You are on page 1of 48

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

KHOA: SƯ PHẠM KHOA HỌC XÃ HỘI


----------------------------

Đề cương bài giảng


GIÁO DỤC HỌC TRUNG HỌC

Giảng viên
ThS. GVC. NGUYỄN KIM CHUYÊN

1
PHẦN I: LÝ LUẬN DẠY HỌC
CHƯƠNG I. QUÁ TRÌNH DẠY HỌC Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Quá trình dạy học
1.1.1. Khái niệm về quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình hoạt động thống nhất giữa giáo viên và học sinh
trong đó dưới sự lãnh đạo, tổ chức điều khiển của giáo viên, học sinh tự giác tích cực, chủ
động tự tổ chức hoạt động nhận thức học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy
học
1.1.2. Cấu trúc của quá trình dạy học (Quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn)
Quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn bao gồm nhiều thành tố tồn tại, phát triển
trong mối quan hệ biện chứng: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ
chức, kiểm tra, đánh giá, chủ thể hoạt động dạy, chủ thể hoạt động học và giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật … trong đó yếu tố
mục đích, nhiệm vụ giữ vai trò cơ bản quan trọng nhất vì nó định hướng cho hoạt động dạy
học, nó chi phối sự vận động và phát triển của các yếu tố khác.
1.1.3. Bản chất của quá trình dạy học
* Những cơ sở để xác định bản chất của quá trình dạy học
- Mối quan hệ giữa nhận thức và dạy học
+ Để tồn tại và phát triển con người không ngừng nhận thức thế giới khách quan và
luôn luôn khái quát hóa, hệ thống hóa thành hệ thống tri thức. Hệ thống tri thức ngày càng
phong phú, đa dạng, sâu sắc và được truyền lại cho thế hệ sau chủ yếu thông qua quá trình
dạy học
+ Như vậy, trong xã hội luôn luôn diễn ra hai hoạt động: hoạt động nhận thức của loài
người và hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. Hoạt động nhận thức
của loài người đi trước, nội dung của hoạt động dạy học được tiến hành trên cơ sở “gia
công” sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống những tri thức của loài người nhằm giúp
thế hệ trẻ tái nhận thức lại
- Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học: hai hoạt động này có mối quan hệ
chặt chẽ trong một quá trình. Trong quá trình dạy học, hoạt động dạy nhằm tác động đến
hoạt động học, thúc đẩy hoạt động nhận thức của học sinh một cách thông minh, tích cực,
sáng tạo để phát triển bản thân học sinh. Do đó chỉ tìm ra bản chất của quá trình dạy học ở
hoạt động nhận thức của học sinh
* Bản chất hoạt động học trong quá trình dạy học
Quá trình dạy học về bản chất là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh
- Giống nhau: (giống ở loài người và các nhà khoa học ở chổ)
+ Cũng là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào ý thức
+ Cũng diễn ra theo quy luật nhận thức chung của loài người
+ Điều dựa trên sự huy động các thao tác tư duy ở mức độ cao, làm cho vốn hiểu
biết của chủ thể phong phú, hoàn thiện
- Khác nhau
+ Nhận thức của nhà khoa học + Nhận thức của học sinh
.Tìm ra cái mới đối với loài người .Lĩnh hội cái mới đối với bản thân
.Là quá trình tự tìm tòi, tự nghiên cứu .Có sự hướng dẫn của thầy cô
.Con đường nhận thức quanh co, khó .Con đường thẳng
khăn
.Nghiên cứu toàn bộ nội dung khoa học .Nội dung được gia công sư phạm
.Không có khâu củng cố, kiểm ta .Có củng cố, kiểm tra

1.1.4. Nhiệm vụ dạy học

2
Nhiệm vụ thứ 1: Điều khiển, tổ chức HS nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ
bản, khoa học hiện đại, phù hợp với thực tiễn đất nước về tự nhiên, xã hội, nhân văn đồng
thời rèn luyện cho các em hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.
- Tri thức phổ thông cơ bản là những tri thức được lựa chọn từ các khoa học khác
nhau. Đó là những tri thức tối thiểu, cần thiết để làm nền tảng giúp các em học sinh tiếp tục
học lên trên hoặc tham gia vào cuộc sống lao động. Những tri thúc cung cấp cho học sinh
phải là những tri thức hiện đại, phản ánh những thành tựu mới của khao học, công nghệ của
nền văn hóa tiên tiến, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại, mang tính hệ thống,
lôgic, đồng thời đảm bảo mối quan hệ giữa các khoa học khác. Những tri thức hiện đại
nhưng phải có tính phổ thông phù hợp với thực tiễn đất nước, phù hợp với lứa tuổi trình độ
nhận thức của học sinh.
- Bên cạnh hệ thống kiến thức, thông qua quá trình dạy học, người học cần hình thành
hệ thống các kỹ năng
Nhiệm vụ thứ 2: Tổ chức, hướng dẫn HS hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất
trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo
Quá trình chiếm lĩnh tri thức là quá trình diễn ra sự tác động thống nhất biện chứng
giữa một bên là tri thức với tư cách là “ cái được phản ánh” một bên là các thao tác hoạt
động trí tuệ với tư cách là “phương thức phản ánh”. Những tri thức được hình thành trong
quá trình học tập nhờ những thao tác hoạt động trí tuệ ngược lại chính những thao tác hoạt
động trí tuệ sẽ nâng cao khả năng làm phong phú tri thức. Vì vậy thông qua quá trình lĩnh
hội tri thức, người thầy phải giáp HS rèn luyện các thao tác trí tuệ dần dần hình thành các
phẩm chất của hoạt động trí tuệ như: tính định hướng, tính linh hoạt, tính mềm dẻo….
Nhiệm vụ thứ 3: Tổ chức, hướng dẫn HS hình thành cơ sở thế giới quan khoa học, những
phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung.
Trên cơ sở HS nắm vững tri thức và kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức mà
hình thành cho HS cơ sở thế giới quan khoa học, lý tưởng, động cơ, những phẩm chất đạo
đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung theo mục đích giáo dục.
Các nhiệm vụ dạy học có mối quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện
mục tiêu dạy học, mục đích giáo dục
1.1.5. Tính quy luật, động lực, lôgic của quá trình dạy học
1.1.5.1. Quy luật và tính quy luật quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình luôn luôn vận động và phát triển. Sự vận động và
phát triển đó mang tính quy luật phản ánh những mối liên hệ tất yếu bền vững giữa các yếu
tố này với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội. Tính quy luật có đặc điểm:
- Tính quy luật quá trình dạy học thể hiện thông qua hoạt động tự giác tích cực của con
người nhằm đạt mục đích.
- Tính quy luật biểu hiện như những xu hướng có tính thống kê
- Tính quy luật mang tính lịch sử
- Phản ánh mối liên hệ bền vững ba yếu tố cơ bản của quá trình dạy học là hoạt động
dạy, hoạt động học, nội dung dạy học
- Tính quy luật về tính quy định của kinh tế - xã hội đối với quá trình dạy học
- Tính quy luật về sự thống nhất và quy định lẫn nhau giữa các thành tố của quá trình
dạy học
- Tính quy luật về mối liên hệ giữa hiệu quả quá trình dạy học với tính chất đa dạng các
hoạt động và giao lưu của học sinh
- Tính quy luật về việc chú ý đặc điểm lứa tuổi và cá nhân học sinh trong quá trình dạy
học
- Tính quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học
1.1.5.2. Động lực của quá trình dạy học
* Khái niệm:

3
Động lực của quá trình dạy học là yếu tố thúc đẩy quá trình dạy học phát triển, là hệ
thống các giải pháp nhằm giải quyết các mâu thuẫn của quá trình dạy học
* Các mâu thuẫn của quá trình dạy học
- Những mâu thuẫn bên ngoài:
Là mâu thuẫn giữa quá trình và bản thân từng thành tố của quá trình dạy học với kinh tế
xã hội
+ Mâu thuẫn giữa sự phát triển của kinh tế xã hội … với các nhân tố cấu trúc của quá
trình dạy học còn hạn chế
+ Mâu thuẫn giữa những tiến bộ khoa học kỹ thuật với điều kiện vật chất, trang thiết bị,
phương tiện dạy học còn lạc hậu
+ Lao động sản phẩm của người giáo viên vô cùng khó khăn và phức tạp nhưng đồng
lương còn thấp
-> những mâu thuẫn này là điều kiện cho sự phát triển của quá trình dạy học
- Những mâu thuẫn bên trong:
Bao gồm các loại mâu thuẫn giữa các nhân tố cấu trúc của quá trình dạy học và ngay
bên trong bản thân từng thành tố như:
+ Mục đích, nhiệm vụ dạy học đã được nâng cao hoàn thiện mâu thuẫn nội dung ở trình
độ kém
+ Nội dung, phương tiện hiện đại hóa mâu thuẫn trình độ giáo viên còn thấp.
+ Trình độ chuyên môn của giáo viên vững vàng nhưng nghiệp vụ sư phạm còn yếu,
giữa lời nói với việc làm …
-> những mâu thuẫn này đóng vai trò là nguồn gốc, quyết định sự phát triển
 Các mâu thuẩn trên có những giải pháp giải quyết sẽ tạo động lực phát triển cho
QTDH
* Mâu thuẫn cơ bản và động lực chủ yếu của quá trình dạy học
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ học tập ngày càng cao với trình độ tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo và sự phát triển trí tuệ của người học còn hạn chế. Mâu thuẫn này phải trở
thành cơ bản, thường xuyên trong quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh.
- Những điều kiện cơ bản để mâu thuẫn trở thành động lực
+ Mâu thuẫn phải vừa sức với học sinh
+ Học sinh phải ý thức được mâu thuẫn và có nhu cầu, cách thức giải quyết
+ Mâu thuẫn nảy sinh mang tính tất yếu trên con đường vận động phát triển của quá
trình dạy học nói chung và quá trình nhận thức của học sinh nói riêng
1.1.5.3. Lôgic của quá trình dạy học
Là trình tự vận động hợp quy luật của quá trình đó nhằm đảm bảo cho học sinh phát
triển trí tuệ tương ứng lúc bắt đầu nghiên cứu đến trình độ phát triển trí tuệ lúc kết thúc
môn học. Nói khác đi là trình tự triển khai thực hiện quá trình dạy học, trật tự tổ chức lĩnh
hội môn học
Lôgic của quá trình dạy học diễn ra theo các khâu cơ bản:
- Kích thích thái độ học tập của học sinh
- Tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện tốt hoạt động nhận thức, hình thành ở học
sinh hệ thống tri thức mới
- Tổ chức hướng dẫn học sinh củng cố tri thức
- Tổ chức hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, ứng dụng tri thức
- Tổ chức kiểm tra đánh giá việc nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống
- Phân tích kết quả từng giai đoạn, từng bước để thầy và trò thực hiện hoạt động dạy
học đạt hiệu quả cao hơn.
Các khâu trong quá trình dạy học có liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau cần thực hiện
một cách linh hoạt, sáng tạo nhằm đạt được mục tiêu của quá trình dạy học cụ thể.
1.1.6.Các xu hướng dạy học hiện đại
1.1.6.1. Dạy học theo quan điểm tiếp cận “lấy người học làm trung tâm”

4
* Thế nào là dạy học lấy học sinh làm trung tâm
- Mọi tác động sư phạm phải căn cứ vào đặc điểm của người học
- Tạo mọi điều kiện để học sinh làm việc nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn
- Người học tự khám phá dưới sự dẫn dắt của người dạy để hình thành các phẩm chất
và năng lực theo yêu cầu giáo dục
- Người học là chủ thể tự tìm ra tri thức, bạn bè cùng lớp là cộng đồng, tạo điều kiện
cho học sinh giao tiếp, đối thoại
- Người dạy giữ vai trò hướng dẫn, tổ chức, trọng tài …
* Đặc điểm chủ yếu của dạy học là:
- Mục tiêu: hướng vào việc chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội, tôn
trọng nhu cầu, tiềm năng của học sinh
- Nội dung dạy học: ngoài tri thức lý thuyết, chú trọng các kỹ năng thực hành, vận dụng
vào thực tiễn.
- Phương pháp: hướng vào việc tổ chức cho học sinh hoạt động
- Hình thức: sử dụng nhiều hình thức phong phú
- Đánh giá: học sinh tự đánh giá và tham gia đánh giá lẫn nhau
* So sánh lối dạy này với lối dạy truyền thống
( Sinh viên tự học)
* Vai trò của người giáo viên trong quá trình dạy học lấy học sinh làm trung tâm
Quá trình dạy học đó đòi hỏi rất cao năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm và phẩm
chất nghề nghiệp của người giáo viên trong việc định hướng, thiết kế, tổ chức, hướng dẫn,
cố vấn, trọng tài, cổ động viên, bình luận viên, kiểm tra đánh giá quá trình dạy học nhằm
phát triển tốt nhân cách học sinh.
1.1.6.2. Dạy học phân hóa.
* Quan điểm về dạy học phân hóa
Phân hóa (diferentiation) là một hoạt động mà ở đó cần phải phân loại và chia tách
các đối tượng, từ đó tổ chức, vận dụng nội dung, phương pháp và hình thức sao cho phù
hợp với đối tượng ấy nhằm đạt hiệu quả cao.
Dạy học phân hóa là định hướng trong đó giáo viên tổ chức dạy học tùy theo đối
tượng, nhằm đảm bảo yêu cầu giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý, nhịp độ, khả
năng, nhu cầu và hứng thú khác nhau của những người học. Trên cơ sở đó, giáo viên có thể
phát triển tối đa tiềm năng vốn có của mỗi học sinh.
Dạy học phân hóa là chiến lược dạy học dựa trên nhận thức giáo viên về nhu cầu,
hứng thú và cách thức học của từng cá nhân người học, khác với dạy học đại trà nội dung
và cách dạy chủ trương áp dụng cho số đông. Những dấu hiệu cơ bản của dạy học phân hóa
như: Sự quan tâm có hệ thống dành cho người học có đa dạng các nhu cầu đặc biệt; điều
chỉnh nội dung kiến thức để đáp ứng năng lực, kinh nghiệm và hứng thú của người học. Tổ
chức nhiều hình thức dạy học, cách học chú ý tới các đối tượng riêng biệt, cá nhân hóa
người học giúp học sinh đạt được mục tiêu. Khuyến khích người học chứng minh hiểu biết
của mình theo nhiều cách có ý nghĩa. Tôn trọng sự đa dạng trí tuệ trong môi trường học tập
dựa vào nhu cầu và năng lực người học.
* Phân loại dạy học phân hóa
- Phân hóa trong (còn gọi là phân hóa vi mô) là cách dạy học chú ý tới các đối tượng
riêng biệt, cá nhân hóa người học trên lớp, phù hợp với từng đối tượng để tăng hiệu quả dạy
học, kết quả phân hóa trong phụ thuộc chủ yếu vào năng lực và phương pháp của người
dạy.
- Phân hóa ngoài (còn gọi là phân hóa vĩ mô) là cách tổ chức dạy học theo các
chương trình khác nhau cho các nhóm người học khác nhau nhằm đáp ứng được nhu cầu,
sở thích và năng lực của từng nhóm người học. Kết quả phân hóa ngoài phụ thuộc chủ yếu
vào việc thiết kế nội dung chương trình các môn học.

5
Phân hóa trong, được coi trọng ở tất cả các cấp học; phân hóa ngoài được thực hiện
tăng dần ở các cấp học giáo dục phổ thông, đặc biệt phân hóa mạnh ở các lớp cuối trung
học phổ thông.
Hiện có nhiều hình thức tổ chức dạy học phân hoá ngoài khác nhau, nhưng chủ yếu
là hai hình thức sau:
Tổ chức dạy học phân hóa theo hướng phân ban: Mỗi ban được xác định theo một
nhóm môn học phù hợp với nhóm ngành, nghề xã hội. Học sinh lựa chọn ban căn cứ vào
năng lực và nguyện vọng của bản thân và điều kiện thực tiễn của từng trường.Có thể thực
hiện dạy học phân hóa theo hướng tổ chức các nhóm học tập cùng trình độ (khá - giỏi -
trung bình - yếu), hoặc các câu lạc bộ học tập theo năng khiếu môn học… Ở quy mô quốc
gia, việc tổ chức dạy học theo các ban “tự nhiên”, “xã hội” và “cơ bản” là một hình thức
phân hóa vĩ mô.
Tổ chức dạy học phân hóa theo hướng tự chọn: Học sinh chỉ bắt buộc phải học một
số ít môn học và hoạt động chung, còn lại tự chọn các môn học hoặc chủ đề giáo dục phù
hợp với nguyện vọng, sở trường của cá nhân người học. Số lượng môn học và hoạt động
giáo dục bắt buộc cũng như các môn, các chủ đề tự chọn thường gắn với đặc điểm môi
trường kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi địa phương/quốc gia.
1.1.6.3. Dạy học tích hợp
* Quan điểm về dạy học tích hợp
Tích hợp (integration) có nghĩa là lồng ghép, sát nhập, hợp nhất, xác lập cái chung,
cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ. Theo nghĩa này, tích hợp
hướng tới việc xem xét mỗi đối tượng như là một thể thống nhất của những nét bản chất
nhất trên các thành phần, chứ không phải là phép cộng giản đơn những thuộc tính của các
thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản là liên kết và toàn vẹn. Liên
kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần liên
kết, chứ không phải sự sắp xếp các thành phần bên cạnh nhau.
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ các kiến
thức, kĩ năng thuộc những môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất. Theo
Nguyễn Xuân Thành: “Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên
quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục
pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông...”
Dạy học tích hợp (integration teaching) là dạy học theo định hướng phát triển (ở
người học) khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng,... thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện
ngay trong qua trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện các kĩ năng.
* Phân loại dạy học tích hợp
Tùy theo mức độ tích hợp khác nhau mà có thể phân ra các kiểu tích hợp sau:
-Tích hợp nội môn (Intradisciplinary Intergration/Approach) là cách dạy học trong
đó có những nội dung được thiết kế dựa trên hai hay nhiều phần của môn học với mục tiêu
là nhận thức được hiện tượng hay giải quyết được vấn đề dựa trên sự tích hợp và tổng hợp
các kiến thức, kĩ năng từ các phần khác nhau của môn học. Theo phương án này, các môn
vẫn được học riêng rẽ, nhưng trong quá trình giảng dạy, tích hợp được thực hiện thông
qua việc loại bỏ những nội dung trùng lắp trong bản thân môn đó, khai thác sự hỗ trợ
giữa các phân môn, giữa các phần trong một phân môn hay một môn học. Trong môn
Ngữ văn, có sự tích hợp giữa các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói trong một tiết học.
-Tích hợp liên môn (Interdisciplinary Intergration/Approach) là cách dạy học mà
giáo viên tổ chức chương trình học thông qua các môn học để giải quyết một nội dung
trong chương trình cần kiến thức, kĩ năng của hơn một môn học. Trong cách tiếp cận tích
hợp liên môn, giáo viên kết nối các nội dung học tập chung nằm trong những môn học
khác nhau để nhấn mạnh các khái niệm và kỹ năng liên môn. Đây là điểm chung với xu

6
hướng tích hợp đa môn. Tuy nhiên, việc tổ chức học tập có thể chỉ đặt trong khuôn khổ
một môn học, ở đó giáo viên tổ chức chương trình học tập những chủ đề, khái niệm cụ
thể của môn học trong mối quan hệ với các khái niệm, kỹ năng liên môn. Môn Ngữ văn
thường tích hợp liên môn với Lịch sử và Giáo dục công dân. Ví dụ: Để hỗ trợ đọc hiểu bài
thơ “Thuật hoài” ( Tỏ lòng), có thể dùng kiến thức lịch sử có liên quan như kiến thức về
thời đại nhà Trần- thời đại vẻ vang của lịch sử dân tộc với ba lần kháng chiến chống quan
xâm lược Nguyên - Mông thắng lợi, viết lên những trang sử vàng chói lọi trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc. Những cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông -
Nguyên dưới triều Trần thắng lợi không chỉ bởi tinh thần yêu nước, ý chí anh hùng mà còn
bởi tinh thần đoàn kết một lòng của quân và dân Đại Việt.
Việc vận dụng những kiến thức này trong quá trình đọc hiểu văn bản có thể rút ra
những kết luận như sau:
Thứ nhất, bài thơ là sản phẩm của một thời đại cụ thể, là tâm sự hoàn toàn có thật của
một danh tướng đã để lại tên tuổi trong lịch sử.
Thứ hai, bài thơ không chỉ cho thấy hình ảnh của một con người cụ thể mà còn nói
lên hào khí rực lửa của thời đại nhà Trần- hào khí Đông A.
Thứ ba, lòng yêu nước trong bài thơ được gắn với những biểu hiện nổi bật và rõ nét vì
nó khắc họa hình ảnh con người chiến đấu bảo vệ đất nước. Vì vậy, ý nghĩa giáo dục của nó
là rất sâu sắc..
-Tích hợp đa môn (Multidisciplinary Intergration) là cách dạy học theo hướng “dạy
học một chủ đề được tiếp cận theo từng môn học khác nhau và tiến hành song song với
nhau” nhằm đạt chuẩn của từng môn. Xu hướng tích hợp đa môn cho rằng một số chủ đề
có thể được nghiên cứu từ góc độ của những khoa học khác nhau . Theo xu hướng này,
nội dung học tập được thiết kế thành một chuỗi vấn đề hay tình huống mà việc giải quyết
đòi hỏi phải huy động tổng hợp kiến thức kĩ năng của những môn học khác nhau. Một
trong những cách thức tổ chức dạy học tích hợp theo phương thức đa môn có thể áp dụng
ở bậc trung học là sắp xếp một số nội dung học tập theo kiểu song hành. Chẳng
hạn, đề bài môn Ngữ văn như sau: Trình bày cảm nghĩ của anh /chị về câu nói: “Trong một
tam giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông”. Để
giải quyết được đề bài này, học sinh không chỉ huy động kiến thức kĩ năng viết bài văn, mà
còn phải có kiến thức nhất định về môn Toán học.
-Tích hợp xuyên môn (Transdisciplinary Integration) là cách dạy học các vấn đề, nội
dung được hiểu và giải quyết vượt qua kiến thức và kĩ năng từng môn học, xem xét các vấn
đề một cách toàn diện với những khái niệm, phương pháp đặc thù của cách tiếp cận xuyên
môn, khi đó cấu trúc logic nội dung từng môn học bị phá vỡ. Xu hướng này chủ yếu nhằm
phát triển những kỹ năng mà học sinh có thể sử dụng trong tất cả các môn học, các tình
huống. Trong cách tiếp cận tích hợp xuyên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập
xoay quanh các vấn đề và mối quan tâm của người học. Học sinh phát triển các kĩ năng
sống khi họ áp dụng những kĩ năng môn học và liên môn vào ngữ cảnh thực tế của cuộc
sống.
1.1.6.4. Trải nghiệm
(Sinh viên đọc tài liệu, tóm tắt nội dung, trình bày các xu hướng dạy học nêu trên)
1.2. Nguyên tắc dạy học
1.2.1. Khái niệm về nguyên tắc dạy học
- Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản, có tác dụng chỉ đạo toàn bộ tiến trình
dạy học, phù hợp với mục đích dạy học nhằm thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ dạy học
- Nguyên tắc dạy học được xây dựng dựa trên những cơ sở:
+ Dựa vào mục đích và nhiệm vụ giáo dục – đào tạo con người mới
+ Quy luật và bản chất của quá trình dạy học
+ Kinh nghiệm tiên tiến, sáng tạo trong dạy học của Việt Nam và thế giới
1.2.2.Một số nguyên tắc dạy học cơ bản

7
1.2.2.1 Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong
dạy học
Nắm tri thức là khâu quan trọng của quá trình dạy học vì nó là cơ sở để học sinh rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, hình thành thế giới quan và các
phẩm chất nhân cách
- Thế nên trong dạy học, giáo viên cần giúp học sinh lĩnh hội hệ thống tri thức khoa
học, chân chính, chính xác, hiện đại về các lĩnh vực, có phương pháp học tập và nghiên cứu
khoa học, hình thành thói quen suy nghĩ và làm việc một cách khoa học
- Trên cơ sở nhận thức, chiếm lĩnh chân lý của thế giới cần hình thành và phát triển nhu
cầu, lòng say mê hứng thú, học tập, nghiên cứu, có thế giới quan khoa học, có niềm tin, thái
độ, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
* Biện pháp thực hiện:
- Cần có sự lựa chọn hệ thống tri thức khoa học, hiện đại để học sinh nắm vững quy luật
phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy có thái độ đúng đắn đối với hiện thực, nhất là truyền
thống tốt đẹp của đất nước và con người Việt Nam
- Trình bày những tri thức khoa học theo một hệ thống chặt chẽ, dùng ngôn ngữ khoa
học, thuật ngữ khoa học một cách chính xác
- Vận dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học sinh làm quen
với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức độ đơn giản
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, phê phán một cách vừa sức
những hiện tượng mê tín dị đoan, những quan điểm phản khoa học, có thói quen chống lại
những sự bóp méo, xuyên tạc sự thật
- Thực hiện quá trình dạy học mang tính khoa học, nghệ thuật cao để học sinh nhận thức
thế giới một cách thông minh tích cực, sáng tạo hình thành và phát triển xúc cảm tình cảm,
nhu cầu, lý tưởng niềm tin, thái độ … những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đối với tự nhiên, xã
hội, con người
 Nguyên tắc này phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa dạy học và giáo dục, giữa dạy
“chữ” và dạy “người”
1.2.2.2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học
Tri thức bắt nguồn từ thực tiễn, nếu tách tri thức khỏi thực tiễn thì nó trở thành lý thuyết
suông, không giải quyết được những vấn đề thực tiễn, học sinh không hứng thú học. Ngược
lại nếu chỉ chú ý vào hoạt động thực tiễn mà không nắm vững tri thức thì hoạt động sẽ
mang tính kinh nghiệm, máy móc …
Trong quá trình dạy học phải làm cho học sinh nắm vững tri thức lý luận, những cơ sở
khoa học. Đồng thời biết vận dụng những tri thức đó vào việc giải quyết những vấn đề thực
tiễn. Thông qua đó giúp học sinh ý thức rõ tác dụng của tri thức đối với thực tiễn xây dựng
đất nước.
* Biện pháp thực hiện
- Chọn lọc và đưa vào chương trình dạy học những tri thức chứa đựng yếu tố gần gũi
với cuộc sống học sinh, phản ánh thực tiễn xây dựng phát triển kinh tế xã hội nhằm chuẩn
bị cho học sinh thích ứng, có hiệu quả vào công việc xây dựng đất nước
- Về nội dung dạy học giúp học sinh nắm vững tri thức lý thuyết thấy rõ vai trò tri thức
khoa học từ đó vạch ra hướng ứng dụng vào hoàn cảnh cụ thể
- Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống học sinh, vận dụng và đổi mới các
phương pháp như thí nghiệm, thực hành nghiên cứu thực tiễn.
- Về hình thức dạy học nên tận dụng các hình thức dạy học ở vườn trường, thiên nhiên,
cơ sở sản xuất kết hợp nghe giảng với tham quan thực tế
1.2.2.3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo
của học sinh và vai trò chủ đạo của người giáo viên trong quá trình dạy học
Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chổ

8
Người học huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý và tiềm lực của cá nhân để giải
quyết những nhiệm vụ nhận thức trong tính tự giác, tích cực, năng động sáng tạo dưới sự
thiết kế, tổ chức, hướng dẫn của giáo viên tạo nên sự cộng hưởng hiệu quả của hoạt động
dạy và học nhằm phát triển tốt nhất người học
* Biện pháp thực hiện
- Giúp người học ý thức đầy đủ và sâu sắc về mục đích và nhiệm vụ học tập, có thái độ,
động cơ học tập tốt
- Sử dụng phối hợp tốt các phương pháp đặc biệt là phương pháp dạy học nêu và giải
quyết vấn đề để đưa học sinh vào tình huống có vấn đề và kích thích sự tìm tòi, sáng tạo
giải quyết những vấn đề ở học sinh, có yêu cầu hợp lý về việc tự nghiên cứu, tự giải quyết
những học tập nhận thức và thực hành
- Tạo mọi điều kiện để học sinh trình bày ý kiến, những điều độc lập suy nghĩ, những
thắc mắc, hoài nghi khoa học … chống lối học vẹt, học đối phó
- Phối hợp nhiều hình thức dạy học: thảo luận, học nhóm, tự học, tham quan thực tế, hoạt
động ngoại khóa … nhằm tạo mọi điều kiện cho học sinh phát huy tối đa khả năng của bản
thân
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập để giúp học sinh tự kiểm tra đánh giá,
tự điều chỉnh, tự phấn đấu
- Hình thành cho người học những thao tác tư duy, hành động thực hành tạo điều kiện để
học sinh thể hiện khả năng sáng tạo
1.2.2.4 Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống, tính liên tục
Giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo khoa học, hiện đại trong tính hệ thống
lôgic và tính kế thừa
* Biện pháp thực hiện
- Tri thức mà học sinh cần lĩnh hội phải được sắp xếp theo một trình tự chặt chẽ và có hệ
thống
- Hệ thống tri thức mà học sinh cần đi từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, nhằm
phát triển tốt khả năng tư duy lý luận cho học sinh
- Khi xây dựng nội dung dạy học phải tính tới mối liên hệ giữa tri thức trong từng môn,
giữa các môn học và tính tích hợp của các môn
- Hình thành cho học sinh thói quen lập kế hoạch, lập dàn ý một cách lôgic cho những
câu trả lời miệng, bài làm, thí nghiệm
- Khi nắm được những tri thức quan trọng, học sinh cần tạo điều kiện ứng dụng chúng
vào thực tiễn để củng cố tính vững chắc của tri thức
1.2.2.5 Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan và tư duy trừu tượng
Trong quá trình dạy học phải giúp cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với những sự vật hiện
tượng cụ thể để hình thành những khái niệm, quy luật, lý thuyết và có thể ngược lại nhằm
phát triển đồng bộ tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng ở học sinh
* Biện pháp thực hiện
- Sử dụng nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là nguồn phương tiện nhận
thức
- Kết hợp trình bày các phương tiện trực quan với lời nói sinh động nhằm kết hợp hai hệ
thống tín hiệu
- Cần sử dụng nguyên tắc trực quan phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nội dung, hoàn cảnh
cụ thể nhằm hình thành phát triển tư duy trừu tượng
- Trong quá trình trình bày trực quan, cần rèn luyện cho học sinh quan sát để nhận ra
những dấu hiệu bản chất qua đó rút ra những kết luận khái quát
- Đề ra cho học sinh những bài tập đòi hỏi thiết lập mối quan hệ giữa cái cụ thể và cái
trừu tượng
1.2.2.6. Đảm bảo tính vững chắc của tri thức và sự phát triển năng lực nhận thức của HS
Trong quá trình dạy học giáo viên cần giúp học sinh nắm vững nội dung dạy học với sự huy

9
động tối đa của trí lực (cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng …) để nhận thức lĩnh
hội tri thức một cách thông minh, qua đó nhằm phát triển năng lực và những phẩm chất
nhận thức
* Biện pháp thực hiện
- Giúp học sinh kết hợp hài hòa giữa ghi nhớ chủ định và không chủ định trong quá
trình lĩnh hội tài liệu
- Hình thành cho học sinh kỹ năng tìm tòi tri thức tránh học vẹt không cần thiết
- Cần đặt ra những vấn đề đòi hỏi HS vận dụng tri thức để nhớ lâu, nắm vững tri thức
- Trình bày tài liệu lôgic, dễ hiểu gây cảm xúc
- Kết hợp giữa sự kiểm tra đánh giá của giáo viên với sự kiểm tra đánh giá tri thức kỹ
năng kỹ xảo ở học sinh
1.2.2.7 Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, cá nhân và tính
tập thể của dạy học
Thông qua dạy học, giáo viên phải biết tạo nên những khó khăn vừa sức, những yêu cầu
và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với khả năng nhận thức và thể lực của người học.
Giáo viên thực hiện việc dạy học phải phù hợp với trình độ phát triển chung của cả lớp
đồng thời phù hợp với trình độ phát triển của từng học sinh, đảm bảo cho mỗi học sinh đều
phát triển tối đa năng lực nhận thức của mình
* Biện pháp thực hiện
- Giáo viên phải nắm được đặc điểm nhận thức của từng học sinh và cả lớp nhất là phải
quan tâm đúng mức đến những học sinh cá biệt
- Giáo viên sử dụng và phối hợp linh hoạt các phương pháp, phương tiện, các hình thức
tổ chức dạy học, cách kiểm tra đánh giá nhằm phát huy đồng bộ năng lực nhận thức của cả
lớp đồng thời mang tính cá thể quá trình nhận thức, vừa tầm phát triển của từng học sinh
1.2.2.8 Nguyên tắc đảm bảo tính xúc cảm của dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải gây cho người học sự hấp dẫn,
hứng thú, lòng ham hiểu biết, niềm vui và tác động mạnh mẽ đến tình cảm của họ
* Biện pháp thực hiện
- Thực hiện mối liên hệ giữa người học đi đôi với hành với cuộc sống với thực tiễn xây
dựng đất nước, với kinh nghiệm vốn sống của bản thân học sinh
- Sử dụng hình thức trò chơi trong quá trình dạy học, các phương tiện nghệ thuật (âm
nhạc, tạo hình, kịch …)
- Tạo điều kiện phát huy cao độ tính tích cực, năng động, sáng tạo của học sinh trong
việc phát hiện, giải quyết vấn đề đạt kết quả tốt nhằm hình thành và phát triển tốt tình cảm
trí tuệ ở học sinh
1.2.2.9 Nguyên tắc đảm bảo chuyển từ quá trình dạy học sang quá trình tự học
Nguyên tắc này đòi hỏi hình thành cho người học có nhu cầu, năng lực phẩm chất tự
học, nghĩa là tự mình tìm ra, khai thác kiến thức bằng hành động của chính mình và hợp tác
với bạn. Từ đó tự tổ chức, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động học của mình.
* Biện pháp thực hiện
- Thông qua phương pháp giảng dạy mà giáo viên giúp học sinh thực hiện có hệ thống
công tác độc lập nhằm lĩnh hội tri thức
- Trong quá trình dạy học cần hình thành cho học sinh kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng tổ
chức, kỹ năng tự đánh giá, điều chỉnh hoạt động học của mình
- Giúp học sinh nhận thức sâu sắc vai trò tự học trong thời đại ngày nay và tiến hành
giáo dục học sinh thông qua những tấm gương tự học
- Tăng khối lượng tri thức và thời gian tự học để hình thành nhu cầu, ý chí của học sinh
đối với tự học và hệ thống kỹ năng cần thiết cho tự học
-> Mối quan hệ giữa các nguyên tắc dạy học: các nguyên tắc dạy học liên quan mật thiết
với nhau. Nội dung của từng nguyên tắc đan kết với nhau, hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo việc
chỉ đạo thực hiện quá trình dạy học đạt kết quả tốt.

10
1.3.Tổ chức hoạt động dạy học ở trường phổ thông
1.3.1. Nội dung dạy học
1.3.1.1. Khái niệm nội dung dạy học
Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo cùng
những cơ sở thế giới quan và đạo đức được hình thành ở người học sinh trong quá trình dạy
học để chuẩn bị cho họ tiếp tục học, đi vào cuộc sống vào hoạt động lao động
1.3.1.2. Những thành phần cơ bản của nội dung dạy học
Nội dung dạy học gồm có 4 thành phần cơ bản
- Hệ thống những tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, kỹ thuật và cách thức hoạt động
- Hệ thống các kỹ năng, kỹ xảo có liên quan đến hoạt động trí óc và lao động chân tay
nói chung và những kỹ năng về những lĩnh vực khác nói riêng
- Hệ thống những kinh nghiệm hoạt động sáng tạo
- Hệ thống những chuẩn mực về thái độ đối với tự nhiên, xã hội và con người
Các thành phần cảu nội dung dạy học có mối quan hệ hữu cơ với nhau góp phần giáo dục
phát triển toàn diện nhân cách học sinh
1.3.1.3. Kế hoạch dạy học, Chương trình DH, Sách giáo khoa và các tài liệu DH khác
*. Kế hoạch dạy học
Là văn kiện do Nhà nước ban hành trong đó quy định các môn học, trình tự dạy học các
môn, số giờ dành cho mỗi môn và việc tổ chức năm học
* Chương trình dạy học
Là văn kiện do Nhà nước ban hành trong đó quy định
- Mục tiêu, yêu cầu của môn học
- Nội dung cơ bản của môn học
- Số tiết dành cho môn học (phần, chương, bài)
- Giải thích và hướng dẫn thực hiện chương trình
* Sách giáo khoa và các tài liệu dạy học khác
Là tài liệu được biên soạn theo kế hoạch và chương trình dạy học, bao gồm những thông
tin cần thiết, kỹ năng, kỹ xảo thuộc từng chủ đề của nội dung mà chương trình đã quy định
Nội dung chương trình được thể hiện cụ thể, chi tiết hệ thống trong sách giáo khoa. Các tài
liệu khác nhằm phục vụ tốt cho chương trình dạy học của thầy và trò
Nội dung dạy học là một thành tố của quá trình dạy học, vận động và phát triển chịu ảnh
hưởng của môi trường kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ. Vì vậy, việc lựa chọn, đổi mới
nội dung dạy học là vấn đề cấp thiết của thực tiễn và lý luận dạy học hiện nay
1.3.1.4. Những định hướng đổi mới nội dung dạy học ở trường phổ thông
( Sinh viên tự học)
1.3.2. Phương pháp dạy học
1.3.2.1. Khái niệm phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động có trình tự phối hợp tương tác
của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học, được tiến hành dưới sự tổ chức, hướng
dẫn của giáo viên nhằm đạt được mục đích dạy học
- Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học tương tác lẫn
nhau. Trong đó phương pháp dạy tổ chức điều khiển giúp HS tự tổ chức điều khiển việc
chiếm lĩnh tri thức bằng phương pháp học của mình
1.3.2.2. Một số phương pháp dạy học cơ bản
Vấn đề phân loại các phương pháp dạy học cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về
cơ sở phân loại, hệ thống, tên gọi các phương pháp dạy học. Có nhiều cách phân loại
phương pháp dựa trên những căn cứ khác nhau làm cho các phương pháp dạy học vô cùng
phong phú và đa dạng
a. Nhóm các phương pháp dạy học dùng lời
- Phương pháp thuyết trình
- Phương pháp vấn đáp (đàm thoại)

11
- Phương pháp dùng sách giáo khoa và các tài liệu khác
Phương pháp thuyết trình

Là phương pháp dạy học dùng lời nói sinh động của giáo viên để trình bày tài liệu mới
hoặc tổng kết tri thức mà học sinh thu lượm được một cách có hệ thống, nó được sử dụng
phổ biến khi giảng tài liệu mới, vấn đề khó, phức tạp mà HS không thể độc lập nhận thức
* Phương pháp thuyết trình được thể hiện dưới các hình thức
- Giảng thuật: là phương pháp mô tả, trần thuật các sự kiện, hiện tượng … được sử
dụng phổ biến trong dạy học các môn xã hội nhân văn và tự nhiên
- Giảng giải: là phương pháp dạy học bằng việc dùng những luận cứ, số liệu để chứng
minh, giải thích quan điểm, định luật, định lý, thí nghiệm, công thức … trong các môn tự
nhiên và xã hội
- Diễn giảng: là phương pháp dạy học nhằm trình bày một vấn đề hoàn chỉnh, có tính
phức tạp, trừu tượng và khái quát trong thời gian tương đối dài
* Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp thuyết trình
- Ưu điểm:
+ Giáo viên chủ động được thời gian
+ Cho phép giáo viên truyền đạt những nội dung lý thuyết tương đối khó, phức tạp,
chứa đựng nhiều thông tin trong thời gian ngắn mà học sinh tự mình không dễ dàng tìm
hiểu một cách sâu sắc
+ Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm học
sinh qua việc trình bày tài liệu với giọng nói, cử chỉ, điệu bộ thích hợp và diễn cảm
+ Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý và kích thích tính tích cực tư duy của HS
+ Bằng phương pháp thuyết trình, giáo viên có thể truyền đạt một khối lượng thông
tin khá lớn cho nhiều học sinh trong cùng một lúc, vì vậy đảm bảo tính kinh tế cao.
- Nhược điểm
+ Mang tính chất đơn điệu, không khí lớp học trầm, học sinh dễ mệt mỏi, chán nản,
thụ động trong học tập
+ Hạn chế khả năng phát triển ngôn ngữ nói của học sinh
+ Giáo viên và học sinh khó thiết lập mối quan hệ ngược nhất là mức độ lĩnh hội tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo ở học sinh nên khó dạy học sát đối tượng
* Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp này
- Nội dung thuyết trình phải là những vấn đề khoa học đảm bảo trang bị cho người
học hệ thống tri thức hiện đại, chính xác, có hệ thống, đảm bảo tính lôgic chặt chẽ
- Trình bày từ những cái đã biết đến những cái chưa biết
- Lời nói của giáo viên phải gọn rõ, chuẩn xác, sáng sủa, giàu hình ảnh, súc tích, hấp
dẫn với cường độ, tốc độ, ngữ điệu hợp lý và kết hợp với nét mặt, điệu bộ cử chỉ phù hợp
- Giúp học sinh biết cách ghi chép những vấn đề cơ bản
- Sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học khác như vấn đáp, trực quan …
Phương pháp vấn đáp
Là cách thức thầy hỏi trò đáp nhằm khơi gợi giúp cho học sinh tìm ra những tri thức
mới, củng cố ôn tập, đào sâu … những tri thức đã học
* Phân loại
+ Dựa vào mục đích dạy học gồm có: vấn đáp gợi mở, vấn đáp củng cố, vấn đáp tổng
kết, vấn đáp kiểm tra
+ Dựa vào tính chất nhận thức của học sinh: vấn đáp giải thích, minh họa, vấn đáp tái
hiện, vấn đáp tìm tòi phát hiện
* Ưu điểm và nhược điểm
- Ưu điểm
+ Kích thích, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo nhận thức và phát triển tốt trí
tuệ

12
+ Bồi dưỡng cho học sinh cách diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học một cách
chính xác, đầy đủ, xúc tích
+ Cả giáo viên và học sinh đều thu được tín hiệu ngược nhằm điều chỉnh kịp thời
những hạn chế nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học của mình
+ Giúp giáo viên nhận thức đầy đủ, chính xác và có biện pháp để thực hiện nguyên
tắc đối xử cá biệt với học sinh
- Nhược điểm:
+ Giáo viên khó chủ động thời gian trên lớp
+ Kiến thức học sinh lĩnh hội bị chia cắt vụn vặt
+ Nếu sử dụng không khéo lớp học sẽ mất tập trung
* Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp này
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung vấn đáp để xây dựng một hệ thống câu hỏi
chính và những câu hỏi phụ có tính chất gợi mở
- Cách đặt câu hỏi phải rõ ràng, chính xác, dễ hiểu sát với trình độ nhận thức của HS
- Câu hỏi phải có tác dụng kích thích học sinh tính tích cực học tập, hứng thú
- Phải nêu câu hỏi co toàn lớp tập trung suy nghĩ, sau đó gọi một học sinh trả lời, yêu
cầu cả lớp theo dõi và nhận xét đánh giá, phát biểu ý kiến bổ sung, khuyến khích những học
sinh còn nhút nhát
- Giáo viên lắng nghe câu trả lời của học sinh, gợi ý cho học sinh trả lời câu trả lời
chính, khi học sinh trả lời giáo viên nên bình tĩnh lắng nghe toàn bộ nội dung trả lời, tránh
cắt ngang ý kiến, động viên các em trả lời, hướng dẫn các em không nên rập khuôn, máy
móc theo sách giáo khoa
- Giáo viên phải chọn thời đểm thích hợp để đưa câu hỏi mang tính khai quát để học
sinh tự hệ thống hóa tri thức.
Phương pháp dùng sách giáo khoa và các tài liệu khác
* Ý nghĩa của việc dùng sách
Mở rộng, đào sâu vốn hiểu biết của học sinh một cách có hệ thống, sinh động bồi
dưỡng vốn ngữ pháp, vốn kinh nghiệm viết văn, óc nhận xét, hứng thú đọc sánh
Việc dùng sách ở nhà
Đọc một mạch (để biết), đọc nghiên cứu (nghiên cứu sâu một nội dung nào đó) và phải
biết cách ghi chép, ghi nhật ký (cảm nghĩ của mình), tích ghi, lập dàn ý, xây dựng đề
cương, ghi tóm tắt, kể lại …
* Yêu cầu khi dùng sách
- Học sinh: đọc sách trước khi lên lớp, tích cực tư duy để hoàn thành tốt việc ghi chép,
liên kết tri thức trong sách và tri thức thu lượm trên lớp, vận dụng tri thức để làm bài tập
trong sách.
- Giáo viên:
+ Giáo viên phải nghiên cứu kỹ sách giáo khoa và tài liệu có liên quan đến vấn đề học
tập trước khi học sinh học tập
+ Giáo viên nêu vấn đề tự học và học sinh ý thức, nhận thức được yêu cầu cần phải
giải quyết và hướng dẫn chu đáo tài liệu học tập cho các em
b. Nhóm phương pháp dạy học trực quan
- Phương pháp trình bày trực quan
- Phương pháp quan sát
Phương pháp trình bày trực quan
Là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học
trước và sau khi nắm tài liệu mới
- Phương pháp dạy học trực quan được thể hiện dưới các hình thức
+ Các vật thật như động vật, thực vật sống trong môi trường tự nhiên giúp học sinh gần
gũi với thiên nhiên, tạo hứng thú học tập

13
+ Các vật tượng trưng như bản đồ, sơ đồ, bảng biểu giúp học sinh thấy được trực quan
các sự vật hiện tượng dưới dạng khái quát.
+ Các vật tạo hình tranh ảnh, mô hình, hình vẽ, phim … thay cho các sự vật hiện tượng
ngoài khả năng quan sát trực tiếp
Phương pháp quan sát
Là một phương pháp nhận thức tích cực nhằm thu thập những sự kiện, hình thành những
biểu tượng ban đầu về đối tượng của thế giới xung quanh trên cơ sở đó làm tư liệu cho quá
trình tư duy
- Quan sát được học sinh sử dụng khi giáo viên trình bày phương tiện trực quan, phương
tiện dạy học trong các khâu của quá trình dạy học hoặc khi chính học sinh tiến hành làm
việc trong phòng thí nghiệm
- Dựa vào những cơ sở khác nhau có nhiều loại quan sát: trực tiếp, gián tiếp, dài hạn,
ngắn hạn, khía cạnh, toàn diện, tự nhiên, có bố trí …
* Ưu và nhược điểm của nhóm phương pháp dạy học trực quan
- Ưu điểm
+ Huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu,
dễ nhớ, nhớ lâu, giảm độ mệt nhọc
+ Phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát hứng thú, óc tò mò khoa học, tìm tòi
phát hiện những tri thức mới
+ Tạo điều kiện cho học sinh liên hệ học tập với thực tiễn
- Nhược điểm
+ Nếu sử dụng không khéo, không đúng nơi, đúng lúc, đúng chỗ, lạm dụng các phương
tiện trực quan sẽ làm cho học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào bài học
+ Hạn chế phát triển khả năng tư duy trừu tượng cho học sinh
+ Mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị bài cũng như giảng bài trên lớp
* Những yêu cầu khi sử dụng nhóm phương pháp dạy học trực quan
- Lựa chọn phương tiện trực quan hay đối tượng quan sát phù hợp với mục đích và
nhiệm vụ dạy học
- Các phương tiện dạy học phải được chuẩn bị cẩn thận, đảm bảo các yêu cầu về mặt sư
phạm, thẩm mỹ, kinh tế … và đảm bảo cho học sinh quan sát đầy đủ, đúng yêu cầu, phát
hiện nhanh những dấu hiệu của bản chất của sự vật, hiện tượng
- Sử dụng phương tiện trực quan đúng lúc, đúng chỗ, đúng cường độ nhằm phát huy tốt
tính tích cực học tập của học sinh
- Đảm bảo phối hợp lời nói với các phương tiện trực quan và hướng dẫn HS quan sát,
ghi chép và rút ra kết luận rõ ràng, chính xác, phát triển năng lực quan sát tinh tế, sâu sắc
- Kết hợp với các phương pháp dạy học khác
c. Nhóm phương pháp dạy học thực hành
- Phương pháp luyện tập
- Phương pháp ôn tập
- Phương pháp làm thí nghiệm, thực hành
- Phương pháp trò chơi
Phương pháp luyện tập
Dưới sự chỉ dẫn của GV, học sinh lặp đi lặp lại nhiều lần những hành động nhất định
trong những hoàn cảnh khác nhau nhằm hình thành và phát triển những kỹ năng, kỹ xảo
* Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp này
- Luyện tập phải nhằm mục đích, yêu cầu nhất định
- Học sinh phải nắm được mục tiêu, yêu cầu nội dung luyện tập
- Luyện tập phải tiến hành theo một trình tự chặt chẽ, từ đơn giản có làm mẫu, có chỉ
dẫn
- Phải nắm vững lý thuyết rồi mới luyện tập và qua luyện tập để hiểu sâu, hiểu chắc lý
thuyết

14
- Luyện tập phải đảm bảo mức độ khó khăn vừa sức
- Đảm bảo kết quả chắc chắn, rõ ràng, có nhận xét, biểu dương kịp thời
Phương pháp ôn tập
Là phương pháp dạy học giúp học sinh mở rộng, đào sâu, khái quát hóa, hệ thống hóa
tri thức đã học, nắm vững kỹ năng, kỹ xảo đã được hình thành, phát triển trí nhớ, tư duy
cho các em. Đồng thời qua đó giáo viên có thể điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm trong hệ
thống tri thức của các em
* Những yêu cầu khi sử dụng
- Ôn tập phải có kế hoạch, có hệ thống và kịp thời
- Ôn tập bằng nhiều hình thức khác nhau: ôn tập củng cố những điều vừa học, ôn tập
hoàn thiện những kỹ năng, kỹ xảo, ôn tập tổng kết nhằm hệ thống hóa những tri thức đã
học
Ôn tập trước khi quên, ôn rải ra, ôn xen kẽ nhiều môn
- Ôn tập phải có tính tích cực, không chỉ nhắc lại kiến thức củ mà làm cơ sở để lĩnh hội
tri thức mới, tăng cường sự vận dụng, thực hành …
Phương pháp làm thí nghiệm, thực hành
Là phương pháp dạy học dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh sử dụng thiết bị và tiến
hành thí nghiệm nhằm làm sáng tỏ, khẳng định những vấn đề lý thuyết mà giáo viên trình
bày, qua đó nhằm củng cố, đào sâu tri thức lĩnh hội được hoặc vận dụng lý luận để giải
quyết các vấn đề thực tiễn để hình thành và phát triển kỹ năng, kỹ xảo thực nghiệm và hoạt
động thực tiễn
* Những yêu cầu khi sử dụng
- Cần có kế hoạch rõ ràng, có sự hướng dẫn, tổ chức để học sinh thực hiện theo tập thể
hoặc cá nhân, có sự kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh khi cần thiết
- Những hành động thực hành phải có đầy đủ cơ sở lý thuyết
- Giúp học sinh biết cách quan sát, ghi chép và tạo điều kiện cho học sinh trình bày lại
kết quả
Phương pháp trò chơi
Tùy theo nội dung bài học và đặc điểm lứa tuổi mà các nhà sư phạm khai thác các trò
chơi có ý nghĩa học tập tối đa, nó là một hình thức tổ chức dạy học nhẹ nhàng, hấp dẫn, lôi
cuốn học sinh vào học tập tích cực, vừa chơi, vừa học và học có kết quả
d. Nhóm phương pháp kiểm tra – đánh giá, tự kiểm tra – đánh giá
Kiểm tra là phương tiện để đánh giá chất lượng học tập của học sinh, nó là một khâu
quan trọng trong quá trình dạy học
- Giúp giáo viên thu được tín hiệu ngược, có thể phát hiện được thực trạng và kết quả
học tập của HS cũng như là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng này. Từ đó có
thể tự điều chỉnh hoạt động dạy học của mình và giúp các em điều chỉnh lại hoạt động học
- Giúp các em có cơ hội tốt để củng cố và phát triển trí tuệ
- Kiểm tra đánh giá mang lại ý nghĩa giáo dục to lớn hình thành thói quen kiểm ta và tự
kiểm tra
* Các dạng kiểm tra cơ bản
- Kiểm tra hằng ngày: nhằm điều chỉnh kịp thời hoạt động của cả thầy và trò
- Kiểm tra định kỳ: được thực hiện khi hết một phần, một chương hay sau một học kỳ,
giúp giáo viên và học sinh nhìn lại kết quả làm việc sau một thời gian nhất định, củng cố
những điều đã học, tạo cơ sở tiếp tục học những phần mới
- Kiểm tra tổng kết: được thực hiện vào cuối năm, cuối mỗi giáo trình nhằm đánh giá kết
quả chung của toàn bộ những điều đã học từ đầu năm, tạo điều kiện chuyển sang học môn
mới
* Các phương pháp kiểm tra
- Kiểm tra miệng: được sử dụng trước, trong và sau khi học bài mới, giúp giáo viên thu
được tín hiệu ngược nhanh chóng, thúc đẩy học sinh học tập thường xuyên, rèn khả năng

15
diễn đạt bằng lời nói. Yêu cầu phải thu hút toàn bộ học sinh vào kiểm tra, giáo viên phải
kiên nhẫn, bình tĩnh nghe học sinh trình bày, không làm cho các em sợ hãi, lúng túng, phải
có nhận xét, công bố điểm công khai và ghi vào sổ
- Kiểm tra viết: được thực hiện khi học xong một phần, một chương, học phần. Nó có tác
dụng:
+ Kiểm tra vấn đề nhỏ đến vấn đề lớn, có tính chất tổng hợp
+ Kiểm tra được toàn bộ học sinh trong một thời gian nhất định
+ Giúp học sinh rèn luyện năng lực biểu đạt bằng ngôn ngữ viết
Khi tiến hành ra đề cần phải chú ý
+ Đề ra phải chính xác, dễ hiểu, thống nhất ở mỗi học sinh, sát với trình độ, phù hợp với
thời gian làm bài, phát huy được trí thông minh
+ Giáo dục được tính tự giác khi làm bài, tránh tình trạng nhìn bài của bạn
+ Tạo điều kiện cho học sinh làm bài cẩn thận, không làm cho học sinh mất tập trung
+ Thu bài đúng giờ, chấm bài cẩn thận, có nhận xét
+ Trả bài đúng thời hạn, có nhận xét chung về nội dung, hình thức …
- Kiểm tra thực hành: được sử dụng nhằm kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hành.
Khi kiểm tra cần theo dõi trình tự, độ chính xác, trình độ thành thạo của các thao tác, kết
hợp kiểm tra lý thuyết
1.3.2.3. Một số phương pháp dạy học hiện đại
Vài nét về xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
Đổi mới theo xu hướng dạy học lấy người học làm trung tâm. Bản chất xu hướng này là
chuyển tính chất hoạt động dạy học từ phương pháp thông báo tái hiện sang việc tổ chức
điều khiển hoạt động nhận thức học sinh nhằm phát huy cao độ tính tích cực, độc lập sáng
tạo người học, giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức kỹ năng, kỹ xảo
Dạy học theo dự án ( Phương pháp dự án)
* Bản chất
Dạy học theo dự án còn gọi là phương pháp dự án, trong đó HS thực hiện một nhiệm
vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành.
Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến
việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ yếu là theo
nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được.
* Quy trình thực hiện
- Bước1: Lập kế hoạch
+ Lựa chọn chủ đề
+ Xây dựng tiểu chủ đề
+ Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập
- Bước 2: Thực hiện dự án
+ Thu thập thông tin
+ Thực hiện điều tra
+ Thảo luận với các thành viên khác
+ Tham vấn giáo viên hướng dẫn
- Bước 3: Tổng hợp kết quả
+ Tổng hợp các kết quả
+ Xây dựng sản phẩm
+ Trình bày kết quả
+ Phản ánh lại quá trình học tập
* Một số lưu ý
Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời
sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động
thực tiễn, thực hành.

16
Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của
HS.
HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú
cá nhân.
Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau
nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm
việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.
Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết; sản phẩm này có thể
sử dụng, công bố, giới thiệu.
Dạy học tình huống
* Khái niệm
- Tình huống là những sự kiện, vụ việc, hoàn cảnh có mâu thuẫn, có vấn đề cần được
giải quyết.
- Tình huống “có vấn đề”: là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi ta chưa
biết cách giải thích hiện tượng, sự việc hay một quá trình nào đó của thực tế.
- Tình huống dạy học: mô tả những sự kiện, hoàn cảnh có thực hoặc hư cấu nhằm
đạt những mục tiêu, mục đích dạy học.
- Dạy học qua (bằng) nghiên cứu tình huống: dạy học dựa trên tình huống có thật
hoặc giống như thật, đòi hỏi người học phải tìm hiểu, suy nghĩ, đề ra được quyết định thích
hợp nhất.
Nghiên cứu tình huống còn gọi là nghiên cứu trường hợp điển hình (case study) là
một trong những phương pháp dạy học chủ động, được sử dụng ngày càng phổ biến, nhằm
khắc phục tình trạng thực tế là trong quá trình học tập, người học không được tự ra các
quyết định; nên khi ra thực tiễn sẽ lúng túng, thiếu suy nghĩ, cân nhắc, không đề ra được
quyết định hợp lý khi thực hiện nhiệm vụ theo chức trách đảm nhiệm.
* Yêu cầu khi biên soạn tình huống, phân loại tình huống
-Yêu cầu khi biên soạn tình huống
Tình huống được biên soạn cần đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Tình huống phải mang tính thời sự, sát với thực tế; phải chứa đựng thông tin đầy
đủ, buộc người học phải sử dụng thông tin trong tình huống để giải quyết vấn đề. Trong
tình huống phải cung cấp đầy đủ các dữ liệu cần thiết như thời gian, địa điểm, những
nguyên nhân phát sinh sự kiện, vấn đề.
+ Tình huống đưa ra phải thể hiện những thách thức thực sự đối với người học, phải
tạo ra khả năng để người học đưa ra nhiều giải pháp, để thu hút sự chú ý, kích thích tư duy,
tình huống phải “có vấn đề” và không có câu trả lời duy nhất đúng cho vấn đề đó. Các nhân
vật, sự kiện trong tình huống có tính hiện thực.
+ Tình huống đưa ra phải có tính phức tạp vừa đủ, buộc người học phải suy nghĩ,
vận dụng khả năng trí tuệ để giải quyết. Một tình huống có thể rất dài, phức tạp hoặc rất
ngắn gọn và đơn giản. Độ dài và độ phức tạp của tình huống không phụ thuộc vào mục tiêu
giảng dạy mà giảng viên đề ra. Nói chung, độ dài của tình huống không quyết định mức độ
phức tạp của tình huống. Tuy nhiên, giảng viên có thể tạo ra các nhân vật, sự kiện, bổ sung
thông tin để phục vụ cho mục tiêu giảng dạy của mình.
+ Nội dung tình huống phải phù hợp với trình độ của người học. Khi viết hoặc lựa
chọn tình huống cần lưu ý tới trình độ và kinh nghiệm của người học. Không nên đưa ra
tình huống phức tạp, cao hơn khả năng của người học và ngược lại. Điều này có thể làm
cho người học nản lòng và không muốn tham gia. Giảng viên cần kiểm tra kỹ các nguồn
thông tin trong tình huống, vì có thể người học có nhiều kinh nghiệm liên quan tới tình
huống sẽ có thể nhận ra những thông tin không chính xác.
- Phân loại tình huống

17
Có nhiều loại tình huống và mục đích sử dụng khác nhau. Có thể xếp các loại tình
huống theo mức độ phức tạp dần như sau:
Các tình huống chứng minh;
Các tình huống mô tả.
Tình huống đề cập tới một vụ việc.
Tình huống nêu ra vấn đề phải giải quyết.
Tình huống có tính chất tổng hợp.
Tình huống có tính chất tham gia trình diễn.
Tình huống chứng minh: là một câu chuyện được đặt ra, không dựa vào một hoàn
cảnh hoàn toàn có thực, mà chỉ có mục đích nói lên một sự thực mà tác giả muốn diễn tả.
Những tình huống này không có gì để bàn cãi, vì người học hoặc chấp nhận sự thật hoặc
không.
Tình huống mô tả: trình bày tất cả những gì xảy ra, kể cả hậu quả. Loại tình huống
này phù hợp với những học viên ít kinh nghiệm, nó được thảo luận trên cơ sở đã hiểu rõ
những yếu tố, liên hệ lại những nguyên tắc sẵn có.
Tình huống đề cập tới một vụ việc: là hình thức thông thường nhất của các dạng bài
tập tình huống. Loại tình huống này có thể có nhiều hoặc ít thông tin, dữ kiện, nhưng luôn
luôn chứa đựng một khó khăn cấp thiết, khó giải quyết. Cuộc thảo luận tình huống loại này
thường hướng về hậu quả của những giải pháp do học viên đề nghị.
Tình huống nêu ra vấn đề phải giải quyết: khác với tình huống về một vụ việc ở chỗ,
vấn đề không được nói rõ ra. Việc đầu tiên của người học là phải tìm ra vấn đề. Với loại
tình huống nêu vấn đề, thông thường người học được chỉ định thực hành những điều do
tình huống đưa ra.
Tình huống tổng hợp: khá phức tạp về tình tiết. Nó chứa đựng nhiều tình huống về
một vụ việc. Những vấn đề và những khó khăn liên hệ chặt chẽ với nhau. Tình huống tổng
hợp đòi hỏi người học phải hoạch định việc nghiên cứu của mình và hợp tác với những
người khác để làm sao thảo luận giải quyết vấn đề cho có hiệu quả. Loại tình huống này đòi
hỏi phải danh từ một đến vài buổi để nghiên cứu và thảo luận. Chỉ sử dụng tình huống tổng
hợp cho những người học đã khá quen thuộc với các tình huống hai loại trên hoặc cho
những người có kinh nghiệm.
Tình huống trình diễn: là loại tình huống tổng hợp, trình bày thông qua các vai diễn.
Người học và giảng viên đều tham dự vào việc đóng các vai của tổ chức đã thể hiện, trở
thành những người trong cuộc.
* Điều kiện áp dụng
Để thực hiện phương pháp dạy học bằng nghiên cứu tình huống, cần có các điều
kiện sau:
- Người học đã được chuẩn bị trước về kiến thức, đã được học hay tự học về nội
dung cơ bản của tình huống nghiên cứu và cách ra quyết định khi nghiên cứu tình huống.
- Người viết, hướng dẫn sử dụng nghiên cứu tình huống phải nắm vững kiến thức cơ
bản chung về nội dung của nghiên cứu tình thuống, tốt nhất là đã gặp và giải quyết tốt tình
huống được nêu để đảm bảo tình huống đó có đầy đủ các dữ kiện và giống như trong thực
tế đã có (tình huống phải sát với thực tế).
- Dữ kiện phải đủ thông tin (không thừa, không thiếu, không “bẫy” người học). Tình
huống phải được viết, in, phát cho từng người (hoặc chiếu toàn bộ lên màn hình) để người
học có thể tự học, có điều kiện suy nghĩ, nghiên cứu, cân nhắc khi ra quyết định; không thể
yêu cầu người học chỉ nghe đọc thoáng qua mà ra ngay quyết định.
- Nghiên cứu tình huống có thể do mỗi người học nghiên cứu ra quyết định, hoặc
tiến hành thảo luận nhóm để lựa chọn hay đề ra quyết định; khi đề ra quyết định đúng sẽ
sinh động, sôi nổi và có hiệu quả tốt. Cũng cần nhớ là nhóm càng nhỏ càng tốt.
* Cách tiến hành dạy học bằng nghiên cứu tình huống
- Nêu chủ đề.

18
- Xác định mục tiêu học tập.
- Nêu tình huống.
- Nêu câu hỏi (để học viên ra quyết định). Có thể thực hiện theo hai cách:
Câu hỏi mở: Yêu cầu người học tự đề ra biện pháp để giải quyết vấn đề trong nghiên
cứu tình huốn, giúp cho người học được chủ động, thoải mái hơn.
GV cần dự kiến trước các biện pháp mà người học sẽ đề ra để có thể hướng dẫn thảo
luận hoặc giải đáp với các biện pháp chưa đúng, chưa hợp lý.
Câu hỏi đóng: Đề ra sẵn một số biện pháp để người học chọn ra biện pháp đúng,
thích hợp nhất sau khi đã nghiên cứu, suy nghĩ trên các dữ kiện của tình huống đã cho.
Câu hỏi đóng thường được trình bày theo hai dạng:
+ Đề ra hay 5 biện pháp, chọn lấy 1.
+ Câu hỏi đúng/sai (Đ/S).
- Dẫn dắt học sinh thảo luận (tổ, nhóm học tập).
- Tổng kết (theo mục tiêu học tập).
* Quy trình biên soạn và dạy học theo phương pháp nghiên cứu tình huống
Quy trình biên soạn
– Xác định rõ mục tiêu học tập.
– Dành thời gian quan trọng cho việc thu thập, phân loại, phân tích những tình
huống có thật liên quan đến bài giảng. Trường hợp cần thiết có thể hư cấu, nhưng cốt lõi
của tình huống vẫn phải là có thật, như vậy việc tìm ra phương án xử lý mới mang tính hấp
dẫn đối với người học.
GV cần cập nhật thông tin mới, thu thập những “tình huống mới có vấn đề” trong đời sống
và trong sách báo nhằm xây dựng “ngân hàng” tình huống có liên quan đến nội dung bài
học.
– Để khoảng 50% thời gian giới thiệu lý thuyết hoặc những nguyên tắc cơ bản của
nội dung bài học (có thể hướng dẫn cho học viên tự học, giảng viên khái quát lại).
– Khoảng 40% thời gian người học nghiên cứu tình huống (nghiên cứu cá nhân và
thảo luận nhóm); sau đó cử ra người trình bày cách xử lý tình huống, trao đổi ở tổ, lớp.
– Khoảng 10% thời gian, GV tổng kết buổi trao đổi, củng cố nâng cao phần đã học.
* Trường hợp vận dụng phương pháp dạy học bằng nghiên cứu tình huống.
– Dạy kỹ năng tư duy.
– Dạy kỹ năng ra quyết định.
– Dạy kỹ năng giải quyết vấn đề.
* Lợi ích của việc dạy học bằng nghiên cứu tình huống
– Người học có điều kiện vận dụng kiến thức đã học để giải quyết tình huống, sự
việc cụ thể xảy ra trên thực tế.
– Giúp người học làm quen với cách giải quyết tình huống cụ thể ngay trong quá
trình học tập ở trường.
Dạy học liên quan đến tình huống hiện đang được áp dụng phổ biến tại các cơ sở
đào tạo. Đây là các bài tập tư duy nhằm hình thành năng lực phân tích, ra quyết định xử lý
của người học. Việc kết hợp các tình huống với công cụ mô phỏng sẽ làm tăng tính thuyết
phục và đẩy nhanh tốc độ hình thành năng lực nghề nghiệp của người học, giúp người học
có cảm giác “trải nghiệm” nghề nghiệp ngay tại nhà trường và có khả năng thích ứng với
công việc ngay khi quá trình đào tạo kết thúc.
Hợp đồng
a. Dạy học theo hợp đồng là gì ?
Dạy học theo hợp đồng là cách tổ chức học tập, trong đó mỗi HS (hoặc mỗi nhóm nhỏ) làm
việc với một gói các nhiệm vụ khác nhau (nhiệm vụ bắt buộc và tự chọn) trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong học theo hợp đồng, học sinh được quyền chủ động xác
định thời gian và thứ tự thực hiện các bài tập, nhiệm vụ học tập dựa trên năng lực và nhịp
độ học tập của mình.

19
b. Cách tiến hành dạy học theo hợp đồng
* Giai đoạn chuẩn bị:
Bước 1. Xem xét các yếu tố cần thiết để học theo hợp đồng đạt hiệu quả
- Lựa chọn nội dung học tập phù hợp: Học theo hợp đồng được xem là một cách
thay thế cho việc giảng bài cho toàn thể lớp học, đồng thời cho phép giáo viên đáp ứng
được yêu cầu dạy học phân hóa trên cơ sở có thể phát huy sự khác biệt của mỗi học sinh để
tạo ra cơ hội học tập cho cả lớp. Vì vậy, không phải bài học nào cũng có thể tổ chức cho
HS học theo hợp đồng có hiệu quả. Tùy theo môn học, dạng bài học, GV cần cân nhắc xác
định những nội dung học tập sao cho việc áp dụng dạy học theo hợp đồng có hiệu quả hơn
so với việc sử dụng phương pháp dạy học khác.
- Xác định thời gian: Để đảm bảo đúng phương pháp học theo hợp đồng, học sinh
phải được tự quyết định thứ tự các nhiệm vụ cần thực hiện để hoàn thành bài học. Vì vậy
giáo viên cần phải tính đến thời gian cho học sinh đọc kỹ những nội dung được ghi trên hợp
đồng của các em trước khi các em ký nhận. Tùy độ dài ngắn hay độ phức tạp của nội dung
được học theo hợp đồng mà giáo viên quyết định thời hạn thực hiện hợp đồng. Việc xác
định thời hạn của hợp đồng nên được tính theo số tiết ở trên lớp. Làm như vậy giáo viên có
thể giúp học sinh quản lý thời gian tốt hơn. Tuy nhiên, cũng có thể có nhiệm vụ/bài tập ghi
trong hợp đồng học sinh có thể được thực hiện ở nhà.
- Tài liệu: Học theo hợp đồng chỉ khả thi khi các học sinh có thể đọc, hiểu và thực
hiện các nhiêm vụ một cách tương đối độc lập. Các tài liệu cần được chuẩn bị đầy đủ.
Trước hết, học theo hợp đồng chủ yếu dựa trên những sách bài tập sẵn có: hợp đồng sẽ chỉ
đơn giản chỉ ra số trang và số các bài tập nhất định. Bước tiếp theo bao gồm những nhiệm
vụ được viết trên những tấm thẻ hoặc những phiếu làm bài riêng. Ngay cả khi có những
phần tham khảo trong sách bài tập, rõ ràng là bước thứ hai này cho phép học sinh độc lập
hơn. Giáo viên có thể bổ sung những nhiệm vụ mới hoặc sửa đổi những bài tập cũ.
Bước 2. Thiết kế các dạng bài tập và nhiệm vụ học theo hợp đồng
- Các dạng bài tập: Một hợp đồng luôn phải đảm bảo tính đa dạng của các bài tập.
Không phải học sinh nào cũng có cách học tập và các nhu cầu giống nhau. Sự đa dạng bài
tập sẽ đảm bảo rằng trong mỗi hợp đồng, tất cả các phương pháp học tập của mỗi học sinh
đều được đề cập. Mặt khác, học sinh cũng cần được làm quen với những bài tập không đề
cập trực tiếp đến quan điểm riêng của mình. Điều này mở rộng tầm nhìn của các em và
cách thức các em nhìn nhận vấn đề.
- Các nhiệm vụ: Có thể phân chia thành nhiều loại nhiệm vụ học theo hợp đồng
nhằm đáp ứng các mục tiêu giáo dục. Ví dụ:
+ Nhiệm vụ bắt buộc và tự chọn: cho phép học sinh được học theo nhịp độ học tập
khác nhau.
+ Nhiệm vụ mang tính học tập và nhiệm vụ có tính giải trí: Nhiệm vụ học tập đề cập
đến những chủ đề nhất định. Nhiệm vụ mang tính giải trí tạo cơ hội để luyện tập sự nhanh,
nhạy, sáng tạo, cạnh tranh vui vẻ như: Trò chơi ngôn ngữ, toán vui, …
+ Nhiệm vụ cá nhân và nhiệm vụ hợp tác: thể hiện một sự kết hợp khéo léo giữa
nhiệm vụ cá nhân với các bạn cùng lớp hay cùng nhóm.
+ Nhiệm vụ độc lập và nhiệm vụ được hướng dẫn: Không phải nhiệm vụ nào cũng
đòi hỏi học sinh tự lực giải bài tập, phát hiện ra kiến thức mới. Trong những trường hợp
gặp khó khăn, học sinh có thể tìm được sự trợ giúp từ giáo viên thông qua các phiếu “trợ
giúp” ở các mức độ khác nhau và học sinh có thể tham khảo chúng để hoàn thành nhiệm vụ
được giao trong hợp đồng.
Bước 3. Thiết kế văn bản hợp đồng: Văn bản hợp đồng bao gồm nội dung mô tả
nhiệm vụ cần thực hiện, phần hướng dẫn thực hiện, phần tự đánh giá những hoạt động học
sinh đã hoàn thành và kết quả.
* Giai đoạn 2. Tổ chức cho HS học theo hợp đồng

20
Bước 1. Giới thiệu tên chủ đề/ bài học và thông báo ngắn gọn các nội dung, phương
pháp học tập được ghi trong hợp đồng. Giới thiệu và thống nhất các nguyên tắc học theo
hợp đồng với học sinh cả lớp. Phát hợp đồng cho cá nhân hoặc nhóm học sinh.
Bước 2. Học sinh đọc và đăng ký, thời gian và thứ tự thực hiện các bài tập, nhiệm vụ
học tập ghi trong hợp đồng và ký cam kết với giáo viên.
Bước 3. Học sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm để thực các bài tập, nhiệm vụ
trong hợp đồng. Đối với một số loại bài tập nhất định có thể yêu cầu các em làm việc theo
nhóm cùng trình độ hoặc khác trình độ để các em có thể giúp nhau tìm và sửa các lỗi mắc
phải. Khuyến khích các em phát triển các kỹ năng xã hội như học sinh có thể sử dụng các
tín hiệu khi cần trợ giúp mà không làm ảnh hưởng đến việc học tập của các bạn khác. Ví
dụ: Khi một học sinh hoặc nhóm nhỏ, đặt “cờ đỏ” lên bàn có nghĩa là các em cần sự trợ
giúp,…. Nhận được tín hiệu này, không chỉ giáo viên mà học sinh khác hay nhóm khác có
thể tới hỗ trợ.
Trong học theo hợp đồng, giáo viên cần chủ động thể đặt kế hoạch làm việc với cá
nhân hoặc nhóm học sinh nào đó để chữa lỗi hay hướng dẫn trực tiếp. Đồng thời giáo viên
cần quan sát tổng thể không khí làm việc của lớp để phát hiện xem nội dung/bài tập nào
nhiều học sinh gặp khó khăn, cần cải thiện hoặc giải đáp chung,…
* Một số điểm cần lưu ý
Tổ chức: Trong phương pháp học theo hợp đồng, không cần thiết phải sắp xếp lại
lớp học. Giáo viên hoàn toàn có thể tổ chức hình thức này trong lớp học nhỏ với không
gian hạn chế, ít điều kiện di chuyển.
Tuy nhiên, phương pháp học theo hợp đồng sẽ trở nên thoải mái và chuyên sâu hơn
nếu tổ chức sắp xếp trong lớp học được điều chỉnh. Bàn học có thể được kê lại để thu hút
học sinh làm việc tập trung hơn trong nhóm, các góc/khu vực đặt các tài liệu, đồ dùng học
tập, … sẽ tạo ra thách thức đối với học sinh có thể được kết hợp trong phương pháp học
theo hợp đồng.
Thời hạn hợp đồng: Có loại ngắn hạn trong 1 tiết, 2 tiết hoặc có thể kéo dại 1-2 tuần
tùy theo bài tập và nhiệm vụ của môn học.
* Ưu điểm và hạn chế
* * Ưu điểm
- Cho phép phân hoá nhịp độ và trình độ của học sinh
- Tăng cường tính độc lập của học sinh
- Tạo điều kiện cho học sinh được thày cô giáo hướng dẫn cá nhân
- Tăng cường học tập hợp tác
- Hoạt động phong phú hơn
- Lựa chọn đa dạng hơn
- Tránh chờ đợi
- Tạo điều kiện cho trẻ được giao và thực hiện trách nhiệm
* * Hạn chế
- Các nhiệm vụ, tài liệu học tập phải được chuẩn bị trước
- Các tài liệu học tập phải được đa dạng hoá cho phù hợp với nhu cầu cụ thể của
từng học sinh
- Cả thầy và trò đều cần một khoảng thời gian nhất định để làm quen với phương
pháp dạy và học mới.
1.3.2.3. Lựa chọn và vận dụng phương pháp dạy học
- Khi thực hiện quá trình dạy học, giáo viên cần có sự lựa chọn, phối hợp linh hoạt các
phương pháp dạy học để lấy ưu điểm của phương pháp này khắc phục nhược điểm của
phương pháp kia.
- Khi lựa chọn và sử dụng các phương pháp cần căn cứ vào những cơ sở sau
+ Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh
+ Lĩnh vực và mức độ của mục tiêu cần thực hiện

21
+ Nội dung dạy học
+ Phương pháp phải phát huy được sự tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo của học sinh
+ Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, thời gian tiến hành
+ Phương pháp phải phù hợp với khả năng nghề nghiệp của người giáo viên…
1.3.3. Hình thức tổ chức dạy học
1.3.3.1. Khái niệm hình thức tổ chức dạy học
Là toàn bộ các hình thức tổ chức hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình
dạy học ở thời gian và địa điểm nhất định với phương pháp, phương tiện dạy học cụ thể
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học
1.3.3.2. Một số hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở trường TH
Hình thức dạy học lên lớp (hình - thức lớp- bài)
* Khái niệm:
Là hình thức tổ chức dạy học mà trong suốt thời gian dạy học được quy định ở một địa
điểm, giáo viên chỉ đạo hoạt động nhận thức có tính chất tập thể ổn định với thành phần
học sinh không đổi, đồng thời chú ý tới những đặc điểm của từng học sinh, sử dụng các
phương pháp và phương tiện dạy học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm vững
tài liệu học tập một cách trực tiếp cũng như làm phát triển năng lực nhận thức và giáo dục
tại lớp
* Ưu và nhược điểm của hình thức lên lớp
- Ưu điểm:
+ Cùng một lúc đào tạo được hàng loạt học sinh theo yêu cầu của đất nước
+ Tạo điều kiện bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất nhân cách con người mới
+ Đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý, yêu cầu giáo dục
+ Đảm bảo sự thống nhất trong cả nước về nội dung và kế hoạch dạy học
- Nhược điểm
+ Học sinh dễ bị thụ động trong quá trình học tập
+ Không đủ thời gian để cho học sinh nắm vững tri thức ngay tại lớp, rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo
+ Giáo viên không có điều kiện chú ý đến từng cá nhân học sinh
+ Không có điều kiện để thõa mãn nhu cầu nhận thức rộng rãi và sâu sắc những tri thức
vượt ra ngoài phạm vi của mình
Tóm lại, với các ưu điểm trên thì hình thức dạy học lớp bài là hình thức dạy học cơ bản,
được sử dụng rộng rãi, nhưng nó còn tồn tại những nhược điểm nhất định nên nó không
phải là hình thức dạy học duy nhất mà cần được bổ sung hổ trợ bởi các hình thức DH khác
* Các loại bài lên lớp
- Bài lĩnh hội tri thức mới
- Bài hình thành kỹ năng, kỹ xảo
- Bài vận dung tri thức kỹ năng, kỹ xảo
- Bài khái quát, hệ thống hóa
- Bài kiểm tra tri thức, kỹ năng kỹ xảo
- Bài hỗn hợp
* Yêu cầu đối với giờ lên lớp
- Thực hiện đầy đủ phương án bài đã soạn, đảm bảo 3 chức năng của dạy học
- Đảm bảo kế hoạch thời gian, thu hút toàn lớp học tập tích cực, tự giác, đảm bảo tính kỷ
luật
- Giáo viên cần thể hiện mình là một tấm gương sáng, có quan hệ ứng xử khéo léo, phong
thái mẫu mực, nhiệt tình với công việc
- Nếu tình huống xảy ra ngoài phương án, giáo viên cần bình tĩnh, chủ động, linh hoạt
sáng tạo để giải quyết kịp thời
Hình thức thảo luận nhóm

22
* Khái niệm:
Thảo luận là cho học sinh trao đổi với nhau về các vấn đề học tập để tự họ rút ra những
kết luận cần thiết. Đây chính là hình thức thảo luận theo từng nhóm mà mỗi cá nhân bằng
trí tuệ, tri thức đã có của mình, bằng kinh nghiệm và sự sáng tạo của mình đóng góp vào
công việc học tập chung
* Ý nghĩa:
Kích thích hứng thú, sôi nổi học tập, phát huy cao độ tính tích cực, độc lập của cá nhân
kết hợp với sự giúp đỡ, hợp tác của tập thể để giải quyết vấn đề đặt ra, giúp họ trình bày và
bảo vệ ý kiến của mình trước một số đông người, tạo niềm tin vào bản thân, thói quen là sự
mạnh dạn
* Các bước tiến hành
- Giáo viên nêu vấn đề thảo luận, nguồn tài liệu, trình bày kế hoạch thảo luận, giao nhiệm
vụ cho tập thể, cá nhân báo cáo
- Học sinh chuẩn bị
- Tiến hành thảo luận: người điều khiển nêu vấn đề, học sinh trình bày ý kiến đã chuẩn bị
những học sinh khác đặt câu hỏi. Sau đó báo cáo viên trả lời và cả lớp tiến hành thảo luận,
phân tích những dữ kiện trong báo cáo từ đó đi đến kết luận hoặc có vướng mắc, chệch
hướng, giáo viên nêu vấn đề chứa đựng mâu thuẫn để học sinh giải quyết nhằm đi đến kết
luận đúng, đồng thời có sự đánh giá đối với bản báo cáo
- Người điều khiển tổng kết, nhận xét, đánh giá. Nếu cần giáo viên nhận xét, bổ sung,
đánh giá
Hình thức tự học
* Ý nghĩa
- Giúp học sinh mở rộng, đào sâu, củng cố tri thức đã học trên lớp
- Rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng tri thức vào thực tiễn
- Chuẩn bị cho việc học tri thức mới
- Hình thành một số phẩm chất mới: tinh thần trách nhiệm, tính độc lập, tính kỹ luật …
* Đặc điểm
- Không có sự trực tiếp lãnh đạo của giáo viên và tập thể lớp
- Học sinh hoàn toàn độc lập và tự giác
- Kết quả học tập phụ thuộc vào từng cá nhân học sinh
* Để việc tự học của học sinh đạt kết quả, giáo viên cần
- Giúp học sinh thấy được vai trò của tự học để hình thành và phát triển nhu cầu tự học
- Giáo viên đóng vai trò là người cố vấn, chỉ đạo
- Giáo viên biết tạo ra tình huống học tập có vấn đề hấp dẫn để kích thích nhu cầu, động
cơ, hứng thú giải quyết ở nhà của học sinh
- Giáo viên ra bài tập về nhà có nội dung vừa sức
- Hướng dẫn phương pháp và cách thức học tập nói chung
- Phối hợp với gia đình để học sinh học tốt hơn
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc tự học của học sinh
Hình thức tham quan học tập
* Ý nghĩa
Tham quan học tập là hình thức tổ chức dạy học tạo điều kiện cho học sinh trực tiếp
quan sát và nghiên cứu các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, xã hội, sản xuất … tham
quan nhằm giúp học sinh mở rộng, đào sâu tầm hiểu biết có liên quan đến chương trình học
tập, nâng cao hứng thú học tập, phát triển óc quan sát, trí tò mò khoa học, bồi dưỡng lòng
yêu quê hương, đất nước, con người và cuộc sống lao động cho học sinh
* Tổ chức tham quan
Có thể tổ chức tham quan trước trong và sau khi học một tài liệu học tập nào đó
* Đối tượng tham quan
Thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa, viện bảo tàng, phòng triển lãm, cơ sở sản xuất …

23
* Tổ chức tham quan diễn ra theo các khâu sau
- Chuẩn bị: giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nội dung, địa điểm tham
quan, vạch ra kế hoạch tham quan và trao đổi, phổ biến cho toàn HS biết để thực hiện tốt
- Trong khi tham quan, giáo viên nhắc lại mục tiêu, yêu cầu, nội dung và tiến hành
theo kế hoạch. Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh quan sát, ghi chép những tư liệu cần
thiết. Cần lưu ý, học sinh thực hiện nghiêm túc nội quy, duy trì kỷ luật tham quan để tránh
những sự cố đáng tiếc xảy ra
- Sau khi tham quan, giáo viên hướng dẫn học sinh xử lý số liệu thu thập thành kết quả
như viết thu hoạch, trao đổi, thảo luận tập thể, làm bài tập ở lớp, ở nhà … để đào sâu, củng
cố kiến thức thu nhận được khi tham quan
Hình thức hoạt động ngoại khóa
Hình thức giúp đở riêng
Hình thức trò chơi học tập…
1.3.4. Phương tiện dạy học
1.3.4.1. Khái niệm về phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học là tập hợp những đối tượng vật chất được giáo viên sử dụng với tư
cách là những phương tiện tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh và đối với
học sinh đó là phương tiện để tiến hành hoạt động nhận thức của mình, thông qua đó mà
thực hiện những nhiệm vụ dạy học
1.3.4.2. Ý nghĩa của phương tiện dạy học
- Việc sử dụng phương tiện dạy học giúp họ có thông tin đầy đủ và sâu sắc hơn về đối
tượng hoặc hiện tượng nghiên cứu, tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy học
- Làm thõa mãn và phát triển hứng thú của người học
- Làm cho việc học có ý nghĩa khi sự kết hợp giữa nghe giảng với trực quan nghe nhìn
của các giác quan, dễ dàng khái quát hóa, ví dụ cụ thể. Điều này phù hợp với đặc điểm
nhận thức của học sinh.
- Dễ diễn giảng những khái niệm khó, kích thích học sinh hoạt động độc lập
- Làm tăng khối lượng công tác tự lực trong tiết học của học sinh
1.3.4.3. Một số yêu cầu cơ bản về việc lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy học
- Nhận thức đúng đắn vai trò, ý nghĩa của phương tiện dạy học hiện nay
- Sử dụng phương tiện dạy học đúng mục đích, nội dung của từng môn học, từng tiết
học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh cũng như phù hợp với điều
kiện thiết bị của trường
- Sử dụng phương tiện đúng lúc, đúng chỗ
- Sử dụng phương tiện dạy học đúng mức độ, cường độ cần thiết
- Nhà trường phải biết kết hợp, sử dụng các phương tiện dạy học đã được trang bị hoặc
tự làm với việc hướng dẫn, khai thác, sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại ở gia đình
và xã hội
1.3.4.5. Các loại phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học hết sức đa dạng. Trong nhà trường trước đây thường được trang bị
những phương tiện ít có tính kỹ luật, ít phải dùng diện năng nên gọi là đồ dùng dạy học hay
đồ dùng dạy học trực quan, phương tiện dạy học trực quan
Về sau do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật người ta dùng thuật ngữ phương tiện kỹ thuật
dạy học
- Đồ dùng dạy học trực quan bao gồm: mẫu vật, hình mẫu mô hình, phương tiện đồ họa
như tranh vẽ, sơ đồ, bản đồ … thiết bị, đồ dùng thí nghiệm, sách giáo khoa và các tài liệu
dạy học khác
- Phương tiện dạy học kỹ thuật bao gồm: các phương tiện nghe, nhìn, các máy kiểm tra,
máy dạy học …
1.3.4.6. Cách sử dụng, bảo quản, tự làm phương tiện dạy học
( Sinh viên tự học)

24
1.3.5. Đánh giá kết quả dạy học ở trường trung học
1.3.5.1. Khái niệm đánh giá
Đánh giá là sự biểu thị thái độ theo một chuẩn mực nhất định.Thông qua kết quả kiểm
tra, người đánh giá nêu nhận xét tổng hợp bằng lời hoặc kết hợp điểm số
1.3.5.2.Những yêu cầu sư phạm về đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Đảm bảo tính khách quan trong quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
Tính khách quan này thể hiện ở những điểm sau:
+ Nội dung kiểm tra phải phù hợp với yêu cầu chung của chương trình đề ra, không
thể theo ý chủ quan của GV hay người ra đề thi.
+ Tổ chức kiểm tra phải nghiêm minh theo đúng những quy định của cấp trên đề ra
như bí mật đề thi, coi thi, kiểm tra nghiêm túc để tránh những hiện tượng tiêu cực có
thể xảy ra.
+ Tính khách quan trong việc đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của HS thể hiện ở
chỗ chuẩn đánh giá đúng đắn, rõ ràng, toàn diện, tổ chức chấm bài phải nghiêm
minh, người chấm bài có trách nhiệm trong việc đánh giá, tránh thành kiến.
- Yêu cầu đảm bảo tính toàn diện trong quá trình kiểm tra, ĐGKQ học tập của HS
- Đảm bảo tính thường xuyên và hệ thống của việc kiểm tra, ĐGKQ HT của HS
- Yêu cầu đảm bảo tính phát triển trong quá trình kiểm tra, ĐGKQ học tập của HS
1.3.5.3.Các hình thức đánh giá kết quả học tập của học sinh
1.3.5.4.Cách đánh giá, xếp loại học lực của học sinh ở trường trung học
(SV sưu tầm các hình thức đánh giá, xếp loại học lực của HS theo CTGDPT 2018)

25
PHẦN II. LÝ LUẬN GIÁO DỤC

CHƯƠNG II. QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG


PHỔ THÔNG
2.1. Quá trình giáo dục
2.1.1.Khái niệm và cấu trúc của quá trình giáo dục
2.1.1.1. Khái niệm:
Quá trình giáo dục là cả một hệ thống tác động giáo dục có mục đích, có kế hoạch, có
phương pháp khoa học, thông qua các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục tích cực mà
hình thành và phát triển ở người được giáo dục (học sinh) những phẩm chất đạo đức, nhân
cách, những niềm tin đạo đức, thói quen và hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu về đạo
đức, nhân cách của xã hội.
Từ khái niệm này có thể rút ra một số vấn đề cần lưu ý :
- Quá trình giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, chức năng trội
của nó là tập trung vào việc giáo dục, bồi dưỡng cho người được giáo dục (học sinh) những
nét tính cách, phẩm chất, đạo đức, nhân cách của con người chân chính.
- Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn, là một quá trình vận động và phát triển
liên tục, được thực hiện trong sự kết hợp, thông qua tất cả các hoạt động trong nhà trường
(dạy học, thẩm mỹ, giáo dục, thể chất, giáo dục lao động …)
- Thông qua các hoạt động tiếp thu giáo dục và tự giáo dục trãi qua sự thể nghiệm và
rèn luyện tích cực, mỗi học sinh (người được giáo dục) sẽ tiếp thu được các giá trị xã hội,
hình thành các phẩm chất đạo đức của cá nhân, biến các yêu cầu của xã hội về chính trị,
đạo đức … thành phẩm chất đạo đức, niềm tin đạo đức, tình cảm đạo đức của cá nhân một
cách linh hoạt và sáng tạo.
2.1.1.2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục là một hệ thống toàn vẹn, bao gồm nhiều nhân tố cấu thành
* Mục đích và nhiệm vụ giáo dục
- Mục đích – nhiệm vụ giáo dục là nhân tố thể hiện yêu cầu của xã hội đối với việc
giáo dục người được giáo dục thành người công dân, lao động có đủ phẩm chất, năng lực,
có khả năng hòa nhập và thích nghi, năng động sáng tạo trước cuộc sống không ngừng biến
động.
- Mục đích – nhiệm vụ giáo dục là nhân tố cơ bản quan trọng, vì:
+ Nó định hướng cho toàn bộ vận động phát triển của quá trình giáo dục
+ Nó chi phối sự vận động của các nhân tố khác
+ Là cơ sở tiêu chuẩn để kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục
* Nội dung giáo dục
Nội dung giáo dục chịu sự qui định của mục đích – nhiệm vụ giáo dục. Nó gồm hệ
thống các chuẩn mực, các giá trị xã hội, đạo đức, nhân văn, nghề nghiệp cần hình thành ở
người được giáo dục, được thực hiện trong hoạt động thống nhất của nhà giáo dục và người
được giáo dục
* Phương pháp phương tiện giáo dục

26
Phương pháp phương tiện giáo dục quy định những cách thức hoạt động của nhà giáo
dục và người được giáo dục nhằm hoàn thành những nhiệm vụ giáo dục để đạt mục đích.
* Người giáo dục(tập thể nhà giáo dục)
Là chủ thể tác động, có vai trò chủ đạo tổ chức, điều khiển quá trình hình thành nhân
cách người được giáo dục một cách có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp … Qua đó
kích thích làm phát triển ở người được giáo dục tính tự giác, tích cực tự giáo dục
* Người được giáo dục
Một mặt được xem là đối tượng giáo dục khi nhân sự tác động có định hướng của nhà
giáo dục. Song mặt khác sự tồn tại hoạt động với tư cách là chủ thể tự giáo dục, chủ động
tiếp nhận các tác động có chọn lọc, biến các tác động bên ngoài thành tác động, yêu cầu đối
với chính bản thân.
* Kết quả giáo dục :
Là mức độ phát triển nhân cách của người được giáo dục đạt được sau quá trình giáo
dục. Đồng thời cũng là kết quả sự vận động phát triển người được giáo dục
Các nhân tố cấu trúc nên quá trình giáo dục quan hệ mật thiết, tác động qua lại và chịu
sự chi phối của môi trường kinh tế - chính trị xã hội và khoa học công nghệ, tạo nên những
tính quy luật của quá trình giáo dục. Đó là :
+ Tính quy luật về sự phụ thuộc của quá trình giáo dục với môi trường kinh tế - chính
trị - xã hội – khoa học công nghệ
+ Tính quy luật và mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố của quá trình giáo dục
+ Tính quy luật về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
+ Tính quy luật về sự thống nhất giữa quá trình giáo dục và quá trình dạy học
2.1.2. Bản chất của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục về bản chất là chuyển hóa tự giác tích cực những yêu cầu chuẩn
mực xã hội thành hành vi, thói quen tương ứng ở người được giáo dục dưới tác động chủ
đạo của nhà giáo dục. Bởi vì:
- Nhân cách của người được giáo dục trước hết và chủ yếu thể hiện những hành vi và
thói quen đúng, phù hợp chuẩn mực xã hội. Điều đó không chỉ là sự hiểu biết “lý thuyết” về
chuẩn mực mà phải được tổ chức tham gia vào những hoạt động thực tiễn qua đó tiếp thu
những kinh nghiệm, chuẩn mực xã hội để dần dần chuyển hóa thành kinh nghiệm bản thân.
Đồng thời những năng lực, phẩm chất cải tạo tự nhiên – xã hội, bản thân và sáng tạo ra giá
trị mới cho xã hội.
- Mặt khác trong quá trình giáo dục luôn diễn ra sự tác động qua lại tích cực giữa nhà
giáo dục và người được giáo dục. Dưới tác động chỉ đạo của nhà giáo dục, giúp cho người
được giáo dục trở thành chủ thể tự giác, tích cực tự giáo dục – tức có sự kết hợp giữa quá
trình giáo dục và quá trình tự giáo dục. Trong đó bản thân nhân cách nhà giáo dục về đạo
đức, lối sống, quan hệ … là gương sáng cho người được giáo dục.
2.1.3. Đặc điểm của quá trình giáo dục
2.1.3.1. Quá trình giáo dục diễn ra dưới những tác động phức tạp
- Trong quá trình giáo dục người được giáo dục chịu ảnh hưởng của nhiều tác động
khác nhau từ môi trường rộng lớn của xã hội: môi trường kinh tế, văn hóa, chính trị, sinh
hoạt cộng đồng, phong tục, tập quán… ngay trong một phạm vi môi trường vi mô của gia
đình, nhà trường… người được giáo dục cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều tác động.
- Những tác động này đan xen, ảnh hưởng tích cực, đồng thời có lúc, có nơi ảnh hưởng
tiêu cực tác động ngược lại những định hướng giáo dục đúng…Vì vậy, để quá trình giáo
dục có hiệu quả thì nhà giáo dục cần:
+ Tổ chức phối hợp các tác động giáo dục theo hướng tích cực, đồng bộ
+ Ngăn chặn hạn chế đến mức tối đa những ảnh hưởng tác động tiêu cực … Trong đó,
nhà trường với tư cách là cơ quan chuyên trách làm chức năng giáo dục tất nhiên giữ vai trò
trọng tâm, có tác dụng quyết định trong việc tổ chức thực hiện các hình thức phương pháp
giáo dục, kết hợp đồng bộ các môi trường giáo dục nhà trường – gia đình – xã hội.

27
2.1.3.2. Quá trình giáo dục có tính lâu dài
- Quá trình giáo dục diễn ra toàn bộ các mặt cuộc sống, đối với tất cả các nhân cách
học sinh. Nó không chỉ dừng lại ở việc nắm tri thức về chuẩn mực mà còn phải hình thành
niềm tin, tình cảm và nhất là phải rèn luyện hành vi thói quen tốt.
- Đó là quá trình phải tranh đấu liên tục giữa những quan niệm, niềm tin tình cảm, thói
quen cũ lạc hậu với quan niệm, niềm tin tình cảm thói quen mới tiến bộ.
- Mặt khác, một phẩm chất mới trong nhân cách khi hình thành cần phải trải qua một
quá trình rèn luyện thể nghiệm lâu dài mới ổn định, bền vững ở người được giáo dục.
Do đặc điểm này mà trong quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo dục phải biết kiên trì,
nhẫn nại, không nôn nóng. Cũng như khi đánh giá giáo dục phải thận trọng xem xét vấn đề
một cách có hệ thống liên tục mới có đủ cơ sở kết luận.
2.1.3.3. Quá trình giáo dục có tính cá biệt cụ thể
- Biểu hiện ở quá trình giáo dục luôn biến đổi thích hợp với từng cá nhân, theo từng
tình huống riêng biệt. Bởi mỗi người được giáo dục có những đặc điểm riêng về tâm sinh
lý, trình độ nhận thức,vốn sống kinh nghiệm… Mỗi cá nhân sẽ có phản ứng khác nhau với
mỗi tác động giáo dục
- Để quá trình giáo dục có hiệu quả nhà giáo dục phải có những tác động riêng với từng
cá nhân theo tình huống cụ thể, mà không cứng nhắc khuôn mẫu máy móc.
Vì vậy, khi GV thực hiện quá trình giáo dục này cần chú ý:
+ Nắm được những đặc điểm chung của tất cả học sinh và đặc điểm riêng của từng
học sinh
+ Tác động giáo dục phù hợp, vừa sức chung vừa sức riêng nhằm phát triển tối đa
tất cả những khả năng ở học sinh trong quá trình hoàn thiện nhân cách của bản thân.
2.1.3.4. Tính biện chứng của quá trình GD và mối quan hệ thống nhất với quá trình DH
- Quá trình giáo dục luôn biến đổi và phát triển về nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức giáo dục. Từng yếu tố của quá trình giáo dục cũng có mối tương quan biện chứng.
Mặt khác người được giáo dục đang trưởng thành, phát triển trong xã hội biến đổi … Nên
nhà giáo dục phải luôn nhạy cảm trong việc lựa chọn nội dung – phương pháp – hình thức
tổ chức, khéo léo phối hợp các giải pháp phù hợp.
- Quá trình giáo dục và quá trình dạy học đều là các quá trình bộ phận của quá trình
giáo dục tổng thể, chúng quan hệ mật thiết biện chứng với nhau
Quá trình giáo dục nhằm giúp nắm vững tri thức phát triển năng lực hoạt động, trí tuệ.
Qua đó, hình thành thế giới quan, phẩm chất nhân cách. Nói khác đi quá trình giáo dục
được thực hiện trong quá trình dạy học.
Ngược lại, khi thực hiện tốt chức năng giáo dục, tức là khi có thế giới quan khoa học,
phẩm chất nhân cách tốt thì sẽ tạo ra động cơ thái độ nhận thức đúng, thúc đẩy quá trình
dạy học phát triển. Tránh tách rời hai quá trình này.
2.1.4. Tính quy luật của quá trình giáo dục
2.1.5. Động lực của quá trình giáo dục
* Khái niệm:
Động lực của quá trình giáo dục nói chung là việc phát hiện và giải quyết có hiệu quả
các mâu thuẫn khách quan, chủ quan của quá trình giáo dục. Có 2 loại :
- Mâu thuẫn bên ngoài. Như:
+ Mâu thuẫn giữa những yếu tố của quá trình giáo dục với môi trường kinh tế-XH
+ Mâu thuẫn giữa những tác động có định hướng của quá trình giáo dục với những
ảnh hưởng tự phát tiêu cực của môi trường.
 Các mâu thuẫn bên ngoài nếu được giải quyết tốt sẽ tạo điều kiện cho sự vận động
và phát triển của quá trình giáo dục. Đôi khi trong những thời điểm nhất định nếu giải quyết
tốt mâu thuẫn bên ngoài lại có ý nghĩa quyết định tạo động lực cho quá trình giáo dục phát
triển
- Mâu thuẫn bên trong gồm:

28
+ Mâu thuẫn giữa các yếu tố quá trình giáo dục
VD: Mâu thuẫn giữa mục đích – nhiệm vụ nâng cao với nội dung GD chưa đổi mới
Mâu thuẫn giữa nội dung đổi mới với phương pháp còn lạc hậu
Mâu thuẫn ngay trong từng thành tố của quá trình giáo dục như
Mâu thuẫn ở người được giáo dục giữa lời nói với việc làm. Lý trí – tình cảm
Mâu thuẫn ở nhà giáo dục: trình độ chuyên môn cao nhưng trình độ ứng xử sư
phạm với người được giáo dục kém
Các mâu thuẫn bên trong là những mâu thuẫn cơ bản, bởi nó nảy sinh trong tất cả các
giai đoạn của quá trính giáo dục và nếu ý thức giải quyết đúng nó sẽ tạo ra động lực thúc
đẩy quá trình giáo dục phát triển
* Trong các mâu thuẫn nêu trên, có một mâu thuẫn cơ bản chủ yếu nhất, nảy sinh suốt quá
trình giáo dục. Đó là mâu thuẫn giữa những yêu cầu của chuẩn mực xã hội được đề ra trong
tiến trình giáo dục ngày càng cao với trình độ được giáo dục, trình độ phát triển còn hạn
chế ở người được giáo dục.
Đây là động lực chủ yếu của quá trình giáo dục vì khi giải quyết mâu thuẫn này sẽ làm
cho trình độ giáo dục, trình độ phát triển ở người được giáo dục được nâng lên tương ứng
với yêu cầu xã hội và quá trình giáo dục vận động phát triển liên tục
* Tuy nhiên, để trở thành động lực thì mâu thuẫn phải đáp ứng 3 điều kiện
+ Mâu thuẫn phải được người được giáo dục ý thức đầy đủ, có mong muốn giải quyết
+ Mâu thuẫn phải vừa sức, phù hợp trình trình độ, đặc điểm lứa tuổi
+ Mâu thuẫn nảy sinh trong tiến trình giáo dục, do sự phát triển của quá trình giáo dục
đem lại
2.1.6. Lôgic của quá trình giáo dục
Lôgic của QTGD là trình tự thực hiện hợp lý các khâu của nó nhằm hoàn thành các
nhiệm vụ GD đã được qui định.
Với quan niệm này, QTGD là 1 QT bao gồm 3 khâu thống nhất biện chứng với nhau là
GD ý thức, GD thái độ và GD hành vi, thói quen. GD đạt được hiệu quả khi người được
giáo dục vừa có nhận thức đúng, thái độ đúng, vừa có hành vi phù hợp với chuẩn mực trong
cuộc sống hàng ngày.
2.1.6.1. Giáo dục ý thức: là làm cho mỗi con người có ý thức về MĐ, ý nghĩa, giá trịc
cuộc sống, các chuẩn mực XH để từ đó hình thành thế giới quan, lý tưởng sống. Hay nói
cách khác, đó là quá trình tổ chức, điều khiển cho HS nắm vững tri thức về các chuẩn mực
XH đã được qui định
Nhận thức đúng là kim chỉ nam cho mọi hành động của con người, là cơ sở để hình
thành thái độ và hành vi đúng. Nhận thức sai hoặc nhận thức chưa đầy đủ là nguyên nhân
của những hành vi lệch chuẩn.
Hiện nay, trong xã hội tồn tại nhiều hệ thống chuẩn mực: chuẩn mực pháp luật,
chuẩn mực phong tục và truyền thống, chuẩn mực thẩm mỹ…Nhiều loại chuẩn mực đạo
đức, pháp luật đã được lựa chọn và đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
Muốn cho người được giáo dục tự giác thực hiện những chuẩn mực thì nhà GD cần
giúp họ có những tri thức cần thiết về các chuẩn mực này như:
- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của chuẩn mực
- Nội dung của chuẩn mực bao gồm cả những khái niệm tương ứng
- Cách thức thực hiện các chuẩn mực
Việc GD ý thức cho HS THCS được thực hiện thông qua QT học tập và sinh hoạt
tập thể để từ đó hình thành những khái niệm về đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về
những chuẩn mực xã hội, giá trị văn hóa; đồng thời phấn đấu trở thành con ngoan trò giỏi,
bạn tốt và công dân có ích trong tương lai.
Tuy nhiên, không phải cứ suy nghĩ đúng là dẫn tới hành động đúng. Vì vậy, nhận
thức đúng chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ.
2.1.6.2. Giáo dục thái độ, niềm tin:

29
Nhiệm vụ của khâu này tổ chức, điều khiển HS hình thành niềm tin và tình cảm tích
cực với các chuẩn mực XH, với những điều họ đã nhận thức được.
Thái độ và niềm tin có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho việc chuyển hóa nhận thức
thành hành vi. Bởi nếu có ý thức về các chuẩn mực xã hội mà không có tình cảm tương ứng
thì hành vi sẽ khô khan cứng nhắc, có tính chất miễn cưỡng, hành vi không xuất phát từ
niềm tin sẽ không phát huy sự nỗ lực, nhiệt huyết của người được giáo dục và hành vi
mang tính chất giả tạo, đạo đức giả
Niềm tin được thể hiện như sau:
- Nắm vững tri thức về các chuẩn mực.
- Tin về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn đối với chân lý và tính đúng đắn của
các chuẩn mực xã hội.
- Mong muốn tuân theo nhưng yêu cầu được phản ánh trong chuẩn mực xã hội
- Có hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội
- Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi mâu thuẫn với chuẩn mực xã
hội.
Đối với các trường THCS, đây là khâu trọng yếu, được thể hiện qua việc giáo dục
cho các em có thái độ đúng đắn đối với việc học, các mối quan hệ GĐ, với tự nhiên, môi
trường; niềm tin vào chân lý, lẻ phải, tình cảm yêu mến, kính trọng thầy cô, cha mẹ, thân ái
với bạn bè, người xung quanh…
2.1.6.3. Giáo dục hành vi, thói quen:
Hành vi là lối sống, phương thức sống được biểu hiện trong các tình huống xảy ra.
Bộ mặt nhân cách của mỗi người phải được thể hiện bằng những hành vi và thói
quen phù hợp với chuẩn mực xã hội chứ không chỉ thể hiện bằng sự hiểu biết. Giáo dục
hành vi, thói quen nhằm tạo sự thống nhất giữa nhận thức và hành vi, giữa lời nói và việc
làm.
Hành vi, thói quen là đích đến của quá trình giáo dục, la kết quả của nhận thức, thái
độ, niềm tin, là biểu hiện cụ thể nhất bộ mặt tâm lý, đạo đức, thẩm mỹ của con người.
Hành vi được hình thành trong hoạt động, trong các tình huống cụ thể.
Nhiệm vụ của khâu này là tổ chức những hoạt độhng, tạo nên những tình huống để
luyện tập, rèn luyện hành vi cho HS nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo và thói quen hành vi
phù hợp với các chuẩn mực
Việc giáo dục thói quen, hành vi được xem là thành công khi nó đáp ứng được các
chỉ tiêu sau đây:
- Nội dung các chuẩn mực được thể hiện trong hành vi (hành vi có phù hợp vơi chuẩn
mực không ? Phù hợp ở mức độ nào )
- Sự thể hiện hành vi có tính phổ biến (hành vi có được thực hiện ở mọi nơi (gia đình,
nhà trường, nơi công cộng…không)
- Sự thể hiện hành vi có tính bền vững (hành vi có được duy trì bền vững không)
- Hành vi có động cơ đúng đắn (hành vi được htực hiện với động cơ tích cực hay tiêu
cực, có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế nào…)
* Điều kiện để hình thành hành vi và thói quen:
- Tổ chức cho học sinh tham gia các dạng hoạt động (học tập, lao động, văn nghệ, thể
thao, sinh hoạt tập thể…)
- Bồi dưỡng cho HS ý thức và năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên.
Kết luận:
Việc GD bất cứ một phẩm chất nào cho HS cũng đều trải qua quá trình tác động vào cả 3 khâu
Các khâu nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Tùy từng đối
tượng, từng tình huống cụ thể mà nhà giáo dục sẽ quyết định tác động khâu nào trước, khâu
nào sau.
Mối quan hệ giữa các khâu:
- Khâu 1: là cơ sở, tiền đề cho hành vi. Là điều kiện cần nhưng chưa đủ.

30
- Khâu 2: là động lực của quá trình giáo dục
- Khâu 3: là mục đích, kết quả của quá trình giáo dục
2.1.7. Nguyên tắc giáo dục
2.1.7.1. Khái niệm về nguyên tắc giáo dục
Nguyên tắc giáo dục là hệ thống những quan điểm giáo dục mang tính quy luật, có tác
dụng chỉ đạo, định hướng mọi hoạt động giáo dục, nhằm thực hiện tốt nhất các yêu cầu, các
nội dung đề ra trong mục đích giáo dục nói chung và mục tiêu giáo dục nói riêng
Nguyên tắc giáo dục không chỉ tác động với từng hoạt động giáo dục riêng lẻ mà vào toàn
bộ quá trình giáo dục và có tác dụng trực tiếp đối với việc lựa chọn nội dung, phương pháp
và hình thức tổ chức giáo dục
2.1.7.2. Một số nguyên tắc giáo dục cơ bản
* Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong hoạt động giáo dục
- Đây là nguyên tắc quan trọng vì nó thể hiện được bản chất chính trị của hệ thống
giáo dục quốc gia, là nền tảng xây dựng mục đích, phương hướng của toàn bộ tổ chức hoạt
động giáo dục xã hội, trong nhà trường cũng như gia đình. Bởi quá trình giáo dục với
những tác động giáo dục đều phải hướng vào việc thực hiện mục đích giáo dục. Tính mục
đích của hệ thống giáo dục hiện nay được xây dựng trong điều 3 luật giáo dục là :
“Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, có tính nhân dân, dân tộc, khoa
học, hiện đại lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”
- Nội dung nguyên tác này yêu cầu :
+ Giáo dục cho thế hệ trẻ thế giới quan khoa học, lối sống văn hóa, lý tưởng xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
+ Giáo dục ý thức năng lực giải quyết mối quan hệ giữa giá trị truyền thống và giá trị
hiện đại
+ Tổ chức cho người được giáo dục tham gia vào các hoạt động xã hội một cách thích
hợp. Từ đó mà có khả năng “đề kháng” chống lại những điều lệch chuẩn mực
- Phương hướng thực hiện nguyên tắc này :
+ Tổ chức quản lý chặt chẽ chương trình giáo dục trong và ngoài trường
+ Phải quán triệt mọi hoạt động giáo dục từ việc xác định mục tiêu cấp học, môn học
đến việc xây dựng nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục trong ngoài trường
+ Phát huy vai trò Đoàn – Đội tránh sự tùy tiện trong chương trình giáo dục, tách rời
dạy học và giáo dục …
* Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa ý thức và hành vi
- Giữa ý thức và hành vi có mối quan hệ biện chứng. Ý thức là tiền đề, là cơ sở cho
hành vi được thực hiện một cách tự giác, tích cực. Hành vi được hình thành lại có tác dụng
củng cố, phát triển ý thức.
- Để thống nhất giữa ý thức và hành vi trong quá trình giáo dục, người giáo viên cần:
+ Bồi dưỡng cho học sinh những tri thức cơ bản về chuẩn mực hành vi
+ Hình thành niềm tin, tình cảm… về những chuẩn mực hành vi cần thực hiện
+ Tổ chức cho các em rèn luyện hành vi và thói quen hành vi
+ Người giáo viên phải thống nhất giữa ý thức và hành vi, gương mẫu về mọi mặt để
giáo dục học sinh
* GD trong tập thể và bằng tập thể
Chủ nghĩa Mác coi tập thể là cội nguồn của năng lực sáng tạo khổng lồ cho cá nhân, là
năng lực không bao giờ cạn cho sự phát triển và tăng trưởng của cá nhân.
Tập thể là một nhóm người, một cộng đồng người được liên kết với nhau bằng mục đích
chung, bằng những hoạt động chung có tính tổ chức nhằm thực hiện mục đích này. Nhờ vậy, vừa
mang lại lợi ích chung lại vừa mang lại lợi ích riêng trong sự thống nhất với nhau.
Tập thể vừa là môi trường vừa là phương tiện giáo dục. Tập thể đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách ở HS. Thông qua hoạt động và giao lưu trong tập

31
thể, tinh thần tập thể, đoàn kết, ý thức tổ chức, kỷ luật, năng lực tự quản…được hình thành và phát
triển
Trong quá trình giáo dục cần quan tâm:
- Xây dựng tập thể vững mạnh
- Tổ chức các hoạt động tập thể đa dạng, phong phú, hấp dẫn thu hút sự tham gia
nhiệt tình của các thành viên nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
- Tổ chức giao lưu trong tập thể, giữa các tập thể với nhau
- Tạo ra được dư luận tập thể lành mạnh hoan nghênh và ủng hộ nhân thức, thái độ,
hành vi đúng đắn, đồng thời ngăn chặn, lên án những biểu hiện sai trái làm hại tới lợi ích
chung, ddi ngược lại những chuẩn mực xã hội .
- Coi trọng đúng mực lợi ích cá nhân trong sự thống nhất với lợi ích chung; coi lợi
ích cá nhân chân chính là động lực phát triển trực tiếp đối với sự phát triển cá nhân
* Tôn trọng nhân cách kết hợp với yêu cầu cao đối với học sinh một cách hợp lý
- Đảm bảo nguyên tắc này là thực hiện đúng tính quy luật cơ bản của quá trình giáo
dục. Bởi nguyên tắc này biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục. Dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục thì người được giáo dục sẽ tự giác,
tích cực tự giáo dục, hoàn thiện nhân cách của mình chuyển hóa từ đối tượng đến chủ thể
giáo dục. Nên phải tôn trọng nhân cách đối tượng kết hợp với yêu cầu cao.
- Tôn trọng nhân cách học sinh là đánh giá đúng những ưu – nhược điểm của các em,
trân trọng cố gắng (dù nhỏ) -> thiện ý
+ Đối xử bình đẳng không xúc phạm nhân cách thương yêu quí trọng nhưng không bỏ
qua những thói hư tật xấu
+ Thành thật quan tâm đến học sinh, tin tưởng lạc quan xem học sinh là một chủ thể
tự giáo dục … điều đó làm cho học sinh nâng cao lòng tự tin, phấn đấu vươn lên.
- Yêu cầu trong giáo dục đó là những nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục đề ra để học sinh phấn
đấu nỗ lực đạt được trong giới hạn khả năng của mình
è Như vậy yêu cầu vừa sức hợp lý ở đây phải là :
+ Phù hợp với đặc điểm cá nhân, đáp ứng mục tiêu giáo dục
+ Vừa sức so với khả năng, vốn sống đối tượng
+ Có tác dụng kích thích động viên đối tượng giáo dục
+ Có khả năng mang lại hiệu quả giáo dục, gây niềm tin
- Khi thực hiện nguyên tắc này cần chú ý :
+ Càng tôn trọng thì càng phải có yêu cầu hợp lý ngày càng cao, luôn nghiêm túc mà
không ác ý, luôn chân thành tin tưởng vào sự tự hoàn thiện nhân cách ở đối tượng, tin
tưởng mong muốn điều tốt đẹp ở đối tượng
+ Phát hiện những ưu điểm, mặt tích cực của người được giáo dục để kích thích đối
tượng phát huy và trên cơ sở đó mà khắc phục sai sót, tiêu cực hạn chế.
+ Tránh và phê phán tình trạng thiếu tôn trọng nhân cách đối tượng như thô bạo, thiếu
tin tưởng, định kiến, nuông chiều dễ dãi …
* Phối hợp thống nhất tổ chức hoạt động của nhà giáo dục đối với việc phát huy
vai trò tự giáo dục của học sinh.
Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo - tổ chức và điều khiển
hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện của người được giáo dục. Người được giáo dục tồn tại
và phát triển với tư cách là đối tượng giáo dục, vừa với tư cách là chủ thể tự giáo dục, tự
rèn luyện trong sự thống nhất với nhau
Dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục, tính chủ động độc lập sáng tạo của người
được giáo dục sẽ hình thành và phát triển. Và ngược lại, tính chủ động, độc lập sáng tạo
một khi đã hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện cho nhà giáo dục phát huy tính chủ đạo
của mình ngày càng cao.

32
Vì vậy, nhiệm vụ của quá trình giáo dục và dạy học không chỉ nhằm cung cấp kiến thức mà
còn phải trang bị cho học sinh cách học tập, cách tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách để có thể
đáp ứng yêu cầu xã hội, xu thế phát triển của thời đại, để hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng.
Ý nghĩa: quán triệt nguyên tắc này giúp nhà giáo dục chủ động có ý thức trong việc giải
quyết mâu thuẫn thường xảy ra trong quá trình giáo dục là mâu thuẫn giữa tính tích cực chủ
đạo của thầy với tính tích cực chủ động của trò.
* Giáo dục trong lao động và giáo dục bằng lao động
- Lao động là nguồn gốc của mọi giá trị
+ Tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần
+ Tạo nên sức khỏe về thể chất, tinh thần thông minh sáng tạo
+ Thông qua lao động giúp con người có thái độ đúng đắn với quá trình lao động,
người lao động, sản phẩm lao động…hình thành nên những phẩm chất tốt đẹp trong nhân
cách con người..,
- Muốn đạt hiệu quả giáo dục thông qua lao động cần:
+ Tổ chức nhiều loại hình lao động hấp dẫn cho học sinh tự giác tham gia
+ Kích thích tính tích cực, sáng tạo của các em thông qua lao động
+ Đảm bảo mang lại hiệu quả lao động cụ thể
* Đảm bảo tính liên tục và hệ thống của công tác giáo dục
Xuất phát từ những lý do sau:
- Tính hệ thống, kế thừa và phát triển là qui luật của quá trình phát triển nhân cách
- Giáo dục là một quá trình nhằm hình thành ở người được giáo dục không phải là
những phẩm chất riêng lẻ mà là một hệ thống những phẩm chất toàn vẹn của nhân cách
- Quá trình giáo dục diễn ra theo hướng: những giai đoạn đi trước đặt nền móng, tiền
đề cho những giai đoạn sau và ngược lại, những giai đoạn sau phải kế thừa và phát triển
những kết quả giáo dục của những giai đoạn trước.
- Quá trình giáo dục phải được tổ chức sao cho những phẩm chất nhân cách của người
được giáo dục hình thành và phát triển không bị gián đoạn, nếu không sẽ làm chững lại
hoặc làm thụt lùi sự phát triển nhân cách ở họ.
* Hệ thống: thể hiện tính toàn vẹn trong nhân cách
* Liên tục: phản ánh tính thường xuyên, không gián đoạn vì quá trình giáo dục diễn ra
mọi lúc mọi nơi, suốt đời.
Ngtắc này thể hiện ở sự thống nhất, nhất quán của mục tiêu giáo dục nói chung với
mục tiêu các cấp học, lớp học, môn học; ở hệ thống kiến thức và kỹ năng của các môn học
trong chương trình của các cấp học
+ Ý nghĩa: Đảm bảo sự phát triển nhân cách một cách hoàn thiện
* Đảm bảo chú ý đến đặc điểm lứa tuổi và tính cá biệt trong quá trình giáo dục
- Ở mỗi lứa tuổi, mỗi lớp, mỗi cá nhân học sinh đều có những đặc điểm riêng về tâm
sinh lý, trình độ giáo dục, kinh nghiệm, vốn sống… tác động giáo dục càng phù hợp thì
hiệu quả giáo dục càng cao.
- Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần:
+ Nghiên cứu nắm vững từng đặc điểm chung và riêng của học sinh
+ Lựa chọn vận dụng nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục …sao cho
phù hợp với lứa tuổi và vừa sức với từng học sinh.
* Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội
Đây là một trong những nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục toàn diện
Điều 3, khoản 2 - Luật Giáo dục qui định: Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo
nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
Bác Hồ đã nói: “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài
xã hội và trong giáo dục để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục

33
nhà trường dù tốt đến mấy nhưng nếu thiếu giáo dục gia đình & xã hội thì kết quả cũng
không hoàn toàn”
Nhà trường, gia đình, xã hội là những môi trường giáo dục không thể thiếu được.
Chúng thống nhất với nhau tạo nên môi trường giáo dục hoàn chỉnh.Thiếu sự thống nhất
trong các tác động giáo dục,quá trình giáo dục sẽ bị phá vỡ, nhân cách bị phân đôi, làm nảy
sinh một loạt các nét tiêu cực trong tính cách và bộ mặt đạo đức của HS và do đó không
một phẩm chất nào có thể hình thành trọn vẹn; công tác giáo dục sẽ không đạt được mục
đích.
* Nhà trường: có vai trò chủ đạo trong giáo dục. Điều này được thể hiện qua:
- Định hướng cho toàn bộ quá trình hình thành nhân cách của thế hệ trẻ mà gia đình và
xã hội cùng kết hợp thực hiện
- Khai thác có chọn lọc những tác động tích cực;
- Góp phần điều chỉnh, ngăn chặn những tác động tiêu cực của giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội
- Điều lệ nhà trường phổ thông Việt Nam có qui định: Trong nhiệm vụ giáo dục học
sinh, nhà trường phải công tác chặt chẽ với gia đình học sinh, với các cơ sở sx, với các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức quần chúng, các đơn vị quân đội v.v.. trong khu vực trường
đóng để gắn nhà trường với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương và để
vận động nhân dân tham gia giáo dục thế hệ trẻ..
Trong nhiệm vụ cộng tác với gia đình học sinh, nhà trường phải:
- Giúp cho cha mẹ học sinh nâng cao hiểu biết về công tác giáo dục, thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của mình, có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con cái, tạo
điều kiện để các em phát triển toàn diện và trở thành những người tích cực hoạt động
cho xã hội.
- Nhắc nhở cha mẹ học sinh làm gương tốt về mọi mặt cho con cái trong sinh hoạt,
học tập, lao động
- Trong nhiệm vụ cộng tác với xã hội, nhà trường liên kết với các lực lượng liên
quan để tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh: tuyên truyền cổ động, tham gia các phong
trào xây dựng văn hóa xã hội, các hội thi văn nghệ, thể thao, các đợt lao động công ích của
địa phương, tham quan danh lam thắng cảnh, di tích ls, tham gia tổ chức giáo dục trong dịp

* Vai trò của giáo dục gia đình:
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình giữ vai trò quan trọng trong việc chăm sóc, giáo
dục con cái, “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt, gia đình
tốt thì xã hội mới tốt.”.
Gia đình là trường học đầu tiên của trẻ từ khi lọt lòng mẹ. Bằng nhiều phương thức khác
nhau cũng như nhiều điều kiện khác nhau, trẻ được gia đình dạy những tri thức về tự nhiên –xã
hội, về lao động, những hiểu biết về thẩm mỹ, đạo đức, tình cảm, nếp sống hàng ngày. Suy nghĩ,
tình cảm, ước muốn , khát vọng của trẻ đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của gia đình
Những đặc điểm của gia đình đều có mặt thuận lợi và không thuận lợi cho việc giáo
dục trẻ trong gia đình: tình yêu thương con cái có thể khiến cha mẹ thiếu sáng suốt, thiếu
yêu cầu cao về giáo dục. Sự thiếu quan tâm hoặc phương pháp giáo dục khộng phù hợp là
những nguyên nhân của tính ỷ lại, ích kỷ, ngang ngạnh, khó bảo, nhút nhát, tự ti… ở trẻ
Những hình thức kết hợp giữa nhà trường & gia đình:
- Thăm gia đình học sinh
- Cộng tác chặt chẽ với phụ huynh để thống nhất cách giáo dục học sinh
- Trao đổi thư từ
- Thông qua sổ liên lạc
- Họp định kỳ với phụ huynh học sinh để bàn cách giáo dục học sinh
- Thông qua hoạt động của Hội phụ huynh học sinh nhằm phối hợp kế hoạch giáo dục
giữa gia đình và nhà trường

34
- Tổ chức “câu lạc bộ cha mẹ học sinh “ để giúp cha mẹ học tập, trao đổi, phổ biến
kinh nghiệm
* Vai trò của giáo dục xã hội:
Các lực lượng xã hội bao gồm: các cơ quan nội chính, các tổ chức chính trị xã hội, các
tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng, các cơ quan chức năng. Việc liên kết của xã hội
với nhà trường thể hiện qua các việc sau:
- Bảo vệ an ninh, trật tự địa phương
- Tổ chức việc học tập,vui chơi, rèn luyện nhằm hình thành nhân cách học sinh
- Xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường, cải thiện đời sống giáo viên, tạo điều kiện cho việc
giáo dục học sinh của lớp
=> Nhà trường phải luôn thấy được và thực hiện vai trò chủ đạo của mình, chủ động
kết hợp với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục thế hệ trẻ
Gia đình và xã hội cần chủ động kết hợp với nhà trường theo định hướng giáo dục chung của nhà
trường và tạo điều kiện thuận lợi, hạn chế đến mức tối đa những ảnh hưởng tiêu cực cho giáo dục nhà
trường
2.2. Tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông
2.2.1. Nội dung giáo dục
2.2.1.1. Giáo dục đạo đức
Xét đến cùng thì toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường hay trong xã hội đều
hướng đến mục tiêu đào tạo một thế hệ công dân nhằm xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì
vậy, nhiệm vụ đức dục trong nhà trường là nhằm hình thành cho thế hệ trẻ ý thức công dân.
Công dân: là khái niệm pháp lý nói về cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước về
quyền lợi và nghĩa vụ
Ý thức công dân là phạm trù tinh thần, nói lên trình độ nhận thức của công dân về
quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhà nước
Ý thức công dân được thể hiện trong nhận thức, thái độ và hành vi của mỗi con người
cụ thể. Giáo dục ý thức công dân gồm 3 nội dung giáo dục sau:
+ Giáo dục ý thức chính trị-tư tưởng
Chính trị là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các mối quan hệ của các giai cấp, các quốc
gia xung quanh vấn đề lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất và kinh tế.
Ý thức chính trị là bộ phận của ý thức xã hội, là hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền.
Công dân Việt Nam có ý thức chính trị là người có ý thức về độc lập dân tộc, về sự giàu
mạnh, phồn vinh của đất nước Việt Nam
Giáo dục chính trị - tư tưởng là quá trình tác động của nhà giáo dục tới người được
giáo dục nhằm hình thành nhận thức, thái độ, hành vi chuẩn mực phù hợp với quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước, phấn đấu cho một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh
+ Giáo dục pháp luật là quá trình tác động của nhà giáo dục tới người được giáo dục
nhằm hình thành cho họ hệ thống quan điểm, thái độ, hành vi sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật
+ Giáo dục ý thức đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác
trong các mối quan hệ của con người với con người
Ý thức đạo đức là ý thức về các mội quan hệ của các cá nhân
trong xã hội, được biểu hiện ở ba mặt: ý thức, thái độ và hành vi đạo đức.
- Giáo dục ý thức đạo đức quá trình tác động nhằm hình thành cho học sinh ý thức, tình
cảm, niềm tin và thói quen đạo đức, thể hiện trong cuộc sống hàng ngày đối với gia đình,
làng xóm, cộng đồng…
* Các hình thức tổ chức giáo dục ý thức công dân cho học sinh:
- Thông qua dạy học
- Tổ chức cho học sinh tham gia lao động công ích & hoạt động xã hội

35
- Tổ chức cho học sinh tham dự các ngày lễ kỷ niệm, các lễ hội
- Xây dựng tổ chức Đoàn, Đội thật vững mạnh với nội dung sinh hoạt phong phú, đa
dạng, hấp dẫn
- Tổ chức các cuộc thi: văn nghệ, thể thao, tìm hiểu pháp luật…
- Tổ chức các phong trào thi đua, rèn luyện đạo đức, lối sống văn minh trong
lớp, trường
- Tăng cường công tác giáo dục gia đình.
- Ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi phạm pháp trong và ngoài nhà trường
- Thông tin kịp thời đến học sinh những sự kiện chính trị xã hội trong và ngoài nước
2.2.1.2.Giáo dục thẩm mỹ
Thẩm mỹ là phạm trù triết học nói về cái đẹp khách quan của tự nhiên, xã hội và con
người
Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục nhằm hình thành cho học sinh năng lực nhận
thức, thưởng ngoạn /cảm thụ, đánh giá, sáng tạo, và hành động theo cái đẹp.
* Các hình thức tổ chức giáo dục thẩm mỹ cho học sinh
- Thông qua dạy và học các bộ môn khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội & nhân văn
- Thông qua xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường, xã hội
- Thông qua giáo dục nghệ thuật: giảng dạy các bộ môn văn học nghệ thuật: thơ ca, âm
nhạc, hội họa…; tổ chức các cuộc thi: văn nghệ, học sinh thanh lịch, nữ công gia chánh..;
qua hệ thống thông tin đại chúng…
- Thông qua tiếp xúc với thiên nhiên: tham quan, du lịch, cắm trại…
Trong xu thế hội nhập ngày nay, trình độ văn hóa - thẩm mỹ - đạo đức chung mang bản
sắc dân tộc là những giá trị không thể thiếu của con người Việt Nam hiện đại.Vì vậy, tầm
quan trọng của công tác giáo dục thẩm mỹ cần được nhận thức đầy đủ và sự phối hợp đồng
bộ từ các lực lượng giáo dục
2.2.1.3. Giáo dục lao động, kỹ thuật, hướng nghiệp và dạy nghề:
Là quá trình tác động nhằm hình thành cho học sinh kiến thức, thái độ, kỹ năng lao
động để trở thành người lao động sáng tạo trong tương lai
* Các hình thức tổ chức giáo dục lao động cho học sinh .
- Lao động học tập, nghiên cứu: học tập, nghiên cứu để nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát
hiện ra cái mới, biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, biết tồ chức hoạt động
học tập, nghiên cứu có kế hoạch, có kỷ luật.
- Dạy học
- Lao động :tự phục vụ cho bản thân, gia đình, lao động công ích…
- Tham quan sản xuất
 Những yêu cầu sư phạm đối với việc tổ chức hoạt động lao động cho học sinh phổ
thông
- Lao động có ý nghĩa giáo dục đạo đức và mang giá trị xã hội tích cực
- Tính vừa sức
- Tính tập thể và hợp tác trong lao động
- Tính đa dạng của các loại hình lao động
- Chú ý đến quyền lợi vật chất của cá nhân học sinh
2.2.1.4. Giáo dục thể chất:
Giáo dục thể chất bao gồm giáo dục sức khỏe tâm lý, thể lực, vệ sinh và văn hóa cuộc
sống
Giáo dục thể chất là quá trình tác động sư phạm hướng vào việc hoàn thiện thể lực cho
học sinh, phát triển kỹ năng vận động cơ thể, tạo ra cuộc sống tâm lý ổn định, lối sống có
văn hóa.
Trong lịch sử giáo dục, những tư tưởng giáo dục về thể chất được xem là biểu hiện của
tư tưởng nhân đạo, tiến bộ bởi nó không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển thể lực, cải tạo

36
giống nòi mà còn đóng góp vào sự phát triển hài hòa cân đối của con người, tạo nên những
tiền đề, hỗ trợ cần thiết cho các mặt giáo dục khác.
* Các hình thức tổ chức giáo dục thể chất cho học sinh:
- Thông qua giảng dạy các giờ thể dục chính khóa
- Rèn luyện thể dục buổi sáng, giữa giờ
- Tâp luyện và thi đấu các môn thể thao, tổ chức các hội khỏe trong nhà trường, giữa
các trường…
- Tư vấn về sức khỏe: phòng chống HIV, sức khỏe sinh sản…
- Tổ chức tham quan, du lịch, cắm trại…
- Thông qua các trò chơi
- Tạo lập môi trường sống, môi trường giáo dục trong sáng, lành mạnh, gần gũi, thân
thiện
2.2.1.5. Giáo dục môi trường, giới tính, phòng chống ma túy…
2.2.2. Phương pháp giáo dục
2.2.2.1. Khái niệm và phân loại các phương pháp giáo dục
* Khái niệm phương pháp giáo dục:
Phương pháp giáo dục là cách thức, con đường hoạt động thống nhất giữa giáo viên và
học sinh nhằm giải quyết các nhiệm vụ và đạt mục đích giáo dục do xã hội đặt ra đối với
nhà trường
- Các phương pháp giáo dục phụ thuộc vào mục đích – nội dung giáo dục, nghĩa là khi sử
dụng một phương pháp nào đó phải xác định xem nó nhằm mục đích gì và tùy thuộc vào
nội dung giáo dục mà sử dụng phương pháp giáo dục thích ứng
- Phương pháp giáo dục được biểu hiện thông qua biện pháp giáo dục khác nhau. Phương
pháp liên quan chặt chẽ đến các phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục
+ Phương tiện giáo dục được hiểu là các loại hình hoạt động mà đối tượng tham gia,
cùng các vật thể, các sản phẩm vật chất, tinh thần được sử dụng trong quá trình giáo dục
+ Hình thức tổ chức giáo dục là những hình thức hoạt động giáo dục được tổ chức theo
một trật tự và chế độ nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục
* Vấn đề phân loại các phương pháp giáo dục
Vấn đề phân loại các phương pháp giáo dục còn tồn tại nhiều ý kiến, quan điểm khác
nhau -> phụ thuộc vào việc lựa chọn cơ sở.
Thông thường mọi hoạt động nào cũng có 4 yếu tố :
- Ý thức về quá trình hoạt động
- Tổ chức hoạt động
- Kích thích hoạt động
- Kỉểm tra đánh giá hoạt động
Hoạt động giáo dục là dạng hoạt động đặc biệt của con người nên nó cũng có 4 yếu tố
trên. Do đó tương ứng với 4 yếu tố đó hiện nay chia thành 4 nhóm phương pháp tương ứng.
* Nhóm phương pháp hình thành ý thức cá nhân :
- Đàm thoại
- Giảng giải
- Thảo luận
- Kể chuyện
- Nêu gương
* Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động -> hình thành kỹ năng ứng xử
- Tập luyện
- Nêu yêu cầu sư phạm (giao việc)
- Rèn luyện
* Các phương pháp thực hiện chức năng kích thích hoạt động -> điều chỉnh hành vi
- Khen thưởng
- Trách phạt

37
* Các phương pháp kiểm tra phân tích kết quả giáo dục : quan sát, thực nghiệm,
anket….
2.2.2.2. Một số phương pháp giáo dục cơ bản
a. Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân :
Phương pháp đàm thoại
- Khái niệm : Là phương pháp tổ chức sự trò chuyện, trao đổi chủ yếu giữa giáo viên
và học sinh về các vấn đề đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật … dựa trên một hệ thống câu hỏi
nhất định nhằm mục đích giáo dục học sinh
- Các bước tiến hành
+ Bước chuẩn bị :
.Xác định chủ đề đàm thoại
.Chuẩn bị tư liệu đàm thoại
.Xây dựng hệ thống câu hỏi
.Phương tiện và những đìều kiện khác
+ Bước đàm thoại :
Giới thiệu chủ đề và mục tiêu của buổi đàm thoại
Giới thiệu tư liệu đàm thoại
Giáo viên nêu câu hỏi, tình huống có vấn đề để học sinh trả lời, khuyến khích học
sinh nêu câu hỏi và thảo luận tích cực
+ Tổng kết đàm thoại
Giáo viên hay học sinh chốt lại những ý chính của kết luận, nêu rõ ý nghĩa, tác dụng và
cách thực hiện bài học
- Những yêu cầu khó sử dụng
+ Vấn đề đàm thoại phải sinh động, hấp dẫn, sâu sắc, xuất phát từ yêu cầu bức xúc
của thực tiễn, thiết thực được các em quan tâm.
+ Vấn đề đàm thoại cần thông báo trước và hướng dẫn để học sinh chuẩn bị chu đáo
+ Khi tiến hành đàm thoại, giáo viên phải đặt những câu hỏi, tình huống có vấn đề
chú ý huy động mọi học sinh tham gia phát biểu ý kiến một cách tích cực, độc lập, sáng tạo
không khí sinh động, sôi nổi, hấp dẫn khiến cho tất cả học sinh tập trung lắng nghe muốn
phát biểu, thể hiện quan niệm, nhận thức của bản thân
+ Khi kết thúc giáo viên cần tổng kết nêu rõ những quan niệm đúng đắn và gợi ý
hướng hành động củng cố kết quả đàm thoại
Phương pháp giảng giải
- Khái niệm : Là phương pháp dùng lời nói của mình trình bày, giải thích, chứng minh
cho một vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức hay thẩm mỹ nào đó nhằm giúp học sinh hiểu,
nắm vững ý nghĩa và quy tắc thực hiện các chuẩn mực đó.
- Các bước tiến hành
+ Bước chuẩn bị
Chuẩn bị nội dung giảng giải, dẫn chứng, phương tiện trực quan …
+ Bước giảng giải
Đặt vấn đề và tiến hành giảng giải theo nội dung chuẩn bị, kết hợp với các phương
pháp khác
+ Bước tổng kết :
Kết luận ngắn gọn về chuẩn mực, hành vi mà học sinh cần thức hiện, liên hệ thực tế,
khuyến khích học sinh thực hiện.
- Để thực hiện phương pháp này có hiệu quả, giáo viên cần lưu ý :
+ Chuẩn bị cho nội dung giảng gải đầy đủ, chính xác đáp ứng các câu hỏi : vì sao phải
thực hiện chuẩn mực xã hội đó? Chuẩn mực xã hội đó gồm những gì? Cách thực hiện
chuẩn mực đó như thế nào?

38
+ Khi giảng giải giáo viên cần sử dụng lời nói rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, lập luận,
mang tính logic cao, có những minh họa cụ thể, thu hút học sinh tham gia vào quá trình
giảng giải và liên hệ thực tế của bản thân.
Thảo luận:
- Khái niệm :
+ Là phương pháp tạo ra các cuộc đối thoại thẳng thắn giữa các thành viên của tập thể
và các chủ đề thời sự đang diễn ra trong thực tế nhà trường và ngoài xã hội.
+ Giúp mọi người giải đáp những vấn đề bức xúc, những tình huống khó xử, những sự
kiện cụ thể để tìm ra tiếng nói chung nhằm tạo ra dư luận tốt để điều chỉnh nhận thức của
mỗi cá nhân.
- Các bước tiến hành
+ Bước chuẩn bị :
Xác định chủ đề, chuẩn bị nội dung và các điều kiện khác cho thảo luận
+ Thảo luận :
Đặt vấn đề và tiến hành thảo luận, tạo mọi điều kiện để học sinh bộc lộ thể hiện quan
niệm, chứng kiến … các thành viên lắng nghe, chia sẻ, điều chỉnh nhận thức chưa đúng, kết
hợp với các phương pháp để đạt hiệu quả giáo dục
+ Bước tổng kết
Kết luận ngắn gọn về chuẩn mực hành vi học sinh cần thực hiện, liên hệ thực tế,
khuyến khích học sinh thực hiện.
Kể chuyện
- Khái niệm : Là phương pháp giáo viên dùng lời nói, điệu bộ và nét mặt của mình để
thuật lại một cách sinh động câu chuyện có ý nghĩa giáo dục (phương pháp này có tác dụng
hình thành và phát triển những xúc cảm tích cực, niềm tin ở học sinh. Giúp cho các em có
thể học tập gương tốt, tránh gương xấu, cũng như biết phê phán, đánh giá …)
- Bước chuẩn bị :
+ Lựa chọn câu chuyện
+ Tập dượt kể chuyện
+ Chuẩn bị câu hỏi tìm hiểu truyện, các phương tiện …
- Bước kể chuyện
+ Giới thiệu khái quát về nội dung câu chuyện
+ Đặt câu hỏi khái quát về câu chuyện
+ Trình bày nội dung câu chuyện
- Bước đánh giá câu chuyện
Giáo viên nêu câu hỏi để học sinh phân tích, đánh giá nội dung câu chuyện rút ra kết
luận cần thiết cho mình
- Để kể chuyện có hiệu quả giáo viên cần chú ý :
+ Lựa chọn câu chuyện kể có tác dụng giáo dục, nội dung phong phú đáp ứng chủ đề
mục tiêu giáo dục, khối lượng phù hợp với thời gian cho phép, hợp với đặc điểm tâm sinh
lý trình độ nhận thức của đối tượng giáo dục.
+ Khi kể chuyện lời nói phải sinh động, hấp dẫn giàu cảm xúc, giọng điệu nét mặt phù
hợp với tình tiết giúp các em lĩnh hội các giá trị đạo đức, thẩm mỹ.
+ Cần có tranh ảnh minh họa cho hấp dẫn và tạo được ấn tượng người nghe
+ Sau khi kể xong câu chuyện giáo viên yêu cầu học sinh tóm tắt câu chuyện, nêu câu
hỏi, tình huống để học sinh trả lời, thảo luận giúp các em nhớ tốt hơn nội dung câu chuyện
và rút ra những kết luận bài học bổ ích.
Nêu gương
- Khái niệm:
Nêu gương là dùng những sự việc, những điển hình cá nhân hoặc tập thể tiên tiến
mẫu mực làm phương tiện tác động vào ý thức tình cảm của học sinh, gây cho các em sự
xúc động, khâm phục yêu mến và mong muốn noi theo gương tốt, tránh các gương xấu.

39
- Các bước tiến hành
+ Bước chuẩn bị
Lựa chọn tấm gương
Chuẩn bị tranh, ảnh có liên quan đến tấm gương
+ Bước nêu gương
Bằng biện pháp kể chuyện, đàm thoại, giảng giải, trình bày trực quan … giúp học sinh
hiểu các tấm gương một cách sinh động, sâu sắc trong xúc cảm, tình cảm để rút ra những
bài học cần bắt chước hoặc né tránh
Bước tổng kết : Có những biện pháp khuyến khích để học sinh thực hiện theo những tấm
gương đã học
- Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, nhà giáo dục cần :
+ Lựa chọn những tấm gương phù hợp với mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh
+ Những tấm gương đó phải gần gũi với đời sống của học sinh, có tính điển hình, cụ
thể, chứa đựng những giá trị phong phú, có tính khả thi ….
+ Khi nêu gương cần cho học sinh liên hệ với thực tế, phân tích đánh giá những tấm
gương và rút ra những bài học bổ ích.
+ Nhà giáo dục phải trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo
b. Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm hành vi ứng xử
Chức năng chủ yếu của phương pháp này là nhà giáo dục tổ chức các hoạt động đa dạng,
các quan hệ giao lưu nhằm tạo điều kiện cho người được giáo dục tính tích lũy kinh nghiệm
ứng xử xã hội, củng cố niềm tin, rèn luyện ý chí. Qua đó mà chuyển hóa ý thức thành hành
vi thói quen cần thiết.
Nêu yêu cầu sư phạm (phương pháp giao việc)
- Khái niệm : Là phương pháp tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động đa
dạng với những nghĩa vụ xã hội nhất định, thực hiện nội quy, quy chế. Qua đó hình thành ở
học sinh sự sẵn sàng hoạt động, thích hoạt động, thể hiện trách nhiệm, tích lũy kinh nghiệm
cũng như hình thành được hành vi ứng xử phù hợp.
- Các bước tíến hành
+ Bước chuẩn bị
Giáo viên cần xác định nội dung yêu cầu sư phạm
Chuẩn bị cách thực hiện yêu cầu
Chuẩn bị phương pháp hổ trợ
Chuẩn bị các biện pháp kiểm tra, đánh giá
Dự kiến khả năng thực hiện yêu cầu và phương tiện cần
+ Bước nêu yêu cầu
Yêu cầu sư phạm có những nội dung gì
Vai trò, tác dụng, ý nghĩa của yêu cầu
Các em cần thực hiện yêu cầu sư phạm như thế nào
- Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, cần chú ý :
+ Cần đưa ra những yêu cầu cụ thể, rõ ràng giúp học sinh định hướng những nhiệm vụ
phải thực hiện. Xác định rõ nội dung, phương pháp thực hiện
+ Giúp học sinh ý thức được ý nghĩa xã hội của những nhiệm vụ mà họ thực hiện để có
thái độ tự giác, tích cực …
+ Nên giao những nhiệm vụ phù hợp với hứng thú, năng lực nhằm phát huy thế mạnh
trong hoạt động, đồng thời để tăng ý nghĩa giáo dục
+ Khi nêu yêu cầu (việc gì, mức độ nào …) thì cũng cần vai trò động viên, giúp đỡ của
giáo viên, có kiểm tra, đánh giá công khai.
Phương pháp tập luyện

40
- Khái niệm : Là phương pháp tổ chức cho học sinh lặp đi lặp lại một cách có kế hoạch,
thường xuyên, hệ thống các thao tác, hành động nhất định nhằm biến chúng thành kỹ năng
kỹ xảo, thói quen cần thiết
- Các bước tiến hành :
+ Giáo viên xác định nội dung của mẫu hành vi hay các thao tác cơ bản
+ Chuẩn bị phương tiện có liên quan
+ Giáo viên có thể huấn luyện trước một số học sinh để làm mẫu cho cả lớp
+ Tổ chức cho học sinh làm thử
- Để luyện tập đạt hiệu quả cần
+ Giáo viên chọn công việc luyện tập theo từng giai đoạn giáo dục, có nội dung, phương
pháp hoạt động hấp dẫn, lý thú phù hợp với năng lực, lứa tuổi, giới tính của học sinh.
+ Học sinh phải có thái độ tích cực, có sự ham muốn tập luyện và tập 1 cách thức
thường xuyên , tuân thủ theo chế độ giờ giấc nghiêm ngặt (không hấp tấp nóng vội)
+ Giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc tập luyện với thái độ cảm thông
với những khó khăn của học sinh trong giai đoạn đầu, điều khiển, đìều chỉnh kịp thời
những lệch lạc mắc phải và khuyến khích học sinh tự kiểm tra, điều chỉnh.
+ Có những biện pháp khuyến khích kịp thời với những học sinh luyện tập đạt thành tích
tốt.
(Việc tập luyện nên thực hiện trong các tình huống, điều kiện khác nhau để có thể ổn định
khi hoàn cảnh thay đổi)
Phương pháp rèn luyện:
- Khái niệm : là phương pháp tổ chức thúc đẩy học sinh hoạt động trên cơ sở đã biết
hành động. Tức là tổ chức cho học sinh thể hiện ý thức của mình trong các tình huống đa
dạng. Qua đó củng cố hành vi, kỹ năng tạo điều kiện ứng xử phù hợp với chuẩn mực xã hội
(tác dụng của phương pháp này là học sinh có cơ hội thâm nhập vào các tình huống của
cuộc sống mà trong đó các em phải đấu tranh động cơ để xác định phương hướng hành
động và hành động cho phù hợp với xã hội nhằm giải quyết tình huống đó. Học sinh có cơ
hội lặp đi lặp lại những hành vi đã được luyện tập để biến thành thói quen bền vững)
- Để rèn luyện đạt hiệu quả cần :
+ Tận dụng những tình huống tự nhiên, đồng thời tạo ra những tình huống thích hợp
để học sinh rèn luyện
+ Tổ chức rèn luyện phải có hệ thống liên tục, thường xuyên
+ Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra và tự kiểm tra
+ Kết hợp chặt chẽ giữa rèn luyện và tự rèn luyện
c.Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi
Phương pháp thi đua
Là phương pháp kích thích khuynh hướng tự khẳng định của học sinh, thúc đẩy họ cố
gắng , hăng hái vươn lên và lôi cuốn những người khác cùng vươn lên giành những thành
tiách cá nhân và tập thể cao nhất
- Để thi đua đạt kết quả tốt cần:
+ Tổ chức thi đua với những mục tiêu rõ ràng, cụ thể, thiết thực.
+ Động viên học sinh hăng hái tham gia phong trào thi đua với động cơ đúng đắn.
+ Sáng tạo nhiều hình thức thi đua mới mẽ, hấp dẫn.
+ So sánh công khai những kết quả đạt được trong thi đua, sơ kết, tổng kết, biểu
dương khen thưởng kịp thời những thành tích thi đua.
Phương pháp khen thưởng
Là phương pháp tác động đến học sinh, tập thể học sinh biểu thị sự xác nhận đánh giá
tích cực đối với hành vi ứng xử đúng phù hợp chuẩn mực xã hội
* Phương pháp này có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể :

41
-Khi khẳng định hành vi của người được giáo dục là đúng, phù hợp chuẩn mực xã hội
sẽ giúp cho người được giáo dục củng cố, phát triển niềm tin về các chuẩn mực xã hội có
liên quan đến hành vi tốt mà mình thực hiện.
- Kích thích người được giáo dục tiếp tục duy trì và phát triển những hành vi tích cực.
Đồng thời tránh những hành vi không phù hợp chuẩn mục xã hội.
* Các hình thức khen thưởng
Được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo tính chất, mức độ của hành
vi, nỗ lực của người được giáo dục:
- Tỏ thái độ đồng tình, ửng hộ hành vi tốt
- Biểu dương
- Tặng giấy khen, bằng khen
- Thưởng: vật phẩm, tiền, học bổng, du lịch …
* Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả cao nhà giáo dục cần tuân thủ các yêu cầu cơ
bản sau :
- Đảm bảo khen thưởng trên cơ sở những hành vi thực tế của người được giáo dục
Nghĩa là không xem xét đánh giá khen chỉ dựa trên lời nói lý thuyết về chuẩn mực xã
hội mà còn phải xem xét hành vi đó của người được giáo dục có :
+ Phù hợp với nội dung chuẩn mực xã hội
+ Động cơ đúng đắn
+ Tính phổ biến, thường xuyên không
- Đảm bảo khen thưởng phải khách quan, công bằng tránh kiểu:
Thành kiến -> đánh giá thấp
Thiên vị -> đánh giá cao
- Khen thưởng kịp thời đúng lúc, đúng chỗ (nghĩa là đúng vào thời điểm thích hợp không
quá sớm hoặc không quá muộn -> không có tác dụng khen thưởng ở nơi không thích hợp,
không tùy tiện )
- Khen thưởng phải thưởng xuyên, kết hợp với quá trình
+ Khen thưởng phải đảm bảo gây được sự đồng tình của dư luận tập thể
- Chú ý khen những học sinh nhút nhát, thiếu tự tin
Khi khen thưởng -> học sinh phấn khởi, có thêm nghị lực tin vào khả năng của mình,
mong muốn tiếp tục thực hiện khen thưởng
+ Cần khuyến khích, khen thưởng không chỉ kết quả đạt được mà cả động cơ, thái độ,
sự cố gắng vượt khó, sự sáng tạo …
+ Đánh giá phải công minh, đúng lúc, kịp thời tránh thiên vị
+ Cần khen thưởng những em nhút nhát, thiếu tự tin
+ Khen thưởng kịp thời đúng lúc, đúng chỗ
+ Không nên quá lạm dụng khen thưởng
+ Tạo dư luận lành mạnh khi khen thưởng
+ Cần tạo cho học sinh tâm thế đúng đắn khi được khen. Tránh tình trạng thỏa mãn,
kiêu ngạo khi được khen.
Phương pháp trách phạt
Là phương pháp biểu thị sự đánh giá tiêu cực không đồng tình phản đối, phê phán
những hành vi sai trái của học sinh không phù hợp với các chuẩn mực, hành vi xã hội, quy
tắc tập thể
* Tác dụng của trách phạt ở chỗ, nhờ có sự đánh giá của giáo viên, học sinh thấy những
điều sai trái, lỗi lầm, hiểu rõ hành vi sai, tác hại … của mình để từ đó mà các em thay đổi
hành vi, cách thực hiện sao cho phù hợp với các chuẩn mực qui định. Đồng thời nhắc nhở
các cá nhân khác không vi phạm, không rơi vào những hành vi tương tự
* Các hình thức trách phạt như: nhắc nhở, khiển trách, phê bình, cảnh báo, buộc thôi học,
đuổi học ..
* Khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần lưu ý

42
- Trách phạt phải khách quan, công bằng, đúng mức dựa vào những chứng cứ cụ thể,
xác đáng và được tập thể ủng hộ
- Phải làm cho người bị trách phạt thấy rõ sai lầm của mình và tự nguyện chấp nhận
hình thức và mức độ trách phạt
- Tránh việc trách phạt tập thể nhưng nếu cần thiết phải nói rõ lỗi của từng người, trách
phạt đúng người đúng tội
- Tôn trọng nhân cách của học sinh khi trách phạt không gây ở các em sự đau khổ về
thể xác và tinh thần.
- Không nên trách phạt quá nhiều, quá liều …
- Có thể hoãn hoặc bãi bỏ trách phạt khi người có lỗi tỏ ra ăn năn, sửa chữa
- Tạo dư luận lành mạnh khi trách phạt.
Phương pháp Bùng nổ sư phạm
Phương pháp bùng nổ sư phạm cũng là phương pháp tác động trực tiếp nhưng được
thực hiện trong những tình huống “có vấn đề ” đặc biệt, được sử dụng tác động vào học
sinh với cường độ mạnh, bất ngờ để làm thay đổi các trạng thái và các quá trình tâm lý của
các em như nhận thức, tình cảm, hành vi, thói quen ...
Những tác động mạnh, bất ngờ ( đối tượng không ngờ tới, không có trong tiềm thức)
sẽ ảnh hưởng đến các quá trình hoạt động thần kinh (quá trình hưng phấn và quá trình ức
chế) cũng như các quy luật hoạt động của nó, trên cơ sở đó để thay đổi các quá trình, các
trạng thái và thuộc tính tâm lý.
Tác động mạnh và bất ngờ nhằm gây nên hiện tượng “sốc” để giúp trẻ xóa bỏ những
thói quen không phù hợp trức đây.
Khi sử dụng phương pháp bùng nổ sư phạm vấn đề là phải biết chớp lấy thời cơ để
tác động đúng thời điểm và đủ mạnh để làm xoay chuyển hoàn toàn tâm tư, suy nghĩ ...
không phù hợp của đối tượng. Muốn thế, người giáo viên phải có đủ khả năng phán đoán
tốt, có óc tưởng tượng sư phạm phong phú, có kinh nghiệm và trình độ sư phạm cao, có uy
tín với học sinh và biết tạo ra thời cơ để tác động đến học sinh.
Lưu ý rằng, phương pháp bùng nổ sư phạm như con dao hai lưỡi, nếu để đối tượng
đoán được ý đồ của nhà giáo dục thì không chỉ quá trình giáo dục không thành mà nhiều
khi lại còn có kết quả tiêu cực. Tác động của nhà giáo dục chỉ gây được bất ngờ, gây ấn
tượng và xúc động mạnh khi đối tượng hoàn toàn không biết được ý đồ của nhà sư phạm.
d. Nhóm phương pháp kiểm tra – phân tích kết quả giáo dục
Kiểm tra, đánh giá hành vi và hoạt động của người được giáo dục cũng là phương pháp
giáo dục, bởi vì nó cũng được tiến hành một cách có phương pháp với những yêu cầu nhất
định … tạo cơ sở đối chiếu kết quả với mục tiêu giáo dục …
Nó bao gồm các phương pháp : quan sát – đàm thoại – ankét – thực nghiệm
2.2.2.3. Lựa chọn và sử dụng có hiệu quả các phương pháp giáo dục
2.2.3. Đánh giá kết quả giáo dục
2.3. Người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông
2.3.1. Vai trò, vị trí, chức năng của người giáo viên chủ nhiệm
- Thay mặt hiệu trưởng quản lý một lớp học
- Là linh hồn của lớp, người tập hợp học sinh thành một khối đoàn kết
- Tổ chức các hoạt động giáo dục toàn diện cho học sinh lớp chủ nhiệm
- Là cố vấn đắc lực cho đoàn thanh niên trong công tác tổ chức và sinh hoạt tập thể
- Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp các lực lượng giáo dục
- Đánh giá kết quả rèn luyện của từng học sinh và tập thể lớp.
2.3.2. Nội dung và phương pháp công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông
2.3.2.1. Nội dung công tác chủ nhiệm lớp
Tìm hiểu, phân loại học sinh lớp chủ nhiệm
* Nội dung tìm hiểu
- Hoàn cảnh sống của từng học sinh:

43
- Những đặc điểm về thể chất, tâm sinh lý của từng học sinh
- Tính cách, hành vi đạo đức của từng học sinh
* Mục đích của việc tìm hiểu, phân loại học sinh: nhằm hiểu đựơc những khó khăn,
thuận lợi của từng học sinh để thông cảm, chia sẻ; tham mưu, tư vấn; đề ra kế hoạch,
phương pháp giáo dục cá biệt, phù hợp với học sinh; hoặc phối hợp với gia đình thống nhất
phương pháp giáo dục.
* Cách thức tìm hiểu, phân loại học sinh:
- Nghiên cứu lý lịch học sinh
- Nghiên cứu hồ sơ của học sinh: học bạ, sản phẩm do học sinh làm, bản tự kiểm…
- Nói chuyện trực tiếp với học sinh
- Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm & giáo viên bộ môn các năm trước,
- Trao đổi với phụ huynh học sinh
- Thông qua hoạt động cùng học sinh
Tổ chức, xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm
* Yêu cầu:
- Xây dựng được một tập thể học sinh với đội ngũ cán bộ lớp có năng lực điều hành tốt
các hoạt động của lớp .
- Tạo được tinh thần tự rèn luyện, sự mạnh dạn, tự tin, ý thức kỷ luật tự giác cao ở học
sinh
- Hình thành ở học sinh những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng lập kế hoạch hoạt động,
điều khiển lớp thực hiện kế hoạch, đánh giá kết quả hoạt động…
* Nội dung:
- Tổ chức bộ máy tự quản
- Qui định rõ chức năng nhiệm vụ cho từng vị trí
- Hướng dẫn ghi chép sổ công tác cho từng loại cán bộ
- Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tự quản: bồi dưỡng về nhận thức(vị trí, vai trò, nhiệm vụ
của từng vị trí), nội dung, phương pháp công tác
Tổ chức cho HS phân tích, đánh giá, khái quát hóa kinh nghiệm hoạt động của cán bộ
tự quản
* Cách thức tiến hành:
- Lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp có đủ uy tín và năng lực đảm nhận việc điều khiển
các hoạt động của lớp
- Tập huấn cho đội ngũ cán bộ lóp: vai trò, vị trí, nhiệm vụ cụ thể của từng thành viên,
cách thức ghi chép sổ sách
- Huấn luyện, bồi dưỡng, rèn luyện qua thực tế cho cả lớp về những nội dung, kỹ năng
xây dựng tập thể lớp tự quản.
*** Tập thể học sinh
* Khái niệm
Tập thể học sinh là một loại nhóm thanh thiếu niên, một bộ phận xã hội có trình độ phát
triển cao, được tập hợp với những mục đích có ý nghĩa xã hội, có hoạt động chung, quan hệ giữa
các thành viên là quan hệ trách nhiệm và có cơ quan tự quản do tập thể bầu ra
Tập thể học sinh có những dấu hiệu đặc trưng: có cùng mục đích, lý tưởng, có hoạt động
cùng nhau, có hệ thống các mối quan hệ, có cơ quan tự quản do tập thể bầu ra, là một bộ phận hữu
cơ của tập thể lớn của xã hội
Chức năng của tập thể học sinh:
- Tổ chức: thu hút học sinh vào một xã hội thu nhỏ, tổ chức tập thể và những hoạt động đa
dạng, phong phú cho học sinh tham gia nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh
- Kích thích: phát huy tối đa yếu tố tích cực thông qua sự thi đua, đồng tình, ủng hộ, biểu
dương, khen thưởng … của tập thể
- Giáo dục: xây dựng và phát triển toàn diện nhân cách của học sinh
Tập thể học sinh: lớp học, chi đoàn, các câu lạc bộ … Trong nhà trường có hai tập thể chịu sự
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau: tập thể sư phạm và tập thể học sinh

44
* Các giai đoạn phát triển của tập thể
Dưới vai trò chủ đạo xây dựng của người giáo viên, tập thể học sinh phát triển qua các giai
đoạn sau:
Giai đoạn 1: Tập thể gồm những thành viên vừa mới tập hợp lại, học sinh chưa hiểu nhau.
Ở giai đoạn này, chức năng chủ yếu của người giáo viên là tổ chức, cơ cấu và quan hệ trong tập
thể, tổ chức triển khai các hoạt động tập thể theo mục tiêu giáo dục, tổ chức và phát hiện những
phần tử tích cực trong tập thể. Giáo viên hầu như một mình tổ chức quá trình giáo dục. Giáo viên
cần đề ra mục tiêu, yêu cầu cho học sinh thực hiện,giao việc cho cá nhân, hướng dẫn, giải thích tỉ
mỷ mọi công việc, giúp họ ý thức về viễn cảnh tốt đẹp của tập thể. Giáo viên tổ chức những hoạt
động chung cho tập thể thực hiện để dần dần các thành viên hiểu nhau và giáo viên hiểu các thành
viên trong tập thể. Giáo viên cần nghiêm khắc, nhanh chóng đưa học sinh vào nội quy, tổ chức, kỷ
luật của lớp. Kết thúc giai đoạn này, tập thể cử cơ quan tự quản điều khiển có sự hướng dẫn khéo
léo của giáo viên. Những quan hệ phụ thuộc trách nhiệm đã được hình thành.
Giai đoạn 2: tập thể được hình thành. Chức năng của người giáo viên chuyển dần từ chỗ trực
tiếp tổ chức mọi công việc của tập thể sang tổ chức và giáo dục các thành viên tích cực đặc biệt là
giúp đỡ các cán bộ lớp đề ra yêu cầu đối với tập thể, tổ chức phân công và kiểm tra việc thực hiện
các yêu cầu đó, duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên trong tập thể và với các tập thể
khác. Lúc này học sinh hình thành ý thức tập thể và tập thể đã trở thành công cụ để hình thành một
số phẩm chất nhân cách cho học sinh. Trong giai đoạn này, các mối quan hệ phụ thuộc trách nhiệm
trong tập thể được củng cố, các thành viên của tập thể đã biết đòi hỏi lẫn nhau về mặt trách nhiệm,
bổn phận, danh dự, dư luận, sự kiểm tra, đánh giá của tập thể được hình thành và phát huy tác
dụng. Động cơ hành vi của các thành viên trong tập thể từ chỗ lấy hứng thú cá nhân làm yếu tố
kích thích sang lấy nghĩa vụ tập thể làm yếu tố kích thích. Các phần tử tích cực ngày càng mở rộng,
thu hút ngày càng nhiều thành viên vào quản lý tập thể. Những kinh nghiệm tự quản bắt đầu được
tích lũy. Nhiệm vụ của giáo viên trong giai đoạn này: xây dựng đội ngũ tự quản, hoàn thiện các
mối quan hệ trong tập thể, phát huy tối đa khả năng giáo dục của tập thể đến các thành viên.
Giai đoạn 3: Yêu cầu của nhà giáo dục trở thành yêu cầu của tất cả học sinh. Tập thể đề ra
yêu cầu với mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đề ra yêu cầu với bản thân. Các thành viên năng nỗ hoạt
động, có dư luận lành mạnh trong tập thể, có ý thức thi đua, lợi ích cá nhân và tập thể thống nhất
làm một, các quan hệ trong tập thể được củng cố và hoàn thiện, tập thể phát huy đầy đủ chức năng
giáo dục thông qua dư luận tập thể, cách đánh giá dựa trên những định hướng giá trị đã được tập
thể thừa nhận. Giai đoạn này nhà giáo dục chỉ đứng sau “hậu trường” chỉ đạo, cố vấn, kiểm tra,
đánh giá … phần lớn thì giờ giáo viên dành cho việc nghiên cứu, theo dõi sự phát triển của tập thể
cũng như của từng cá nhân, định hướng phấn đấu cho các cá nhân và tập thể.
* Một số biện pháp xây dựng tập thể học sinh vững mạnh
Nhân cách của học sinh chỉ hình thành và phát triển tốt trong tập thể và thông qua tập thể. Bởi
vì, thông qua hoạt động và giao lưu trong tập thể, học sinh sẽ hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách. Tuy nhiên, chúng ta cần có nhìn nhận đúng đắn mối quan hệ giữa tập thể cá nhân. Tập
thể là môi trường là phương tiện giáo dục hoàn thiện cá nhân và sự tự giáo dục của cá nhân tốt sẽ
làm cho tập thể phát triển vững mạnh. Nhưng tập thể chỉ thực hiện chức năng giáo dục khi phát
triển tốt. Vì vậy, người giáo viên cần xây dựng tập thể phát triển vững mạnh để giáo dục học sinh:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp: giáo viên cần giúp lớp chọn lựa được đội ngũ cán bộ lớp nhiệt
tình, tích cực, có năng lực và phẩm chất đạo đức để lãnh đạo lớp phát triển tốt. Giáo viên có kế
hoạch bồi dưỡng các em để trở thành những tấm gương sáng cho các bạn khác noi theo, có khả
năng thuyết phục, thu hút các thành viên của lớp tham gia tích cực vào quá trình học tập và rèn
luyện để hoàn thiện nhân cách.
- Xây dựng những quan hệ đúng đắn trong tập thể:
+ Quan hệ phụ thuộc trách nhiệm hay còn gọi là quan hệ công việc: tất cả các thành viên trong
tập thể ý thức được vai trò, trách nhiệm, tích cực hoạt động, hợp tác thực hiện tốt công việc theo
chức năng và nhiệm vụ của từng thành viên một cách nhịp nhàng và có hiệu quả
+ Quan hệ đoàn kết thân ái: các thành viên trong tập thể đoàn kết, thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ theo phương châm mình vì mọi người, mọi người vì mình.
+ Quan hệ riêng tư trong các nhóm nhỏ: những đôi bạn, nhóm bạn cùng sở thích, có tình cảm
với nhau hay chơi chung, ngồi chung … tập thể tôn trọng, tạo điều kiện cho sự phát triển tốt đẹp

45
những mối quan hệ đó và các mối quan hệ riêng tư trong các nhóm nhỏ có thêm sức mạnh tình cảm
để phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của tập thể.
- Tổ chức các hoạt động và giao lưu trong tập thể
Con đường quan trọng nhất để xây dựng tập thể là tổ chức, thu hút học sinh tích cực, tự giác
tham gia phong phú vào các loại hình hoạt động và giao lưu. Thông qua việc tham gia hoạt động,
học sinh lĩnh hội giá trị chuẩn mực xã hội biến thành hành vi thói quen của bản thân, có chung
nhận thức, đánh giá, hứng thú … dưới sự xây dựng của giáo viên, học sinh sẽ hoàn thiện các mối
quan hệ hoạt động và giao lưu trong tập thể để hoàn thiện nhân cách.
- Xác định viễn cảnh, xây dựng truyền thống và hình thành dư luận
+ Xây dựng viễn cảnh tương lai cho tập thể: viễn cảnh là mục tiêu, là tương lai tốt đẹp của tập
thể. Nó có giá trị định hướng, đem lại niềm vui, hy vọng, động viên mọi người phấn đấu vươn lên,
kích thích vào sự vận động và phát triển của tập thể. Vì vậy, người giáo viên cần xây dựng các loại
viễn cảnh, biến ước mơ, lý tưởng tốt đẹp của tập thể trở thành hiện thực
+ Xây dựng truyền thống tập thể: truyền thống là nét đẹp tiêu biểu, những thành công của tập
thể được duy trì trong thời gian dài. Truyền thống đẹp tạo nên sức mạnh, niềm tự hào của mỗi
thành viên làm cho mỗi người phấn đấu nhiều hơn nữa để không làm mất đi vẻ đẹp đã có. Truyền
thống tạo cho tập thể niềm tự hào, sự cổ vũ, tạo sự đoàn kết, nhất trí, là động lực vượt qua những
khó khăn để đạt những thành công mới. Trong tập thể học sinh thường có các loại truyền thống
như: truyền thống đoàn kết, học tập giỏi, lao động tốt, văn nghệ, thể dục thể thao tốt. Mỗi loại
truyền thống đều có ý nghĩa giáo dục riêng.
+ Xây dựng dư luận: dư luận bao gồm những phán đoán và những đòi hỏi có tính chất đánh
giá(tán thành, biểu dương hoặc phê phán, lên án) của các thành viên đối với các sự kiện(ý nghĩ, lời
nói, hành động) diễn biến trong tập thể. Dư luận có sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ trong tập thể, xây dựng động cơ hoạt động, hoàn thiện hình thái ứng xử. Giáo viên phải
xây dựng dư luận lành mạnh để học sinh biết đồng tình, ủng hộ, biểu dương, khen… những điều tốt
đẹp, lên án, phê phán … những biểu hiện tiêu cực trong tập thể.
Tổ chức thực hiện các nội dung giáo dục toàn diện:
* Ý nghĩa
- Giúp học sinh được bổ sung, mở rộng thêm tri thức tri thức, củng cố tri thức đã
học, phat triển óc thẩm mỹ, tăng cường thể chất, sức khỏe, bồi dưỡng, rèn luyện ý thức
công dân, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước
- Giáo dục thái độ tích cực, tinh thần đoàn kết , ý thức chủ động, phát huy óc sáng
tạo, hình thành sự dạn dĩ, tự tin, nhanh nhạy…
- Rèn luyện các kỹ năng tự quản , góp phần giáo dục tính tích cực của người công
dân tương lai
* Nội dung hoạt động:
- Tổ chức các hoạt động nhằm giáo dục đạo đức,pháp luật và nhân văn cho học sinh
(giáo dục ý thức công dân)
- Tổ chức các hoạt động học tập nhằm phát triển nhận thức, trí tuệ của học sinh
- Tổ chức các hoạt động giáo dục lao động, hướng nghiệp
- Tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí
Lưu ý:
 Giáo viên chủ nhiệm cần chú ý đến đặc điểm tâm lý, lứa tuổi, giới tính học sinh,
đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ về vật chất và tinh thấn, phát huy tiềm năng sẵn có của các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
 Tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm cho những lần sau
Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh
+ Với các lực lượng giáo dục trong trường
 Tổ chức Đoàn, Đội
 GV bộ môn
 Ban giám hiệu
+ Với các lực lượng giáo dục ngoài trường
 Với gia đình:
46
o Về phía nhà trường:
- Thông báo định kỳ cho gia đình về kết quả học tập, rèn luyện của con em.
- Tư vấn cho các bậc cha mẹ về kiến thức tâm lý học, giáo dục họcđể có phương pháp
giáo dục phù hợp
o Về phía gia đình:
- Thông báo cho giáo viên chủ nhiệm về tinh thần học tập, sinh hoạt… của con em
mình
- Có sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần để cùng nhà trường giáo dục con em
* Các hình thức liên kết:
Sổ liên lạc, họp phụ huynh định kỳ, hội cha mẹ học sinh, thăm gia đình học sinh,
gặp gỡ trực tiếp, liên lạc qua điện thoại…
 Với chính quyền địa phương và các tổ chức, đoàn thể xã hội…: hỗ trợ việc tổ
chức các hoạt động học tập, vui chơi, rèn luyện...; xây dựng cơ sở vật chất cho nhà
trường, cải thiện đời sống giáo viên, bảo vệ trật tự an ninh của địa phương nhằm hình
thành môi trường giáo dục lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện mục
tiêu giáo dục con người toàn diện
Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm
* Điều kiện để xây dựng kế hoạch: Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu rõ:
- Mục tiêu, nhiệm vụ năm học
- Kế hoạch giáo dục chung của trường
- Mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch công tác của Đoàn TNCS HCM, Đội TNTPHCM
trong nhà trường
- Đặc điểm tình hình của lớp: mặt mạnh, mặt yếu
- Đặc điểm gia đình học sinh
* Lập kế hoạch hoạt động
a) Cơ cấu học sinh của lớp
b) Xác định mục tiêu phấn đấu chung của lớp:
- Học tập: chỉ tiêu cần đạt, kế hoạch bồi dưỡng học sinh khá giỏi, phụ đạo học sinh kém…
- Văn thể,
- Lao động,
- Xây dựng tập thể lớp
- Các hoạt động giáo dục cụ thể
c) Kế hoạch thực hiện:
Đánh giá kết quả giáo dục học sinh:
* Mục đích: Nhằm xem xét, nhìn nhận những mặt tiến bộ và tồn tại để HS có cơ sở
nỗ lực rèn luyện, phát huy ưu điểm và khắc phục những khuyết điểm, tồn tại để hoàn thiện
mình
* Nguyên tắc cần tuân thủ trong đánh giá: khách quan, công bằng
* Nội dung đánh giá: nhận thức, thái độ, hành vi của cá nhân đối với bản thân, đối
với công việc, trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình; đối với mọi người, với xã hội
* Cơ sở đánh giá: căn cứ vào chỉ tiêu giáo dục trong nhà trường, lớp
Cần tạo điều kiện cho học sinh được tham gia vào quá tình đánh giá và tự đánh giá.
2.3.2.2. Phương pháp công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông
- Phương pháp nghiên cứu đối tượng
- Phương pháp vận động quần chúng
- Phương pháp tổ chức sinh hoạt tập thể
- Phương pháp tổ chức hoạt động
- Phương pháp chăm sóc, giáo dục cá biệt

47
2.3.3.Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ
thông
- GVCN là người có năng lực chuyên môn tốt, đang giảng dạy các môn nhiều tiết ở lớp
để có điều kiện gần gũi, theo dõi, giúp đở học sinh học tập một cách thường xuyên.
- GVCN là người nắm vững lý luận sư phạm và có kỹ năng tổ chức quá trình giáo dục
đạt hiệu quả cao.
- GVCN là người có tư cách đạo đức tốt, gương mẫu trong cuộc sống, lao động và quan
hệ với đồng nghiệp, học sinh là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- GVCN phải có khả năng về văn nghệ, thể dục, thể thao, mạnh dạn, tự tin tổ chức và
tham gia các hoạt động này để lôi cuốn, thu hút học sinh cùng tham gia đạt hiệu quả cao.
- GVCN phải là người có phương pháp hoạt động xã hội, biết vận động, lôi cuốn các lực
lượng xã hội làm công tác giáo dục, thực hiện xã hội hóa giáo dục.

48

You might also like