You are on page 1of 79

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE XUÂN LỘC

LUẬN VĂN

TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM


SAU 1975

Hướng dẫn : Linh mục Martinô Phạm Phú Thứ


Thực hiện : GB. Nguyễn Mạnh Chiến
Khóa : XI

Niên khóa 2017 - 2018


Nhận xét của Cha giáo hướng dẫn:
...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

Điểm: ......................

Xuân Lộc, ngày……tháng……năm ……

Chữ ký của Chủng sinh Chữ ký của Cha giáo hướng dẫn

Gioan B. Nguyễn Mạnh Chiến Martinô Phạm Phú Thứ


MỤC LỤC

MỤC LỤC ...................................................................................................................... 1

PHẦN A ......................................................................................................................... 3

DẪN NHẬP .................................................................................................................... 3

I. ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 3

II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................................................ 3

III. GIỚI HẠN CỦA LUẬN VĂN ......................................................................... 4

IV. BỐ CỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA LUẬN VĂN......................................... 5

PHẦN B.......................................................................................................................... 6

NỘI DUNG .................................................................................................................... 6

I. TRIẾT LÝ GIÁO DỤC .................................................................................... 6

1. Triết học giáo dục .......................................................................................... 6

2. Triết lý giáo dục ............................................................................................ 7

3. Lịch sử Triết lý giáo dục ............................................................................. 11

4. Tầm quan trọng của triết lý giáo dục cho một quốc gia .............................. 14

II. LỊCH SỬ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM...................................... 20

1. Thời Nho học (Thế kỷ X – đầu thế kỷ XX) ................................................ 20

2. Thời Tân học (hay Tây học) (1858 – 1945) ................................................ 24

3. Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) 1945 – 1975 ................... 33

4. Thời Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam) 1954 – 1975 ................................. 39

1
III. VẤN ĐỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC SAU NĂM 1975 ...................................... 56

1. Triết lý giáo dục .......................................................................................... 56

2. Thực tế......................................................................................................... 61

3. Khủng hoảng triết lý giáo dục ..................................................................... 71

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 73

THƯ MỤC THAM KHẢO .......................................................................................... 75

2
PHẦN A

DẪN NHẬP

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ sau 1975 cho đến nay, hệ thống giáo dục Việt Nam luôn được gắn danh hiệu “cải

cách” và “đang phát triển”, nhưng thực tế lại là sự tụt hậu và thậm chí “lạc hướng”.1 Đối với tất

cả những ai có và còn tâm huyết với giáo dục con người thì không thể phủ nhận rằng nền giáo

dục Việt Nam đang gặp khủng hoảng lớn.

Có nhiều khuynh hướng giải thích vấn đề. Những năm gần đây, có một cách giải thích

nguyên nhân do giáo dục Việt Nam sau 1975 thiếu một nguyên lý nền tảng. Nói tắt là không có

một triết lý giáo dục. Nhiều người lạc quan (phần lớn là các nhà chính trị) cho rằng chúng ta có

triết lý giáo dục nhưng đang thực hiện; những người còn lại thì cho rằng chúng ta chưa có hoặc

có cũng như không một triết lý giáo dục phù hợp.

Từ nền tảng triết học về triết lý giáo dục, luận văn này muốn đi đến trả lời câu hỏi: nền

giáo dục Việt Nam sau 30.04.1975 có triết lý giáo dục hay không? Và nếu có, triết lý ấy còn

phù hợp không? Luận văn này nhằm mục đích góp phần vào việc định hướng đào tạo con người

Việt Nam xứng hợp với hoàn cảnh hiện nay.

II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong phạm vi triết học, luận văn này tập trung vào triết học giáo dục. Sau đó, dựa vào

triết học giáo dục, luận văn triển khai trọng tâm về triết lý giáo dục cho một hệ thống giáo dục

đặc thù của một quốc gia. Do đó, dựa vào triết sử, luận văn chỉ chọn lựa và khái quát những

triết lý có ảnh hướng đến đào tạo con người. Luận văn cũng liên quan đến nhân triết và các

thuyết nhân bản. Thêm vào đó, vì đề tài có liên quan đến Việt Nam, một nước Á Đông, nên

luận văn cũng dàn trải phạm vi tới triết học Đông phương, đặc biệt là Nho giáo.

1
X. Nguyên Ngọc, trích bởi (Hợp 2014, 33)

3
Trong phạm vi sử học, luận văn không chú trọng đến trình bày sự kiện, niên đại và ý

nghĩa chung, nhưng giới hạn trong lịch sử giáo dục của Việt Nam. Nói cách khác, lịch sử Việt

Nam được chắt lọc từ cái nhìn giáo dục và liên quan đến những sự kiện giáo dục.

Cuối cùng, trong phạm vi giáo dục học, luận văn chỉ chú trọng đến những phạm vi liên

quan đến triết lý giáo dục, dưới cái nhìn của triết học giáo dục, tức là hệ thống giáo dục, nội

dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đặc biệt là mục tiêu giáo dục: nhằm đào tạo ra con

người nào?

III. GIỚI HẠN CỦA LUẬN VĂN

Đầu tiên là nguồn tài liệu và nguồn thông tin. Đến nay, vẫn chỉ có vài đầu sách nói về

triết học giáo dục và triết lý giáo dục. Vì triết học giáo dục là ngành triết khá mới chỉ từ đầu thế

kỷ XX nên có ít tác phẩm trọn vẹn về triết học giáo dục. Hay ngay cả lý thuyết giáo dục về triết

lý giáo dục trình bày cách có hệ thống cũng chưa có. Điều này cũng thể hiện tính cách mới mẻ

của chủ đề này. Bên cạnh đó, nguồn sách lịch sử giáo dục Việt Nam cũng trình bày rất chủ

quan, lạc hậu theo phong cách chính trị hóa và tránh tối đa những vấn đề tế nhị (chủ yếu là khen

ngợi và nhắm mắt trước lỗi lầm). Do đó, luận văn buộc phải sử dụng một nguồn thông tin thứ

hai là các bài viết học thuật trên internet. Nhưng bởi rộng lớn và quá phong phú, nên việc gạn

lọc thông tin đáng tin cậy luôn là điều khó khăn.

Thứ hai là thời lượng. Luận văn này gặp giới hạn rất lớn về thời gian nghiên cứu và mức

độ tập trung thời gian cho chọn lọc thông tin, cho việc đọc nhiều nguồn số liệu, cho việc đánh

giá… gặp giới hạn do nếp sống.

Cuối cùng là giới hạn về thực tế xã hội. Vì luận văn này bàn về đề tài khá nóng bỏng và

đôi khi đụng chạm đến nhiều điều rất tế nhị, thậm chí “tối kị”, “cấm kị”, nên dù sao vẫn phải

gắng đạt tới một sự công tâm và sự thật.

4
IV. BỐ CỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA LUẬN VĂN

Luận văn này sử dụng phương pháp nghiên cứu như sau trong phần NỘI DUNG

 Phần I. Triết lý giáo dục

- Vấn đề: Triết lý giáo dục là gì? Phân biệt giữa Triết học giáo dục và triết lý giáo dục

thế nào? Tại sao nền giáo dục của một quốc gia cần triết lý giáo dục?

- Phương pháp: Trích lục, quy nạp, so sánh.

- Nguồn: Triết sử.

 Phần II. Lịch sử Triết lý giáo dục tại Việt Nam

- Vấn đề: Qua từng giai đoạn lịch sử trước 30.4.1975, giáo dục Việt Nam có triết lý

giáo dục thế nào?

- Phương pháp: Trích lục, chú giải và diễn dịch.

- Nguồn: Lịch sử giáo dục

 Phần III. Triết lý giáo dục sau 1975

- Vấn đề: Sau 1975, giáo dục Việt Nam có triết lý giáo dục không?

- Phương pháp: xem – xét – làm, trích lục, chú giải và quy nạp.

- Nguồn: Triết sử, luật và lịch sử giáo dục.

5
PHẦN B

NỘI DUNG

I. TRIẾT LÝ GIÁO DỤC

1. Triết học giáo dục

Để hiểu về triết lý giáo dục, ta cần biết những khái niệm cơ bản về một phân nhánh mới

của triết học chính thức khẳng định sự hiện diện từ khoảng nửa đầu thế kỷ XX2, đó là triết học

giáo dục. (educational philosophy hoặc philosophy of education).

a. Khái niệm

Triết học giáo dục là ngành nghiên cứu kết hợp giáo dục học và triết học. Triết học giáo

dục áp dụng các lĩnh vực triết học truyền thống như hữu thể học, siêu hình học, đạo đức học,

tri thức luận... với các phương pháp luận triết học như diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp...

để giải đáp các vấn đề liên quan đến chính sách giáo dục, các phương pháp nghiên cứu giáo

dục, cách thức xây dựng chương trình lý thuyết khung, các phương pháp sư phạm, hướng

nghiệp...

Một triết gia cũng có thể vừa là một nhà giáo dục và ngược lại, như Platon (428-348),

Aristotle (384-322), Friedrich Fröbel (1782-1852), John Dewy (1859-1952), JJ. Rousseau

(1712-1778)... Mỗi triết gia có tư tưởng triết học giáo dục khác nhau dựa theo mục tiêu đào tạo

con người mà họ hướng tới.

Tóm lại, triết học giáo dục có thể hiểu như là một bộ môn (discipline) “nghiên cứu về

bản chất và mục tiêu của giáo dục theo nhãn quan triết học”.3 Đây là sự nghiên cứu liên ngành,

kết hợp vừa suy tư triết và các phân tích khoa học và xã hội khác.

2
(Blake, Nigel; Smeyers, Paul; Smith, Richard; Standish, Paul; 2003, 1-2)
3
(Reagan 2001, 666)

6
b. Phạm vi của triết học giáo dục

Có thể giới hạn sự nghiên cứu của triết học giáo dục vào mục đích, bản chất và lý tưởng

của một nội dung giáo dục nhằm đào tạo nên con người như triết lý giáo dục quan niệm. Chủ

điểm của triết học giáo dục rất rộng như tri thức, nhận thức, bản chất của nhận thức, tâm lý và

nhận thức của chủ thể người, quản lý và thẩm quyền trong giáo dục, quan hệ giữa giáo dục và

xã hội, tâm lý giáo dục.

Triết học giáo dục có mục đích giúp người dạy học tiếp cận những chủ điểm và khái

niệm cơ bản để đạt hiệu quả trong giáo dục con người, thường xoay quanh các câu hỏi cụ thể

như: Nên dạy gì? Một cuộc sống hạnh phúc là thế nào? Kiến thức là gì? bản chất của học tập?

Họ đang cần học gì và dạy gì? Niên thiếu là sao? Nếu một người trưởng thành bị xem như trẻ

thơ thì sẽ bị ảnh hưởng thế nào?4

2. Triết lý giáo dục

a. Thuật ngữ

Cần có sự phân biệt ngắn gọn và chắc chắn hai cụm từ educational philosophy và (the)

philosophy of education trong Anh ngữ và hai cụm từ triết học giáo dục và triết lý giáo dục

trong Việt ngữ. Educational philosophy và (the) philosophy of education: khi nào mang nghĩa

triết học giáo dục và khi nào mang nghĩa triết lý giáo dục?

 Với cụm từ EDUCATIONAL PHILOSOPHY:

(1) Có khi dịch nghĩa triết học giáo dục như:

Tác phẩm A New History of Educational Philosophy của James S. Kaminsky, 1993

mang nghĩa là Lịch sử mới của triết học giáo dục 5

Tác phẩm Educational Philosophy của Neeta Arora mang nghĩa là Triết học giáo dục.

(2) Có khi dịch nghĩa triết lý giáo dục như

4
X. (Neeta 2011, 1-30)
5
(Ích 2010)

7
Tác phẩm Educational Philosophy của Neeta Arora dùng cụm từ Educational

Philosophy of Plato / of John Dewy / of John Locke thì phải được hiểu là triết lý giáo dục của…

 Với cụm từ PHILOSOPHY OF EDUCATION: cũng có 2 trường hợp tương tự nhưng

phổ biến hơn và rắc rối hơn.

(1) Có khi dịch nghĩa triết học giáo dục như

Tác phẩm Philosophy of Education: An Encyclopedia của J.J. Chambliss, 1996 mang

nghĩa là Bách khoa thư về triết học giáo dục

Tác phẩm Proto - Philosophy of Education của A.P Ogurcov và V.V. Platonov mang

nghĩa là Thời sơ khởi của triết học giáo dục 6

(3) Có khi dịch nghĩa triết lý giáo dục như

Tác phẩm John Dewey, Democracy and Education, an introduction to the Philosophy

of Education mang nghĩa là John Dewey, Dân Chủ và Giáo Dục, một dẫn nhập vào Triết lý

giáo dục7 (dịch giả Phạm Anh Tuấn)

Nhưng cũng tác phẩm của John Dewey này mà tác giả Phạm Khiêm Ích dịch là “John

Dewey, một dẫn nhập vào Triết học giáo dục”.8

Như thế là đã xảy ra sự bất nhất trong việc phiên dịch 2 cụm từ tiếng Anh educational

philosophy và (the) philosophy of education khi nào dùng từ “triết lý giáo dục” khi nào dùng

“triết học giáo dục”? Trong giới hạn bài luận này, không với mục đích đưa ra một xác chuẩn

có tính quy phạm vĩ mô (xin nhường lại cho các chuyên gia), chỉ mong gắng tìm một cách hiểu

đơn giản và nhất quán hai cụm từ trên dựa vào ngữ nghĩa trong Việt Ngữ, để đi đến việc sử

dụng nhất quán thuật ngữ Triết lý giáo dục trong bài luận này trước đã.

Vậy triết lý khác triết học ở chỗ nào? Từ điển Việt – Anh của TS. Nguyễn Đình Hòa9

phân biệt:

6
(Ích 2010)
7
(Dewey 2008)
8
(Ích 2010)
9
(Hòa 1967, 610)

8
Philosophy mang nghĩa triết học (yêu mến sự khôn ngoan) khi ta xét như là một sự

nghiên cứu (the study) một cách đặc biệt bằng kinh nghiệm và tự biện của một hệ thống tư

tưởng. Ví dụ như triết học Platon, triết học Cận Đại, triết học Đông Phương, Triết học Ấn Độ…

Philosophy mang nghĩa triết lý khi có động từ là to philosophize khi ta xét như là

philosophy OF a man or a religion – triết lý CỦA một ai hay một tôn giáo nào đó.

Như thế, khác với triết học, triết lý không phải là môn khoa học hệ thống hóa, nhưng

được tổng hợp ra từ các hệ thống tư tưởng, hệ thống nguyên lý, hệ thống triết thuyết… giúp ích

cho điều phối hành động, hoạch địch phương châm, lượng giá thành quả… Một triết lý thì vừa

tối cần và tối giản, vừa bao quát và bao hàm, vừa súc tích và rộng mở.

Theo Gs. Timothy Reagan thì philosophy of education vừa tồn tại là chuyên ngành của

triết học (nghĩa là ngành Triết học giáo dục) vừa là tín niệm của cá nhân hoặc tổ chức xã hội về

những chủ đề giáo dục (nghĩa là những Triết lý giáo dục). Như thế, triết lý giáo dục nhấn mạnh

đến “CỦA”, tức là sự sở hữu chủ quan của chủ thể làm giáo dục.

b. Khái niệm

Vậy Triết lý giáo dục là gì? Rút ra hệ quả từ sự phân tích thuật ngữ trên, chỉ xin nhấn

mạnh ở đây là sự sở hữu “CỦA”. Tức là câu hỏi Triết lý giáo dục CỦA một quốc gia, một bộ

máy giáo dục, một tổ chức, một cá nhân là gì?

John Dewey khái quát hóa “triết lý giáo dục là lý luận giáo dục xét như một thực tiễn được thực

hiện một cách có chủ tâm.”10

GM. Nguyễn Thái Hợp cho rằng “Triết lý giáo dục là định hướng và quan niệm về mục

tiêu của giáo dục. Đây là nhân sinh quan và xã hội quan chi phối tất cả bộ máy giáo dục, cơ cấu

tổ chức và phương thức quản lý”.11

10
(Dewey 2008, 390)
11
(Hợp 2014, 19)

9
Hay nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng “Triết lý giáo dục như là một tư duy cho giáo dục,

là tư tưởng gốc điều phối một nền giáo dục về mặt ý niệm.”12

Như thế, trước tiên là nội dung của một triết lý giáo dục ít nhất phải là sự định hướng

và mục tiêu của một hệ thống giáo dục để có được kết quả thực tiễn, tức là CON NGƯỜI, như

một viễn tượng sẽ thực hiện trong khả năng.

Còn về hình thức của một triết lý giáo dục? Tác giả Giáp Văn Dương có nhận định đơn

giản hơn khi cho rằng

“Một cách ngắn ngọn, triết lý giáo dục là một phát biểu ở tầm tư tưởng, nhưng cô đọng

súc tích, thường chỉ trong một câu, để ai cũng thấu hiểu và thực hiện được. Nhờ đó, triết lý giáo

dục trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động dạy và học, và rộng hơn là mọi hoạt động liên

quan phát triển con người.” 13

Triết lý giáo dục vì thế không nằm ở đâu xa, mà ở ngay sản phẩm đầu ra của hệ thống

giáo dục, tức ở những con người mà hệ thống giáo dục đó tạo ra. Nói cách khác, triết lý giáo

dục sẽ được tìm thấy trong việc trả lời câu hỏi mấu chốt nhất: Hệ thống giáo dục hướng đến

việc đào tạo con người nào?”

Sự ngắn gọn, súc tích, cô đọng thường được lấy làm tiêu chí hình thức của một triết lý

giáo dục. Bản chất của triết học là TRIỆT (triệt để, quán triệt, triệt tiêu). Một triết lý hay thường

là ý tại ngôn ngoại, lời ít nhất mà ý được nhiều nhất. Điều này chính xác và có thể được xem

như một nghiễm nhiên thường thấy và dễ thấy. Nhưng có lẽ TRIỆT không bắt buộc phải trở

thành một tiêu chuẩn cho một triết lý giáo dục hơn là nội dung cần thiết mà nó mang lại. Đòi

hỏi chỉ bao hàm trong một câu ngắn (như “tiên học lễ hậu học văn”) hoặc một vài từ (như “độc

lập, tự do, hạnh phúc”) rất cần thiết, đặc biệt trong sự khẳng định tường minh có tính thẩm

quyền của hệ thống, nhưng cũng dễ thường đem đến não trạng slogan, tâm lý cổ vũ, phát biểu

12
x. Nguyên Ngọc, “lạc hướng…”, trích từ (Hợp 2014, 32)
13
(Dương 2017)

10
lặp đi lặp lại như những chiếc máy thu thanh mà không mang lại được gì ngoài những âm thanh

phong trào.

Vì thế, một triết lý giáo dục đúng nghĩa khi nội dung của nó đề ra “hình ảnh con người

tương lai” và “hình ảnh xã hội tương lai” với mục tiêu và phương hướng đào tạo tường minh,

với hình thức khúc chiết và được công nhận minh nhiên cách có thẩm quyền.

3. Lịch sử Triết lý giáo dục

a. Khuynh hướng giáo dục con người phục vụ cho xã hội

Từ thế kỷ thứ IV B.C, Plato quan niệm con người luôn có những năng khiếu tự nhiên.

Con người lại phải sinh sống trong xã hội nên phải đóng góp cho xã hội là cái toàn thể mà con

người thuộc về. Đó là cuộc sống có ích. Sống có ích tức là cá nhân làm việc có ích nhất phù

hợp với năng khiếu tự nhiên. Do đó, Platon khai mở một triết lý giáo dục khi cho rằng “giáo

dục là huấn luyện để phát triển năng khiếu tự nhiên cách có ích nhất cho xã hội”. Triết lý của

Plato đã định ra một mục tiêu giáo dục cho mọi tổ chức xã hội đến tận thế kỷ 18. Đó là quan

niệm giáo dục cho phục vụ xã hội.14

b. Khuynh hướng giáo dục con người chỉ vì con người

Đến giữa thế kỷ XVIII, triết gia J.J Rouseau làm cuộc cách mạng lật ngược tư tưởng

giáo dục của Platon. Rouseau cũng cho rằng con người sinh ra là thiện. Nhưng xã hội có xu

hướng làm hỏng cái thiện có sẵn ấy. Ông đưa ra triết lý giào dục là “làm cho bản tính tốt đẹp

tự nhiên của con người được duy trì và phát triển, mà không đào tạo con người theo lợi ích của

xã hội. Ông khẳng định rằng nghề duy nhất của con người là “Làm người”. Triết lý giáo dục

này được xem như triết lý “vị cá nhân” mang tính “phòng vệ (negative)”.15

14
(Dewey 2008, 114-117)
15
x. (Rouseau 2008) Lời Giới Thiệu, Bùi Văn Nam Sơn.

11
c. Khuynh hướng giáo dục con người có thêm tính cộng đồng

Vào cuối thế kỷ XVIII, Emmaunuel Kant cho rằng: Nhân loại bắt đầu lịch sử trong tình

trạng bị tự nhiên khống chế với bản năng và lòng ham muốn thay vì là một sinh vật có lý trí. Vì

vậy, Kant cho rằng là: “Con người là tạo vật duy nhất cần phải được giáo dục” hay “Con

người là những gì được giáo dục tạo nên”. Kant đưa vào một triết lý giáo dục có thêm tính

“nhân loại” cộng đồng với vai trò điều hành giáo dục là của xã hội hoặc nhà nước để dung hòa

cả hai mục tiêu: “hoàn thiện con người bằng giáo dục để vừa cho bản thân vừa cho xã hội”.

Quan điểm này về sau cũng được nhắc đến ở Fiche hay Hegel.16 (Dewey 2008, tr.118 – 126)

d. Khuynh hướng “tân giáo dục”

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất hiện hai trào lưu giáo dục lớn là thực dụng luận

(Pragmatism) và trào lưu tân giáo dục ra đời ở Mỹ do John Dewey khởi xướng. Theo ông “Triết

lý giáo dục là lý luận giáo dục xét như một thực tiễn được thực hiện một cách có chủ tâm”. Bởi

vậy triết lý giáo dục nào cũng phải chứa đựng những điều cốt lõi sau đây: mục tiêu tối hậu của

giáo dục là gì? Và để đạt mục tiêu ấy cần phải hành động theo phương châm nào? Và bằng

phương pháp nào? Như thế, không có gì mới, cứu cánh của giáo dục vẫn là hoàn thiện con

người và phục vụ xã hội. Nhưng màu sắc “thực dụng vị kỷ” có xu thế nổi trội hơn.

Tư tưởng “Tân giáo dục” của Dewey phủ nhận hoàn toàn nền giáo dục truyền thống đã

từng được áp dụng từ thời Plato cho đến thời điểm đó. Bắt nguồn sâu xa từ các thuyết nhị

nguyên (chia cắt các cặp phạm trù tưởng như đối lập như con người - tự nhiên, tư duy - hành

động, lý thuyết - thực nghiệm, học - hành.v.v...). Nền giáo dục truyền thống đã tách biệt một

cách phản dân chủ giữa nhà trường và xã hội, giáo dục và cuộc sống, thày giáo và học trò.

Dewey chủ trương: “Giáo dục không chỉ như là quá trình truyền đạt mà chính là bản thân cuộc

sống; nhà trường không tách rời khỏi xã hội; và học trò là trung tâm của quá trình giáo dục.”

16
(Dewey 2008, 118-126)

12
Ở các xã hội dân chủ thì những nguyên lý giáo dục này vẫn là triết lý chính cho giáo

dục.

e. Khuynh hướng “tân tự do” và “tân phòng vệ”

Từ cuối thế kỷ XX đã xuất hiện hai khuynh hướng mới trong giáo dục. Đó là khuynh

hướng “Tân tự do” và khuynh hướng “Tân phòng vệ”. Hai khuynh hướng này đối chọi nhau về

mặt triết lý.

Khuynh hướng “Tân tự do” coi giáo dục chủ yếu là hàng hóa, đầu tư cho việc học tập

là đầu tư cho “vốn con người”.

Khuynh hướng “Tân phòng vệ” coi giáo dục chủ yếu là công ích, nhằm đào tạo những

con người của và vì xã hội - nhân loại, trùng hợp với quan điểm của Rouseau về một nền giáo

dục “phòng vệ”. Nhưng “Tân phòng vệ” không đặt nhà trường “bên ngoài” xã hội như Rouseau,

mà ngay trong xã hội phức hợp, đa dạng và bất định và coi mục đích cuối cùng của giáo dục

hiện đại là:

(1) Giáo dục là đào tạo con người đủ năng lực tổ chức và dùng trí thức mưu cầu hạnh

phúc cho cá nhân và cộng đồng thay vì chỉ nhồi nhét kiến thức.

(4) Giáo dục thực tế dựa vào hoàn cảnh, ý thức nhân vị, cách sống đối mặt với vấn đề

cá nhân và nhân loại.

(5) Giáo dục nhân cách công dân và nhân cách quốc tế: đối thoại, khoan dung trong

phức hợp và đa dạng.17

17
(Hảo 2008)

13
4. Tầm quan trọng của triết lý giáo dục cho một quốc gia

a. Sự cần thiết

Bất kỳ một nền giáo dục nào đáng gọi là một nền giáo dục đều phải bắt đầu từ một triết
lý giáo dục mà ba câu hỏi quan trọng nhất: 1. Bản chất của con người là gì? 2. Chúng ta
muốn con người trở thành thế nào? 3. Phải làm gì để có con người như ta mong muốn?
Để trả lời những câu hỏi này, ta cần đến triết học.18

Thật khó hình dung một nền giáo dục của một quốc gia mà không có hoặc chưa bao giờ

có một triết lý giáo dục nào làm phương hướng. Điều này rất hiếm. Dễ thường xảy ra hơn là

một nền giáo dục có quá nhiều triết lý giáo dục nhưng chẳng có triết lý nào chung nhất, chuẩn

mực và được khẳng định tường minh bởi nhà chức trách. Do đó, điều cần thiết của nhà quản lý

ở tầm quốc gia là sự dầy công nghiên cứu có tính chuyên môn và đầy trách nhiệm để quyết định

một triết lý giáo dục cho toàn hệ thống.

Một hệ thống giáo dục vận hành không linh hồn, không phương hướng, không bản đồ

thì dù có tốt đến mấy cũng không đạt được mục tiêu giáo dục phổ quát. Hơn thế nữa, triết lý

giáo dục của một quốc gia còn ảnh hưởng đến các hệ thống giáo dục khác như giáo dục đức tin,

giáo dục tôn giáo, giáo dục gia đình … Không có triết lý giáo dục rõ ràng tức là không có hình

tượng đào tạo con người rõ ràng. Như thế thì giáo dục trở thành chuyện may rủi, ăn xổi ở thì,

làm cho có hoặc phó cho mệnh trời. Triết lý giáo dục chính là cái hồn phổ quát cho bất cứ ai

cũng có thể thấu hiểu, từ giới bình dân đến tri thức, từ già cả đến trẻ thơ. Ai cũng đều có khả

năng áp dụng và ghi nhớ vận dụng cho tất cả và cho từng trường hợp. Triết lý giáo dục không

dành riêng cho các chuyên gia, nhưng là chuyện thường ngày và phải rõ ràng. Nói cách khác,

không có triết lý giáo dục “chui”, ai hiểu thế nào cũng được, ai cũng biết nhưng không ai dám

nói ra. Triết lý giáo dục phải tường minh, chính danh và đại chúng.

b. Ví dụ cụ thể

Thật khó để khẳng định một nền giáo dục nào mới là tốt thật, ưu việt thật… khi cái “tốt”

ngày nay hay bị lầm tưởng dưới nhãn quan kinh tế (dân giàu nước mạnh). Cái tốt này cũng có

18
(Dewey 2008, 7)

14
nhiều phần chịu ảnh hưởng của bộ mặt dân tộc hoặc các yếu tố khác chi phối. Để dễ dàng hình

dung triết lý giáo dục là gì trong thực tế, có thể xem một vài triết lý giáo dục của một số nền

giáo dục “nổi bật” những năm gần đây.

 Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ

Là một quốc gia tự do, mỗi vùng, mỗi nhà trường, mỗi cơ sở đều có thể tự lựa chọn một

hoặc nhiều triết lý giáo dục để hình thành hệ thống giảng dạy. Tuy nhiên, triết lý giáo dục

khuynh hướng tự do của Hoa Kỳ không phải một mớ hỗn độn. Triết lý giáo dục của Hoa Kỳ

thường dùng một số thuyết giáo dục chính là Thuyết bản chất (Essentialism), thuyết trường tồn

(Perennialism), thuyết tiến bộ (Progressivism), thuyết cải tạo xã hội (Social reconstructionism),

thuyết hiện sinh (Existentialism).

Thuyết bản chất (Essentialism): dạy kiến thức kinh điển và các vấn đề đạo đức căn bản.

Thuyết trường tồn (Perennialism): đào tạo nhận thức nền tảng (triết học, kiến thức, kỹ
năng sống…) nhờ hiểu các chân lý phổ quát, nền tảng và vững chắc đã được kiểm chứng
qua lịch sử. (Phương pháp đọc list “The Great Books” từ một vài trăm đến một vài nghìn
cuốn, thảo luận nhóm và viết thu hoạch).

Thuyết tiến bộ (Progressivism): đòi hỏi nội dung có liên quan đến học sinh. Triết lý giáo
dục này xoay quanh các trải nghiệm, lợi ích, nhu cầu cá nhân của học sinh và tạo hứng
thú, đam mê học tập.

Thuyết cải tạo xã hội hội (Social reconstructionism) chú tâm trực tiếp vấn đề xã hội, đề
cao sự kết hợp học với hành, dựa trên niềm tin rằng giáo dục có thể và cần phải cải
thiện, giải quyết các vấn đề xã hội.

Thuyết hiện sinh (Existentialism) từ quan điểm về tự do ý thức của để cá nhân tự tạo
dựng tương lai. Giáo dục khuyến khích hiểu và đề cao tính duy nhất hiện hữu để cá nhân
trưởng thành và tự chịu trách nhiệm.19

 Nhật Bản

Nhật Bản có nhu cầu hiện đại hóa đất nước theo mô hình của phương Tây để chống lại

chính áp lực của phương Tây. Khoảng 10 năm đầu thời Minh Trị được gọi là nền giáo dục khai

sáng quốc dân và thực nghiệp. Đến năm 1890 (năm Minh Trị thứ 23), “Sắc chỉ giáo dục” của

Thiên Hoàng Minh Trị được ban bố. triết lý giáo dục của nước Nhật từ “khai sáng quốc dân”

19
(Nam 2014)

15
sang triết lý xây dựng một quốc gia do thiên hoàng đứng đầu và cai trị vĩnh viễn dựa trên nền

giáo dục tạo ra các “thần dân” “trung quân ái quốc” có đạo đức phù hợp với các quy phạm của

Nho giáo như: trung, hiếu, phụng sự quốc gia.

Đến 1946, giáo dục hiện đại của Nhật Bản đã thể hiện rõ triết lý trong Hiến pháp và các

bộ Luật liên quan đến giáo dục được công bố trong năm 1947, tạo ra hành lang pháp lý cho cải

cách giáo dục như: Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học, Luật về tổ chức và quyền

hạn của Bộ giáo dục, Luật về Ủy ban giáo dục địa phương… Trong Hiến pháp Nhật Bản 1946

mặc dù có Điều 19 (Tự do tư tưởng và tự do lương tâm là bất khả xâm phạm), Điều 23 (Tự do

học thuật được đảm bảo), Điều 26 (quy định về bình đẳng giáo dục và giáo dục nghĩa vụ) đề

cập tới giáo dục nhưng nó không trực tiếp nhắc đến cụm từ “triết lý giáo dục”.

Tuy nhiên, hai yếu tố cơ bản của triết lý giáo dục rất rõ:

(1) “Hình ảnh xã hội tương lai”: “hòa bình”, “dân chủ” và “tôn trọng con người”. Đây

cũng được coi là ba nguyên lý nền tảng của Hiến pháp mà bất cứ một người Nhật nào cũng phải

học từ tiểu học do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội định ra này.

(2) “Hình ảnh con người mơ ước”: “khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần đồng thời

có đầy đủ phẩm chất cần thiết với tư cách là người làm chủ xã hội-quốc gia hòa bình và dân

chủ”. Tức là người CÔNG DÂN của xã hội dân chủ, hòa bình.

Triết lý giáo dục được đề ra và diễn giải ở các bộ Luật về giáo dục mà tiêu biểu nhất là

Luật giáo dục cơ bản (bộ Luật được ban hành năm 1947 và sửa đổi năm 2006).

Trước hết ở phần “Lời nói đầu” của bộ Luật:

“Quốc dân Nhật Bản chúng ta mong ước sẽ làm phát triển thêm quốc gia văn hóa và
dân chủ được xây dựng nên từ nỗ lực không ngừng đồng thời góp phần cống hiến cho
hòa bình thế giới và nâng cao phúc lợi nhân loại. Để thực hiện lý tưởng này, chúng ta
sẽ xúc tiến nền giáo dục coi trọng sự tôn nghiêm cá nhân, truy tìm chính nghĩa và chân
lý, tôn trọng tinh thần công cộng, nhắm tới giáo dục con người có tính sáng tạo và tính
người phong phú, kế thừa truyền thống và sáng tạo nên văn hóa mới.

Ở đây, chúng ta dựa trên tinh thần của Hiến pháp Nhật Bản để chế định nên bộ luật này
nhằm xác lập nền tảng của giáo dục tiến tới chấn hưng và mở ra tương lai của đất nước.”

Tiếp đó, chương đầu tiên của bộ luật được đặt tên là “Mục đích và triết lý giáo dục”.

16
“Chương I. Mục đích và triết lý giáo dục.

Mục đích:

Điều 1. Giáo dục phải nhằm hoàn thiện nhân cách con người và giáo dục nên quốc dân
khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần đồng thời có đầy đủ phẩm chất cần thiết với tư
cách là người làm chủ xã hội-quốc gia hòa bình và dân chủ.

Mục tiêu giáo dục:

Điều 2. Giáo dục để thực hiện mục đích nói trên phải tôn trọng tự do học thuật đồng
thời phải đạt cho được những mục tiêu sau:

a. Trang bị văn hóa và tri thức rộng rãi, giáo dục thái độ truy tìm chân lý, nuôi dưỡng
đạo đức và tình cảm phong phú đồng thời rèn luyện thân thể khỏe mạnh.

b. Tôn trọng giá trị cá nhân, mở rộng năng lực cá nhân, nuôi dưỡng tính sáng tạo và tinh
thần tự lập, tự chủ đồng thời coi trọng mối quan hệ với nghề nghiệp và cuộc sống, giáo
dục thái độ tôn trọng lao động.

c. Tôn trọng chính nghĩa và trách nhiệm, bình đẳng nam nữ, tôn kính và hợp tác lẫn
nhau đồng thời giáo dục thái độ tham gia vào xây dựng xã hội, đóng góp cho sự phát
triển của xã hội một cách chủ thể dựa trên tinh thần công cộng.

d. Có thái độ tôn trọng sinh mệnh, coi trọng tự nhiên và đóng góp vào việc bảo vệ môi
trường. e. Có thái độ tôn trọng truyền thống và văn hóa, yêu mến quê hương và đất nước
chúng ta nơi đã nuôi dưỡng những thứ ấy đồng thời giáo dục thái độ tôn trọng nước
khác, đóng góp vào hòa bình và sự phát triển của cộng đồng quốc tế.”

Triết lý giáo dục được luật hóa đó đã trở thành nơi hội tụ sự đồng thuận của quốc dân

Nhật và những người làm giáo dục. Vì thế cho dù có nhiều trường phái giáo dục, nhiều mô hình

trường học và cả một hệ thống trường học tư thục khổng lồ, giáo dục Nhật Bản vẫn đảm bảo

tính thống nhất khi tất cả những hoạt động giáo dục đều hướng tới và tuân thủ triết lý giáo dục

nêu trên. Trên thực tế từng ngôi trường ở Nhật cho dù là trường đại học hay trường mầm non

đều xây dựng và công bố rộng rãi triết lý giáo dục của riêng mình. Triết lý giáo dục cụ thể này

vừa dựa trên triết lý giáo dục nói chung đã được luật hóa vừa có những đặc sắc, đặc trưng riêng

phản ánh lý tưởng của ngôi trường ấy.20

 Phần Lan

Phần Lan nằm gọn trong bán đảo Scandinavi (các nước Bắc Âu gồm Thụy Điển, Đan

Mạch, Na Uy, Phần Lan). Phần Lan luôn chịu sự khắc nghiệt của thời tiết Bắc Cực với mùa

20
(Vương 2016)

17
đông 9 tháng băng giá và bành trướng chính trị của Liên xô. Kể từ sau thập niên 1970s, Phần

Lan tạo ra cuộc nhảy vọt vĩ đại về mọi mặt. Đặc biệt là mô hình giáo dục đang thu hút cả thế

giới về sự thành công kỳ diệu những thập niên gần đây. Giáo dục Phần Lan là bài học bởi xuất

phát từ điểm thấp, có triết lý đơn giản, nhân văn và thực tiễn, can đảm phá cách bằng phi lợi

nhuận và phi thành tích.

- Triết lý 21

Giáo sư Pasi Sahber, nhà giáo dục nổi tiếng, tổng giám đốc trung tâm luân chuyển và

hợp tác quốc tế của Phần Lan đã chỉ ra rằng giáo dục Phần Lan dựa trên triết lý: lòng tin - bình

đẳng - hợp tác.

Lòng tin là điều cơ bản của triết lý giáo dục của Phần Lan. Giáo dục Phần lan tin vào

khả năng đóng góp xã hội của mỗi con người. Giáo dục là phát hiện và phát huy tố chất vốn có.

Bình đẳng là điều kiện của giáo dục Phần Lan. Giáo dục không là đặc quyền của bất cứ

ai. Mọi người có cơ hội, tự do, phát triển cá tính, nguyện vọng và tài năng cho mình và lợi ích

chung. Bình đẳng không có nghĩa tập thể, “ cào bằng” như xã hội chủ nghĩa.

Hợp tác là sự kết hợp của cả xã hội dành ưu tiên cho giáo dục. Mô hình giáo dục không

chỉ là ở nhà trường, nhưng là sự liên kết chặt chẽ đầy năng động giữa học sinh - gia đình - nhà

trường, giữa giáo dục, y tế, dịch vụ phúc lợi và tất cả các dịch vụ khác.

- Mục tiêu giáo dục

Mục tiêu là tạo nên những con người hạnh phúc. Một người hạnh phúc là người phát

triển toàn diện, đây đủ khả năng lĩnh hội. Một nền giáo dục tiên tiến và rất “phá cách” với mục

tiêu nhân văn và “siêu hình”.

- Hệ thống giáo dục

Chia thành giáo dục phổ thông 9 năm và giáo dục chuyên nghiệp sau đó. Học sinh sẽ

được chọn lựa hai hướng: thực nghiệm hay lý thuyết chuyên sâu. Có hình thức transfer toàn

21
(Duyệt 2014)

18
cầu để chuyển ngành, đất nước, trường, một thời hạn hoặc vĩnh viễn vì hệ thống Phần Lan liên

kết và tương đương với hầu hết các hệ thống tiên tiến trên toàn thế giới. Tất cả hệ thống học tập

(ngay cả đại học) đều miễn phí hoàn toàn. Nghiên cứu sinh được cho vay tiền học trả sau khi

có việc làm. Nhà nước hỗ trợ tiền nhà và tiền chi tiêu học hành qua phúc lợi xã hội.

- Nội dung và phương pháp giáo dục

Bãi bỏ phương pháp đánh giá bằng thành tích học tập: không chấm điểm bài làm trước

lớp 5, không thi cử trước 18 tuổi, không thanh tra, không kiểm duyệt. Phát hiện và giải quyết

vấn đề khó khăn học tập, tâm lý, thể chất lập tức bằng hợp tác nhiều lĩnh vực: cho giáo viên

kèm riêng sau giờ học, trò chuyện, tâm sự với các chuyên gia tâm lý, y tế. Nền giáo dục Phần

Làn là nền giáo dục “thoải mái” hàng đầu thế giới (1 năm học 640 giờ so với Anh 899 giờ, Pháp

847 giờ, Nhật 800 giờ) nhưng lại có thành tích đáng nể về học tập.

- Giáo chức 22

Giáo viên tại Phần Lan là một chuyên gia giáo dục. Họ buộc phải có thạc sĩ trở lên. Họ

là chủ thể, được tự quyết định nội dung giảng dạy, phương pháp sư phạm và cách đánh giá.

Lương trung bình khoảng 2500 – 3000 Euro/ tháng. Không áp lực, không thanh tra, không thi

đua, không thi giáo viên giỏi, chiến sĩ thi đua… Trong nhà trường hạn chế các hội, đoàn, tổ

chức chi phối giảng dạy. Hệ thống giáo dục tin vào người học và người dạy.

Quốc hội thiết lập những nguyên tắc cơ bản của chính sách, cung cấp kinh phí thông

qua Bô Giáo dục. Ban giáo dục Quốc gia chỉ vạch ra chương trình, phát triển đội ngũ giáo viên

và cung cấp dịch vụ liên quan. Nhìn chung, vài trò của giáo viên rất chủ động. Nhà nước chỉ

đóng vai trò hướng dẫn và hỗ trợ hơn là cai quản.

22
X. Nguyễn Khánh Trung (Hợp 2014, 82-84)

19
II. LỊCH SỬ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM

1. Thời Nho học (Thế kỷ X – đầu thế kỷ XX)

a. Triết lý giáo dục

Triết lý giáo dục của Nho học xoay quanh chữ NHÂN với mục tiêu rõ ràng là đào tạo

người QUÂN TỬ để làm quan. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người trí thức văn hay chữ tốt,

có năng lực diễn đạt để làm nền tảng cho một đời sống theo tiêu chuẩn của những điều được

học.

10 thế kỷ Nho học đã xây dựng nên một nền giáo dục đồ sộ với sự phát triển của nền

văn hóa bác học (từ tầng lớp nho sĩ và tu sĩ). Tinh thần dân tộc, tinh thần nhân vị và nếp sống

Nho giáo đã có tầm ảnh hưởng và làm nên ”chất” con người Việt Nam cho đến hôm nay. Chữ

Nôm xuất hiện thể hiện tinh thần dân tộc cao quý. Văn học phát triển vượt bậc với bầu trời sao

các danh nhân, thi sĩ, nghệ sĩ, danh tướng, bác học... như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn

Du, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh... Người Việt Nam sống nhân sinh quan và xã hội quan

chuẩn mực, tư cách, trách nhiệm và khí chất.

b. Hệ thống giáo dục

Việt Nam tiếp xúc và học chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc (khoảng 1000 năm). Nền giáo

dục thời Bắc thuộc không có mục đích dạy học người Việt nhưng chủ yếu cho người gốc Hán.

Hệ thống giáo dục Nho học có tổ chức bắt đầu kể từ khi độc lập23

23
X (Lương 2015)

20
Thời mới dành độc lập từ Bắc thuộc (939 – 1009): triều Ngô, Đinh, Tiền Lê. Học trong
các chùa, trường tư (tư gia) nhưng không phát triển.

Triều đại nhà Lý (1010 – 1225) nhà Lý 215 năm trải qua 9 đời Vua. Nho học tách ra
khỏi chùa để chọn quan lại qua khoa cử.

Triều đại nhà Trần (1225 – 1400) nhà Trần 175 năm qua 12 đời vua. Tiếp tục chủ trương
giáo dục nhà Lý nhưng quy củ và chính quy hóa hơn rất nhiều. Mở Quốc Học Viện tại
Kinh Thành. Chức học làm quan ở Lộ, Phủ, Châu. Nhà Nho mở lớp học tư. Chữ Nôm
xuất hiện.

Triều đại nhà Hồ (1400 - 1407), tồn tại 7 năm tiếp tục dạy, học, thi của nhà Trần, tiếp
tục triển khai và có những cải cách mới. Dịch Kinh thư ra chữ Nôm để dạy học. Nhà Hồ
duy trì hoạt động của Quốc Tử Giám, lập các trường học ở các phủ, lỵ, tổ chức kỳ thi
Thái học sinh, chọn được 20 người tài trong đó có Nguyễn Trãi.

Triều Lê Sơ (1428 - 1527) kéo dài 99 năm, trải qua 10 đời vua. Mở mang việc giáo dục
thi cử và xây dựng một chế độ đào tạo nho sĩ và quan lại rất chính quy. Ở kinh thành có
Quốc Tử Giám hay Thái học viện; ở các vùng đồng bằng có các trường quốc lập và
trường tư thục. Chế độ thi cử nề nếp, quy củ. Nhìn chung chế độ giáo dục, thi cử đời Lê
có phần rộng rãi hơn trước, bên cạnh những con em quý tộc, quan lại còn cả con em
bình dân đều được đi học và đi thi.

Triều đại nhà Mạc (1527 - 1592) tồn tại 66 năm, trải qua 5 đời vua. Dưới triều đại nhà
Mạc nhiều người đỗ đạt, không ra làm quan, về quê mở trường dạy học như Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Nhà Mạc đã mở 19 khoa thi Đình, có 438 tiến sĩ, trong đó có 11 trạng
nguyên, 11 bảng nhãn, 19 thám hoa. Nhà Mạc trở thành triều đại thi Đình lấy tiến sĩ đều
đặn nhất.

Triều đại Hậu Lê (Lê Trung Hưng) (1533 – 1788) tồn tại 255 năm. Trường công mở tới
cấp phủ, trường tư tồn tại đến cấp xã, duy trì thi Hương, 3 năm một lần thi Hội. Tổ chức
được 23 khoa thi Đình, lấy đỗ 343 tiến sĩ.

Thời các Chúa Nguyễn, khởi đầu là Nguyễn Hoàng (1600 - 1613) cuối cùng là Nguyễn
Ánh (1780 - 1802) có 10 đời chúa. Dù việc tổ chức thi cử chưa bằng Đàng ngoài, nhưng
để đáp ứng tình hình thực tế, các khoa thi hoa văn, thám phóng, tam ty đã được mở để
chọn những người ra làm việc. Bắt đầu xuất hiện chữ Quốc Ngữ bởi các Cha truyền
giáo từ Pháp.

Dưới thời Tây Sơn (1778 - 1802) quan tâm chấn hưng văn hóa, giáo dục: lập các nhà
học, chọn Nho sĩ có trình độ làm giảng dụ tại các nhà học; tổ chức thi Hương chọn người
tài, lấy hạng ưu học quốc học, hạng thứ học trường phủ. Vua Quang Trung coi trọng
người tài, tập hợp các người tài Nho học thời đó phục vụ cho các hoạt động quân sự,
ngoại giao và coi việc dạy học như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Ninh Tốn, Nguyễn
Cầu, Nguyễn Du, Nguyễn Thiệp... Quang Trung rất coi trọng dạy và học chữ Nôm, giấy
tờ giao dịch trong triều đình viết bằng chữ Nôm.

Triều Nguyễn tồn tại 143 năm (1802 - 1945) trải qua 13 đời vua. Về tổ chức dạy và học,
cơ bản là rập khuôn Triều Lê. Tại triều có bộ lễ lo việc quản lý dạy, học trong nước. Ở
các trấn vua Gia Long đặt các quan đốc học, phụ trách việc học tập. Triều Nguyễn chủ
trương dạy học bằng chữ Nôm trong các trường học, tiếp tục duy trì chế độ giáo dục
Nho học. Ở Phú Xuân triều Nguyễn cho xây nhà Quốc học, giữ vai trò như Quốc Tử
Giám là trung tâm giáo dục đào tạo của cả nước. Ở các địa phương triều Nguyễn lập các
trường công và trường tư. Về thi cử, triều Nguyễn tổ chức thi Hương, thi Hội, đến vua
Thiệu Trị tổ chức thi Đình.

21
Tóm lại, thi cử phải kiểm tra kết quả mới được thi Hương, đậu thi Hương mới thi Hội,

đạt yêu cầu thi Hội mới được thi Đình. Trường học thì phần lớn là nhà riêng của ông thầy, hoặc

ở chùa hay ở đình, miểu trong làng. “Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo

thụ, dạy Tứ Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao

đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền giám đốc

của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian thì xưa nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học thì

có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan

trí sĩ, có người dạy đến trăm nghìn học trò.”24

c. Nội dung giáo dục

Chương trình học thì gồm Tam Tự Kinh, Sơ Học Vấn Tân, Ấu Học Ngũ Ngôn Thi,

Dương Tiết và Minh Tâm Bửu Giám ở cấp vở lòng, xong rồi thì học Bắc sử (tức sử Tàu) và Tứ

Thư Ngũ Kinh. Tất cả những sách này được viết bằng chữ Hán, chú trọng hầu hết vào triết lý,

luân lý, đạo đức, không có ý niệm khoa học kỹ thuật. Nội dung của nền giáo dục Nho học Việt

Nam thời phong kiến coi trọng giáo dục đạo đức. Người nông dân học nông nghiệp một cách

tự phát, người buôn bán cũng vậy, các nghề thủ công như mộc, nề, xây dựng, kể cả khai mỏ,

luyện và đúc sắt, cơ khí... cũng được truyền lại bằng phương pháp kèm cặp thông qua tổ chức

phường hội và trực tiếp tham gia sản xuất, chứ không có trường lớp, sách vở, chương trình.

d. Phương pháp giáo dục

Phương pháp giáo dục kinh viện và giáo điều. Mỗi tháng giáo quan định một số ngày

giảng sách; đến giờ đó, học trò đến giảng đường để nghe giáo quan giảng nghĩa Tứ thư, Ngũ

kinh. Mỗi tháng, mỗi quý có một số kỳ tập làm văn. Khi giáo quan chấm xong, thì tập hợp học

sinh lại để trình bày và cho điểm theo 4 loại: ưu, bình, thứ, liệt. Trẻ vỡ lòng đã được dạy những

câu nghĩa lý. Trẻ em phải học thuộc lòng; lớn lên ít tuổi thì học văn chương, (câu đối, câu thơ)...

chủ yếu học truyện nước ngoài.

24
(Anh 2014, 237)

22
Như Đào Duy Anh tả:

Thầy thì cứ nhắm mắt mà giảng chữ nào nghĩa nấy chỉ sợ sai mất nghĩa của Tống Nho.”
Phương pháp học hỏi thì hoàn toàn dựa vào sự học thuộc lòng thu gọn vào trong công
thức “sôi kinh nấu sử” tức là học tới học lui mãi cho đến khi nào thuộc nằm lòng Tứ
Thư Ngũ Kinh và Bắc sử. Người đi học thực tập nhiều nhất là viết chữ cho thật đẹp như
“phụng múa rồng bay”, làm thơ, làm phú, kinh nghĩa, văn sách, chế chiếu, biểu, câu đối,
cho thật nhanh, thật khéo và thật chỉnh, dùng được càng nhiều điển tích càng hay để có
thể đậu được các kỳ thi do triều đình tổ chức. Tất cả các kỳ thi đều là thi tuyển và chỉ
nhắm vào một kỷ năng của thí sinh là làm văn làm thơ dưới nhiều dạng như thơ đường
luật, kinh nghĩa, văn sách, v v … Thường thì ba năm mới có một khoa thi, và đi thi là
cả một vấn đề khổ nhọc cho sĩ tử vì trường thi ở xa, đường giao thông khó khăn, phương
tiện giao thông còn rất thiếu kém. Thi đậu được thì có thể ra làm quan, không thì lui về
làm thầy đồ thầy khóa, “tiến vi quan, thối vi sư” vậy.25

25
(Anh 2014, 239)

23
2. Thời Tân học (hay Tây học) (1858 – 1945)

a. Triết lý giáo dục

Những quốc gia Đế quốc mang một triết lý giáo dục là “đồng hóa”. Người bản xứ được

lý tưởng hóa biến thành người Pháp về văn hóa. Vốn tự hào về truyền thống văn minh và khai

sáng, những nhà trí thức Pháp không những không mang tâm địa “ngu dân” để dễ trị như ta lầm

tưởng với giặc Minh năm nào, mà còn tự cho mình sứ mạng cao cả là đem văn hóa Pháp, văn

minh khoa học Âu Tây phổ biến khắp nơi. Do đó, nhiều nhà toàn quyền, thống đốc cho mở rất

nhiều trường, ở nhiều nơi.

Nhờ vậy triết lý giáo dục “Pháp hóa” đã thức tỉnh đầu óc từ chương cục bộ của Nho gia,

sản sinh ra một tầng lớp người Việt vừa giỏi tiếng và văn hóa Tây, vừa thạo tiếng Quốc ngữ và

yêu dân tộc. Sự mặc cảm của “con trâu và cái cày” được thay thế nhờ nền giáo dục triết lý khai

sáng trong nền văn minh công nghiệp, triết lý nhân quyền, dân quyền, dân chủ, nhà nước pháp

quyền, pháp trị. Xã hội “nửa thuộc địa, nửa phong kiến” đã xuất hiện những đốm sáng kỳ diệu.

Những ngôi sao sáng nhân sĩ trí thức tài và đức xuất hiện rất nhiều trong thời Tây học.

Họ sống nếp sống nhân bản của kẻ sĩ và tri thức của những con người được khai minh. Sự giao

thoa kỳ diệu đó hình thành những con người kiệt xuất, lỗi lạc, và cũng thông thái mà cho đến

ngày nay chưa có một thế hệ nào sánh được như Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Trần Đức

Thảo, Tạ Quang Bửu, Petrus Trương Vĩnh Ký, Phan Thanh Giản (Trạng Nguyên miền Nam

duy nhất),… hay cả những nhà cách mạng Cộng sản (phủ nhận tư bản) như Hồ Chí Minh, Phạm

Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp.

Và từ 1930 trở đi, xuất hiện phong trào Thơ Mới và nhóm Tự lực văn đoàn, tạo một ngã

rẽ độc nhất cho văn học nghệ thuật Việt Nam. Chữ quốc ngữ và nghệ thuật ngôn từ của nó được

tầng lớp trí thức Tây như Khái Hưng, Thạch Lam, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… đưa lên đỉnh cao.

Người tri thức được khai sáng vừa lãng mạn, vừa khí khái, vừa nhân bản và yêu thương, vừa

anh hùng và thương người… Một số bị hiểu lầm là “cõng rắn cắn gà nhà”, một số bị biến chất

24
thật. Nhưng nhìn chung, người Pháp đã thành công trong triết lý khai sáng, nhưng lại không

thành công hoàn toàn trong triết lý đồng hóa.

Về hệ thống giáo dục, thời Tây học mở đường bằng phong trào Duy Tân và trường Đông

Kinh Nghĩa Thục chống lại hệ thống giáo dục của chính quyền bảo hộ. Tri thức khai sáng vượt

qua lằn răn chính trị. Cụ Phan Chu Trinh đưa ra triết lý “dân trí, dân khí, dân quyền” cho giáo

dục. Đây có lẽ là triết lý giáo dục đầu tiên của một người Việt Nam có tính triết lý sâu sắc. Triết

lý giáo dục naày ừa tạo ra phong trào phê phán “hư học”, cổ động cho “thực học, thực nghiệp”,

coi trọng hướng nghiệp hơn đọc sách thánh hiền cách máy móc. Thương nghiệp được coi như

một nghề chuyên môn đã khai sáng trật tự xã hội cổ hủ: sĩ – nông – công – thương. Đồng thời,

phong trào Đông Du của Phan Bội Châu khởi xướng đã “mở não” những kẻ sĩ ôm khư khư

cuốn sách học thuộc, lên đường ồ ạt xuất ngoại du học, đến nỗi toàn quyền Paul Beau (1902 –

1907) phải thành lập Cao Đẳng và Đại học Pháp tại Việt Nam để ngăn chặn phong trào này.

b. Hệ thống giáo dục

Pháp chính thức đặt chân vào Việt Nam tại cửa biển Đà Nẵng năm 1858, dùng vũ lực

quân sự biến Việt Nam thành một thuộc địa đến 1945. Khi đô hộ Việt Nam, nhu cầu cấp bách

của người Pháp là phải hủy diệt nền Nho học và thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ

cho guồng máy cai trị. Do đó, chiếm được Nam Kỳ xong là người Pháp lập tức khai tử nền giáo

dục Nho học. Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây

trước khi bị Pháp chiếm). Từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan hành chánh

được thay thế bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, dưới quy chế bảo hộ,

sự thay đổi về giáo dục chậm hơn. Kỳ thi Hương cuối cùng ở Bắc là năm Ất Mão 1915, và ở

Huế năm Mậu Ngọ 1918. Chế độ giáo dục và khoa cử Nho học thực sự cáo chung với khoa thi

Hội chót năm Kỷ Mùi 1919 ở Huế.

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục

thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục

25
Pháp-Việt gồm 2 phần: giáo dục phổ thông và giáo dục cao đẳng chuyên nghiệp, đại học. Từ

1910 đến 1930 là thời kỳ hình thành hệ thống giáo dục. Từ 1930 đến 1945 là thời kỳ tổ chức hệ

thống giáo dục cho người bản xứ của Pháp ở Việt Nam hoàn chỉnh.

- Hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt có 3 bậc với học trình là 13 năm26

26
(San 2018)

26
Bậc Tiểu Học 6 năm:

Lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin)

Lớp Dự Bị (Cours Préparatoire)

Lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire)

Ba lớp đầu này còn được gọi là bậc sơ học. Học xong lớp Sơ Đẳng học sinh thi lấy bằng
Sơ Học Yếu Lược (Primaire Élémentaire)

Lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen 1ère année) (học sinh được tuyển thẳng không bắt
buộc phải thi Sơ Học Yếu Lược)

Lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2è année)

Lớp Nhất (Cours Supérieur)

Học hết lớp Nhất được thi bằng Tiểu Học Yếu Lược hay Sơ Đẳng Tiểu Học (Certificat
d'Études Primaire Franco-Indigène, viết tắt là CEPFI), phải có bằng này mới được dự
tuyển học lên lớp trên.

Bậc Cao Đẳng Tiểu Học (Primaire) 4 năm:

Học xong 4 năm được thi lấy bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d'Étude Primaire
Supérieurs Franco-Indigène) còn gọi là bằng Thành Chung. Phải có bằng Thành Chung
mới được dự thi lên bậc Trung Học tức bậc Tú Tài. Các trường dạy bậc Cao Đẳng Tiểu
Học được gọi là Collège.

Bậc Trung Học (Enseignement Secondaire) 3 năm:

Còn được gọi là bậc Tú Tài Pháp-Việt. Học xong 2 năm đầu được thi lấy bằng Tú Tài
phần thứ nhất (Baccalauréat, 1ère partie). Đậu bằng này được học tiếp năm thứ ba không
phải thi tuyển.

Năm thứ 3 được chia làm 2 ban: ban Triết và ban Toán. Hai ban có những môn học hoàn
toàn giống nhau như Sử. Địa, Ngoại Ngữ. Có những môn giống nhau nhưng số giờ học
khác nhau như Đại Số, Thiên Văn. Có những môn chỉ học ở ban này mà ban kia không
có như ban Triết có Tâm Lý Học, Siêu Hình Học, ban Toán có Hình Học, Cơ Học, Số
Học.

Từ niên học 1937-1938 trên toàn cõi Việt Nam đều áp dụng chương trình Pháp-Việt đủ
3 ban: Toán, Khoa Học, Triết. Ngoài ban mình học, học sinh được phép thi tốt nghiệp
các ban khác nhưng phải tự học thêm những môn mà ở ban mình theo học không có.
Học sinh cũng được phép thi bằng Tú Tài Pháp. Học xong năm này thi lấy bằng Tú Tài
Toàn Phần (Certificat de Fin d'Études Secondaire Franco-Indigènes). Học sinh tốt
nghiệp 2 hoặc 3 ban hoặc thêm bằng Tú Tài Pháp được ưu tiên khi thi vào các trường
Đại Học có thi tuyển như các trường Grandes Écoles ở Pháp hoặc các trường Cao Đẳng
Chuyên Nghiệp ở Hà Nội lúc đó.

Từ niên học 1926-1927 Pháp thiết lập thêm chế độ Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat Local)
học thêm các môn về văn chương Việt Nam, lịch sử, triết học Đông Phương và Cận
Đông (Ấn Độ, Trung Hoa, Do Thái). Chương trình rất nặng, bị chỉ trích và ta thán rất
nhiều nên đã bị hủy bỏ từ niên học 1937-1938.

- Hệ thống Cao Đẳng và Đại Học

27
Rập khuôn theo chế độ và tổ chức giáo dục của Pháp nhưng được điều chỉnh, thêm bớt

cho phù hợp với thực tế ở Đông Dương và chủ yếu là để đạt mục đích khai thác thuộc địa. Vì

thế, học chế áp dụng tại Đông Dương cho bậc học cao nhất, hình thức tương tự như ở Pháp (lúc

đầu không có thực chất, sau được cải tiến vì lý do chính trị), gồm có hai loại trường là cao đẳng

và đại học.

Tuy mang tên trường cao đẳng và đại học nhưng trong thời gian từ 1902 đến 1924 thực

chất chỉ là các trường chuyên nghiệp trung cấp. Những phê bình và chỉ trích về thực chất các

trường cao đẳng và đại học của giới trí thức và báo chí Việt Nam đã áp lực người Pháp đưa đến

cuộc cải cách giáo dục năm 1924-1925. Nội dung cải cách nhằm sửa đổi qui chế các trường

hiện hữu để thực sự có tính chất cao đẳng, cụ thể là:

- Nâng cao trình độ tuyển sinh: ngoài điều kiện có bằng cao đẳng tiểu học (thành

chung) phải có giấy chứng nhận đã học hết 2 năm trung học. Được miễn thi nếu tốt

nghiệp 3 năm trung học (tức có bằng tú tài II).

- Nâng cao học trình: trung bình thêm 1 năm so với trước (cũng có trường không tăng).

- Nâng cao nội dung giảng dạy: sửa đổi để có tính chất cao đẳng.

- Ngoài các biện pháp trên còn dự tính tăng số giáo chức giảng huấn có học vị cao

nhưng thực tế không có gì thay đổi đáng kể. Cơ sở vật chất cũng không có gì thêm.

Trường Cao Đẳng (École Supérieure): là loại trường chuyên nghiệp, nhập học phải hội

đủ điều kiện văn bằng đòi hỏi và qua một kỳ thi tuyển (concours). Trúng tuyển được cấp học

bổng ăn học suốt học trình. Tốt nghiệp phải làm việc cho chính quyền (trong lãnh vực chuyên

nghiệp do trường đào tạo) một thời gian ấn định, nếu không, theo nguyên tắc, phải bồi thường

tiền học bổng. Các trường cao đẳng, đào tạo các chuyên viên có nghề nghiệp nhất định như bác

sĩ, kỹ sư, công chức, giáo sư..., chương trình học có qui củ và kỷ luật chặt chẽ.

28
Những trường cao đẳng

Trường Y Khoa Đông Dương (École de Médecine de l'Indochine), ngày 08/01/1902


thành lập, đào tạo các phụ tá cho bác sĩ và dược sĩ (médecine et pharmacian auxiliaire),
học trình 4 năm cho y khoa và 3 năm cho dược khoa. Từ năm 1906 có thêm ban thú y.
Lớp Nữ Hộ Sinh Bản Xứ (Sage Femme Indigène) học trình 2 năm, điều kiện nhập học
chỉ cần có bằng tiểu học. Do nghị định ngày 29/12/1913 trường được cải tổ và đổi tên
thành Trường Y Dược Đông Dương (École de Médecine et de Pharmacie de
l'Indochine). Từ năm 1919 có thêm nhãn khoa. Đến năm 1923 sắc lệnh ngày 30/08/1923
nâng trường lên bậc cao đẳng (école supérieure) đào tạo bác sĩ và y sĩ Đông Dương.

Trường Kiêm Bị Y Dược (École de Plein Exercise de Médecine et de Pharmacie) đào


tạo bác sĩ với chương trình học 6 năm, 4 năm tại Hà Nội, 2 năm cuối học và trình luận
án tại Pháp.

Trường Y Dược Đông Dương (Section de Médecine et Pharmaciens Indochinois) đào


tạo y sĩ Đông Dương, học 4 năm ở Hà nội. Năm 1930, trở thành một khoa (faculté) của
Viện Đại Học Hà Nội (Faculté de Médecine et de Pharmacie de l'Université de Hanoi).

Trường Cao Đẳng Thú Y Đông Dương (École Supérieure Vétérinaire de l'Indochine):
ban thú y của Trường Y Dược được tách ra do nghị định ngày 05/09/1917, đào tạo phụ
tá thú y với học trình 4 năm. Từ 1918 đến 1925, điều kiện phải có bằng cao đẳng tiểu
học, không qua kỳ thi tuyển, tốt nghiệp thành y sĩ thú y. Từ 1925 đến 1935 phải có bằng
cao đẳng tiểu học hoặc bằng tú tài và phải qua kỳ thi tuyển. Từ 1935 đến 1940 trường
đóng cửa vì thiếu ngân sách. Từ 1941 trường mở cửa lại, phải có bằng tú tài và khám
sức khỏe mới được dự kỳ thi tuyển. Tốt nghiệp với văn bằng bác sĩ thú y.

Trường Cao Đẳng Sư Phạm (École Supérieure de Pédagogie) thành lập ngày
15/10/1917, đào tạo giáo chức cho các trường sư phạm sơ cấp và các trường cao đẳng
tiểu học, học trình 3 năm. Từ sau năm 1920 thí sinh dự tuyển phải có bằng tú tài II.
Trường có 2 ban. Ban Văn Chương (Section des Lettres) gồm các môn học về văn
chương, lịch sử, địa lý và triết học. Ban Khoa Học (Section des Sciences) gồm các môn
học về toán, vật lý, hóa học và vạn vật học.

Trường Cao Đẳng Nông Lâm (École Supérieure d'Agriculture et de Sylviculture) thành
lập do nghị định ngày 21/03/1918 đào tạo phụ tá kỹ sư nông nghiệp và lâm nghiệp, học
trình 3 năm. Năm 1935 trường đóng cửa.

Trường Chuyên Nghiệp Nông Lâm Đông Dương (École Spécial d'Agriculture et de
Sylviculture) thành lập ngày 15/08/1938 đào tạo kỹ sư nông nghiệp và lâm nghiệp, học
trình học 3 năm.

Trường Công Chánh (École des Travaux Publics) thành lập bởi nghị định của toàn
quyền Đông Dương ngày 22/02/1902 đào tạo cán sự chuyên môn (agent technique) cho
các sở công chánh, địa chánh và địa dư với học trình 2 năm, hạn tuổi từ 18 đến 25. Lúc
đầu, điều kiện phải có bằng tiểu học. Từ năm 1913 nếu có bằng thành chung thì được
miễn thi. Năm 1944 đổi thành Trường Cao Đẳng Công Chánh (École Supérieur de
Traveaux Publics) đào tạo kỹ sư và phó kỹ sư công chánh.

29
Trường Thương Mại Đông Dương (École de Commerce de l'Indochine) thành lập do
nghị định ngày 02/11/1920, học trình 2 năm. Để bổ túc cho những người tốt nghiệp
trường này ở Hà Nội, Trường Thương Mại Thực Hành (École d'Application
Commerciale) được thành lập ở Sài Gòn năm 1922 để nâng cao kiến thức về nội và
ngoại thương bằng những công tác thực tế. Đến năm 1924, trường Thương Mại Thực
Hành được sát nhập vào Trường Thương Mại Đông Dương ở Hà Nội và nghị dịnh ngày
25/08/1925 chương trình thực hành được áp dụng với học trình tổng cộng 3 năm. Nghị
định ngày 28/09/1928 nâng lên thành Trường Cao Đẳng Thương Mại Đông Dương.
Nghị định ngày 07/04/1926 mở thêm Khoa Bưu Chính và Điện Báo (Section des Postes
et Télégraphes) đào tạo chuyên viên tiếp nhận điện báo (receveur) cho ngành bưu điện.
Cũng nghị định này thành lập thêm Khoa Điện Báo Vô Tuyến (Section
Radiotélégraphiques) nhằm cung cấp chuyên viên kỹ thuật cao cấp cho Sở Vô tuyến
Điện (Service Radiotélégraphie)

Trường Cao Đẳng Văn Khoa (École Supérieure de Lettres) thành lập năm 1923 nhưng
đến năm 1924 bị bãi bỏ và sát nhập với Trường Pháp Chính để thành Trường Cao Học
Đông Dương.

Trường Khoa Học Thực Hành (École des Sciences Appliquées) thành lập năm 1923
nhưng vì thiếu giáo sư và học cụ nên chỉ được một thời gian ngắn rồi bị bãi bỏ.

Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) thành
lập do toàn quyền Merlin ký ngày 27/10/1924, chương trình học 3 năm do Sở Học
Chánh quản trị. Từ 1926 chương trình đổi thành 5 năm. Năm 1927 thêm ngành kiến
trúc. Năm 1928 thêm nghệ thuật sơn mài. Năm 1932 thêm ngành khắc chạm kim loại
(ciselure). Năm 1937 Jonchère thay Tardieur làm giám đốc thêm ngành đồ gốm và đồ
sứ. Năm 1938 đổi thành Trường Mỹ Thuật và Mỹ Thuật Thực Hành Đông Dương (École
des Beaux-Arts et des Arts Appliqués) bằng nghị định ngày 21/05/1938 của toàn quyền
Brévié. Nghị định ngày 22/10/1942 đặt trường trực thuộc Viện Đại Học Đông Dương
(Université Indochinoise).

Trường Pháp Chính (École de Droit et d'Administration) thành lập ngày 15/10/1917,
lúc đầu nhằm đào tạo quan lại "ngạch Tây" phục vụ cho guồng máy cai trị của Pháp về
hành chánh, tài chánh, tư pháp, học trình 3 năm, riêng ban tài chánh học 2 năm. Tốt
nghiệp được bổ dụng làm tham biện ở các công sở (còn gọi là tham tá), hoặc đi làm tri
phủ, tri huyện ở các tỉnh. Trường được đổi thành Cao Đẳng Học Viện Đông Dương
(École des Hautes Étude Indochinoises) do nghị định ngày 18/09/1924 với mục đích
đào tạo ở bậc cao học về luật pháp, chính trị, lịch sử và triết học. Muốn nhập học phải
có bằng tú tài bản xứ hay tú tài Pháp, chương trình học 3 năm. Ngày 11/09/1931 theo
sắc lệnh của tổng thống Pháp đổi thành Trường Cao Đẳng Luật Khoa Đông Dương
(École Supérieure de Droit de l'Indochine) (ù8). Năm 1941 đổi thành Trường Đại Học
Luật Khoa (Faculté de Droit).

Trường Đại Học (Université): muốn nhập học các trường đại học chỉ cần đủ điều kiện

về văn bằng đòi hỏi mà không phải qua một kỳ thi tuyển. Việc thu nhận sinh viên không hạn

định tuổi tác và số lượng. Chương trình học chú trọng đào tạo một căn bản vững chãi cho tri

thức chuyên ngành nào đó nhưng không nhất thiết đóng khung trong một lãnh vực nhất định và

cũng không mang tính chất nghề nghiệp bắt buộc như các trường cao đẳng chuyên nghiệp. Sinh

30
viên phải tự túc về học phí (ngoại trừ những sinh viên xuất sắc được học bổng). Khi tốt nghiệp

chính quyền không có nhiệm vụ cung cấp việc làm, cá nhân phải tự tìm kiếm.

Những trường Đại học

Toàn quyền Paul Beau (nhiệm kỳ 1902-1907) đã ra nghị định ngày 10/11/1907 thành
lập Trường Đại Học Hà Nội gồm 5 trường cao đẳng là Luật và Pháp Chính, Khoa Học,
Y Khoa, Xây Dựng, Văn Chương.

Năm 1941 đổi tên Trường Kiêm Bị Y Dược (École de Plein Exercise de Médecine et de
Pharmacie) thành Trường Đại Học Hỗn Hợp Y Duợc (Faculté Mixte de Médecine et de
Pharmacie), đổi tên Trường Cao Đẳng Luật Khoa (École Supérieure de Droit) thành
Trường Đại Học Luật Khoa (Faculté de Droit) (14), mở lại Trường Cao Đẳng Thú Y và
nâng cao qui chế để đào tạo bác sĩ thú y, thiết lập Trường Cao Đẳng Khoa Học (École
Supérieure des Sciences) ở Hà Nội theo mô hình Trường Đại Học Khoa Học (Faculté
des Sciences) ở Pháp nhằm đào tạo sinh viên về các chứng chỉ cử nhân khoa học.

Đến giai đoạn này nếu xét về mặt qui chế thì các trường cao đẳng và đại học mới thực
sự có tính chất một nền giáo dục cao đẳng và đại học hiện đại nếu so sánh với những
trường tương đương lúc đó ở Pháp. Xét về thành phần giáo chức thì hầu hết do người
Pháp đảm nhận, người Việt chỉ đóng vai trò trợ giảng mà thôi. Về phương diện vật chất
thiết bị thì các trường Đông Dương ở vị trí thấp nhất. Tuy nhiên, từ năm 1935 việc tuyển
lựa, thi cử rất gắt gao, kỷ luật học tập chặt chẽ. Sinh viên Việt Nam vốn thông minh và
chăm học nên phần lớn phẩm chất sinh viên tốt nghiệp đạt mục tiêu đào tạo về mặt khoa
học và chuyên môn.

c. Mục tiêu giáo dục

Khi xây dựng nền giáo dục thay thế Nho giáo, người Pháp có ba mục đích.

(1) Đào tạo lớp người thừa hành chính sách của Pháp là cai trị và khai thác ở Việt Nam

và cả Đông Dương. Tầng lớp này bao gồm các viên chức trong các ngành hành

chánh, giáo dục, y tế và xây dựng.

(2) Truyền bá tư tưởng Pháp, lòng biết ơn sự khai hóa của Pháp và sự trung thành với

Pháp. Cuối cùng với mục đích mị dân, làm người Việt tin rằng hệ thống giáo dục

của Pháp ở Việt Nam là văn minh và tiến bộ.

(3) Đối phó với sự đòi hỏi một nền giáo dục tiến bộ của người Việt trong tương lai.

d. Nội dung và phương pháp giáo dục

Hệ thống giáo dục của nước Pháp đã được người Pháp ở Việt Nam điều chỉnh và thêm

bớt cho phù hợp với ba mục đích trên cũng như để thích hợp với thực tế ở Việt Nam. Đây là hệ

thống Giáo Dục Pháp Cho Người Bản Xứ (Enseignement Franco-Indigène), thường được gọi

31
là Giáo Dục Pháp-Việt. Trong nền giáo dục này tiếng Pháp là chuyển ngữ tức tiếng Pháp được

dùng để trao đổi trong lớp học (giảng bài, làm bài, sách giáo khoa viết bằng tiếng Pháp). Riêng

ba lớp tiểu học đầu là được dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, sau đó tiếng Việt được học như

một ngoại ngữ. Ngoại ngữ thứ hai thường là tiếng Anh ở bậc Tú Tài. Chữ Hán được học theo

tự nguyện. một tuần một giờ ở các lớp trên của bậc tiểu học nếu có thầy dạy.

Để điều hành, Pháp thiết lập tại mỗi kỳ một Sở Giáo Dục Cho Người Bản Xứ (Service

de L'Enseignement Local) do một Chánh Sở (Chef de Service) người Pháp đứng đầu.

32
3. Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) 1945 – 1975

a. Triết lý giáo dục

Hồ Chí Minh trở thành lãnh đạo về mặt tư tưởng khi chính phủ Cộng sản chính thức

quản lý Miền Bắc. Vấn đề triết lý giáo dục không được bàn đến một cách minh nhiên, nhưng

không hẳn là không có. Hồ Chí Minh đã đưa ra một số triết lý giáo dục thanh niên làm nền tảng

cho giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết. (...) Giáo
dục thanh niên không tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã
hội.

Con người mới xã hội chủ nghĩa: làm chủ tập thể, lao động, yêu nước Xã Hội Chủ
Nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản; những con người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp,
có kiến thức, có kỹ năng và thể lực cần thiết để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên,
làm chủ bản thân. Tóm lại, đó là con người phát triển toàn diện, sẵn sàng lao động xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, là lớp người kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của dân tộc ta, bảo đảm đưa sự nghiệp xây dựng Xã Hội Chủ
Nghĩa và Chủ Nghĩa Cộng Sản ở nước ta đến thắng lợi hoàn toàn.27

Tóm lại, ta có thể tóm gọn thành một triết lý giáo dục mà mục tiêu là đào tạo nên những

Con người mới xã hội chủ nghĩa. Triết lý giáo dục này hẳn đã tạo nên một thế hệ thanh niên

hiến trọn tuổi xuân xanh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là những con người làm chủ tập

thể, làm chủ lịch sử, mang đậm nếp sống tập thể của người anh hùng cách mạng. Tất cả các yếu

tố sở hữu cá nhân ngay cả tình cảm đều được quy kết cho là duy tâm (đi ngược chủ nghĩa duy

vật), thậm chí là phản động. Sự độc tài cực đoan bắt đầu nổi lên. ”Trí thức không bằng cục

phân” (câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông). Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, xuất hiện

nạn đấu tố giết người tập thể, con giết cha, cháu tố ông... Các mối quan hệ trong lòng dân tộc

bỗng chốc lật ngược. Tri thức buộc phải yêu nước và phải trở thành nông dân. Yêu nước là yêu

xã hội chủ nghĩa. Hình thức giáo dục một chiều ”nhồi sọ” được sử dụng như là phương pháp

giáo dục đỉnh cao. Giáo dục mất đi nghĩa cơ bản đầu tiên của nó là đào tạo con người vì con

người.

27
(Minh 1972, 5-6)

33
b. Hệ thống giáo dục28

Ngày 09/03/1945 Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập

của các dân tộc Đông Dương.

Ngày 11/03/1945, Viện Cơ Mật Triều Đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hiệp Ước Bảo Hộ

năm Nhâm Tuất 1884 với Pháp, Việt Nam khôi phục chủ quyền.

Ngày 17/04/1945, Bảo Đại cử Phan Kế Toại làm Khâm Sai Bắc Bộ, Nguyễn Văn Sâm

làm Khâm Sai Nam Bộ, và học giả Trần Trọng Kim được giao việc thành lập chánh phủ. Hoàng

Xuân Hãn, Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật trong nội các Trần Trọng Kim, sau khi nhậm

chức đã cùng các giáo sư tên tuổi bắt tay ngay vào việc soạn thảo một chương trình giáo dục

dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ để thay thế chương trình giáo dục Pháp Việt (Enseignement

Franco-Indigiène). Chỉ hơn một tháng sau, Chương Trình Hoàng Xuân Hãn hoàn thành và được

Hoàng Đế Bảo Đại ban hành bằng dụ số 67 ngày 03/06/1945. Đây là chương trình giáo dục

Việt Nam đầu tiên được áp dụng trên toàn quốc niên khóa 1945-1946.

Giai đoạn 1945-1975 Việt Nam chỉ có một niên khóa duy nhất 1945-1946 là áp dụng

thống nhất một chương trình giáo dục trên toàn quốc (Chương Trình Hoàng Xuân Hãn nguyên

thủy). Trong giai đoạn 1946 -1954, giáo dục nước ta bị chia làm 2 chương trình tùy thuộc vào

2 vùng Việt Minh hay cùng Quốc Gia do Pháp chiếm đóng.

 NỀN GIÁO DỤC TRONG VÙNG VIỆT MINH GIAI ĐOẠN 1946 – 1954:

Đây là giai đoạn ảnh hưởng chiến tranh, phải sơ tán, tản cư và về lại.

- Bậc tiểu và trung học:

Từ 1946 đến 1949 chính quyền Việt Minh tiếp tục sử dụng chương trình Hoàng Xuân

Hãn Canh Tân. Sau khi sơ tán năm 1946, một số các trường đại học, cao đẳng và chuyên nghiệp

được khai giảng trở lại. Giảng viên là người mới tốt nghiệp từ các trường này, và phần nòng

cốt đảm nhiệm bởi một số giáo sư có tên tuổi du học ở Pháp về. Đây là các nhà trí thức đã tản

28
(San 2016)

34
cư về vùng Việt Minh kiểm soát. Từ 1947 đến 1949 nhiều giáo trình vẫn dùng tiếng Pháp làm

chuyển ngữ, đến niên khóa 1950 trở đi mới hoàn toàn dùng tiếng Việt. Khi chiến tranh bùng

nổ, các trường ở những thành phố lớn sơ tán ra vùng do Việt Minh kiểm soát. Đặc biệt các

trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội đều lên Việt Bắc.

Trường Cao Đẳng Công Chánh sơ tán lên Việt Bắc, niên khóa 1947-1948 mới khai
giảng trở lại với trường ốc sơ sài, thiết bị thiếu thốn, giáo sư ít ỏi. Đại Học Luật được
đổi là Đại Học Chính Trị Xã Hội, đến năm 1948 đổi là Trường Pháp Chính. Mở thêm
trường Đại Học Văn Khoa và 2 ban ngoại ngữ Anh và Nga Văn, đến niên khóa 1947-
1948 mở thêm trường ngoại ngữ dạy Anh, Nga và Hoa Văn. Có 2 trường Sư Phạm Cao
Cấp, một ở Thanh hóa, một ở Khu Học Xá Trung Ương. Năm 1953 thành lập trường Sư
Phạm Sơ Cấp Miền Núi trực thuộc Bộ Giáo Dục. Năm 1953 thành lập trường Sư Phạm
Sơ Cấp Miền Núi trực thuộc Bộ Giáo Dục.

Cuộc cải cách lần đầu tiên được Hội Đồng Chính Phủ thông qua vào tháng 07/1950 và

Bộ Quốc Gia Giáo Dục ban hành và thực hiện từ 1950 đến 1952.

Các sửa đổi gồm có:

- Bậc Giáo Dục Phổ Thông: Vỡ Lòng (1 năm); Cấp I (4 năm); Cấp II (3 năm); Cấp

III (4 năm) (2 năm, không chia ban + 2 năm dự bị đại học).

- Bậc Đại Học và Cao Đẳng:

Tạm đình giảng các lớp đại học và cao đẳng, chỉ giữ lại hoặc chỉ mở thêm các lớp trung

cấp như Nông Lâm, Công Chánh, Mỹ Thuật, Thú Y, v.v., và tổ chức các đợt đi phục vụ sản

xuất, chiến đấu.

Trường Đại Học Y Dược chỉ còn Đại Học Y, rút ngắn năm học và tăng thời gian thực
tập, phục vụ công tác quân y cho các chiến dịch được mở liên tục từ 1950 đến chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Tổ chức Trường Sư Phạm Cao Cấp về văn, sử, địa, học trình 2 năm, và lớp Dự Bị Đại
Học ở Thanh Hóa do một số trí thức ở vùng đó phụ trách.

Trường Khoa Học Cơ Bản và Trường Sư Phạm Cao Cấp về khoa học tự nhiên, đặt trong
Khu Học Xá Trung Ương, học trình 2 năm, chia làm 2 ban: Toán Lý Hóa và Lý Hóa
Sinh.

Bắt đầu tổ chức và tuyển chọn học sinh sang du học tại các nước Cộng Sản.

35
Về nội dung, chương trình giáo dục mới chú trọng về văn, sử, địa hiện đại và cách mạng

Việt Nam. Đương nhiên, cũng có thêm rất nhiều các lớp đào tạo ”chính trị” dựa trên chủ nghĩa

Marx-Lénine.

 NỀN GIÁO DỤC MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1954 – 1975

Sau Hiệp Định Genève, từ tháng 10/1954 các trường từng sơ tán năm 1946 về vùng Việt

Minh kiểm soát đều trở về trường sở cũ tại các thành phố và các trường đại học, cao đẳng

chuyên nghiệp về lại Hà Nội.

Năm 1956 chính quyền Cộng Sản Miền Bắc thực hiện một cuộc cải cách giáo dục lần

thứ hai nhằm phục vụ cho 2 nhiệm vụ chiến lược là chuẩn bị tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa và xây

dựng Miền Bắc thành hậu phương lớn chi viện cho cuộc xâm chiếm Miền Nam. Việc nghiên

cứu cải cách tiến hành từ đầu năm 1955, được chính quyền thông qua vào tháng 06/1956 và

đem ra thực hiện từ niên khóa 1956-1957 gồm có:

- Bậc Giáo Dục Phổ Thông:

Vỡ Lòng (1 năm); Cấp I (4 năm); Cấp II (3 năm); Cấp III (3 năm) (bỏ dự bị đại học).

Phát triển giáo dục ở vùng miền núi, các dân tộc thiểu số và xây dựng các trường phổ thông cho

học sinh Miền Nam tập kết ra Bắc.

- Bậc Đại Học Và Cao Đẳng Chuyên Nghiệp:

Tất cả các trường cải tổ theo mô hình của hệ thống đại học Nga: đại học (université)

gồm các khoa về khoa học cơ bản tự nhiên và xã hội được gọi là Đại Học Tổng Hợp (polyvalent)

tức là nhiều ngành về khoa học cơ bản, Đại Học Bách Khoa (polytechnique) là đại học gồm

nhiều ngành về công nghệ, Đại Học Kỹ Thuật là các trường cao đẳng dài hạn (học trình từ 4

năm trở lên).

36
Niên khóa 1956-1957 có 5 trường đại học theo mô hình Nga được khai giảng là: Đại
Học Tổng Hợp, Đại Học Bách Khoa, Đại Học Y Dược, Đại Học Sư Phạm, Đại Học
Nông Lâm. Trong số 5 trường này chỉ có trường Đại Học Tổng Hợp, Y Dược và Sư
Phạm là sẵn có trường sở, phòng thí nghiệm, thư viện và giáo sư giảng dạy cũ, còn 2
trường Bách Khoa và Nông Lâm hoàn toàn mới phải xây dựng và tổ chức từ đầu.

Các trường được mở lại trong các niên học kế tiếp gồm có: Đại Học Mỹ Thuật (trường
Cao Đẳng Mỹ Thuật cũ), Đại Học Giao Thông (trường Cao Đẳng Giao Thông cũ đã
ngưng hoạt động từ 1948 ở Việt Bắc), Đại Học Kinh Tế Kế Hoạch (có tính chất một
trường trung cấp), Đại Học Thủy Lợi (tách khoa Thủy Lợi từ trường Đại Học Bách
Khoa).

Tổ chức trường Bổ Túc Công Nông Trung Ương như một trường Dự Bị Đại Học nhằm
đào tạo tuyển sinh công nông cho các trường đại học. Phát triển hệ thống các trường Sư
Phạm Sơ Cấp, Trung Cấp và Cao Cấp nhằm đào tạo giáo chức cung ứng cho sự phát
triển của hệ thống giáo dục phổ thông. Nâng trường Sư Phạm Sơ Cấp Dân Tộc lên Trung
Cấp để đào tạo giáo viên cho người thiểu số.

Đẩy mạnh việc gửi học sinh đi du học ở Trung Cộng, Nga Sô và các nước Cộng Sản

Đông Âu.

Sau cải cách giáo dục lần 2 năm 1956, hệ thống Đại học ở Bắc Việt thời kỳ đầu hy vọng

có một ánh sáng vàng son nhờ một thế hệ trí thức hăng say phục vụ nền tư tưởng cách mạng vô

sản mang lợi ích cho toàn dân. Ban đầu, nền giáo dục ấy có vẻ được cho tự do ngôn luận với

tên gọi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng chỉ được khoảng 2 năm thì bị bức tử cách đột

ngột bởi chính trị.

37
Trong thập niên 1950, đại học Việt Nam có được những trí thức ưu tú nhất của nền giáo
dục Pháp Giáo sư Hoàng Tụy đang dạy toán ở Đà Nẵng đã ra Việt Bắc chỉ vì nghe ở đó
có nhà toán học Lê Văn Thêm bỏ Pháp về Việt Nam theo kháng-chiến. Nhiều sinh viên,
giảng viên đại học chỉ mong được nhìn thấy những trí thức tên tuổi như Nguyễn Mạnh
Tường, Trần Đức Thảo. Mô hình tự chủ đại học được Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh,
Trương Tửu chủ trương từ rất sớm. Người đứng đầu ngành đại học lúc đó là Tạ Quang
Bửu muốn xây dựng một nền đại học tạo cơ hội như nhau cho mọi người nhưng từ chối
thêm điểm vào đại học cho giai cấp công, nông. Quan điểm của ông bị phê phán là “tinh
hoa chủ nghĩa”. Chỉ vì ủng hộ những quan điểm này mà Giáo sư Hoàng Tụy đã bị kiểm
điểm tới…tám mươi cuộc. Sau những cuộc đấu tố liên miên đó, nhiều giáo sư như Trần
Đức Thảo, Lê Văn Thêm đã luôn bị tự kỷ ám thị. Đêm đêm, Giáo sư Trần Đức Thảo
vẫn nằm dưới gậm giường vì sợ. Còn Nguyễn Mạnh Tường thì từ năm 1958 không
những bị tước hết mọi chức vụ mà hơn ba mươi lăm năm, vị luật sư tài ba có hai bằng
tiến sỹ Pháp ấy và gia đình đã phải sống trong đói khát. Năm hai mươi hai tuổi, Nguyễn
Mạnh Tường đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ luật tại Đại học Montpellier.
Một-tháng sau, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn chương. Khi Nguyễn Mạnh
Tường “vinh quy”, người Pháp đã gặp và gợi ý đưa ông vào làm thượng thư trong Triều
Bảo Đại nhưng ông từ chối.-Những người như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo
có thể đã trở thành những trí thức được sủng ái nếu như không-lên tiếng phê bình những
sai lầm của chế độ(...)Lúc còn học ở trường Albert Sarraut, Trần Đức Thảo đã để lại
không ít huyền thoại về sự thông minh. Ông đỗ Tú Tài triết học năm 1935, và năm sau
ông đỗ đầu trong kỳ thi vào trường Normale Superieure của Pháp. Trần Đức Thảo tốt
nghiệp thạc sĩ triết học hạng nhất tại Pháp năm 1942, khi mới hai mươi lăm tuổi. Ông
được nhiều thế hệ trí thức Việt Nam ngưỡng mộ từ huyền thoại “kết thúc cuộc tranh
luận với nhà hiện sinh Jean-Paul Sartre trên thế thắng”29

c. Mục tiêu giáo dục:

Năm 1950 chính quyền Việt Minh, dựa trên chủ nghĩa Marx - Lenin, cho thực hiện một

cuộc cải cách giáo dục. Trước tiên nhằm thay đổi quan niệm sai lầm của các giáo chức về tính

cách vô tư của nền giáo dục để dẫn đến quan niệm giáo dục có nhiệm vụ phải phục vụ cho chính

trị mà cơ bản trong giai đoạn này là phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Pháp.

Cuộc cải cách giáo dục năm 1950 làm nền tảng cho cuộc cải cách năm 1956 để hoàn

thành nền giáo dục của một nước Cộng Sản. Đó là một nền giáo dục kết hợp chuyên môn với

chính trị lấy chủ nghĩa Marx - Lenine làm nền tảng nhằm phục vụ cho các mục tiêu chính trị,

xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa và giáo dục đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng Sản.30

29
(Đức 2012, 24)
30
X. (San 2016)

38
4. Thời Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam) 1954 – 1975

a. Triết lý giáo dục31

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng

Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ

huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức

quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu họcđến đại học, từ phổ thông

đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai

phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này. Triết lý giáo dục VNCH nằm trong những Nguyên

Tắc Căn Bản do Bộ Giáo Dục ấn hành năm 1959 và sau đó được ghi lại trong hiến pháp 1967.

Những nguyên tắc căn bản này được tóm lược như sau:

 Thứ nhất: Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản (humanistic education).

Nhân là người hay con người, bản là gốc là căn bản. Trong lãnh vực triết lý, thuyết nhân

bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong đời sống trên thế gian này. Thuyết nhân

bản lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản chớ

không nhắm đến linh hồn hay một cuộc đời nào khác ngoài thế giới mà loài người hiện đang

sống trong đó. Theo thuyết này, con người có giá trị đặc biệt của con người, cao cả hơn tất cả

các giống sinh vật khác trên đời này. Chỉ có con người mới có văn hóa, có những hoạt động có

suy tư, có sáng tạo, làm cho cuộc sống của con người tiến hóa luôn từ xưa đến giờ. Nhân bản

cũng chỉ tính cách linh thiêng của con người, khác hơn mọi loài vật, “nhân linh ư vạn vật”, và

con người phải được tôn trọng bởi tính linh thiêng đó. Con người tự nó là một cứu cánh chớ

không phải là một phương tiện. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân

nhưng không chấp nhận dùng sự khác biệt đó để đánh giácon người, và không chấp nhận sự kỳ

thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, con người

31
(Liêm 2013)

39
có giá trị của con người như nhau, và mọi người đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng

đều về giáo dục.

 Thứ hai: Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc (nationalistic education).

Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia

đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh anh hay

những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc Việt Nam có mặt trên thế giới này từ

bao nhiêu ngàn năm trước. Dân tộc đó có tiếng nói riêng, có lịch sử riêng, có một nền văn hóa

riêng của nó từ bao đời. Dân tộc tính đó trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo

tồn và phát huy, để không bị tan biến hay tiêu trầm trong những nền văn hóa khác.

 Thứ ba: Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng.

Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng kín cửa.

Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên

thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần

vào việc hiện đại hóa quốc gia xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.

b. Hệ thống giáo dục nội dung giảng dạy 32

Sau một thời gian ngắn dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại, người sau đó bị phế truất và

phải lưu vong tại Pháp, Việt Nam Cộng hòa thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1955, với ông Ngô

Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên. Miền Nam Việt Nam trải qua các thời kỳ Đệ Nhất Cộng

Hòa do ông Ngô Đình Diệm làm tổng thống 1955 – 1963, thời kỳ quân quản từ 1963 – 1967 và

Đệ Nhị Cộng Hòa do ông Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống 1967 - 1975.

Ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục

cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1953 – 1963) thì chương trình Việt

mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Nhìn chung, người ta thấy

mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh

32
(Tú 2016)

40
hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng

thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh

đạo quan trọng của họ. Những đóng góp của họ thật lớn lao đưa đến sự bành trướng và phát

triển vô cùng mạnh mẽ của nền giáo dục quốc gia dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa.

Hệ thống giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa trong những năm sau cùng trước biến cố

1975, được thiết lập trong tinh thần tiếp cận hệ thống giáo dục của các quốc gia tiền tiến trên

thế giới. Hệ thống này gồm ba cấp bậc: Tiểu học, Trung học, và Đại học.

- Giáo dục tiểu học:

Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ

Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học

là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi

học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”,

tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản

lệ phí khác.

Chương trình Tiểu Học cung ứng cho học sinh những kiến thức cần thiết để ra đời hay

lên học ở bậc Trung Học, cùng với những kỷ năng cơ bản (basic skills), những kỹ năng thực

tiễn (practical skills) và những cách thế phát triển cá nhân hầu có thể thích ứng dễ dàng với môi

trường sinh sống.

41
Chương trình học chú trọng nhiều vào ba môn chính là Quốc Văn (tiếng Việt), Toán,
Khoa Học Thường Thức. Bên cạnh ba môn chính trên đây phần Luân Lý với Công Dân
Giáo Dục cũng được đặc biệt lưu ý.

Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được
chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt
Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6
đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh
có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công
lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967
gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2
giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước
năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý.
Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.

Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày
nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).33

- Giáo dục trung học:

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học,

tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa

kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ởcác

trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu

Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường

Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn

Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn

phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

33
(Liêm 2013)

42
Trung học đệ nhất cấp:

Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất
đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ
nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập
hàngnăm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có
tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số
trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinhkhông vào được
trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trảhọc phí. Một năm học
được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải
học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với
lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng
được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học
đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn
đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ
nhất cấp.

Trung học đệ nhị cấp:

Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ
nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng
Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn
học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo
thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và
ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm
một ngoại ngữ thứ hai. Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm
lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí
sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội
dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối
viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.

Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I
(15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn
trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ
đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được
xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinhđậu Tú tài II
hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng
này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ”
(12/20), và “thứ” (10/20).

Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu
Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học
(Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt),
Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinhvà các trường Trưng Vương, Gia
Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học
Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ
Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy
giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì
mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.

- Trung học tổng hợp:

43
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là

một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,

sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đemáp dụng cho

các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn

và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ,

v.v… nhằm trang bị cho học sinhnhững kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi

rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị

những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt

Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và

đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu

Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường

Trần Nhân Tông, Quận 10) và SươngNguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh

Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.

- Trung học kỹ thuật:

Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy

nghề với giáodục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp

học bổng toàn phần hay bán phần.

Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường
trung học kỹ thuật có mặt hầuhết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường
Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu
thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường
Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư
thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành
lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).

- Các trường tư thục

Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục.

44
Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung
học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và
77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có
khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học
và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh;
Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương
Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công
Giáo.

Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc
Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều
tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường
trung học với tổng sốhọc sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ
Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả
cáctrường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải
dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học
chính trongcác trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù
có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.

Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có

1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang

tên mới).

- Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:

Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ

thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón

nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh

của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương

tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn,

sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn

10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia

Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc

gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn

luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinhquân. Sau năm 1975,

các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.

45
- Giáo dục đại học

Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học,

trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới

hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là

Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng

của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục

công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên

mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng

cho sinh viên.

Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4

năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử

nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt

nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia

Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2

năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle;

tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến

sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở

bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn

mới xong chương trình đại học.

Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức

theo mô hình viện đại học (theo Việt Nam Tự Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).

Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào

tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng

Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa

Khoa học, v.v.) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường

46
Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay

trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức,

mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện

nay).

Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị

của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc

gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.

Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính

phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa

bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở

về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình

cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng

đồng và viện đại học bách khoa.

Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên

học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học

nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp,

xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các

mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của

ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến

sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College

Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại

học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).

47
Các viện đại học công lập:

Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại
Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm
1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Namđổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là
viện đại học lớn nhất nước. Trướcnăm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để
giảng dạy ở bậc đại học, nhưngsau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách
ngôn ngữ theo đuổi từnăm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh.
Vào thời điểm năm1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện
Đại học Sài Gòn.

Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa
học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa.

Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965

Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật
khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.

Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức:Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc
gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).

Các viện đại học tư thục

Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện
Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này
có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn
khoa. Theo ước tính, từ năm1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.

Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam
Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng
(sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học:
Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học& Khoa học
nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên.

Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần
Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này
thuộc khối Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê
Kim Ngân làm việntrưởng. Viện Đại học Phương Namcó 3 phân khoa đại học: Kinh tế-
Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thậpniên 1970, viện đại học này có khoảng
750 sinh viên ghi danh.

Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phânkhoa
đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quảntrị và
Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.

Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3
phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này
trực thuộc Giáo hội Cao Đài

Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân
khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoahọc Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn
Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại họcnày do Giáo hội Công Giáo điều hành.

Các học viện và viện nghiên cứu

48
Học Viện Quốc Gia Hành Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt
Nam với văn bản ký ngày 29tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong
lãnh vực công quyền nhưthuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì
dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100
đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2),
Quận10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến
năm1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học,
chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.

Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông
Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào
Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.

Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu
khoa học na Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ hư Viện Pasteur Sài
Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nhv.v. với
những chuyên môn đặc biệt.

Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:

Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa
Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được
nâng lên tương đương với cấp đại học.

Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập
năm 1930 ở B”lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông
lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia
thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc.(74) Qua từng giai
đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm
Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối
cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ
Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh
ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.

Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn
trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia
Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng
Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ
thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại
Học Bách Khoa Thủ Đức

Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và
thi hành luật pháp.

Các trường đại học cộng đồng:

Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô
hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở
Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở ĐàNẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh
Long.

49
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học
Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở
chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại
học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành
lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.

Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic
University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học
đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện
Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ
Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài
ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom
chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy
luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập
trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.

Các trường nghệ thuật:

Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới
thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm
nhạc cổ điễn TâyPhương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.

Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế:Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc
cổ truyền Việt Nam, dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi
giảng dạy.

Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường
Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành
lập năm 1940).

Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào
tạo về nghệ thuật tạo hìnhvới các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là
họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966). 34

- Sinh viên du học ngoại quốc

Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia

thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo

học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.

c. Mục đích giáo dục35

(1) Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.

34
(Tú 2016)
35
(Liêm 2013)

50
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào
việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo
những định luật phát triển tự nhiên về vật lý và tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của
mỗi cá nhân học sinh phải được lưu ý đúng mức. Cung ứng cho học sinh đầy đủ tin tức,
dữ kiện, để học sinh phán đoán, lựa chọn, không che dấu tin tức hay chỉ cung cấp những
tin tức chọn lọc thiếu trung thực để nhồi sọ học sinh theo một chủ trương, một hường đi
định sẵn nào.

(2) Phát triển tinh thần quốc gia

Giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sinh sống, và lối sống của người
dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần
đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc, yêu
thương giúp đỡ nhau trong tình đồng bào; giúp học sinh học tiếng Việt và xử dụng tiếng
Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết cái đẹp của quê hương xứ sở, những
tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp
học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp
học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

(3) Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học

Giúp học sinh tổ chức những nhóm tự trị với sự phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức
tập thể; giúp phát triển sự phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển
tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp đón nhận những giá trị văn hóa rộng rãi.

d. Phương pháp giáo dục

Phần lớn các sách giáo khoa, và một số các dụng cụ khoa học đều do Trung Tâm Học

Liệu của Bộ Giáo Dục sản xuất và cung cấp với sự giúp dỡ và viện trợ của các cơ quan ngoại

quốc như USAID. Ban tu thư dịch thuật với các giáo chức và các họa sĩ với chuyên môn và kỹ

thuật cao đã soạn thảo trọn bộ sách bậc tiểu học tốt về nội dung cũng như hình thức. Nhiều sách

dịch và tham khảo đã được duyệt và ấn loát để các học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo.

Ngoài ra trung tâm còn hợp tác với cơ quan quốc tế UNESCO để viết và dịch các sách

nhi đồng để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa quanh ta và tạo sự đoàn kết giữa các nhi

đồng trên thế giới. Bộ Giáo Dục cũng dành riêng ngân sách để ấn loát sách giáo khoa bậc tiểu

học cho gần 30 sắc tộc khác nhau.

Để thống nhất các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo Dục đã thiết lập Ủy Ban Quốc Gia

soạn thảo danh từ chuyên môn. Nhiều giáo sư đại học đã tham gia vào việc soạn thảo và Trung

Tâm Học Liệu đã bắt đầu ấn hành những tập đầu tiên danh từ văn học và khoa học.

51
Có hai lối thi để lượng giá học sinh ở bậc trung học ngoài kỳ thi tuyển vào lớp Sáu. Một

là thi lục cá nguyệt ở trong lớp học và hai là dự thi lấy văn bằng ở cấp quốc gia. Thi lục cá

nguyệt là kỳ thi do giáo sư dạy lớp ra đề thi, cho thi trong lớp, và chấm điểm, sắp hạng học sinh

về môn của mình. Mỗi niên học có hai lần thi lục cá nguyệt. Cả bài thi và số điểm sẽ được đệ

nạp trên văn phòng giám học. Trường sẽ cộng điểm các môn, dùng điểm trung bình để định

việc lên lớp cho học sinh.

Thi lục cá nguyệt từ xưa đến giờ không được chú ý đúng mức. Ở trong trường cũng như

ở ngoài xã hội, kể cả phụ huynh học sinh, ít người đặt nặng tầm quan trọng vào các kỳ thi lục

cá nguyệt. Đây là một quan niệm sai lầm đáng tiếc. Người ta chỉ chú trọng vào các kỳ thi lấy

văn bằng ở cấp quốc gia (national examinations). Và càng về xưa càng nhiều kỳ thi, càng nhiều

kỳ thi càng nhiều gạn lọc, loại bỏ dọc đường, không cho phép học sinh có cơ hội được học lên

cao. Thi theo xưa là một cách chọn lọc quá khắt khe, chỉ chọn lấy toàn là người thật giỏi, thật

ưu tú (elites).

52
Trước 1960 số thí sinh còn ít và Bộ Giáo Dục còn tổ chức được rất nhiều kỳ thi như thời
Pháp thuộc: thi Tiểu Học, thi vào Đệ Thất, thi Trung Học Đệ Nhất Cấp với cả hai phần
thi viết vấn đáp, thi Tú Tài I (viết và vấn đáp), thi Tú Tài II (viết và vấn đáp). Tú Tài I
và II lại có hai kỳ, kỳ I và II cho mỗi năm. Sang thập niên 1950 kỳ thi Tiểu Học được
bãi bỏ, Trung Học Đệ Nhất Cấp chỉ có thi viết thôi, không còn vấn đáp, và sau đó, trong
thập niên 1960, cũng bỏ luôn Trung Học Đệ Nhất Cấp nhưng lại tổ chức kỳ thi Trung
Học Đệ Nhất Cấp Tráng Niên cho một ít người lớn tuổi. Đến năm 1973 kỳ thi Tú Tài I
cũng được bãi bỏ chỉ còn giữ kỳ thi Tú Tài II xem như kỳ thi tốt nghiệp bậc Trung Học.
Sang đầu thập niên 1960 đề thi mới được in ronéo ra nhiều bản để phát cho mỗi thí sinh
một bản đề thi. Đề thi làm theo lối luận đề (essay type), đặt câu hỏi để thí sinh phải viết
câu trả lời. Để kịp thời đối phó với tình trạng gia tăng quá nhanh, và để cải tiến vấn đề
lượng giá cho đúng mức, một hội đồng cải tổ thi cử được thành hình từ tháng 11 năm
1972, và ráo riết làm việc để hoàn tất công cuộc đổi mới áp dụng trong kỳ thi Tú Tài
năm 1974 (khóa I thi ngày 26 và 27 tháng 6, và khóa II ngày 28 và 29 tháng 8). Đây là
kỳ thi Tú Tài theo lối trắc nghiệm khách quan lần đầu tiên và cũng là lần sau cùng ở
Nam Việt Nam.

Về giấy tờ thủ tục, đầu thập niên 1970 Nha Khảo thí đã ký khế ước với công ty IBM để
điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí sinh, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ
trúng tuyển, đến các con số thống kê cấn thiết. Đề thi trắc nghiệm khách quan thì cũng
đã được đem vào các kỳ thi Tú Tài I và II cho môn Công Dân – Sử Địa từ niên khóa
1965-66. Nhưng phải đến năm 1974 thì toàn bộ các môn thi trong kỳ thi Tú Tài mới
gồm toàn những câu trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn (multiple choice). Các
vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều có đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu
hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1,800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời
(làm item analysis) của học sinh để định độ khó (difficulty index; độ khó ở đây là .60)
của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu trắc nghiệm cho thích hợp. Tín
độ (reliability; hệ số tín độ của các bài trắc nghiệm ở đây là từ .91 đến .94) và hiệu độ
(validity; hệ số hiệu độ của các bài trắc nghiệm ở đây là từ .60 đến .73 ) của bài trắc
nghiệm được tính theo đúng phương pháp thống kê khoa học. Bảng trả lời được đặt từ
Mỹ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230; điểm chấm xong từ máy
chấm được chuyển sang máy 534 (punching machine) để đục lổ. Những phiếu đục lổ
này (punched cards) được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cọng điểm,
tính điểm trung bình (mean), độ lệch tiêu chuẩn (standard deviation), chuyển điểm thô
(raw score) ra điểm tiêu chuẩn (standard score), tính percentile và thứ hạng trúng tuyển.
Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (Norm group) được lựa chọn kỹ càng theo
đúng phương pháp khoa học của thống kê học, để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu
chuẩn.

Tổng số thí sinh ghi tên trong khóa I, 1974 là 142, 356, nhưng thật sự dự thi chỉ có 129,
406. Trong số này có 53, 868 thi đậu (41.6%) và 75, 538 thí sinh không đâu (58.4%).
Tổng số thí sinh ghi tên dự thi khóa II là 94,606, nhưng thật sự dự thi chỉ có 76,494.
Trong số này có 8,607 thi đậu (11.3%) và 67,887 không đâu (88.7%). Số người thi đậu
Tú Tài (tốt nghiệp Trung học) nhiều hơn xưa nhiều lắm (hơn 45% cho cả hai khóa, so
với khoảng 10% trong những thập niên trước). Kỳ thi quốc gia không còn có mục đích
gạn lọc, loại bỏ như xưa nữa. Từ đó sẽ có nhiều người có cơ hội được học đại học, và
nước nhà sẽ có nhiều người ở trong thành phần trí thức, trình đô dân trí sẽ được nâng
cao hơn.

Trường sư phạm (école normale, hay école de pédagogy) do người Pháp du nhập vào

Việt Nam hồi tiền bán thế kỷ XX, như trường sư phạm Nam Việt, trường Cao Đẳng Sư Phạm

Hà Nội chẳng hạn. Thời Việt Nam Cộng Hòa, có nhiều trường sư phạm đào tạo giáo viên tiểu

53
học và giáo học bổ túc như Quốc Gia Sư Phạm (Sài Gòn), Sư Phạm Long An, Sư Phạm Vĩnh

Long, Sư Phạm Qui Nhơn, Sư Phạm Bam Mê Thuộc, v v …, hoặc các trường sư phạm đào tạo

giáo sư trung học đệ nhất cấp hoặc đệ nhị cấp như Cao Đẳng Sư Phạm sau đổi thành Đại Học

Sư Phạm (Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Sư Phạm Huế, Đại Học Sư Phạm Đà Lạt). Đại

Học Sư Phạm một năm đào tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp. Đại Học Sư Phạm ba năm đào

tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp. Đại Học Sư Phạm gồm nhiều ban như Việt Văn, Triết, Pháp

Văn, Anh Văn, Toán, Lý Hóa, Vạn Vật, Sử Địa. Trường Sư Phạm một mặt giúp các giáo sinh

mở rộng kiến thức chuyên môn (học về nội dung các môn mình sẽ dạy), mặt khác giúp các giáo

chức tương lai trau dồi về sư phạm (cả lý thuyết lẫn thực hành).

Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên thường xuyên tổ chức các chương trình và lớp tu

nghiệp cho các giáo chức. Với sự viện trợ của các quốc gia tiền tiến trên thế giới như Anh,

Pháp, Mỹ, Nhật, Đức, Bộ VHGDTN thường gởi giáo chức đi tu nghiệp ở ngoại quốc. Trong

nước thỉnh thoảng vẫn có những lớp tu nghiệp hay những buổi hội thảo về giáo dục để giáo

chức có dịp học hỏi, thăng tiến trong nghề nghiệp.

Chỉ số lương của nhà giáo tuy có khá hơn một số các ngành khác, nhưng so với mực

sống của những công tư chức nói chung thì đồng lương và đời sống của nhà giáo có tính cách

rất khiêm nhường. So với các sĩ quan trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, lương giáo sư vẫn

khá hơn, vì khi bị động viên vào quân ngũ, các sĩ quan giáo sư tuy đã mất phần phụ cấp sư

phạm, vẫn còn được lãnh tiền sai biệt giữa lương căn bản giáo chức và lương sĩ quan. Với số

lương căn bản ấn định, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở tỉnh thời Đệ Nhất Cộng Hòa có

cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người làm. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa, đời sống bắt

đầu mắt mỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn

như Sài Gòn, Đà Nẵng. Tuy vậy lúc nào nhà giáo cũng vẫn giữ vững tinh thần, và tư cách nhà

mô phạm, từ cách ăn mặc thật đứng đắn, đến cách ăn nói giao tiếp với phụ huynh học sinh, và

54
cả với giới chức chính quyền địa phương. Dù gặp hoàn cảnh khó khăn đến đâu, nhà giáo cũng

hết lòng với sứ mạng, vẫn làm đúng lương tâm chức nghiệp của mình.36

36
X. (Liêm 2013)

55
III. VẤN ĐỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC SAU NĂM 1975

1. Triết lý giáo dục

Dưới đây là các triết lý giáo dục có thể ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục của Việt Nam, là hệ

thống giáo dục theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.

a. Triết lý giáo dục của K. Marx – F. Engel

Trong luận cương thứ III về Feuerbach, K. Marx viết:

“Cái học thuyết duy vật cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của
giáo dục, rằng do đó con người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và
của một nền giáo dục đã thay đổi, cái học thuyết ấy quên rằng chính những con làm thay
đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục,...Sự phù hợp giữa
sự thay đổi của hoàn cảnh với hoạt động của con người, chỉ có thể được quan niệm và
được hiểu một cách hợp lý khi coi đó là thực tiễn cách mạng”.37

Với quan niệm đó, Engels đã đề xuất một chiến lược giáo dục:

“Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng
toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ ngành
sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tuỳ theo nhu cầu của xã hội hoặc tuỳ theo sở thích
của bản thân họ. Do đó, công tác giáo dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình trạng một chiều
mà sự phân công lao động hiện nay đang buộc mỗi một người phải theo. Như vậy là
một xã hội tổ chức theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa, sẽ làm cho những thành viên
trong xã hội đó có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện
của mình.”38

K. Marx và F. Engels đề cập đến nội dung giáo dục một cách toàn diện, bao gồm: giáo

dục thể lực, trí lực, khoa học kỹ thuật tổng hợp và giáo dục gắn liền với lao động sản xuất, tức

là nội dung giáo dục bao gồm các mặt: trí, đức, thể mỹ và giáo dục nghề nghiệp. Đồng thời, đã

chứng minh một cách khoa học rằng, sự phát triển toàn diện, phát triển mọi khả năng tiềm tàng

của con người nhờ giáo dục và đào tạo là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội:

37
(Karl Marx; Friedrich Engels 1978, 10) (tập 44)
38
x (Karl Marx; Friedrich Engels 1978, 262) (tập 46)

56
“Việc kết hợp giữa lao động sản xuất được trả công, giáo dục trí lực, giáo dục thể lực
và giáo dục kỹ thuật tổng hợp sẽ nâng giai cấp công nhân lên cao hơn rất nhiều so với
trình độ của giai cấp quý tộc và tư sản”39

b. Triết lý giáo dục của Lenin

Trong Đại hội về Công Tác giáo dục tại Nga 28/8/1918, Lenin nói “Sự nghiệp của nhà

trường chúng ta cũng là đấu tranh đánh đổ giai cấp tư sản; chúng ta tuyên bố công khai rằng:

nói nhà trường đứng ngoài cuộc sống, ngoài chính trị, là nối dối và lừa bịp”.40

Một trong những điều kiện cơ bản, tiên quyết để nâng cao năng suất lao động là phải

nâng cao trình độ học vấn và văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động. Trong Dự thảo cương

lĩnh của Đảng Cộng sản Nga tháng 2/1919 ở nội dung nói về nền giáo dục quốc dân, Lenin viết:

“Trong lĩnh vực giáo dục quốc dân, Đảng Cộng sản Nga tự đặt cho mình nhiệm vụ phải
hoàn thành sự nghiệp cách mạng tháng Mười 1917 đã bắt đầu nhằm biến nhà trường
từ một công cụ thống trị giai cấp của giai cấp tư sản thành một công cụ để đập tan nền
thống trị đó, cũng như để hoàn toàn xoá bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp. Nhà
trường phải trở thành một công cụ của chuyên chính vô sản, nghĩa là nhà trường không
những phải truyền bá những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản nói chung, mà còn phải
là một công cụ truyền bá ảnh hưởng về tư tưởng, về tổ chức và giáo dục của giai cấp vô
sản vào những tầng lớp nửa vô sản và không phải vô sản trong quần chúng lao động,
nhằm hoàn toàn đập tan sự kháng cự của bọn bóc lột và thực hiện chế độ cộng sản,...
Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục với lao động sản xuất”.41

Tư tưởng giáo dục tổng hợp là tư tưởng giáo dục trong thời kỳ Công nghiệp hóa – hiện

đại hóa ở Nga. Từ đó, tất cả các trường phổ thông đều mang tính chất giáo dục lao động và giáo

dục kỹ thuật tổng hợp.

c. Triết lý giáo dục của Đảng Cộng Sản42

Đại hội IV, ngày 11-1-1979 Nghị quyết số 14-NQ/TW “về cải cách giáo dục”.

 Mục tiêu: con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể và phát

triển toàn diện.

 Nguyên lý: học phải đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,

nhà trường gắn với xã hội.

39
(Karl Marx; Friedrich Engels 1978, (tập 46)263 )
40
(Lenin 1978, (tập 37)92-93)
41
(Lenin 1978, (tập 37)141-142)
42
(Vỳ 2010)

57
 Nội dung: cải cách cơ cấu, cải cách nội dung giáo dục và cải cách phương pháp

giáo dục, không thoát ly sản xuất và công tác.

Nghị quyết Đại hội VI: Giáo dục nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo

đội ngũ lao động phù hợp với phân công lao động của xã hội.

Nghị quyết Đại hội VII: giáo dục đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng

lực, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa

xã hội.

Đại hội VIII, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Ngày 30-5-1998, Chỉ thị số 34-CT/TW về tăng cường công tác chính trị tư tưởng; củng

cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học.

Đại hội IX, chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15-6-2004 “Về việc xây dựng, nâng cao chất

lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,

phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ này.

Đại hội X, ngày 5-3-2009, Bộ Chính trị (khoá X) ra Thông báo Kết luận “Về tiếp tục

thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo

đến năm 2020”

58
Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo
đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Cần coi trọng cả ba mặt giáo dục: dạy làm người,
dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch
sử, truyền thống văn hoá của dân tộc, của Đảng. Ngăn chặn xu hướng mờ nhạt tư tưởng
chính trị, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động
giáo dục.

Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với giáo dục.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng
yêu cầu về chất lượng

Thứ tư, tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo
dục. Thực hiện tốt đào tạo theo học chế tín chỉ trong hệ thống giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp. Cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình các môn khoa học xã
hội, nhân văn, nhất là các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ năm, tăng cường nguồn lực cho giáo dục

Thứ sáu, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục

Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo.

d. Hệ thống giáo dục sau 1975 có triết lý giáo dục không?

Vấn đề triết lý giáo dục được quan tâm rất nhiều những năm gần đây do hậu quả tụt hậu

của thực tế ngành giáo dục. Việc chuyển biến giáo dục sang hệ thống giáo dục của nền kinh tế

thị trường xã hội chủ nghĩa đang gặp rất nhiều vấn nạn. Nhiều nhà trí thức, chuyên gia giáo dục

và mọi thành phần đang lên tiếng về một hệ thống giáo dục mất phương hướng, không định

hướng, yếu kém vá bất cập. Nói tắt là không có triết lý giáo dục, đặc biệt là khoảng những năm

2000 đến nay.

Để trả lời cho những kêu than trên, nhiều nhà chức trách đã lên tiếng khẳng định rằng

nền giáo dục Việt Nam hiện nay có triết lý giáo dục, nhưng có thể do “lỗi hệ thống” nào đó mà

chưa thực hiện thành công mà thôi.

Nhiều người nêu ra văn bản pháp luật là Luật giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam

(sửa đổi 2009)43

43
(Chính phủ Việt Nam 2009)

59
Chương 1, Điều 2: Mục tiêu giáo dục.

Mục tiêu GD là đào tạo con người Việt nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chương 1, điều 3, mục 1: Tính chất nguyên lý giáo dục

Nền giáo dục Việt nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa
học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.

Bộ trưởng Giáo dục Phạm Vũ Luận44 (nhiệm kỳ 2010 - 2016) lại cho rằng triết lý giáo

dục của Việt Nam là nghị quyết Trung Ương 29 về Đổi Mới Căn Bản, Toàn Diện Giáo Dục Và

Đào Tạo, năm 2013.45 Nghị quyết này dài hơn 7000 từ.

NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8 KHÓA XI

VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

II- Mục tiêu

1- Mục tiêu tổng quát

Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng
ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân
dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt
và làm việc hiệu quả.

Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ
cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều
kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập
quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc
dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực.

Gần đây nhất, “trong phiên điều trần trước Quốc Hội 16.11.2016, phát biểu bổ sung sau

phần giải trình của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã giải đáp băn khoăn

về triết lý giáo dục của Việt Nam sau khi một đại biểu có hỏi “Phải chăng chúng ta không có

triết lý giáo dục?”

44
(VTC 2014)
45
(Chính phủ (2) 2013)

60
"Việt Nam có triết lý giáo dục chứ không phải không có, có điều Việt Nam không có câu
trích dẫn để thành kinh điển"... Phó Thủ tướng nhấn mạnh: “Triết lý giáo dục của Việt
Nam trước hết là triết lý xây dựng đất nước dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.

Đó là xây dựng con người Việt Nam toàn diện, đức trí, thể mỹ, có tinh thần dân tộc, có
lòng yêu nước và có trách nhiệm quốc tế”...

Đó là nhằm vào mục tiêu như UNESCO đã đề ra, đó là học để biết, học để làm, học để
tự khẳng định, tự kiếm sống. 46

Như thế là đã rõ, chỉ một câu hỏi về triết lý giáo dục là gì? thì đã có hàng loạt câu trả

lời khác nhau từ những người chịu trách nhiệm đầu ngành hoặc được trích dẫn từ chính những

văn bản pháp luật. Nói cách khác, đến nay, khi được hỏi về triết lý giáo dục, những người chịu

trách nhiệm có vẻ “bỡ ngỡ”, hoặc có khi chưa hiểu rõ triết lý giáo dục là gì một cách đầy đủ

chiều sâu nên chỉ trả lời tính cách cá nhân, đôi lúc trả lời cho có và mơ hồ. Hệ thống giáo dục

Việt Nam vẫn cần được xác quyết một triết lý giáo dục duy nhất đúng theo tiêu chuẩn của một

triết lý giáo dục cần có.

2. Thực tế

a. Hệ thống giáo dục

Sau khi thống nhất ngày 30.04.1975, Việt Nam chính thức ở dưới nền chính trị dựa theo

quan điểm triết học của K. Marx. Tất cả các chính sách quản lý kinh tế xã hội, giáo dục, văn

hóa đều nằm dưới sự chỉ đạo tuyệt đối và độc nhất của Đảng, đứng đầu là Bộ Chính Trị với cao

nhất là Tổng Bí Thư.

Từ 1976 – 1981: giáo dục miền Bắc tiếp tục hệ thống 10 năm giống như trước 1975.

Thay đổi chủ yếu là hệ thống 12 năm ở miền Nam, chuyển đổi sang giáo dục XHCN

với 2 mục tiêu xóa bỏ tàn dư giáo dục cũ và bao cấp toàn bộ hệ thống bằng thay đổi toàn bộ

sách giáo khoa (20 triệu bản in), tuyển dụng lại giáo viên, thực hiện công lập hóa tất cả trường

tư thụ, nhà nước quản lý toàn bộ (nội dung, bao cấp tài chính, đánh giá thi cử, xét lý lích “hồng

hơn chuyên”, loại bỏ các yếu tố tôn giáo…)

46
(Linh 2016)

61
Cuộc cải cách lần thứ ba bắt đầu năm 1981 (nghị quyết 1979):

Từ 1981, Miền Bắc đổi hệ 11 năm (thêm lớp 5); 1992 – 1993 hệ 12 năm giống miền

Nam. Đến nay, hệ thống phổ thông gồm: Tiểu học: Lớp 1, 2, 3, 4, 5;Trung học cơ sở: 6, 7, 8,

9; Trung học phổ thông: 10, 11, 12. Và trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Bên cạnh

đó là các trung tâm giáo dục thường xuyên. Có 2 hình thức là Công lập và tư nhân.

Từ 1986, cải cách chính trị kinh tế thị trường cho phép tư nhân làm giáo dục.

Tháng 10/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quy định mới về khung cơ cấu

hệ thống Giáo dục quốc dân và khung trình độ quốc gia theo các quyết định 1981/QĐ-TTg và

1982/QĐ-TTg. Theo Quyết định này, khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục

chính quy và giáo dục thường xuyên.

Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:

- Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo

Nhà trẻ thực hiện đối với trẻ từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi. Mẫu giáo được thực hiện đối với

trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi.

Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung

học phổ thông;

Tiểu học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến hết lớp 5. Trung học cơ sở được

thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến hết lớp 9. Trung học phổ thông tiếp nhận học sinh đã

hoàn thành chương trình giáo dục trung học cơ sở. Trong thời gian học trung học phổ thông,

học sinh có thể chuyển sang học chương trình đào tạo trình độ trung cấp nếu có nguyện vọng

và đáp ứng được yêu cầu của chương trình. Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong

3 năm học, từ lớp 10 đến hết lớp 12. Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông có thể học lên đại

học hoặc theo học các chương trình giáo dục nghề nghiệp.

- Giáo dục nghề nghiệp đào tạo các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng:

62
Trung cấp có thời gian đào tạo tối thiểu tương đương 1 năm học tập trung đối với người

đã tốt nghiệp trung học phổ thông; từ 2 đến 3 năm học tập trung (tùy từng ngành, nghề) đối với

người đã tốt nghiệp trung học cơ sở. Có thể được học tiếp lên trình độ cao đẳng, đại học nếu

đáp ứng được quy định của chương trình đào tạo,

Cao đẳng tiếp nhận người tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tốt nghiệp trình độ trung

cấp. Chương trình tương đương 2 đến 3 năm học tập trung tùy theo chuyên ngành hoặc nghề

đào tạo; từ 1 đến 2 năm học tập trung đối với người đã tốt nghiệp trình độ trung cấp và có bằng

tốt nghiệp trung học phổ thông, hoặc đã học và thi đạt yêu cầu khối lượng kiến thức văn hóa

trung học phổ thông theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Có thể học tiếp các chương

trình đào tạo đại học theo hướng chuyên môn phù hợp, hoặc theo các hướng chuyên môn khác

nếu đáp ứng được điều kiện của chương trình đào tạo.

Cùng với đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng, đào tạo trình độ sơ cấp nhằm

giúp người học có kỹ năng thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề.

- Giáo dục đại học đào tạo các trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ

Giáo dục trình độ đại học và giáo dục trình độ thạc sĩ có 2 định hướng: nghiên cứu và

ứng dụng; giáo dục trình độ tiến sĩ theo định hướng nghiên cứu. Các chương trình đào tạo định

hướng nghiên cứu có mục tiêu và nội dung theo hướng chuyên sâu về nguyên lý, lý thuyết cơ

bản trong các lĩnh vực khoa học phát triển các công nghệ nguồn làm nền tảng để phát triển các

lĩnh vực khoa học ứng dụng và công nghệ. Các chương trình đào tạo định hướng ứng dụng có

mục tiêu và nội dung theo hướng phát triển kết quả nghiên cứu cơ bản, ứng dụng các công nghệ

nguồn thành các giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế các công cụ hoàn chỉnh phục

vụ nhu cầu đa dạng của con người.

Trình độ đại học tiếp nhận người đã tốt nghiệp trung học phổ thông, trung cấp hoặc cao

đẳng. Chương trình đào tạo đại học có thời gian tương đương 3 đến 5 năm Người tốt nghiệp

trình độ đại học có thể học tiếp lên thạc sĩ theo hướng chuyên môn phù hợp hoặc được nhận

63
vào học các hướng chuyên môn khác nếu đáp ứng được điều kiện của chương trình đào tạo.

Người tốt nghiệp trình độ đại học có kết quả học tập xuất sắc có thể được xét tuyển thẳng vào

chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ đúng hướng chuyên môn ở trình độ đại học.

Các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ tiếp nhận người tốt nghiệp trình độ đại

học. Thời gian đào tạo trình độ thạc sĩ tương đương 1 đến 2 năm học tập trung tùy theo yêu cầu

của ngành đào tạo. Người học sau khi hoàn thành chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ có thể

học tiếp lên tiến sĩ trong hướng chuyên môn phù hợp hoặc được nhận vào học các hướng chuyên

môn khác nêu đáp ứng được điều kiện của chương trình đào tạo.

Các chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ tiếp nhận người tốt nghiệp trình độ thạc sĩ

hoặc người tốt nghiệp trình độ đại học nếu đáp ứng được các yêu cầu của chương trình đào

tạo. Thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ tương đương 3 đến 4 năm học tập trung tùy theo yêu cầu

của ngành đào tạo và trình độ đầu vào của người học.

- Giáo dục thường xuyên

Nhằm tạo điều kiện cho mọi người, ở các lứa tuổi và trình độ khác nhau có thể học tập,

nâng cao kiến thức, phát triển năng lực chuyên môn, tự tạo việc làm hoặc chuyển đổi ngành,

nghề phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng người, góp phần nâng cao dân trí, chất lượng nguồn

nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, xây dựng xã hội học tập. Người học có

thể chuyển đổi từ giáo dục thường xuyên sang các phương thức khác nếu có nhu cầu, có đủ

năng lực và đáp ứng yêu cầu của chương trình.

64
Hình 1: Sơ đồ hệ thống giáo dục Việt Nam

Hệ thống giáo dục Việt Nam từ sau 1975 đến nay luôn được gắn liền với động từ “cải

cách” hoặc “cải cách giáo dục”. “Cải cách” có nghĩa là sửa đổi những bộ phận cũ không hợp lý

65
cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan.47 Như thế, bởi luôn được (hoặc phải)

cải cách, giáo dục Việt Nam vẫn là hệ thống “đang được sửa đổi cho hợp lý (tức là hiện tại chưa

hợp lý?) và chưa đáp ứng được yêu cầu tình hình khách quan (yêu cầu thế nào? Tình hình khách

quan đó là gì?)

Lịch sử giáo dục Việt Nam có 3 lần cải cách giáo dục: 1950, 1956 và 1979. Cải cách

giáo dục thực chất chỉ là sửa đổi c thành hệ thống giáo dục đặc trưng Xã hội chủ nghĩa. Cải

cách 1950 và 1956 đã được đề cập đến trong phần giáo dục của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng

Hòa (1945 – 1975) và chỉ thực hiện ở miền Bắc. Phần phức tạp nhất và “khó hiểu nhất” là cải

cách năm 1979 để thống nhất hệ thống giáo dục cả nước. Khó hiểu bởi được chính thức bắt đầu

từ năm 1979 mà đến nay vẫn chưa kết thúc (hoặc không hiểu bao giờ sẽ kết thúc?) dù đã 40

năm trôi qua. Khó hiểu bởi trong 40 năm qua, hệ thống giáo dục “được sửa đổi hợp lý” vẫn cứ

lòng vòng, bỏ rồi chọn, vất rồi nhặt lại, luẩn quẩn loanh quanh mà vẫn không hiểu tới bao giờ

mới hợp lý? Và tới bao giờ nó mới thật sự mới để phù hợp với yêu cầu của giáo dục khách

quan?

Trong thực tế, mỗi mùa nhập học, phụ huynh học sinh phải “vật lộn” với việc chọn

trường, chạy chỗ cho con. Không thiếu cảnh giành dựt hồ sơ, xếp hàng ngày đêm, xét hộ khẩu,

tham nhũng, bao biện… Hệ thống phân luồng không chỉ là sơ đồ như hình vẽ mơ ước. Để được

đi học và học đúng chỗ mình cần là cả một vấn đề lớn và là một nỗi lo cho những người thiếu

khả năng mỗi mùa nhập học. Khi tư nhân hóa giáo dục đang phổ biến, thì mức độ kinh tế hóa

và phân cấp chất lượng giáo dục thêm nặng nề. Kinh tế quyết định nơi chỗ.

Chưa kể mức độ chân rết của cấu trúc học thêm, học phụ đạo, học năng khiếu, học ngoại

ngữ… Chưa kể các hệ thống trường chuyên, lớp chọn phân cấp học sinh. Các trung tâm giáo

dục thường xuyên mọc lên như nấm sau mưa khiến hệ thống giáo dục trở nên vô cùng phức tạp.

47
(Hoàng Phê 2016, 131)

66
“Trung tâm” nào dạy thật? Cung tăng là do cầu tăng. Có phải do hệ thống giáo dục chính quy

không trả lời thỏa đáng cho nhu cầu xã hội?

Hệ thống đào tạo đại học, cao đẳng, trường nghề… hiện nay lại còn “loạn” hơn. Tri thức

được bầy bán la liệt như một siêu thị với hàng nội, hàng ngoại, hàng giả, hàng xấu, hàng nhà

quê... Năm 2000, Việt Nam có 178 trường đại học và cao đẳng, đến năm 2016 có 442 trường

(đại học 223, cao đẳng 219)48, tăng gần 250%. Đại học đang lạm phát. Tất cả là vì bằng cấp,

hợp thức hóa vị trí chính trị, bán bằng giả, tranh giành quy mô và lạm phát ngành học. Hệ thống

Đại học không đúng chuẩn đại học, lại xuất hiện nhiều tên trường, nhiều ngành học ngộ nghĩnh

trực thuộc địa phương đại học Dân lập, đại học Mở, đại học FPT, Viện Đào Tạo Răng hàm Mặt.

Có 6 trường Đại học công an nhân dân và đặc biệt Đại học Phòng cháy chữa cháy trực thuộc

bộ Công An, 22 học viện và trường cao đẳng Quốc Phòng có quyền đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ.

Trong nước có 20 đại học trọng điểm gồm 2 đại học quốc gia là Đại học TPHCM và Đại học

Hà Nội, 8 đại học vùng (Tây Bắc, Thái Nguyên, Vinh, Huế, Đà Nẳng, Quy Nhơn, Tây Nguyên,

Cần Thơ) và 10 đại học theo lãnh vực quan trọng (?).49

Việc làm nghiên cứu sinh, thạc sĩ lại trở thành một cuộc đua bằng cấp khốc liệt. Giáo

sư là danh hiệu được phong tặng bởi nhà nước và Đảng. Đại học Việt Nam đến nay vẫn không

có quyền tự trị như đặc tính truyền thống của đại học.

b. Nội dung giáo dục

Từ 1975- 1986: Chương trình sách giáo khoa chủ yếu sao chép các nước XHCN.

1981: Cải tiến chữ viết và lối ghép vần, sau một thời gian quay lại chữ viết cũ.

Từ năm 2000: tập trung thay đổi nội dung SGK. Năm 2015, Quốc hội không chấp thuận

bỏ môn lịch sử. Kế hoạch tích hợp môn lịch sử và địa lý đang gây tranh cãi. Nội dung các môn

Khoa học xã hội – Nhân văn gặp rất nhiều giới hạn.

Chương trình trung học phổ thông bị thay đổi liên miên.

48
(Bộ Giáo Dục Đào Tạo 2017)
49
(Bé 2013)

67
Năm 1993, chia thành 3 ban : Ban A (khoa học tự nhiên), ban B (khoa học kỹ thuật),

ban C (khoa học xã hội), nhưng đến năm 1998 chương trình phân ban bị bãi bỏ.

Năm 2002 tái lâp lại chuyện phân ban nhưng chỉ có 2 ban : ban A và ban C, nhưng rồi

chỉ một năm sau Quốc Hội ra lịnh tạm đình chỉ. Đến năm 2005 lại chia ra 5 ban : ban A (KH

tự nhiên), ban C (KH xã hội), ban CB (cơ bản), ban CBA (cơ bản, hướng KH tự nhiên) và

ban CBC (cơ bản hướng KH xã hội). Khi thi tốt nghiệp THPT (Tú Tài) thí sinh phải lựa chương

trình chuẩn hay chương trình nâng cao tùy theo chương trình học trong năm. Khi thi tuyển vào

đại học thì có vô số Khối : khối A (Toán, Lý Hóa) khối B (Toán, Sinh, Hóa), khối C (Văn, Sử,

Địa), khối D1 (Toán, Văn, Anh ngữ), khối D2 (Toán, Văn, Pháp ngữ), khối D3 (Toán, Văn,

Nga ngữ), khối D4 (Toán, Văn, Hoa ngữ)), khối D5, D6…N, M, V…

2010- 2016: Thời ông Nguyễn Thiện Nhân làm Bộ trưởng áp dụng đại trà việc phân ban

phổ thông gồm : Ban A: Khoa học tự nhiên (học nâng cao Toán, Lý, Hóa); Ban C: Khoa học

xã hội (học nâng cao Văn, Sử, Địa, Ngoại ngữ); Ban B: không phân ban và nâng cao môn nào.

Rút cuộc phần lớn chọn học ban B. Năm 2014: Chương trình phân ban thất bại thảm hại và

chấm dứt với lãng phí rất lớn.

Sách giáo khoa phổ thông được xuất bản độc quyền bởi NXB Giáo dục. Các NXB khác

chỉ xuất bản các sách tham khảo. Nói là sách tham khảo, thực chất phần lớn là sách giải bài tập,

văn mẫu, cắt ghép không đi ra ngoài nội dung giáo án sách giáo khoa.

Nội dung sách giáo khoa PTTH luôn bị kêu than là rắc rối khiến người dạy và người

học “ điên đảo ”, không phù hợp lứa tuổi, nặng nề lý thuyết, những chỗ thiếu chỗ thừa. Đặc biệt

là nội dung soạn thảo một chiều, thay đổi liên tục, cắt xén tùy tiện và chịu sự áp lục nặng nề

của yếu tố chính trị. Chương trình các cấp cũng không thống nhất và liên tục vì không được

soạn thảo bở cùng một hội đồng chủ biên. Nội dung giáo dục không những sai, mà còn làm hại

68
học trò.50 Nội dung giáo dục là phần quan trọng nhất trong đào tạo hiện nay lại trở thành những

trò châm biếm, chế nhạo lan tràn đầy dãy trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Giáo dục Đại học – Cao đẳng – Trung học chuyên nghiệp cho đến 2005 đã thiết lập đào

tạo cử nhân – thạc sĩ – tiến sĩ nhưng theo niên chế. Đến 2010 áp dụng đào tạo tín chỉ. Dù tự chủ

- chuyên biệt nội dung là đặc trưng đào tạo đại học trên toàn thế giới, nhưng Đại học Việt Nam

vẫn chịu sự chi phối của chính trị bằng luật pháp. Điển hình là Luật giáo dục Đại học 2012,

Điều 32 Luật GDĐH số 08/2012 /QH và điều 36 chẳng hạn.

Điều 32. Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học

1. Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức
và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ,hợp tác quốc tế, bảo
đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức
độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng
giáo dục.

2. Cơ sở giáo dục đại học không còn đủ năng lực thực hiện quyền tự chủ hoặc vi phạm
pháp luật trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tùy thuộc mức độ, bị xử lý theo quy
định của pháp luật.51

Như thế, ĐHVN chưa có yếu tố tự chủ nội dung, mơ hồ định hướng, đặc biệt là nội

dung chính trị là phần buộc ngặt với tất cả hệ trường Công hay Tư. Bởi nội dung đó, ĐHVN

giống như một trường nghề cung ứng lao động cho thị trường kinh tế nhiều hơn là những

nhà chuyên môn.

c. Phương pháp giáo dục

Ở bậc phổ thông trung học vẫn chủ yếu áp dụng phương pháp đọc chép, học thuộc lòng

để đáp ứng tiêu chuẩn của các kỳ thi. Phương pháp “ ép học ” chính vẫn là kỷ luật bằng “ nỗi

sợ ” và các hình phạt và căn cứ điểm số để xét thành tích. Các môn khoa học tự nhiên được cấu

trúc dưới dạng bài tập lý thuyết. Các môn khoa học xã hội chủ yếu học thuộc và chịu sự chi

phối nặng nề của chính trị. Điển hình của giáo dục phổ thông là các kỳ thi kiểm tra ở mọi

khoảng thời gian. Với nội dung ôm đồm khiến học trò và giáo viên chạy đua với chương trình,

50
(Hoàng 2012)
51
(Quốc hội Việt Nam 2012)

69
giáo án lên khung sẵn, và thành tích thi đua gắt gao, tất cả chỉ còn mục tiêu là thi điểm cao. Học

thêm, chạy điểm, siêng năng bù tài năng, thang điểm quy định từng 0.25… đã khiến giáo dục

phổ thông mang tính chất “ nhồi sọ ”. Thuyết trình, thực nghiệm, ngoại khóa… cũng được áp

dụng nhưng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa. Đến mùa thi thì phần lớn là tập trung cho môn chính,

sôi kinh nấu sử như thời Nho học lên kinh ứng thí.

Ở bậc đại học, so với số lượng trường Đại học dầy đặc được phân hai nhánh rõ ràng,

sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam chủ yếu vẫn là học cho xong, học để lấy bằng, học nhồi

nhét cho qua môn. Phương pháp giáo dục tại Đại học Việt Nam lạc hậu và hại cho nhân cách

học sinh. Thiếu giáo sư có kiến thức theo tiêu chuẩn, thiếu cơ sở và trang bị thích nghi cho việc

đào tạo, chương trình dạy và phương pháp dạy cổ hủ theo lối thầy đọc trò chép, không có truyền

thống nghiên cứu đại học với óc sáng tạo. Nhiều sinh viên ra mà vẫn không hiểu vì sao mình

được ra trường, không viết nổi một bài báo cáo dạng sơ cấp, trình độ tri thức và ứng xử xã hội

không tương đương bằng cấp. Mức độ thất nghiệp “ bằng cấp ” treo tăng lên báo động. Trong

bảng xếp hạng các đại học, so với các đại học tỉnh lẻ của các quốc gia Trung Quốc, Philipines,

Malaysia… thì chỉ có Đại học quốc gia Hà Nội lọt top 300 Châu Á, còn top 1000 trường toàn

thế giới thì không có Đại học Việt Nam nào.52 Số lượng bằng sáng chế và nghiên cứu khoa học

mức độ giá trị thế giới vẫn dừng ở hàng đơn vị (dưới 10).

d. Mục tiêu giáo dục

Tiếp tục định hướng nền Giáo dục XHCN của Miền Bắc, sau 1975, giáo dục Việt Nam

vẫn vận dụng hệ thống triết học Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đào tạo ra Con

người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng Con người mới là người thế nào? Có thể tóm ở các phẩm

chất chủ đạo là làm chủ tập thể, người lao động phát triển toàn diện, có nhân cách xã hội chủ

nghĩa (yêu nước, yêu XHCN, đạo đức Cách Mạng), người Việt Nam toàn diện (đạo đức, tri

52
(topuniversities.com 2018)

70
thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp). Như vậy, triết lý đào tạo con người vừa hồng vừa

chuyên vẫn còn, nhưng được vận dụng theo một cách nói diễn dịch khác mà thôi.

Một hệ thống giáo dục như trên sẽ đào tạo ra những con người thế nào? Những thành

tựu và mẫu gương được đề cao “ không mệt mỏi ” “ vượt khó học giỏi ” “ đạt giải cao ” “ hiếu

học ” trên các phương tiện truyền thông và thực tế cuộc sống… thấm vào đâu so với vô vàn vô

số tệ nạn giáo dục? Con người Việt Nam đang suy đồi đạo đức cách trầm trọng. Nhân cách

XHCN là gì? Đó có phải là bệnh thành tích, bệnh gian lận, bệnh bạo lực… đang lan tràn rúc rỉa

lương tâm người Việt. Những con người sáng tạo, làm chủ tập thể, phát triển toàn diện… sau

hơn 40 giáo dục cách mạng được thể hiện ở đâu? Số bằng phát minh? Số công nhân xuất khẩu

lao động? Số sinh viên, thạc sĩ thất nghiệp? Số bệnh nhân tăng vọt? Mức độ khan hiếm đến

tuyệt chủng các chuyên gia? Khả năng sáng tạo nghệ thuật hàn lâm? Trình độ thẩm mĩ của con

người?

3. Khủng hoảng triết lý giáo dục

Có rất nhiều nhà trí thức và nhà giáo dục tại Việt Nam đang tích cực lên tiếng về một

nền giáo dục “ khủng hoảng trầm trọng ” do không có một triết lý phù hợp. Nền giáo dục hôm

nay quá yếu kém, bất cập, mất định hướng, tụt hậu thê thảm với thế giới.

Đức Giám Mục Phaolo Nguyễn Thái Hợp, giáo phận Vinh, tiến sĩ triết học và tiến sĩ

luân lý học, sau hơn 30 năm làm giáo sư tại nhiều học viện trên toàn thế giới đã phải nhận định

rằng : “nguyên nhân cuộc khủng hoảng giáo dục ở nước ta là do cái “ triết lý giáo dục ” vừa

lạc hậu, vừa mất định hướng, vừa lệch chuẩn”53. Nhà văn lão thành Nguyên Ngọc cho rằng sau

một thời gian rất ngắn tại Miền Bắc (1957-1958) với thời đại học của các giáo sư Đào Duy Anh,

Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Tạ Quang Bửu, Trương Tửu, Trần Đình Hưu… thì giáo

dục nước ta bắt đầu tụt dốc không phanh cho đến hôm nay. Nguyên nhân là do sai lầm quan

niệm, mà cái gốc là tư duy giáo dục để làm gì? Đào tạo con người thế nào? Hay triết lý giáo

53
X. (Hợp 2014, 20)

71
dục của chúng ta “không chỉ lạc hậu mà còn lạc hướng”, lạc hướng nội dung (càng giảm càng

nặng), lạc hướng phương pháp (càng mới càng chán), lạc hướng quản lý (càng cắt càng rối,

càng thêm càng thiếu, càng tiết kiệm càng tốn kém).54

Nhưng không lẽ những nhà quản lý vĩ mô không nghĩ đến chuyện triết lý giáo dục?

Chính họ cũng từng nhiều lần tuyên bố rằng nền giáo dục Việt Nam có triết lý chứ không phải

không có và đã tổ chức nhiều hội nghị về triết lý giáo dục. Vấn đề xảy ra là những sự kiện thực

tế xã hội và những câu triết lý đối phó loay hoay với dư luận không trả lời thỏa đáng dù có đưa

thêm yếu tố quốc tế vào sau này. Chúng chỉ xuất hiện như một thứ khẩu hiệu cổ động là chính.

Hay nói đúng hơn là sự cố ý bám ghì lấy hệ thống duy ý chí tôi luôn đúng dẫu rằng chỉ một

mình mình đúng.

54
X. Nguyên Ngọc, trích bởi (Hợp 2014, 31-35)

72
KẾT LUẬN

Tóm lại, lịch sử giáo dục Việt Nam ở mỗi thời kỳ luôn có triết lý giáo dục. Tuy nhiên,

tùy thuộc hoàn cảnh chính trị và “ khả năng quản lý ” mà triết lý giáo dục ấy được công bố

tường minh hay thực hiện ngầm ý.

Giáo dục Việt Nam sau 1975 cũng vậy. Ngày nay, hình ảnh con người mới với nhân

cách xã hội chủ nghĩa đã thực sự gặp thách thức với đòi hỏi của con người tự do mang tính toàn

cầu. Con người mới thực ra chỉ là con người công cụ, được “sản xuất” theo mưu ích của chính

trị, suốt đời chỉ hành xử theo khuôn mẫu định sẵn của tập thể, khác đi là phải trả giá. Dù kêu

gào sáng tạo, nhưng hãy thử sáng tạo xem, sẽ biết ngay kết quả lập tức! Hệ thống, xếp loại,

thành tích hay nội dung giáo dục cũng chỉ là một vận dụng sáng tạo (hoặc “ tối ” tạo) của triết

lý ấy mà thôi. Kết quả là chỉ sinh ra những con người sợ sệt, vâng lời tối mặt nhưng không biết

cách ứng phó với bối cảnh thay đổi quá thường xuyên của nhu cầu hiện đại hôm nay. Nhà

nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn đã đề nghị “nhìn lại” một triết lý giáo dục quan niệm

độc quyền, giáo điều, áp đặt (từ nội dung đến phương pháp) và giáo dục thiển cận công cụ hóa

con người vì lợi ích chính trị hơn là chính lợi ích của con người.55 Nhà văn Nguyên Ngọc thì

đòi hỏi dừng việc dạy học bằng cách cung cấp chân lý, nhưng dạy con người ý chí và cách truy

tìm chân lý để là một con người tự do dân chủ. Ta không đào tạo thùng chứa kiến thức, nhưng

đào tạo con người (nhân cách, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo) bởi con người không phải là

máy móc56.

10 thế kỷ Nho học, gần 100 năm Tây học và hơn 60 năm giáo dục xã hội chủ nghĩa đều

cho thấy rõ những kết quả hoặc hậu quả. Hôm nay, chúng ta không chỉ khủng hoảng triết lý

giáo dục hay cần một triết lý giáo dục mới mà là khủng hoảng “tâm hồn giáo dục”, khủng hoảng

55
X. Bùi Văn Nam Sơn, trích bởi (Hợp 2014, 37)
56
(Hợp 2014, 34)

73
“lòng thương người, thương nước, thương tuổi trẻ”. Muốn là làm được. Chỉ vì người làm giáo

dục không muốn hoặc không dám!

74
THƯ MỤC THAM KHẢO

Alice, A. B.; et. al. 2016. Nền giáo dục trong kỷ nguyên mới. Dịch bởi Huỳnh Văn Nhiều và

Trân Châu. HCM: Hồng Đức.

Bé, Lâm Văn. 2013. “Giáo dục Việt Nam không giống ai.” June. Đã truy cập March 2018.

https://sites.google.com/site/lamvinhbinhca/tuyen-tap/viet-nam-duoi-thoi-cong-

san/giao-duc-viet-nam-khong-giong-ai.

Chambault, Reginald D. 2012. John Dewey về giáo dục: John Dewey on Education. Dịch bởi

Phạm Anh Tuấn. HCM: Trẻ.

Chính phủ (2). 2013. “Nghị Quyết 29/2013.” thuvienphapluat.vn. Đã truy cập March 2018.

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-2013-

doi-moi-can-ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx.

Dân, Lê Thanh Hoàng, và et.al. 1970. Các vấn đề của giáo dục. Sài Gòn: Trẻ.

Duyệt, Hữu. 2014. “Ngẫm nghĩ triết lý giáo dục của các nước - Bài 1: Phần Lan: Tuyệt đối tin

trẻ.” plo.vn. 15 Sep. Đã truy cập Jan 2018.

Dương, Giáp Văn. 2017. “Triết lý giáo dục VIệt Nam thời đại mới.” 30 May. Đã truy cập Jan

10, 2018.

Định, Kim. 2017. Triết lý giáo dục, tủ sách Ra khơi - Nhân ái. 2nd. Hà Nội: Nhà Văn.

Đức, Huy. 2012. Bên thắng cuộc: Quyền Bính - tập 2. USA: OsinBook.

Fukuzawa, Yukichi. 2007. Khuyến học (Hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của

người Nhật Bản). Dịch bởi Phạm Hữu Lợi. Hà Nội: Nhã Nam,.

Hảo, Chu. 2008. “Việt Nam đang theo triết lý giáo dục nào.” chungta.com. 4 Nov. Đã truy cập

Mar 20, 2018. http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-

cuu/viet_nam_dang_di_theo_triet_ly_giao_duc_nao.html.

75
Ích, Phạm Khiêm. 2010. “Triết học giáo dục như một bộ môn, một xu hướng nghiên cứu quốc

tế.” tiasang.com.vn. 16 March. Đã truy cập January 15, 2018.

Karl Marx; Friedrich Engel. 1978. Các mác - Ph Anghen toàn tập. Tập 46. Hà Nội: Sự Thật.

Karl Marx; Friedrich Engels. 1978. Các mác - Ph Anghen toàn tập. Tập 44. Hà Nội: Sự Thật.

Liêm, Nguyễn Thanh. 2013. “Nền giáo dục ở Miền Nam 1954 đến 1975.” hocthenao.vn. Biên

tập bởi NPV. 16 Oct. Đã truy cập Mar 10, 2018. https://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-

giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/comment-page-1/.

Nam, Lương Hoài. 2014. “Triết lý giáo dục Việt Nam là gì.” vnexpress.net. 29 Apr. Đã truy

cập Jan 20, 2018. https://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/triet-ly-giao-duc-viet-nam-la-

gi-2984150.html.

Quốc hội Việt Nam. 2012. “Luật 8/2012 về Giáo dục Đại học.” luatvietnam.vn. Đã truy cập

April 2018. https://luatvietnam.vn/giao-duc/luat-08-2012-qh13-quoc-hoi-71740-

d1.html?gclid=EAIaIQobChMIida7jcTo2gIVw46PCh3hZABsEAAYASAAEgJs0_D_

BwE.

San, Trần Bích. 2016. “Nền giáo dục Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản 1945-1975.”

tongphuochiep.com. 26 Oct. Đã truy cập Mar 20, 2018.

http://www.tongphuochiep.com/index.php/bao-chi/bien-kh-o/22396-n-n-giao-d-c-vi-t-

nam-du-i-ch-d-c-ng-s-n-t-1945-1975-tr-n-bich-san.

—. 2018. “Thi cử và nền giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.” cothommagazine.com. 16

Apr. Đã truy cập May 1, 2018.

http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=278&Ite

mid=1.

2018. topuniversities.com. April. Đã truy cập April 2018. https://www.topuniversities.com/qs-

world-university-rankings .

76
Vương, Nguyễn Quốc. 2016. “Con đường xây dựng triết lý giáo dục của Nhật Bản.”

giaoduc.net.vn. 26 Aug. Đã truy cập Mar 7, 2018. http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-

24h/Con-duong-xay-dung-va-triet-ly-giao-duc-cua-Nhat-Ban-post170370.gd.

Vượng, Trần Quốc; et.al. 2009. Cơ sở văn hóa Việt Nam. Đà Nẵng: Giáo Dục.

Vỳ, Nghiêm Đình. 2010. “Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục và đào tạo trong thời

kỳ đổi mới.” dangcongsan.vn. Đã truy cập Mar 2018. http://dangcongsan.vn/tu-lieu-

van-kien/tu-lieu-ve-dang/lich-su-dang/books-310520153565356/index-

41052015349445663.html.

Whitehead, Alfred North. 2016. Những mục tiêu của giáo dục và các tiểu luận khác. Dịch bởi

Tiết Hùng Thái, Hà Dương Tường Hoàng Phú Phương. Tp.HCM: Hồng Đức.

77

You might also like