Professional Documents
Culture Documents
Con Người Trong Thơ Mới
Con Người Trong Thơ Mới
hthphuong.blogspot.com/2013/01/van-e-con-nguoi-trong-tho-moi-nhom-3.html 2/7
17/6/2021 Để gió cuốn đi....: Vấn đề con người trong Thơ Mới - nhóm 3
ngơ ngẩn
buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận . . .”. Nhưng càng tìm kiếm càng lạc
lối, càng
đi sâu vào cái “tôi” lại càng thấy lạnh
Nỗi buồn, nỗi cô đơn ấy cũng được
biểu hiện với nhiều cung bậc khác nhau.
Điều này ta thấy rõ trong các sáng tác
của Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ . . . Có
khi đó là nỗi buồn vô cớ:
“Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn”
(Chiều – Xuân Diệu)
hay cái buồn bơ vơ, lạc lõng giữa
dòng đời của Huy Cận trong “Tràng giang”:
"Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp
Cảnh vật mùa thu được nhìn bằng đôi mắt đầy tâm trạng của thi nhân. Đó
là
tâm trạng " u uất hận chia ly" không chỉ của riêng Xuân Diệu mà
của cả một thế
hệ thanh niên tri thức thời bấy giờ.
hthphuong.blogspot.com/2013/01/van-e-con-nguoi-trong-tho-moi-nhom-3.html 3/7
17/6/2021 Để gió cuốn đi....: Vấn đề con người trong Thơ Mới - nhóm 3
(Xa cách)
Không chỉ bấy nhiêu, Thơ Mới càng tiến
xa hơn với quan niệm cổ vũ, đề
cao tự do trong tình yêu đôi lứa. Thơ tình xuất
hiện với mật độ dày đặc, phong
phú đủ mọi cung bậc. Dường như tâm hồn con người
trở nên mềm mại hơn, lãng
mạn hơn khi được thẳng thắn bộc lộ tình cảm chân thật
trong lòng mình. Bày tỏ
tình yêu trở thành tâm điểm trong Thơ Mới và đó là thứ
“công cụ tối tân” để con
người có thể giao cảm, đồng điệu với nhau. Thật khó mà
liệt kê hết một lúc các
dạng tình yêu mà các nhà thơ thể hiện. Đó là tình vu vơ
trong “Vì sao” của Xuân
Diệu:
“Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền
Không
thể vô tình qua trước cửa
Biết
rằng gặp gỡ đã vô duyên? ”
cho đến tình “Tương tư”
của Nguyễn Bính:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một
người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa
là bệnh của trời
Tương tư
là bệnh của tôi yêu nàng”
hay là tình đau xót của
Hàn Mặc Tử:
“Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn
một năm xương thôi!
Thân tàn ma dại
đi rồi
Rầu rầu nước mắt
bời rời ruột gan”
(Muôn năm
sầu thảm)
hoặc tình dang dở của Hồ
Dzếnh:
“Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi
còn dang dở”
Và còn rất nhiều mối tình khác như tình
chia phôi trong “Giây phút chạnh
lòng ” của Thế Lữ, tình xưa tuyệt vọng của
T.T.KH trong “Hai sắc hoa tigôn” . . .
Dù ở bất cứ trạng thái nào thì tình yêu
trong thơ Mới vẫn đẹp và mang sắc thái u
hoài, lãng mạn, day dứt khôn nguôi.
Được sống và được yêu là một diễm phúc
hiếm có mà các nhà thơ đã sớm ý thức rõ.
Bởi thế, mạnh dạn bày tỏ nó như một
nhiệm vụ thiên liêng, nhu cầu tinh thần
luôn thôi thúc mạnh mẽ người nghệ sĩ.
3. Đề cao, khẳng định
tài năng, quyền sống của con người.
Tiếp xúc với thơ Mới một thời người
ta chỉ nhận thấy phần tiêu cực của
nó qua những vần thơ u buồn, ủy mị. Nhưng
theo dòng thời gian, với cách nhìn
nhận đánh giá mới, ta lại thấy ở đấy những
bài thơ giàu giá trị nhân văn góp phần
khẳng định quyền sống và bộc lộ tiếng
nói của cá nhân tự khẳng định tài năng
của mình. Tiêu biểu là bài thơ “Lời kĩ nữ”
của Xuân Diệu và “Hầu trời” của Tản
Đà.
Lời kĩ nữ là một trong những bài thiết
tha, tuyệt vọng, bài thơ về một cô
gái trong cái nghề nghiệp vốn dĩ luôn bị
khinh bỉ nhưng tiếng nói nhân văn toát
lên từ bài thơ là sự ý thức về đời sống
độc lập của tinh thần (với thể xác) là một
khát vọng sống thiêng liêng, trong sạch,
là sự ý thức về quyền sống và bản thân
mình. Cô gái với sự nhạy cảm với vẻ sáng
lạnh của thiên nhiên, nghe thấu nỗi giá
băng tràn mọi nẻo buốt xương da mà run
lên niềm cô đơn đến rợn ngợp. Với lời
van vỉ tội nghiệp của người kĩ nữ:
“Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa…”
“Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả
Đây rượu nồng…”
“…Và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân
hoàng tử”
Bốn
chữ “đây” là bốn động tác mời mọc bằng bốn vật dâng. Dấu chấm trước chữ
“và” ngắt dòng thơ thành hai câu chứng tỏ
người mời rất có ý thức về sự quí giá
của vật dâng thứ tư và cuối cùng: hồn. Cẩn
trọng và thành kính biết bao khi tôn vị
khách làm hoàng tử và đặt dưới chân người
ấy “hồn của em đây”.Không phải
ngẫu nhiên mà trong lời van xin ba lần kĩ nữ nhắc
tới “hồn của mình”. Đó là sự ý
thức về đời sống tinh thần, là sự cảm nhận thấm
thía về nỗi cô đơn và ước mong
vượt thoát khỏi tình cảnh cô đơn. Đó là sự mâu
thuẩn giằng xé giữa ước ao trong
sáng về mặt tinh thần với cái hoen ố của thân
xác, cái tủi cực của đời sống gạo
tiền, cơm áo. Người kĩ nữ muốn tự quên mình
vì ý thức quá rõ về sự cô đơn, bởi
nhớ đến mình thì chỉ chạm vào nỗi cô đơn
khôn cùng mà thôi: “Chớ để riêng em
hthphuong.blogspot.com/2013/01/van-e-con-nguoi-trong-tho-moi-nhom-3.html 4/7
17/6/2021 Để gió cuốn đi....: Vấn đề con người trong Thơ Mới - nhóm 3
phải gặp lòng em” cô sợ phút giây chính
mình đối diện với lòng mình mà thấm
thía nỗi trớ true, bất hạnh. Cô muốn thoát
mà tự biết không sao thoát nổi.Còn bi
kịch nào hơn khi con người phải trốn chạy
bản than mình. Đây là một ý thức tỉnh
táo về mình, về người, về sự bất lực trước
hoàn cảnh:
“Người giai
nhân: bến đợi dưới cây già
Tình
du khách: thuyền qua không buộc chặt”.
Đó
cũng là sự ý thức về tài sắc, về cảnh ngộ éo le, về đời sống nội tâm hết sức
nhân văn của tác giả đối với nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Bên cạnh sự khẳng định quyền sống, thơ Mới
còn góp phần bộc lộ tiếng
nói cá nhân tự khẳng định tài năng của mình qua bài
thơ “Hầu trời” của Tản Đà.
Cái độc đáo của nhà thơ thể hiện trong “Hầu Trời” là
một cái tôi “ngông” rất lạ.
Cái ngông ở đây được nói đến là cái “ngông” dựa
trên khả năng của mình. Nhà
văn có vẻ đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của
mình. Khẳng định bản ngã cái tôi
phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình
giữa cuộc đời
“Văn
dài hơi tốt ran cung mây!
Trời
nghe, Trời cũng lấy làm hay”
Hay: “Trời lại phê cho
văn thật tuyệt!
Văn
trần được thế chắc có ít”
Từ
đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa
Tản Đà
lại khẳng định rất “ngông”, của kẻ vốn
đã “ngông” khi nhận mình là
“trích tiên”
bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và
thân phận “khác
thường của mình”.
4. Tiếng nói yêu nước thầm kín trong thơ Mới
Thơ Mới
không chỉ là tiếng nói của cái tôi ham sống, khát khao sống nhưng bế
tắc trước
cuộc đời mà nó còn là tiếng nói yêu nước thầm kín cuả tầng lớp tri thức
thời bấy
giờ, ẩn chưa thái độ phản kháng, đấu tranh chống lại thực tại xã hội đen
tối,
chống lại những thế lực kiềm hãm con người.
Tiếng nói yêu
nước ấy bộc
lộ trước hết qua những bài thơ thể hiện tình
yêu với con người, cảnh vật, quê
hương. Hình ảnh quê hương đất nước hiện lên
trong các bài thơ đem lại những cảm
nhận rất riêng nhưng lại rung cảm bao thế
hệ độc giả. . Một địa danh thôn Vỹ đi
vào nỗi nhớ, gắn kết ân tình với xứ Huế
trong Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Không gian của buổi chiều thu cho đôi
lứa tìm đến nhau trong Thơ Duyên cũng khiến
ta cảm nhận sắc thái thiên nhiên
hoà hợp quấn quít trên cây cỏ, chim muông. Quê
hương còn hiện lên qua nỗi
buồn mang tầm vóc vũ trụ, của chàng thi sĩ Huy Cận đứng
trên quê hương mà
vẫn cảm thấy “thiếu quê hương”, chuyển tải bao tâm sự nỗi niềm
của người dân
mất nước. Tất cả những nỗi niềm ấy kết tinh lại trong “lòng quê dợn
dợn vời con
nước – không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi dậy tình yêu giang
sơn Tổ
quốc. Quê hương còn đẹp giản dị trong Chiều xuân của Anh Thơ, làng quê
Việt
Nam đẹp một cách nao lòng trong cỏ xanh, mưa xuân, đàn bò đủng đỉnh, cô yếm
thắm…. Tất cả những bài thơ ấy viết về con người, cảnh vật, làng quê…đều gặp
nhau ở một điểm: tình cảm yêu nước kín đáo.
Phong trào thơ Mới từng bị xem là tiếng
nói của tình cảm cá nhân ủy mị,
tiêu cực. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của
thời đại, của đất nước, chúng ta
cần thấy được cái buồn bao trùm trong thơ Mới
cũng là biểu hiện của lòng yêu
nước, của thái độ bất mãn với thực tại. Đâu phải
ai cũng may mắn như Tố Hữu
bắt gặp ánh sáng lý tưởng cộng sản từ rất sớm, được
lý tưởng ấy soi đường, được
dấn thân vào con đường đấu tranh chống lại kẻ thù
nên những nhà thơ Cách
mạng như Tố Hữu có chỗ dựa vững chắc ở chính nghĩa Cách
mạng và niềm tin
thắng lợi. Các nhà thơ Mới thì không có điểm tựa này nên họ vùng vẫy trong cái
tôi lạc loài, bơ vơ.
Huy Cận đã đi đến tận cùng nỗi cô đơn ấy khi ông đặt mình
trong tương quan với
vũ trụ to lớn:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô
liêu”
Tiếng nói
yêu nước không chỉ thể hiện qua những câu thơ ca ngợi quê
hương hay ẩn chứa nỗi
buồn thế hệ trước thực tại đen tối của đất nước mà đôi khi
nó còn được gửi gắm
qua những hình ảnh ẩn dụ ví von như hình ảnh “non-nước”
trong bài “Thề non nước”
của Tản Đà, hình ảnh con hổ bị giam trong vườn bách
thú ở bài “Nhớ rừng” của Thế
Lữ, hay hình ảnh người chinh phu ra đi vì nghĩa
lớn trong “Tống biệt hành” của
Thâm Tâm.
Trước hết,
ta nói đến bài thơ “Thề non nước” của Tản Đà. Đây là một bài
thơ đa nghĩa. Có nội dung vịnh cảnh
trong tranh. Có nội dung phong tình cố hữu
hthphuong.blogspot.com/2013/01/van-e-con-nguoi-trong-tho-moi-nhom-3.html 5/7
17/6/2021 Để gió cuốn đi....: Vấn đề con người trong Thơ Mới - nhóm 3
của Tản Đà. Và còn có tấm lòng thiết
tha gắn bó của nhà thơ với Tổ Quốc giang
sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Trong
bài thơ “Thề non nước”, hai chữ “non”
và “nước” xuất hiện ở tần số rất cao: 27
lần, lúc thì nước nhớ non, lúc thì non
nhắn nước, lúc thì non non nước nước… Một
giọng thơ thiết tha, có không ít câu
thơ để lại nhiều ám ảnh:
“Nước đi đi mãi,
không về cùng non,”
“Nước đi chưa lại,
non còn đứng trông,
Non cao những
ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong
tháng ngày”…
“Non còn nhớ nước, nươc mà
quên non…”
Lời thề non nước của Tản Đà đã đồng điệu cùng với tiếng
lòng của những
nhà thơ yêu nước đầu TKXX:
“Có
phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”.
(“Cuốc kêu cảm hứng” - Nguyễn Khuyến)
”Vì thương nước cạn, nặng
nề em dám kêu ai
(...) Cái bước đêm khuya
thân gái ngại ngùng
Nước non gánh nặng, cái đức
ông chồng hay hỡi có hay!”
(“Gánh nước đêm” - Trần Tuấn Khải)
Đến
”Nhớ rừng” của Thế Lữ, ta thấy được một tâm sự u uất, chán nản và
khát vọng tự
do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách
thú. Đó cũng là
tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn
cảnh mất nước. Hơn thế
nữa, ta còn thấy ở bài thơ bộc lộ sự phản kháng gay gắt
trước thực tại tầm thường
giả dối, tù túng giam hãm ước mơ của con người.
”Gậm
một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày
tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn,
ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh
rừng thẳm”
Và tất cả những tình cảm
yêu nước, những khát khao được thoát khỏi
cuộc sống tầm thường, phá bỏ vòng vây
kiềm hãm của thực tại xã hội đen tối ấy
được kết tinh trong hình ảnh người
chinh phu quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn:
”Li khách! Li khách con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về
bàn tay không
Thì không bao giờ
nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng
đừng mong”
Người đăng:
Hoàng Phương
vào lúc
04:58
hthphuong.blogspot.com/2013/01/van-e-con-nguoi-trong-tho-moi-nhom-3.html 6/7