu chỉnh
thì có thể dẫn tới làm giảm hiệu quả
phanh.
1
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
- Phanh thủy lực đơn giản gồm: bàn đạp, xylanh chính, xylanh bánh xe, cơ
cấu phanh.
- Phanh thủy lực có trợ lực bàn đạp phanh, các dạng trợ lực là: trợ lực chân
không, điện từ (dùng cho ôtô nhỏ), trợ lực khí nén, thủy lực (dùng cho xe tải nhỏ và
vừa).
- Phanh thủy lực có điều chỉnh lực phanh cho bánh xe, các bộ điều chỉnh
thường dùng là: bộ điều hòa lực phanh đơn giản (trên cơ sở van hạn chế áp suất cho
các bánh xe cầu sau), bộ điều chỉnh tự động chống trượt lết (điều chỉnh sự phanh
theo khả năng chống bó cứng bánh xe ABS…).
Đa số các ôtô ngày nay sử dụng phanh chân là hệ thống phanh cơ bản, còn
phanh tay là phanh dự phòng, cơ cấu phanh đặt tại bánh xe sau vừa là cơ cấu phanh
cho phanh chân đồng thời là cơ cấu phanh cho phanh tay. Cơ cấu điều khiển là cần
phanh tay đặt trong buồng lái và nối với cơ cấu phanh bằng hệ thống đòn, cáp.
Phanh tay có cấu trúc tự khóa để người lái không phải liên tục tác động lực kéo. Hai
hệ thống phanh tay và phanh chân điều khiển độc lập, nhưng cùng cơ cấu phanh, do
vậy các hư hỏng xảy ra cần được phân tích các nguyên nhân hết sức thận trọng.
Cơ cấu phanh được sử dụng trong trong hệ thống phanh tay thường là kiểu
tang trống hay kiểu đĩa.
Hình.Kết cấu và nguyên lý hoạt động của phanh tay dẫn động phanh cơ khí.
2
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Hai guốc phanh được lắp trên đĩa tỳ cố định và lắp trên vỏ hộp số ở phía đầu ra
của trục thứ cấp hộp số.
Khi người điều khiển kéo tay phanh, tay phanh liên kết với thanh kéo làm cho
cần điều khiển cùng với cơ cấu cam điều chỉnh (Cam xoay - Chốt trượt dọc) làm cho
các má phanh cùng guốc phanh ép sát vào trống phanh, làm giảm hoặc ngừng hẳn
tốc độ quay của trống phanh. Khi người điều khiển buông tay khỏi tay phanh thì cơ
cấu con cóc hãm sẽ ăn khớp với bánh răng rẽ quạt. Như vậy, má phanh luôn ép sát
vào trống phanh làm cho ôtô không di chuyển được - Để ôtô có thể di chuyển được,
người điều khiển phải tách con cóc hãm và đưa tay phanh về trở lại vị trí ban đầu.
Lúc đó phanh tay
hết tác dụng
Hệ thống
phanh khí nén
thường gặp trên ôtô
tải, ôtô buýt loại
vừa, nặng và có thể
chia ra:
- Phanh khí
nén đơn giản có:
bàn đạp, van phanh,
máy nén khí, bộ
điều áp, bình chứa
khí nén, bầu phanh
bánh xe, cơ cấu phanh.
3
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
- Phanh khí nén có điều chỉnh lực phanh, các bộ điều chỉnh thường dùng là:
bộ điều chỉnh đơn giản, bộ điều chỉnh tự động chống trượt lết (điều chỉnh sự phanh
theo khả năng chống bó cứng bánh xe ABS…)
Hệ thống phanh thủy lực – khí nén thường gặp trên ôtô tải nhẹ và trung bình
(tổng trọng lượng 6 tấn đến không quá 22 tấn). Hệ thống phanh loại này dùng chất
lỏng điều khiển cơ cấu phanh thông qua xylanh bánh xe như hệ thống phanh thủy
lực, việc tạo áp lực cho chất lỏng nhờ hệ thống cung cấp khí nén qua van phân phối
và xylanh khí nén. Hệ thống này cho phép có các ưu điểm chung của cả hệ thống khí
nén và hệ thống thủy lực.
Việc chia hai dòng phanh có thể được thực hiện tại van phân phối khí nén hay
tại xylanh chính thủy lực.
Các dạng phân loại khác cần chú ý trong hệ thống phanh :
+ Phân loại theo kết cấu truyền lực điều khiển :dẫn động điều khiển một
dòng,hai dòng.
4
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Theo qui chuẩn của quốc tế chỉ cho phép dùng loại dẫn động điều khiển hai
dòng, các dòng điều khiển làm việc độc lập với nhau, nhằm tránh xảy ra mất phanh
cùng một lúc trên tất cả hệ thống phanh, nâng cao độ tin cậy, an toàn cho xe khi
chuyển động. Cấu trúc hai dòng có thể là: độc lập, song song (bố trí hỗn hợp).
+ Phân chia hệ thống phanh theo vị trí bố trí cơ cấu phanh : bố trí ở trong lòng
bánh xe,
bố trí ở cạnh cầu xe.
+ Phân chia theo tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng phanh:
- Loại M: M1 cho ô tô con, M2 cho ô tô buýt có tổng trọng lượng đến 5 tấn,
M3 lớn hơn 5 tấn.
- Loại N dùng cho ô tô tải: N1 cho ô tô tải có tổng trọng lượng đến 3,5 tấn, N2
từ 3,5 đến 12 tấn, N3 lớn hơn 12 tấn.
- Loại O dùng cho các loại rơmoóc và bán rơmoóc.
Khi chẩn đoán cần vận dụng linh hoạt các phương pháp chẩn đoán của hai hệ
thống thủy lực và hệ thống khí nén. Ngoài các đặc điểm chẩn đoán riêng được trình
bày ở các mục sau
Cơ cấu phanh thường có các loại chính sau: cơ cấu phanh dạng tang trống, cơ
cấu phanh dạng đĩa,…
5
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
- Guốc phanh: Hầu hết guốc phanh của xe du lịch được cấu tạo bởi hai miếng
ghép lại. Độ cong của vành guốc phù hợp với mặt trong của trống phanh, bề mặt của
vành guốc được gắn với má phanh. Guốc phanh được chế tạo từ nhôm đúc, có trọng
lượng nhẹ và tản nhiệt tốt. Guốc phanh có nhiều hình dáng khác nhau, các kiểu đa
dạng của guốc phanh được nhân dạng bằng số hiệu guốc được chỉ định bởi viện Tiêu
chuẩn vật liệu ma sát (FMSI: Frichon Materials Standards Institute)
Thông thường guốc phanh được đặt hàng theo sự chế tạo, kiểu xe, năm sản xuất đối
với từng loại xe riêng để đạt được sự chuẩn xác
- Má phanh: Ở xe du lịch và xe tải nhẹ má phanh được gắn vào guốc phanh
bằng một trong hai cách, dán keo hoặc tán rivê. Còn đối với các xe tải hạng nặng má
phanh được khoan lỗ để gắn bulong, cho phép việc thay thế dễ dàng. Tuy nhiên loại
má phanh dán thông dụng và được ưa chuộng hơn vì nó tận dụng được tối đa bề dày
của má, khi mòn không bị đinh tán cọ làm hỏng mặt trong trống phanh. Má phanh
thứ cấp luôn dài hơn má phanh sơ cấp, đôi khi má phanh được gắn ở vị trí cao hay
thấp trên guốc để thay đổi đặc tính tự kích hoạt hay trợ động của guốc phanh.
6
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Trống phanh: Có hình dáng như cái thùng được gắn vào trục bánh xe hoặc
mặt bích của moayơ, ở ngay bên trong bánh xe và cùng quay với bánh xe. Trống
phanh có bề mặt cứng chịu đượng mài mon, có độ bền vật l đeer không bị biến dạng
và hoạt động như một bộ phận tiêu nhiệt. Hầu hết trống phanh được chết tạo bằng
gang xám, chống mài mòn khá tốt, một phần do hàmlượng carbon cao cổtng gang
xám. Tuy nhiên nhược điểm củâgng là nó khá nặng và dễ nứt vỡ, vì vậy mà nhiều
trống phanh được cải tiến bằng cách chế tạo tróng có nhiều thành phần: phần giữa
làm bằng thép dập, phần vành và bề mặt ma sat làm bằng gang.
- Cơ cấu phanh đĩaCalip: Calip gồm các má phanh và piston thủy lực, được
đặt trên rotor. Calip phải đủ khỏe để chịu được lực kẹp lớn, và chịu momen của đĩa
phanh. Áp suất của các má phanh lên hai mặt đối diện của đĩa phanh phải bằng nhau
để tránh sự biến dạng của đĩa và calip, đồng thời cũng tránh sự mắc kẹt ổ bi bánh xe.
7
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
-Calip tĩnh: Caplip được định vị chắc chắn trên trục bánh xe và giữa chúng
không có sự chuyểnđộng tương đối với nhau. Thường thì mỗi calip có hai piston,
mỗi bên của đĩa phanh có một piston. Piston phía trong tác động lên má phanh phía
trong, piston phía ngoài tác động lên má phanh phía ngoài.
Trên các xe lớn, calip tĩnh có nhiều piston nhằm tạo ra sức ép lên đĩa phanh đủ lớn
để dừng xe. Calip tĩnh không còn được dùng phổ biến trong các xe đời mới vì so với
calip động, cấu tạo của calip tính có nhiều chi tiết hơn nên phức tạp hơn và đắt tiền
hơn.
Các má phanh của calip tính có thể được đẩy trượt vào trong hoặc ra ngoài sau khi
tháo một chi tiết đơn giản, vì thế khi thay thế má không cần phải tháo calip.
- Calip động : Calip động có cấu tạo đơn giản hơn calip tĩnh, thường chỉ dùng một
piston. Calip được lắp trên một giá, giá được gắn với trục dẫn hướng bằng bu lông.
Do calip được gắn vào giá nên nó có thể chuyển động tương đối theo chiều ngang so
với đĩa phanh. Khi phanh, piston tác động vào mặt trong của má phanh trong, đẩy
má phanh ép sát vào mặt đĩa, calip tác động vào má phanh ngoài, đẩy má phanh
ngoài ép vào mặt đĩa. Calip có lực đẩy má phanh ngoài nhờ lực phản lực. Điều này
được giải thích trong định luật: Trong môi tác động, lực tác động và phản lực bằng
nhau. Vì thế, khi áp suất thủy lực đẩy vào piston bao nhiêu thì cũng có phân lực đẩy
vào cuối của piston bấy nhiêu nhưng theo chiều ngược lại. Do vậy lực ép ở má
phanh bên pistton và bên calip luôn bằng nhau. Tùy vào kích thước của piston, calip
có thể tạo ra lực ép khoảng 10000 pounds (4.4545 kg).
8
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Má phanh:
Trên hầu hết các calip tĩnh má phanh phía trong và ngoài giống nhau nên có thể
hoán đổi cho nhau. Còn calip động hai má phanh trong và ngoài khác nhau. Bố
phanh (má phíp) của phanh đĩa cơ bản giống với phanh tang trống. Thông thường bố
phanh có trộn bột kim loại, bố
phanh được gắn với guốc phanh
(xương phanh) bằng đinh tán
hoặc dán keo, bề mặt bố phanh
phải phẳng để khi ép vào mặt
đĩa se được tối đa diện tích ma
sát.
năng hấp thu nhiệt độ. Một khi các bộ phận trong hệ thống, không thể hấp thu thêm
nhiệt độ được nữa, hệ thống phanh sẽ mất đi khả năng dừng xe, gây nên nguy hiểm.
Trong quá trình sử dụng các cơ cấu phanh bị hao mòn ảnh hưởng tới chất
lượng phanh, vì vậy trên cơ cấu phanh còn có các cơ cấu điều chỉnh khe hở má
phanh và tang trống hoặc cơ cấu tự động điều chỉnh khe hở như trên ôtô của hang
Toyota.
Tuy làm
giảm tốc độ theo
nguyên lư
của hệ thống
phanh tang
trống nhưng thiết
kế của phanh
đĩa vượt trội
so với phanh
tang trống.
Phanh đĩa
sử dụng một
roto mỏng, vỏ
khung cố
10
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
định kẹp lấy roto như gọng kiềm, để hăm tốc độ xe. Phanh đĩa cũng được dẫn động
bằng hệ thống dầu áp lực. Do thiết kế hở , má phanh và đĩa phanh được làm nguội
nhanh chóng nhờ gió trong khi chạy, việc thêm những lỗ nhỏ trên đĩa phanh giúp
việc giải nhiệt hoàn hảo hơn . Phanh đĩa so vói phanh trống có tác dụng đồng đều
hơn ở các bánh, do không bị ảnh hưởng của hiện tượng tự, và tính không đồng đều
khi mặt của một hệ thống má phanh có diện tích lớn như phanh trống . Dù vậy, do
không có kín, hệ thống phanh đĩa dễ bị ảnh hưởng bởi các chất bẩn như cát bụi,
nước bùn, bám vào, gây ảnh hưởng đến chất lượng phanh.
Ngày này, các hăng sản xuất không thường sử dụng hệ thống phanh đĩa 4 bánh
ở các dạng xe cỡ vừa, thay vào đó sử dụng kết hợp phanh đĩa ở bánh trước và tang
trống ở bánh sau. Sự kết hợp này nâng cao khả năng phanh của xe cũng như giúp tiết
kiệm chi phí khi sản xuất, nhờ các thiết kế tang trống cũng như phanh đĩa liên tục
được cải tiến trong suốt hơn 20 năm qua.
Kết cấu của phanh đĩa rất đa dạng, các chức năng hoàn thiện nhiều, chẳng hạn:
trong các phanh đĩa nằm trên bánh xe sau thường có cơ cấu liên động điều khiển với
phanh tay, cơ cấu tự động điều chỉnh khe hở má phanh và đĩa phanh, cảm biến đo
tốc độ quay của bánh xe… Do đó các hư hỏng xảy ra có thể là các biểu hiện không
rõ rang. Việc phân tích hư hỏng và chẩn đoán k
11
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Nếu hiện tượng mòn xảy ra còn ít thì ảnh hưởng của nó tới hiệu quả phanh là
không đáng kể, nhưng khi sự mài mòn tăng lên nhiều sẽ dẫn tới giảm đáng kể hiệu
quả phanh , đồng thời làm cho người lái phải tập trung cao độ xử lý các tình huống
khi phanh và sẽ nhanh chóng mệt mỏi.
Sự mài mòn quá mức của má phanh có thể dẫn tới bong tróc liên kết (đinh tán, hay
keo dán) giữa má phanh và guốc phanh, má phanh có thể rơi vào không gian nằm
giữa guốc phanh và tang trông, gây kẹt cứng cơ cấu phanh.
12
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Sự mài mòn tang trống có thể xảy ra theo các dạng: bị cào xước lớn trên bề mặt ma
sát của tang trống và làm biến động lớn mô men phanh, gây méo tang trống khi
phanh và có thể nứt tang trống do chịu tải trọng quá lớn.
Sự mài mòn các cơ cấu phanh thường xảy ra:
- Mòn đều giữa các cơ cấu phanh, khi phanh hiệu quả phanh sẽ giảm, hành trình
bàn đạp phanh tăng lên (nếu là hệ thống phanh thủy lực).
- Mòn không đều giữa các cơ cấu phanh, hiệu quả phanh giảm mạnh, ô tô bị lệch
hướng chuyển động mong muốn, điều này thường dẫn tới các tai nạn giao thông khi
phanh ngặt. Các trạng thái lệch hướng chuyển động thường nguy hiểm kể cả khi ô tô
chuyển động thẳng, và đặc biệt khi ô tô quay vòng và phanh gấp.
13
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
c) Bó kẹt cơ cấu phanh :Cơ cấu phanh cần thiết phải tạo cho bánh xe lăn trơn
khi không phanh. Trong một số trường hợp cơ cấu phanh bị bó kẹt do: bong tấm ma
sát gốc phanh, hư hỏng các cơ cấu hồi vị, do điều chỉnh không đúng, vật lạ rơi vào
không gian làm việc… Sự bó kẹt cơ cấu phanh còn có thể xảy ra trên cơ cấu phanh
có phanh tay và phanh chân làm việc chung trong cùng một cơ cấu phanh
Sự bó kẹt cơ cấu phanh sẽ gây mài mòn không theo qui luật, phá hỏng các chi
tiết cơ cấu, đồng thời làm mất khả năng chuyển động của ô tô ở tốc độ cao.
Sự bó phanh khi không phanh làm tăng ma sát không cần thiết, nung nóng các bề
mặt ma sát trong cơ cấu phanh, do vậy hệ số ma sát giảm và giảm hiệu quả phanh
khi cần phanh.
Khi có hiện tượng này có thể phát hiện thông qua sự lăn trơn của ô tô hay kích bánh
xe quay trơn, qua tiếng chạm phát ra trong cơ cấu…
van của tổng phanh bị mòn, bầu phanh không kín, đường ống dẫn khí bị hở. Điều
chỉnh cụm phanh không đúng, màng trong bầu phanh bị chùng.
b. Phanh bị dật
Lò xo kéo các guốc phanh bị gãy, má phanh bị gãy, khe hở má phanh và trống
phanh không đúng qui định nhỏ quá, gối đỡ má phanh mòn, trục trái đào bị rơ, tang
trống bị đảo, ổ bi moay ơ bị rơ.
Bàn đạp không có hành trình tự do: Không có khe hở giữa má phanh và tang trống,
piston xi lanh phanh bánh xe bị kẹt. Khe hở giữa cán piston và piston của xi lanh
chính quá lớn.
c. Phanh ăn không đều ở các bánh xe
Piston của xi lanh bánh xe bị kẹt (phanh dầu), điều chỉnh sai cam nhả (phanh khí),
má phanh và tang trống bị mòn, điều chỉnh sai khe hở tang trống, má phanh.
d. Phanh bị bó
Guốc phanh bị dính vào trống, lò xo trả guốc phanh bị gãy, má phanh bị tróc ra khỏi
guốc phanh. Lỗ bổ xung dầu ở xi lanh chính bị bẩn, tắc. Vòng cao su của xi lanh
chính bị nở ra, kẹt. Piston xi lanh chính bị kẹt.
e. Có tiếng kêu trong trống phanh
Má phanh mòn quá, bị chai cứng, lò xo trong guốc phanh bị gãy.
f. Mức dầu giảm
Xi lanh chính bị chảy dầu, xi lanh bánh xe bị chảy dầu.
Hệ thống phanh là một hệ thống đảm bảo an toàn chuyển động cho ô tô. Do
vậy phải chấp nhận những yêu cầu kiểm tra khắc khe, nhất là đối với ô tô thường
xuyên hoạt động ở tốc độ cao. Các yêu cầu như sau:
Phải đảm bảo phanh nhanh chóng dừng xe khẩn cấp trong bất kì tình huống
nào. Khi phanh đột ngột, xe phải được dừng sau quãng đường phanh nhanh nhất, tức
là có gia tốc phanh cực đại.
Phải đảm bảo phanh giảm tốc độ ô tô trong mọ điều kiện sử dụng, lực phanh
trên bàn đập phải tỉ lệ với hành trình bàn đạp, có khả năng rà phanh khi cần thiết.
17
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
hiệu quả phanh cao phải kèm theo sự phanh êm dịu để đảm bảo phanh chuyển động
với gia tốc chậm dần biến đổi đều đặn giử ổn định chuyển động của xe.
Tối thiểu trên ô tô phải có hai hệ thống phanh la: phanh chính và phanh dự
phòng (phanh chân và phanh tay). Hai hệ thống đều phải sẳn sàng làm việc khi cần
thiết. dẫn động phanh chân và phanh tay làm việc độc lập không ảnh hưởng lẩn
nhau. Phanh tay có thể thay thế phanh chân khi phanh chân có sự cố. Phanh tay
dùng để giử nguyên vị trí xe trên đường bằng cũng như trên dốc nghiêng theo thiết
kế ban đầu.
Lực điều khiển không quá lớn và điều khiển nhẹ nhàng, dể dàng kể cả điều
khiển bằng chân hoặc bằng tay.
Hành trình bàn đạp phanh hoặc tay phanh phải thích hợp và nằm trong phạm vi
điều khiển có thể của người sử dụng.
Khi phanh lực phanh sinh ra giửa các bánh xe trên một cầu phải bằng nhau,
nếu có sai lệch thì phải nhỏ trong phạm vi cho phép, khi thử phanh trên đường phải
giử đúng được quỷ đạo chuyển động mong muốn theo điều khiển.
Các hệ thống điều khiển có trợ lực phanh, khi bị hư hỏng hệ trợ lực, hệ thống
phanh vẩn đườc điều khiển và có tác dụng trên ô tô.
Đảm bảo độ tin cậy sử dụng của ô tô trong cảt hệ thống và các thiết bị chi tiết
trong hệ thống, nhất là các chi tiết bao kín bằng vật liệu cao su, nhựa tổng hợp.
Các cơ cấu phanh phải thoát nhiệt tốt, không truyền nhiệt ra các khu vực làm
ảnh hưởng tới sự làm việc của các cơ cấu xung quanh(lốp xe,moay-ơ…)phải dể
dàng điều chỉnh, thay thế các chi tiết hư hỏng.
Các quốc gia khác nhau đều có tiêu chuẩn riêng cho phù hợp với mức độ phát
triển kinh tế, chính gì vậy các tiêu chuẩn đều không giống nhau. Tiêu chuẩn cơ bản
trong kiểm tra hiệu quả phanh bảng 6.1 của ECE R13 Châu Âu, và của TCVN 6919-
2001 Việt Nam trong trường hợp lắp ráp xuất xưởng ô tô.
Khi phanh xe trên đường quỷ đạo chuyển động của ô tô không lệch quá 80 so
với phương chuyển động thẳng và không bị lệch bên 3,50m.
Tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng phanh chân dùng trong kiểm định lưu hành
của Việt Nam do bộ GTVT ban hành cho trong bảng 6.2. tiêu chuẩn ngành 22-
TCVN 224-2000.
18
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Củng trong tiêu chuẩn này yêu cầu cho phanh tay: khi phanh tay(phanh dừng
xe) xe được dừng trên dốc (độ dốc 20%), hay lực phanh trên bánh xe kiểm tra trên
bệ thử không nhỏ hơn 16% trọng lượng ô tô.
Chọn đoạn đường phẳng dài, mặt đường cao có hệ số bám cao, không có
chướng ngại vật. Tại 1/3 quãng đường cắm cọc tiêu chỉ thị điểm bắt đầu đạp chân
lên bàn đạp phanh.
Cho ôtô không tải gia tốc đến tốc độ quy định (v), duy trì tốc độ này cho tới vị
trí cọc tiêu phanh. Tại vị trí cọc tiêu cắt ly hợp và đạp chân lên bàn đạp và phanh
ngặt. Khi phanh đạp nhanh và giữ nguyên vị trí bàn đạp, vành lái ở trạng thái đi
thẳng, chờ ôtô dừng lại.
20
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Đo khoảng cách tờ cọc tiêu tới vị trí dừng ôtô, chúng ta gọi khoảng cách này là
quãng đường phanh. So với chỉ tiêu, đánh giá.
Phương pháp này khá thuận lợi, không đòi hỏi nhiều thiết bị nhưng nhược
điểm là độ chính xác không cao, quá trình đo phụ thuộc vào mặt đường và trạng thái
đạp phanh, dễ gây nguy hiểm khi thử trên đường.
Phương pháp tương tợ như trên, nhưng cần có dụng cụ đo gia tốc với độ chính
xác cao và xác định bằng giá trị gia tốc phanh lớn nhất trên dụng cụ đo. Đo gia tốc
chậm dần lớn nhất la phương pháp cho độ chính xác tốt có thể dùng đánh giá chất
lượng hệ thống phanh vì dụng cụ đo nhỏ gọn (gắn trên kính ôtô)
Việc tiến hành đo thời gian phanh cần đồng hồ đo thời gian theo kiểu bấm giây
với độ chính xác 1/10 giây. Thời điểm bắt đầu bấm giây là lúc đặt chân lên bàn đạp
phanh, thời điểm kết thúc là lúc ôtô dừng hẳn.
Dạng cơ bản của thiết bị đo hiệu quả phanh thông qua việc đo lực phanh ở
bánh xe là bệ thử con lăn
21
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Bệ thử bao gồm 3 bộ phận chính: bệ đo, tủ điều khiển, và đồng hồ chỉ thị
+ bệ đo là 1 thiết bị đối xứng. Trên hình 6.6 là một nửa của bệ đo kiểu thủy
lực, trên hình 6.7 là bệ đo kiểu điện. bệ đo bao gồm 2 tang trống được dẫn động
quay nhờ động cơ điện thông qua 1 hộp số. Vỏ hộp số được liên kết với vỏ động cơ
điện và cùng quay trên 2 ổ đỡ. Trên vỏ hộp số có bố trí tay đòn đo mômencảm ứng
của stator. Do vậy khi có lực cảm ứng sinh ra trên vỏ động cơ điện thì vỏ hộp số sẽ
quay đi 1 góc nhỏ tạo nên cảm biến đo mômen cảm ứng và thể hiện bằng chuyển vị
đo lực. Giữa 2 tang trống có bố trí con lăn đo tốc độ dài của bánh xe, nhằm xác định
đo tốc độ bánh xe và khả năng lăn trơn. Phía trước bệ đo có đặt bộ đo trọng lượng
đặt trên các bánh xe.
Màn hình hiển thị cho biết lực đo tại cảm biến đo lực, biểu thị mômen cảm ứng
stator. Khi phanh tới trạng thái gần bó cứng (độ trượt bánh xe khoảng 25% đến
50%) mômen cảm ứng lớn nhất và thiết bị không hiển thị các giá trị tiếp sau.
Tủ điện bao gồm mạch điện, rơle tự động điều khiển, máy tính lưu trữ và hiển
thị số liệu
+ Quy trình đo được xác định bởi nhà chế tạo thiết bị bao gồm các trình tự sau
đây: ôtô không tải, sau khi đã được kiểm tra áp suất lốp, cho lăn từ từ lên bệ thử, qua
bàn đo trọng lượng, vào giá đỡ tang trống. Động cơ hoạt động nhưng tay số để ở vị
trí trung gian, bánh xe phải cố định trên tang trống. Khởi động động cơ của bệ thử,
lúc này do ma sát của tang trống với bánh xe, bánh xe lăn trên tang trống. Người lái
đạp phanh nhanh, đều cho đến khi bánh xe không quay được nữa và kim chỉ thị của
22
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
đồng hồ bệ thử không tăng lên được nữa. Quá trình kết thúc và cho bánh xe cầu sau
tiếp tục vào bệ đo. Khi đo cho các bánh xe cầu sau, thường kết hợp đo phanh tay.
+ Các loại bệ thử có thể chỉ thị số tức thời hay lưu trữ ghi lại quá trình thay đổi
lực phanh trên các bánh xe. Kết quả đo được bao gồm:
- Sai lệch tuyệt đối và tương đối của trọng lượng giữa hai bên
- Sai lệch tuyệt đối và tương đối của lực phanh giữa hai bên
- Lực phanh đơn vị: là lực phanh chia cho trọng lượng của từng bánh xe.
- Tốc độ góc của từng bánh xe theo thời gian.
- Độ trượt của từng bánh xe theo thời gian
+ Kết quả tính toán và hiển thị bao gồm:
- Trọng lượng của ôtô đặt trên các bánh xe, sai lệch tuyệt đối và tương đối
giữa hai bên
- Lực phanh tại các bề mặt tiếp xúc của bánh xe trên cùng một cầu, sai
lệch tuyệt đối và tương đối giữa hai bên
- Quá trình phanh (lực phanh) theo thời gian
- Độ không đồng đều của lực phanh sinh ra trong một vòng quay bánh xe
tính bằng % (độ méo của tang trống)
- Giá trị lực cản của bánh xe khi không phanh (độ không lăn trơn) đồng
thời chỉ thị ra hiện tượng bánh xe bị bó cứng khi phanh
- Lực phanh trên các bánh xe cầu sau khi phanh bằng phanh tay
- Tỷ lệ giữa lực phanh và trọng lượng trên một bánh xe (%)
- Giá trị sai lệch của lực phanh giữa 2 bánh xe trên cùng một cầu, dùng để
đánh giá khả năng ổn định hướng chuyển động khi phanh
23
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Qua các thông số này cho biết: chất lượng tổng thể của hệ thống phanh, giá trị
lực phanh hay mômen phanh của từng bánh xe. Khi gía trị lực phanh này nhỏ hơn
24
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
tiêu chuẩn ban đầu thì cơ cấu phanh có thể bị mòn, hệ thống dẫn động điều khiển có
sự cố, hay cơ cấu phanh bị bó cứng (kẹt). Tuy nhiên kết quả không chỉ rõ hư hỏng
hay sự cố xảy ra ở khu vực nào, điều này phù hợp với việc đánh giá chất lượng tổng
thể của hệ thống phanh, thông qua thông số hiệu quả.
- Kết quả của việc đo phanh trên bệ thử cho ô tô con ghi lại trên giấy trong
hình 6.8
Việc đo lực phanh và hành trình bàn đạp phanh có thể tiến hành thông
qua cảm nhận của người điều khiển. Song để chính xác các giá trị này có thể dùng
lực kế đo lực và thước đo chiều dài, khi xe đứng yên trên nền đường.
Khi đo cần xác định: lực phanh lớn nhất đặt trên bàn đạp phanh, hành trình tự
do của bàn đạp phanh, khoảng cách tới sàn khi không phanh hay hành trình toàn bộ
bàn đạp phanh, khoảng cách còn lại tới sàn.
Hành trình tự do của bàn đạp phanh được đo với lực bàn đạp nhỏ khoảng (20
÷50)N, giá trị nhỏ với ô tô con, giá trị lớn với ô tô tải. Hành trình toàn bộ được đo
khi đạp với lực bàn đạp khoảng (500 ÷700)N.
Lực phanh lớn nhất trên bàn đạp được đo bằng lực kế đặt trên bàn đạp phanh,
ứng với khi đạp hết hành trình toàn bộ.
Các giá tri đo được phải so sánh với tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà sản xuất. Một
số số liệu cho trong bảng 6.3.
Khi hành trình tự do của bàn đạp phanh quá lớn hoặc quá nhỏ và hành trình
toàn bộ bàn đạp phanh thay đổi chứng tỏ cơ cấu phanh bị mòn, có sai lệch vị trí đòn
dẫn động.
Khi lực phanh lớn nhất trên bàn đạp quá lớn chứng tỏ cơ cấu phanh bị kẹt,
hoặc có hư hỏng trong phần dẫn động.
Một số số liệu của hành trình bàn đạp phanh, phanh tay
Khi đo cần xác định: lực phanh lớn nhất đặt trên cần kéo phanh tay, hành trình
toàn bộ cần kéo. Thông thường trên phanh tay có cơ cấu cóc hãm, vì vậy dùng tiếng
“tách” để xác định. Số lượng tiếng “tách” cho bởi nhà chế tạo, tham khỏa ở bảng
6.3.
25
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Tương tự như thử phanh chân, có thể đồng thời tiến hành khi thử phanh cho
cầu sau. Thông số cần xác định bao gồm:
Số lượng tiếng “tách” theo yêu cầu của nhà sản xuất.
Chọn mặt đường như đã trình bày khi thử phanh chân trên đường. Cho ô tô
chạy thẳng với tốc độ 15km/h, kéo nhanh đều phanh tay. Quãng đường phanh không
được lớn hơn 6m, gia tốc không nhỏ hơn 2m/s2, ô tô không lệch khỏi quỹ đạo thẳng.
Với ô tô con có thể cho ô tô đứng yên tại nền đường phẳng, kéo phanh tay,
dùng từ 4 đến 5 người đẩy xe về trước, xe không lăn bánh là được.
26
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Chọn mặt đường tốt có độ dốc 200. Cho ô tô dừng trên dốc bằng phanh chân,
tắt máy, chuyển về số trung gian, kéo phanh tay, từ từ nhả phanh chân, xe không bị
trôi là được.
6.2.5 XÁC ĐỊNH SỰ KHÔNG ĐỒNG ĐỀU CỦA LỰC HAY MOMEN
PHANH
Sự không đồng đều này có thể xác định độc lập của từng lực phanh sinh ra trên
các bánh xe (như đã nêu trên nhờ kết quả đo ghi).
b. Bằng cách thử xe trên đường: Các công việc chính tiến hành như sau:
Chọn mặt đường tốt khô, có độ nhẵn và độ bám gần đồng đều, chiều dài
khoảng 150m, chiều rộng mặt đường lớn từ 4 đến 6 lần chiều rộng thân xe. Kẻ sẵn
trên nền đường vạch chuẩn tim đường, cắm mốc tiêu vị trí bắt đầu phanh. Cho xe
chuyển động thẳng với vận tốc qui định và phanh ngặt, giữ chặt vành lái.Thông qua
trạng thái dừng xe xác định độ lệch hướng chuyển động ô tô, đo chiều dài quãng
đường phanh AB, và độ lệch quĩ đạo BC
Trị số lệch hướng này có thể lấy bằng giá trị trung bình của độ lệch ngang
thân xe trên chiều dài quãng đường phanh, nó biểu thị sự không đồng đều của
mômen phanh trên các cơ cấu phanh, do mòn hoặc do hư hỏng trong các đường dẫn
động (dòng dẫn động phanh). Điều kiện thử như vậy có ý nghĩa khi xem xét an toàn
chuyển động mà không chỉ rõ sự không đồng đều cho các bánh xe. Theo TCVN
224-95 độ lệch quĩ đạo khi phanh ở vận tốc qui định (30m/h với ô tô tải, buýt,
40km/h với ô tô con) không quá 8 độ hay 3,5m.
Hình Xác định độ lệch hướng chuyển động của ô tô khi phanh
Xe không tải hoặc có tải bố trí đối xứng qua mặt cắt dọc tâm xe.
Kiểm tra chất lượng bánh xe, áp suất lốp, điều chỉnh đúng góc kết cấu bánh
xe.
27
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Trên các ô tô không có bộ điều chỉnh lực phanh, bánh xe và mặt đường có chất
lượng tốt, đồng đều có thể xác định qua vết lết của các bánh xe để xác định sự không
đều này.
Cơ cấu phanh được chẩn đoán thông qua các biểu hiện chung khi xác định trên
toàn xe. Hiệu quả và chính xác hơn cả là nhờ việc xác định lực phanh hay mô men
phanh ở các bánh xe bằng bệ thử.Trên các xe tải lớn và trung bình sử dụng phanh
tang trống có lỗ kiểm tra khe hở má phanh tang trống để xác định trạng thái.
+Quan sát:
- Bằng mắt thấy các hiện tượng rò rỉ dầu phanh ở khu vực xi lanh bánh xe.
+Kiểm tra sự lăn trơn bằng cách kích nâng và quay các bánh xe, xác định sự va
chạm của má phanh với tang trống hoặc đĩa phanh.
đường ống dẫn tới xy lanh bánh xe. Sơ đồ cấu tạo của một hệ thống phanh thủy lực
đơn giản dùng trên ô tô như trên hình vẽ:
1/- Con heo cái, hay còn gọi là Xy-lanh chủ (Master Cylinder) : chứa dầu thắng
- piston - cúp-pen.
2/- Bốn heo con ở 4 bánh, cũng có piston - cúp-pen, nhận áp lực dầu từ heo cái
truyền về khi đạp thắng, thông qua các đọan ống đồng + các đọan nối bằng cao-su
co - duỗi (khi bánh xe nhún nhảy qua ổ gà...)
3/- Bình chứa dầu thắng : nằm ngay trên heo cái, hoặc nằm ở xa, truyền ống
cao su dẫn tới heo cái, có nắp thông hơi.
Sự cố thường gặp :
- bì xì, rò rỉ đường ống, hoặc các răng ống đồng lỏng hở, bị đá văng thủng các đọan
ống cao-su,v.v...
- xì dầu thắng 1 bánh trước : khi đạp thắng, tất cả dầu trong hệ thống sẽ tuôn hết ra
chỗ xì, càng nhồi pédale, càng phun xối xả -> pédale lỏng le, đụng sàn -> mất pédale
-> xe cứ lao vun vút không thể ngừng ! Hoặc xì 1 dầu ở 1 bánh sau, hay xì ở bất cứ
đâu, cũng vậy.
Các xe xưa, xe cổ, không servo trợ lực thắng, còn Master Cylinder chỉ có "một
tầng" (1 xy-lanh) như vừa nói, dù là đồ zin theo xe, nhưng tốt nhất nên ...không sử
dụng, trang bị servo trợ lực + heo cái "hai tầng" (2 piston).
-Fluid Level Sensor là cảm biến, dùng để hiện đèn báo khi cạn dầu thắng.
- piston A (của 2 bánh sau) vừa ép dầu hãm 2 bánh sau, vừa ép piston B hãm 2
bánh trước.
- khi 1 bánh trước xì dầu : dầu phun ngay chỗ xì, bánh trước còn lại mất thắng =
piston A ép dầu đẩy piston B, Piston B xì
dầu, đụng đáy xy-lanh = đường dầu 2 bánh trước phun hết dầu ra ngòai, trống rỗng -
> xe vẫn thắng tốt với 2 bánh sau ở 60km/h, đèn áp lực dầu thắng trên táp-lô báo
sáng. Vẫn chạy được an tòan đến garage sửa lại.
29
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Vậy giả sử ống dầu thứ 1 (tính từ bên phải sang) bị xì, thì cái piston thứ 1 vẫn
có thể "ủi" trực tiếp vô cái piston thứ 2, tạo lực phanh đến 2 trong tổng số 4 bánh xe
(có còn hơn không). Hoặc ống dầu thứ 2 bị xì thì vẫn còn ống thứ 1.
Nghĩa là trong trường hợp 1 trong 2 ống dầu thắng bị rò rỉ, thì người lái phải đạp
thắng sâu hơn, mạnh hơn, nhưng lực thắng thì lại giảm còn 1 nữa ...
bánh sau.
- Disk Brake Caliper : xy-lanh thắng dĩa.
Với nguyên lý hoạt động khá đơn giản , cũng được dẫn động chủ yếu bằng hệ
thống dầu áp lực , phanh đĩa có nhiều ưu điểm nổi bật so vói phanh tang trống :
- Trước tiên là hiệu quả phanh đồng đều , bất chấp xe chạy tới hay chạy lui
- Do thiết kế hở , má phanh và đĩa phanh được làm nguội nhanh chóng nhờ gió trong
khi chạy , việc thêm những lỗ nhỏ trên đĩa phanh giúp việc giải nhiệt hoàn hảo hơn .
-Phanh đĩa so vói phanh trống có tác dụng đồng đều hơn ở các bánh , do không bị
ảnh hưởng của hiện tượng tự hãm và tính không đồng đều khi mòn của một hệ thống
má phanh có diện tích lớn như phanh trống .
- Do không có vỏ kín , hệ thống phanh đĩa dễ bị ảnh hưởng của chất lạ và dị vật
trong quá trình xe chạy , cát bụi , nước dơ là nhân tố thường gặp nhất , gây ảnh
hửong xấu đến chất lượng phanh , tuy nhiên , may mắn là ở chỗ , do không bị vỏ
hộp che kín , các tạp chất này bị ảnh hưởng của lực quán tính trên đĩa phanh khi xe
chạy sẽ nhanh chóng bị bắn khỏi bề mặt đĩa .
- Dùng phanh đĩa làm phanh cố định xe ( Kiểu như phanh tay ) vẫn có nhiều bất
tiện , vì khó bố trí một co cấu cơ khí để làm việc này do kích thước nhỏ gọn của HT
phanh , ở xe hơi có khi người ta bố trí thêm một phanh tang trống nhỏ để làm phanh
tay dừng .
Người ta chia làm 2 loại phanh đĩa cơ bản , dựa theo cách hoạt động như sau :
Các má phanh nằm trong 1 vỏ khung cố định và kẹp lấy đĩa phanh khi hoạt
động tương tự như 2 gọng kìm , dầu áp lực thống giữa 2 buồng xi lanh để đảm bảo
áp suất nén ở 2 mặt của đĩa phanh là bằng nhau :
31
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Ở loại phanh 4 xi lanh , người ta bố trí từng cặp đối xứng qua đĩa phanh và mỗi
đôi má phanh nằm ở những đường kính khác nhau của đĩa phanh :
32
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Trên cùng 1 tên gọi , HT Phanh trống có vài kiểu khác nhau như sau :
33
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Khác với loại trên , trong loại phanh này , các má Phanh được bố trí theo cách
đảo đầu đuôi , để khi chạy tới , các má phanh đều có xu hướng ép thêm vào vành ma
sát , thay vì chỉ có 1 cái ép vô như loại trên kia ! Muốn vậy , họ họ bố trí hai trục
quay má phanh đảo đầu với nhau và mỗi má phanh có một lò xo phục hồi riêng rẽ ,
bên cạnh nhược điểm là khi lùi phanh không ăn như khi tiến thì ưư điểm nổi bật là
lực phanh tăng lên đáng kể với cùng 1 hệ thống dầu áp lực .
34
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
thiết. Dẫn động phanh tay và phanh chân làm việc độc lập không ảnh hưởng lẫn
nhau.
Phanh tay có thể thay thế phanh chân khi phanh chân có sự cố. Phanh tay dùng để
giữ nguyên vị trí xe trên đường bằng cũng như trên dốc nghiêng theo thiết kế ban
đầu.
- Lực điều khiển không quá lớn và điều khiển nhẹ nhàng, dễ dàng kể cả điều khiển
bằng chân hoặc bằng tay.
- Hành trình bàn đạp phanh hoặc tay phanh phải thích hợp và nằm trong phạm vi
điều khiển có thể của người sử dụng.
- Hệ thống phanh cần có độ nhạy cao, hiệu quả phanh không thay đổi nhiều giữa các
lần phanh. Độ chậm tác dụng phải nhỏ và có thể làm việc nhanh chóng tạo hiệu quả
phanh ô tô ngay sau khi vừa mới thôi phanh.
- Khi phanh lực phanh phát sinh ra giữa các bánh xe cùng một cầu phải bằng
nhau, Nếu có sai lệch thì phải nhỏ trong phạm vi cho phép. Khi thử phanh trên
đường phải đúng quỹ đạo mong muốn theo điều khiển.
- Các hệ thống điều khiển có trợ lực phanh, khi bị hư hỏng trợ lực, hệ thống
phanh vẫn được điều khiển và có tác dụng lên ô tô.
- Đảm bảo độ tin cậy sử dụng của ô tô trong cả hệ thống và các chi tiết trong hệ
thống, nhất là các chi tiết bao kín bằng vật liệu cao su, nhựa tổng hợp.
- Các cơ cấu phanh phải thoát nhiệt tốt, không truyền nhiệt ra các khu vực làm ảnh
hưởng tới sự làm việc của các cơ cấu xung quanh (lốp xe, moay ơ…) phải dễ dàng
điều chỉnh, thay thế các chi tiết hư hỏng.
Việc đánh giá kết quả tùy thuộc vào thông số chuẩn do nhà chế tạo qui định và
bảng số liệu dùng để đối chiếu cho trong bảng (đối với một ô tô con). Nhờ việc đo
áp suất có thể xác định khả năng làm việc của bộ điều hòa trên ô tô. Các thông số
kiểm tra áp suất của bộ điều hòa trên các xe cùng loại có thể không giống nhau, vì
vậy công việc này cần có tài liệu cụ thể. Một bộ số liệu của xe sử dụng tại Úc của
hãng TOYOTA cho trong bảng.
35
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Hình 28
Hình 10.46. Chẩn đoán sự làm việc của bộ điều hòa lực phanh
Số liệu kiểm tra sự làm việc của bộ điều hòa lực phanh
Áp suất sau xi lanh chính Áp suất ra cầu sau
15kG/ 15kG/
cm2(213psi=1,471kPa) cm2(213psi=1,471kPa)
80kG/ 39kG/
cm2(1138psi=7,845kPa) cm2(555psi=3,825kPa)
Đối với xe xăng thông thừong , nguồn chân không được trích từ ống hút gió ,
đối với xe dầu , người ta bố trí thêm một bơm chân không , đôi khi gắn kèm trong
máy phát điện .
Dưới đây là hình minh họa :
1-hệ thống phanh thuỷ lực trợ lực chân không 2-hệ thống phanh bằng áp lực
hơi.
Loại thứ nhất(1) thường dùng cho xe tải loại nhỏ, xe con, xe du lịch. Cấu tạo đại
khái của loại này là có một bộ xi-lanh tổng phanh, trên nó là bình dầu phanh, tiếp
đến là van phân phối sau đó là các đường ống dẫn dầu phanh sau nữa là van cân
bằng áp suất rồi đến các xi-lanh phanh con tại các bánh xe. Dầu phanh sẽ được điền
đầy trong các đường ống và trong các khoảng trống trong xi-lanh tổng phanh cũng
như xi-lanh phanh con. Khi hệ thống phanh làm việc tức là đạp phanh thì lực bàn
đạp sẽ truyền lực lên trên màng của bộ trợ lực chân không và đẩy piston trong xi-
lanh phanh chính nén dầu trong xi-lanh và truyền lực đến các xi-lanh phanh con và
36
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
đẩy các má phanh ép sát vào tăng-bua tạo nên hiệu quả phanh. Nói cách khác là lực
đạp phanh sẽ tạo nên áp lực dầu trong đường ống dẫn để điều khiển xi-lanh phanh
con tại các bánh xe hoạt động để đẩy má phanh ép sát lên tăng-bua hoặc đĩa phanh.
Loại thứ 2 (2) sẽ phải có một máy nén khí trên xe, các bình chứa hơi dươí một
áp lực nhất định và ổn định, bộ van chia các đường hơi đến bánh trước và sau,
đường ống dẫn hơi đến các bát phanh của bánh xe trước và sau. Nguyên lý hoạt
động đơn giản là khi đạp phanh có nghĩa là mở van hơi tại bộ van chia các đường
hơi để hơi áp lực lớn sẽ truyền lực đến các bát phanh và sau cùng là đến các má
phanh tại các bánh xe. Hay nói cách khác là lực điều khiển và tác dụng lên các má
phanh tại các bánh xe là nhờ áp lực hơi. Loại phanh này chỉ dùng cho các xe có tải
trọng lớn.
Khác nhau giữa hai loại là một thàng dùng áp lực dầu để truyền lực phanh, còn loại
kia dùng áp lực hơi. Tuy nhiên kết cấu phải khác nhau một chút nhưng cùng cho ra
một kết quả .
37
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
b) Dẫn động thủy lực hai dòng có cường hóa bằng chân không
B. Đối với hệ thống phanh khí nén :Các thông số chẩn đoán cơ bản
Qua phân tích và liệt kê các hư hỏng trong hệ thống phanh có thể dẫn tới các thông
số biểu hiện kết cấu chung như sau:
- Giảm hiệu quả phanh: quãng đường phanh tăng, gia tốc chậm dần trung bình nhỏ,
thời gian phanh dài.
- Lực phanh hay mô men phanh ở bánh xe không đảm bảo.
- Tăng hành trình tự do bàn đạp phanh.
- Phanh trên đường thẳng nhưng xe bị lệch hướng chuyển động.
- Không lăn trơn khi không phanh…
Đối với phanh khí:
Áp suất trong bầu phanh không đủ, bộ điều chỉnh áp suất không làm việc, dây cua
roa bị chùng làm áp suất giảm, van của máy nén bị hở, séc măng của máy nén bị
mòn, lưới lọc không khí vào máy nén bị tắc, van an toàn của máy nén điều chỉnh sai,
van của tổng phanh bị mòn, bầu phanh không kín, đường ống dẫn khí bị hở. Điều
chỉnh cụm phanh không đúng, màng trong bầu phanh bị chùng.
38
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Trên ô tô tải thường sử dụng hệ thống phanh thủy lực khí nén: cơ cấu phanh làm
việc nhờ thủy lực, điều khiển nhờ khí nén.
- Mô hình
được mô phỏng cho xe tải và xe rơ moóc
-Pít tông nén khí cùng với hệ thống van
-Tổng phanh (bộ phân phối)
-Ba bình nén khí (hai bình cho xe đầu kéo và một bình cho xe rơmoóc
-Bàn đạp phanh
-Cuộn ống dây dẫn
-Đồng hồ đo áp
-Hệ thống phanh kiểu tang trống
-Kích thước: 200x20x80cm
Khi chẩn đoán cần tiến hành các công việc cho hệ thông phanh thủy lực và các
công việc cho phần hệ thống phanh khí nén. Ngoài ra còn cần tiến hành các công
việc sau:
a) Kiểm tra áp lực khí nén sau van phân phối p (kG/cm2) tương ứng với
các vị trí góc bàn đạp phanh (β0)
-Lắp đồng hồ đo áp suất khí nén vào đầu vào của xi lanh khí nén. Đồng hồ đo có giá
trị đo lớn nhất tới 10kG/cm2.
40
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
-Nổ máy cho động cơ làm việc ổn định, áp suất khí nén đạt giá trị 7,0 kG/cm2.
Phương pháp đánh giá chất lượng hệ thống điều khiển tại van phân phối
Dùng thước đo chiều cao hay thước đo độ đo vị trí bàn đạp phanh, tương ứng với
các góc cho trong bảng, ghi lại giá trị áp suất chỉ thị trên đồng hồ.
Nếu các giá trị đo được nằm trong vùng của hai đường đậm thì van phân phối và hệ
thống thủy lực làm việc tốt. Nếu nằm ngoài cần tiến hành xem xét tiếp chất lượng
của van phân phối và hệ thống.
Phương pháp đánh giá chất lượng hệ thống điều khiển tại van phân phối
b) Kiểm tra áp lực thủy lực sau xi lanh chính p(kG/cm2) tương ứng với các vị
trí góc bàn đạp phanh (β0)
Lắp đồng hồ đo áp suất khí nén vào đầu ra của van phân phối. Đồng hồ đo có
giá trị đo lớn nhất tới 10kG/cm2.
-Nổ máy cho động cơ làm việc tới nhiệt độ ổn định, áp suất khí nén đạt giá trị
7,0 kG/cm2.
-Dùng đồng hồ đo áp suất thủy lực lắp ở đầu ra. Xả không khí trong hệ thống
sau đó vặn chặt đồng hồ đo.
-Đạp bàn đạp theo mức độ phanh nhẹ, theo dõi đồng hồ đo áp suất thủy lực,
nhận rõ trạng thái áp suất thủy lực bắt đầu gia tăng, xác định giá trị áp suất khí nén.
-Đạp bàn đạp theo mức độ chế độ phanh ngặt, theo dõi đồng hồ đo áp suất thủy
lực, đồng hồ đo áp suất khí nén, xác định áp suất khí nén cực đại và áp suất thủy lực
cực đại.
-Với loại van phân phối không chênh áp suất thủy lực giữa cầu trước và cầu
sau (loại I).
41
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
-Với loại van phân phối chênh áp suất thủy lực giữa cầu trước và cầu sau (loại
II).
Phương pháp đánh giá chất lượng hệ thống điều khiển tại xi lanh khí nén và
thủy lực
D. Đối với ô tô nhiều cầu chủ động làm việc ở chế độ luôn gài
Một số ô tô có khả năng cơ động cao sử dụng hệ thống truyền lực với nhiều
cầu chủ động. Cầu trước và cầu sau liên kết với nhau thông qua khớp ma sát và làm
việc ở chế độ luôn gài cả hai cầu. Nếu khi đo kiểm tra phanh trên bệ thử chỉ cho một
cầu, thì các giá trị đo không phản ảnh được mô men phanh trên các cơ cấu phanh
của bánh xe.
-Tháo các đăng liên kết giữa các cầu và từng cầu xe riêng biệt thử trên bệ thử
thông thường.
-Sử dụng các bệ thử có khả năng lưu trữ dữ liệu của nhà sản xuất khi thử trên
bệ thử phanh một cầu thông thường. Sau khi thử xong so sánh kết quả với số liệu
được lưu trữ.
Sử dụng bệ thử chuyên dụng cho ô tô hai cầu chủ động, thử đồng thời trên hai
cầu.Một vài dạng sơ đồ ô tô có khả năng cơ động sử dụng hệ thống truyền lực với
nhiều cầu chủ động.
42
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Các cấu trúc truyền lực trên ô to con có khả năng cơ động.
43
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Hệ thống phanh của ô tô con là một khu vực công nghệ cao của kỹ thuật hiện
nay. Các nhà chế tạo ôtô đã và đang không ngừng hoàn thiện khu vực này nhằm
44
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
thoả mãn các tiêu chí về an toàn và điều khiển. Trong khu vực này cũng còn có
nhiều vấn đề sâu hơn chưa được thông báo rõ ràng. Tác giả và các bạn đồng nghiệp
cũng có nhiều quan tâm, song do tư liệu còn hạn chế, tác giả xin trao đổi các nội
dung thiết yếu để chúng ta cùng nhau tham khảo và tạo dựng cơ sở hiểu biết về một
hệ thống thiết bị kỹ thuật trên ô tô con hiện nay.
Bố trí vị trí cảm biến của ABS trên 1 bánh xe con
45
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
- Bật khoá điện đến vị trí ON, đèn báo ABS sáng vài giây rồi tắt (đèn báo
phanh sẽ sáng nếu kéo phanh tay, và tắt khi nhả phanh tay). Sự báo sáng không tắc
của đèn ABS, thông báo có xuất hiện hư hỏng trong hệ thống. Các hư hỏng này có
thể làm mất tác dụng của hệ thống phanh, Đèn ABS (ANTILOCK, BRAKE) sáng.
- Ấn bàn đạp phanh chân, cả hai đèn đều sáng, nhả bàn đạp phanh cả hai đèn
đều tắt.
- Đạp phanh ở dạng nhồi nhiều lần, hành trình, lực đạp, phải như nhau. Nếu
thấy quá trình đạp bị mềm dần hay lún sâu hơn, chứng tỏ bị rò rỉ dầu phanh, hay bị
lọt khí vào hệ thống.
- Đạp phanh mạnh và giữ nguyên chân phanh một lúc, nếu thấy bàn đạp bị đi
xuống và đèn phanh báo không sáng ngay (mà một lúc sau mới sáng thì có sự cố rò
rỉ hay hỏng phớt trong xy lanh thuỷ lực.
- Nếu có bộ trợ lực chân không, phương thức kiểm tra như trình bày ở dưới
đây:
Kiểm tra bộ trợ lực chân không
+ Nổ máy, đạp phanh 3 lần đạt được hành trình bàn đạp như nhau.
+ Khi động cơ không làm việc, đặt chân lên bàn đạp phanh, giữ nguyên, nổ
máy, bàn đạp phanh có xu thế thụt xuống một đoạn nhỏ nữa, chứng tỏ hệ thống trợ
lực làm việc tốt.
+ Cảm nhận lực đặt trên bàn đạp tới khi đạt hết hành trình phanh, so với giá trị
tiêu chuẩn. Nếu lực bàn đạp lớn, chứng tỏ hệ thống có hư hỏng.
+ Khi làm việc có hiện tượng mất cảm giác tại bàn đạp phanh (có giai đoạn bị
hẫng chân phanh) chứng tỏ van trợ lực hỏng (mòn, nở, nứt).
+ Khi phanh mất cảm giác đạp phanh, vị trí van trợ lực bị sai lệch.
+ Trên động cơ xăng có chế hoà khí khi bị hở đường chân không, có thể dẫn
tới không nổ máy được, hay động cơ mất khả năng chạy chậm..
46
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
+ Bộ trợ lực làm việc tốt khi dừng xe, tắt máy hiệu quả trợ lực còn duy trì được
trong 2, 3 lần đạp phanh tiếp theo.
- Cho xe chạy với tốc độ chừng 30 km/h, đạp phanh êm từ từ, xe không bị giật,
quãng đường phanh chừng 10 – 15 m, bàn đạp phanh chuyển động êm, có cảm giác
đạp.
- Khi phanh mạnh hơn với tốc độ 40 km/h xe được phanh êm dịu, không có
cảm giác rung chân phanh, xe không bị lệch hướng chuyển động.
Một phương thức chuẩn đoán khác của hệ thống phanh ABS:
a. Chẩn đoán chung
Dùng chẩn đoán hệ thống phanh thông qua các thông số hiệu quả đã trình bày
ở trên, hệ thống ABS chỉ làm việc ở tốc độ bánh xe tương ứng với tốc độ từ 10 km/h
trở lên. Vì vậy khi kiểm tra trên bệ thử phanh vẫn xác định các thông số như hệ
thống không ABS.
Dùng tự chẩn đoán có sẵn trên xe.
Hình 33
Hình 10.50. Kiểm tra áp suất trên bình tích năng của ABS
Quy luật kiểm tra chung của chúng như sau:
Đưa khóa điện về vị trí ON, khởi động động cơ, đèn BRAKE hay ANTILOCK
sáng, sau đó đèn tắt, chứng tỏ hệ thống làm việc bình thường, ngược lại, hệ thống có
sự cố cần xem xét sâu hơn.
Việc tiến hành chẩn đoán sâu hơn theo phương thức đã trình bày ở phần tự
chẩn đoán của các hệ thống có tự động điều chỉnh. Các qui trình chẩn đoán phần
điều khiển thủy lực điện từ tùy thuộc vào kết cấu của các nhà sản xuất (theo tài liệu
riêng).
Sự biến động của áp suất thủy lực có thể xác định thông qua lỗ chuyên dùng
trên khối (block) điều chỉnh áp suất dầu.
b. Chẩn đoán hệ thống phanh ABS cho ô tô TOYOTA CROWN
Kiểm tra:
- Bật khóa điện về ON, đen ABS sáng, nhịp sáng đều đặn, trong vòng 3 giây
rồi tắt, báo hiệu hệ thống đã được kiểm soát và tốt.
47
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
- Nếu đèn nháy liên tục không tắt, chứng tỏ hệ thống có sự cố.
Hình 34
Hình 10.51. Tìm mã báo hỏng
Hình 35
48
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Tuy nhiên, do một vài lý do nào đó đèn báo không thấy sáng hay bị hư hỏng
đèn, có thể kiểm tra chất lượng hệ thống phanh ABS thông qua các biện pháp kiểm
tra nhanh như đã trình bày ở câu hỏi trên. Ngoài ra, một vài sự cố cần chú ý:
- Bình điện của xe quá yếu cũng được coi như một lỗi của hệ thống;
- Lắng nghe ở cơ cấu phanh, xem xét hiện tượng va chạm nhẹ của cơ cấu báo
mòn má phanh;
- Kiểm soát đường sự rò rỉ đường dầu ra cơ cấu phanh và cảm nhận về lực và
hành trình bàn đạp phanh.
Cán bộ kỹ thuật trong ga ra có thể sử dụng máy scan quét tìm hiểu sự hư hỏng
cụ thể thông qua các chương trình chuẩn đoán cài đặt sẵn. Các xe được sản xuất
trước đây dùng các đèn báo lỗi bố trí trên bộ điều khiển trung tâm (ECU-ABS) để
phát mã báo lỗi và kiểm tra hư hỏng cụ thể.
Các mã báo lỗi được ghi trong các tài liệu sửa chữa của nhà sản xuất (Không
bán kèm theo xe). Các máy scan được bán theo yêu cầu, tuy nhiên chỉ thuộc loại
thiết bị ga ra (không phải dụng cụ kèm theo xe).
Bộ điều hòa lực phanh của hệ thống phanh ABS:
Trong hệ thống phanh ABS và các liên hợp, do nhu cầu của sự ổn định thẳng
của ô tô khi phanh trên nền đường, do vậy kết cấu đảm bảo cho các bánh xe có khả
năng cân bằng lực dọc xảy ra trên ô tô là không mong muốn khi xe chuyển động
thẳng. Do vậy, trên các hệ thống có thể bố trí các bộ cân bằng áp suất:
- Cân bằng áp suất cho các bánh xe trên cùng một cầu;
- Cân bằng áp suất cho các bánh xe nằm khác mạch dẫn động của ô tô (mạch
chéo).
49
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Bộ điều hoà lực phanh sử dụng trên ô tô không bố trí ABS dùng để hạn chế sự
tăng áp suất ra cầu sau. Nếu sử dụng khái niệm này sẽ gây ra sự nhầm lẫn trong cấu
trúc của ABS, mặc dù trong một số tài liệu bằng tiếng nước ngoài coi đó là van tỷ lệ.
Kết cấu này được hiểu là bộ phận cân bằng áp suất cho cho các bánh xe khi phanh
có ABS, để làm rõ khái niệm này cần phân tích như sau:
Như đã nêu trong Phần I – Hệ thống phanh ABS, sự sai lệch hệ số bám trên
các bánh xe của các cầu có thể gây nên quay thân xe. Sự gây quay thân xe đều có thể
xảy ra trên cầu trước và cầu sau, tuy nhiên nguy hiểm hơn là trên cầu sau, vì cầu sau
thường không có khả năng điều khiển nhanh hướng chuyển động. Để giải quyết vấn
đề này, trước hết các chương trình điều khiển (trong bộ điều khiển trung tâm ECU),
không dùng chương trình điều khiển độc lập “IR”, mà lập trình điều khiển theo độc
lập cải biên “IRM”. Do tính đa dạng tải trọng của ô tô, hệ thống điều khiển IRM
không đáp ứng hoàn hảo, giải pháp cần thiết tiếp theo là bố trí thêm van cân bằng áp
suất cho các bánh xe trên hệ thống thủy lực điện từ.
Khi sử dụng tổ hợp các thiết bị đã cải biên và van cân bằng áp suất, các quá
trình thay đổi áp suất trên các bánh xe của cùng một cầu sẽ có xu hướng làm chậm
50
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
tác dụng của hệ thống, từ đó hạn chế điều chỉnh góc quay vành lái và sự quay thân
xe (xem hình ở các Phần trước).
Hiển nhiên việc bố trí van cân bằng tùy thuộc vào kết cấu của ô tô, do vậy van
cân bằng có thể bố trí trên hệ thống thủy lực với các cấu trúc:
- Cho một cầu trước;
- Cho một cầu sau;
- Cho cả hai mạch thủy lực cầu trước và cầu sau.
Như vậy nguyên tắc điều khiển “IRM” và bố trí thêm van cân bằng đều nhằm
mục đích đảm bảo khả năng giảm xoay thân xe khi phanh trên đường có hệ số bám ở
hai vết khác nhau, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi điều khiển xe bằng bành lái.
Áp suất hơi còn ảnh hưởng tới hệ thống phanh ABS:
Nhìn chung áp suất hơi lốp có ảnh hưởng tới trạng thái làm việc của ABS.
Xuất phát từ các công thức tính toán độ trượt bánh xe và sự thay đổi khả năng bám
của bánh xe trên nền.
Nếu áp suất bánh xe lớn hơn quy định, tác động của bánh xe trên nền đường sẽ
thay đổi theo hướng lớn lên, ảnh hưởng tới sự quay bánh xe phanh thông qua lực
phanh và bán kính lăn của bánh xe, dẫn tới tăng độ trượt và ABS được tiến hành
điều chỉnh sớm lên. Trong trường hợp áp suất lốp giảm, sự việc diễn ra theo hướng
ngược lại.
Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng được phân tích trong thực tế như sau: nếu áp
suất hơi lốp thay đổi trong vòng 5% (từ 2,3 bar lên 2,4 bar), bán kính bánh xe có thể
thay đổi khoảng 2%, hệ số bám thay đổi khoảng 2,5%. Qua tính toán độ trượt bánh
xe thay đổi khoảng 4%. Nếu coi độ trượt tối ưu là 0,25, giá trị sai lệch độ trượt bánh
xe sẽ là 0,25 +- 0,04. Thực chất sự thay đổi là không đáng kể và phù hợp với sự dao
dộng áp suất hơi lốp cho phép trong khai thác sử dụng.
Trong thực tế áp suất hơi lốp có thể xảy ra:
- Tăng đều quá cao và quá thấp áp suất hơi lốp trên tất cả các bánh xe.
- Sai lệch áp suất hơi lốp của một bánh xe so với các bánh xe khác, đây là
trưởng hợp nguy hiểm nhất trong sử dụng.
Ngày nay có xu hướng tăng áp suất hơi lốp để xe chạy (bon) trơn hơn, nhằm
giảm lợi giới hạn nhất định. Sự tăng quá mức, vượt quá giá trị lớn nhất ghi trên mặt
bên của lốp sẽ có thể gây nhiều bất lợi về khả năng đảm bảo an toàn của xe (kể cả xe
có và không có ABS).
51
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
3. Hư hỏng hệ thống điện tử dẫn tới thay đổi đường dẫn dầu của hệ thống thủy
lực.
Trong cả 3 trường hợp này đèn ABS trên bảng tablo sẽ luôn sáng, tín hiệu báo
sáng thông tin cho người lái biết hệ thống đang có sự cố. Việc tìm hiểu sâu hơn có
thể thông qua các mã cốt báo lỗi, điều này được xác định nhờ các gara bảo hành và
sửa chữa trong mạng chăm sóc khách hàng của nhà sản xuất.
Trong trường hợp này ứng với 3 vấn đề kể trên, có thể xảy ra các tình huống
xử lý của người sử dụng:
Hai trường hợp 1 và 2 người lái có thể tự thực hiện đưa xe vào ga ra xem xét.
Riêng trường hợp thứ 3 cần thiết phải thận trọng hơn cả. Khi đó, hệ thống phanh
thủy lực không đảm bảo làm việc bình thường do vậy có thể xử lý bằng các phương
pháp truyền thống:
- Sử dụng phanh tay điều khiển xe đến nơi sửa chữa.
- Dùng xe cứu hộ vận chuyển xe đến nơi sửa chữa.
Như vậy vấn đề được nêu ra là cần người lái có chút kinh nghiệm, để khi gặp
hai tình huống trên có thể vận hành hệ thống phanh như hệ thống phanh thông
thường, ở tình huống cuối cùng, người lái cẩn thận trọng hơn.
52
CĐÔTÔ 07A NHÓM 7
Điều này người lái có thể tự kiểm soát thông qua: việc cho động cơ nổ máy,
(đèn ABS sẽ sáng) thực hiện di chuyển xe dưới 10km/h và thực hiện phanh xe. Qua
tình trạng nhận biết được, người lái sẽ quyết định các tình thế xử lý tiếp sau.
(Tài liệu được lấy chủ yếu từ http//:quangnam.dangkiem.com và một số trang
wed khác từ các trường đại học)
53