You are on page 1of 12

VỘI VÀNG

(Huy Cận)
Đề 1: Phân tích 13 câu đầu
Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới với hồn thơ tiêu biểu cho tiếng nói thiết
tha, tình yêu cuộc sống, con người và rạo rực khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế,
gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. "Vội vàng" không chỉ là thi phẩm
đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” - bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian, mà còn là bài
thơ hay nhất trong cuộc sống sáng tác của ông. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng, vừa
là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Điều đó được khắc họa đặc biệt ở 13 câu thơ
đầu, nét bút của Xuân Diệu đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đặc sắc sinh động thể hiện tình
yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của thi nhân với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế:
“Tôi muốn tắt nắng đi

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Bài thơ “Vội vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập
thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống
hết mình, hãy quý trọng từng phút giây của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn
thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Ngay từ nhan đề bài thơ đã cho ta thấy một cái gì đó hối hả,
vội vã, ta cảm nhận được lòng ham sống đến cuồng nhiệt của nhà thơ với một quan niệm mới về thời
gian, tuổi trẻ và hạnh phúc, một khát vọng sống cao đẹp đồng thời cũng là một triết lí sống mà nhà
thơ mang đến. Đó là một thái độ sống gắn bó, yêu quý cuộc đời, sống mãnh liệt, sống hết mình, trân
trọng tuổi trẻ, mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Thế nhưng vội
vàng không đồng nghĩa với lối sống chỉ biết đến hưởng thụ mà là phải biết tận hưởng một cách cao
đẹp, nâng niu và sáng tạo.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước mơ muốn kì lạ của thi sĩ. Ước muốn
phi lí, tha thiết muốn đoạt quyền tạo hóa của một hồn thơ yêu đời:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Chỉ riêng bốn câu thơ ấy mang thể ngũ ngôn, đây là thể thơ phù hợp cho việc diễn tả cảm xúc
đặc biệt của Xuân Diệu. Câu thơ ngắn kết hợp với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập tựa như những cơn
sóng đang trào dâng dữ dội trong lòng nhà thơ. Đại từ nhân xưng “Tôi” vang lên cùng điệp ngữ “Tôi
muốn”, “cho” được nhắc lại hai lần, kết hợp với các động từ mạnh “tắt”, “buộc” đã làm nổi bật khao
khát mãnh liệt của nhà thơ. Đó là khao khát “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ lại sắc màu – “Cho màu
đừng nhạt mất”, để lưu lại mùi hương – “Cho hương đừng bay đi”. Đó là khát vọng muốn đoạt
quyền của tạo hóa, để buộc hương hoa tươi thắm mãi bên đời, để giữ lại mãi cái “thời tươi”, mơn
mởn xuân thì của tạo vật, để bất tử hóa cái đẹp của nhân gian. Ngông cuồng hơn cả là nhà thơ
“muốn” vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ
của đời mình. Khát vọng ấy của Xuân Diệu thể hiện một cái tôi khát khao khẳng định mình một cách
mạnh mẽ, độc đáo và tấm lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt say mê. Bởi trong hoàn cảnh
xã hội 1930 – 1945 phần lớn các nhà thơ khác chỉ muốn trốn trành hiện tại, lãng quên hiện tại thì
riêng Xuân Diệu vẫn mở lòng mình ra với thiên nhiên, thậm chí muốn níu giữ vẻ đẹp vĩnh hằng của
thế gian này.
Dường như với ông, cuộc sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kì diệu, sống là để tận hưởng và
cống hiến. Với tâm hồn cao cả của một thi sĩ, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới đầy tình
tứ ở những cảnh vật thiên nhiên nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Nhà thơ Thế Lữ đã từng nói: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả
mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mấy trời thanh sắc” cũng
bởi vậy mà ông đã cảm nhận về mùa xuân bằng tất cả sự tinh tế nhất của tâm hồn. Thiên đường trên
mặt đất vừa như một mảnh vườn tình ái vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với thực
đơn quyến rũ. Nếu như những nhà thơ lãng mạn chỉ muốn sống một cuộc sống thoát khỏi nơi trần
thế, trốn khỏi cõi hư vô hão huyền, bồng lai tiên cảnh như Chế Lan Viên hay Thế Lữ từng viết:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”
(Những sợi tơ lòng – Chế Lan Viên)
“Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai”
(Tiếng sáo Thiên Thai – Thế Lữ)
Thì Xuân Diệu đã “Đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lầu thơ của ông được xây
dựng trên mặt đất bằng một tấm lòng trần gian. Bảy câu thơ trên là một bức tranh thiên nhiên mùa
xuân được vẽ nên bằng một hồn thơ có “cặp mắt xanh non biếc rờn”. Cảnh vật đang vào độ thanh
tân, diễm lệ, bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng, màu sắc, âm thanh và được nhà thơ cảm
nhận bằng tất cả các giác quan. Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp: Ong bướm rộn ràng trong
“tuần tháng mật”; hoa khoe sắc giữa “đồng nội xanh rì”; lá trên “cành tơ phơ phất” – căng tràn sức
sống thanh tân, những chuyển động nhẹ nhàng, uyển chuyển; chim yến, chim oanh hội hè rộn rã; ánh
sáng bình minh đẹp rực rỡ, trong sáng như cái chớp mắt dưới làn mi huyền của người con gái đẹp…
Có lẽ do ảnh hưởng từ thơ ca Phương Tây, Xuân Diệu đã nhìn thiên nhiên qua lăng kính của tình
yêu, qua cặp mắt xanh non biếc rờn của tuổi trẻ. Thiên nhiên cảnh vật đều nhuốm màu tình tứ, tràn
ngập xuân tình. Vườn xuân đã biến thành vườn yêu, vườn của ái ân, hạnh phúc. Tuần trăng mật của
yêu đương chồng vợ trở thành mùa của ong bướm dập dìu. Tiếng hót say sưa của chim yến, chim
oanh quấn quýt bên nhau trở thành “khúc tình si” – khúc ca của tình yêu say đắm. Bình minh xuân
diễm lệ mang gương mặt của người đẹp kiều diễm với áng rèm mi đầy quyến rũ.
Đặc biệt, câu thơ từ 5 chữ chuyển về 8 chữ, cùng nghệ thuật đảo ngữ và điệp từ “này đây”
được nhắc lại đến 5 lần như vừa giới thiệu, vừa mời gọi mọi người quan sát, thưởng thức vẻ đẹp trù
phú, dồi dào của cuộc sống. Với Xuân Diệu mỗi ngày mới là một ngày vui, một niềm vui. Niềm vui
đó đã được hình tượng hóa để trở thành thần Vui: “Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”.
Bằng giọng thơ mượt mà, êm dịu như một cánh hồng nhung, thiên đường trên mặt đất của
Xuân Diệu không phải là thế giới xa xăm, lạ lẫm mà là những điều thân quen ở quanh ta khi mùa
xuân đến. Vẻ đẹp ấy được nhìn qua “cặp mắt non xanh biếc rờn” và được sàng lọc qua tình yêu của
người nghệ sĩ mang tình yêu thiên nhiên, cuộc sống đến cháy bỏng:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Thiên đường trên mặt đất thắm sắc, ngát hương và tràn đầy ánh sáng, nay được Xuân Diệu
khép lại bằng lối văn vô cùng độc đáo và gợi cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, tràn đầy ánh
sáng, màu sắc, hương thơm đã trở thành “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Trong thơ ca cổ
điển ta thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp, mọi cái đẹp trong vũ trụ phải đem so
sánh với cái đẹp của thiên nhiên. Bởi vậy khi miêu tả nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lồng vào
biết bao nhiêu cái đẹp của thiên nhiên:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây tua nước tóc tuyết nhường màu da”
Ở đây, Xuân Diệu đã đem đến một so sánh mới mẻ, độc đáo và táo bạo: dùng hình ảnh cụ thể
của: “cặp môi gần” để so sánh với đơn vị thời gian trừu tượng, vô hình – “tháng giêng”, tháng bắt
đầu mùa xuân căng tràn sức sống, đầy hương thơm của sự quyến rũ, ngọt ngào… Thi sĩ đã nhìn
thiên nhiên qua lăng kính của tình yêu, qua cặp mắt của tuổi trẻ. Lấy vẻ đẹp của con người làm
chuẩn mực cho cái đẹp thiên nhiên nơi trần thế.
Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi non đến
thế. Bức tranh thiên nhiên mà thi sĩ vẽ là một thiên đường đầy mật ngọt, hương thơm và men say
tình ái. Bức tranh ấy cũng đồng thời thể hiện quan niệm nhân sinh tiến bộ tích cực của nhà thơ:
Thiên đường không ở đâu xa vời mà hiển hiện ngay trước mắt chúng ta qua bức tranh thiên nhiên
mùa xuân căng tràn sức sống và vị ngọt của tình yêu. Đó cũng là lí do nhà thơ muốn níu kéo sự trôi
chảy của thời gian.
Nhưng ngay lúc thi sĩ đang ngây ngất mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình
yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung
sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Câu thơ được thi nhân ngắt làm hai, thể hiện niềm vui một cách không trọn vẹn. Nhà thơ đã
nhận ra rằng điều sung sướng ấy thật ngắn ngủi biết bao. Chính dự cảm mơ hồ về sự mong manh và
ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống tận hưởng một cách vội vàng. Từ trạng
thái vui tươi phấn chấn đầy yêu đời “tôi sung sướng” bỗng xuất hiện dấu chấm, như một điềm báo
trước một sự hụt hẫng lo lắng phía sau. Dấu chấm giữa dòng khiến câu thơ như bị chẻ đôi, một bên
là niềm vui sướng hân hoan, một bên là vực thẳm của sự hoài nghi, lo âu. Ta có thể thấy niềm vui
như chùng xuống, khựng lại và không trọn vẹn. Bởi, Xuân Diệu phát hiện rằng điều sung sướng mà
ông đang tận hưởng ấy ngắn ngủi biết bao, mong manh biết bao. Thời gian chảy trôi tuyến tính một
đi không trở lại. Trước sự chảy trôi của thời gian, có được bao nhiêu lâu để đắm chìm hân hoan cho
giây phút hiện tại. Chính vì dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đó khiến cho
thi nhân sống vội vàng tận hưởng:
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Dù bất lực trước dòng chảy thời gian, trước quy luật của thiên nhiên nhưng Xuân Diệu không
bi quan về cuộc sống mà ông đã tìm đến một cách giải quyết tuyệt vời. Đó chính là đừng tiếc nuối
cho tương lai mà hãy tận hưởng sống hết mình cho giây phút hiện tại. Bởi tương lai chắc chắn sẽ
đến, thời gian chắc chắn sẽ đến, mùa xuân sẽ qua cũng như mùa hạ sẽ đến, con người vốn không thể
thay đổi được những điều hiển nhiên ấy. Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng
vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu, vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà
thơ. Vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diêu là nhà thơ của những
cảm quan tinh tế về thời gian, có tâm hồn tha thiết yêu thiên nhiên, cuộc sống, niềm say mê ngây
ngất trước cảnh thiên nhiên tười đẹp, tràn đầy nhựa sống. Qua đó, tác giả thể hiện một quan niệm
mới: trong thế giới này đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.
Với thể thơ tự do, sử dụng nhiều biện pháp tu từng, ngôn ngữ thơ chọn lọc, hình ảnh thơ cũng
đầy mới mẻ và sáng tạo… Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay mang đậm phong cách thơ Xuân
Diệu. Thi sĩ đã vẽ nên một bức tranh đầy hương sắc, tràn đầy sức sống và rạo rực xuân tình. Đó là
một thiên đường đầy mật ngọt. Nó không tồn tại xa vời trong hư ảo. Nó hiển hiện với hơi thở sống,
nhịp điệu sống, nhịp tim, nhịp thở phập phồng. Nó ở ngay trước mặt người, giữa trần thế vui tươi,
mời gọi con người mở lòng tận hưởng say sưa. Đoạn thơ thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu đời,
yêu cuộc sống thiết tha, say mê, cùng quan niệm nhân sinh tích cực, tiến bộ của nhà thơ.
Trong “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh từng nhận xét: “Chưa bao người ta thấy xuất hiện
cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị
như Chế Lan Viên,... và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài
Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi
đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh
liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng
tuổi trẻ. Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ
và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng
vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta
phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!

Đề 2: Phân tích 16 câu tiếp theo.


Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới với hồn thơ tiêu biểu cho tiếng nói thiết
tha, tình yêu cuộc sống, con người và rạo rực khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế,
gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. “Vội vàng” không chỉ là thi phẩm
đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” – bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian mà còn là bài
thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Diệu và nhất là cảm nhận của ông về thời gian được thể hiện
trong khổ 2 bài thơ:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
Bài thơ “Vội vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập
thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống
hết mình, hãy quý trọng từng phút giây của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn
thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Ngay từ nhan đề bài thơ đã cho ta thấy một cái gì đó hối hả,
vội vã, ta cảm nhận được lòng ham sống đến cuồng nhiệt của nhà thơ với một quan niệm mới về thời
gian, tuổi trẻ và hạnh phúc, một khát vọng sống cao đẹp đồng thời cũng là một triết lí sống mà nhà
thơ mang đến. Đó là một thái độ sống gắn bó, yêu quý cuộc đời, sống mãnh liệt, sống hết mình, trân
trọng tuổi trẻ, mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Thế nhưng vội
vàng không đồng nghĩa với lối sống chỉ biết đến hưởng thụ mà mà phải biết tận hưởng một cách cao
đẹp, nâng niu, sáng tạo.
Nếu như ở khổ thơ đầu của bài, nhà thơ đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với
ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ; thì đến
khổ thơ thứ hai, tác giả lại thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và sự qua nhanh
của thời gian. Dường như sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy, đã có ý thức rất rõ sự vô tình
của thời gian trôi đi quá nhanh. Trước một mùa xuân tràn đầy sức sống và sắc hương rực rỡ quyến rũ
mê ấy, tác giả cũng hòa mình vào bầu không khí, cùng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn”, nghĩa là thời gian được hình dung
như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi
mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về. Quan niệm “thời
gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo
thời gian. Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu
kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Minh chứng trong câu thơ
của Mãn Giác Thiền trong Cáo tật thị chúng:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười)
Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi
những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là
tuyến tính nên thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Quan
niệm “thời gian tuần hòa” xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm
thước đo thời gian. Cách thức trình bày của Xuân Diệu trong đoạn thơ là sự tranh biện với quan
niệm xưa; đồng thời bộc bạch quan niệm mới mẻ của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt.
Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói
làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn” và lựa chọn cho mình một quan niệm khác về thời gian – “thời
gian tuyến tính”. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở
lại. Đây là một quan niệm mới mẻ, tiến bộ. Và vì mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn cho
nên tâm trạng nhân vật trữ tình mới có thoáng nỗi buồn và nỗi hoài nghi. Cách dùng cặp từ đối lập
trong hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” cùng kiểu câu thơ định nghĩa đã cho người đọc thấy được
sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian. Thời gian như dòng chảy không
ngừng nghỉ. Cái ta đang có cũng là cái ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khư và hé mở tương lai.
Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian
hữu hạn của cuộc đời mình (sinh mệnh cá thế) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ
lấy quãng ngắn nhấ, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng biển trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của tương lai
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần).
“Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi
lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời
người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật.
Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong
thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non – già, rộng – chật, xuân tuần hoàn – tuổi trẻ chẳng hai
lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn,
mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi mãi.
Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại”
thì làm chi có sự tuần hoàn! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt
của con người thật ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến
một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
“Còn đất trời, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Tác giả phát hiện ra mối quan hệ mâu thuẫn giữa xuân của đất trời và xuân của đời người.
Xuân của đất trời thì tuần hoàn, xuân của đời người một đi không trở lại. Đọc hai câu thơ, ta cảm
nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuổi tiếc của nhà thơ
phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Dù thời gian có lặp lại thì
mọi thứ cũng vô nghĩa bởi lúc đó “tôi” không còn là “tôi” của hôm nay. Như chính Xuân Diệu đã
từng nói:
“Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút ấy sang tôi phút này”
(Đi thuyền – Xuân Diệu)
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi
qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và
thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn
phai không thể nào trnh khỏi:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Đây là hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm
nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác
“vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một
cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn như
một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thấm đẫm hương vị của sự chia
lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”.
Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật
thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh cá thể
đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai
tàn của từng cá thể:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là
lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên
cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ
vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong
thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian
ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người: “Tôi
không chờ nắng hạ mới hoài xuân”:
“Chẳng bao giờ ôi! Chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm",
nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm
thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ,
bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được
thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống. Xưa kia,
Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":
"Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu
thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng
của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Cảm thức về thời gian luôn thường trực trong tâm hồn thi nhân. Xuân Diệu cảm nhận rất rõ
những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời. Và cùng với thời gian, những gì đẹp nhất của
mùa xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu, của đời người rồi sẽ ra đi không trở lại. Cách cảm nhận về thời
gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh
khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan
niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi
khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu
xa của thái độ sống “Vội Vàng”.
Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho cuộc
đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng
Xuân Diệu.
Sử dụng phép điệp ngữ, điệp cấu trúc; giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không tạo được niềm vui
vì không che giấu sự nuối tiếc, xót xa, hờn dỗi (nói làm chi, nếu, tiếc…); Hệ thống từ ngữ, hình ảnh
được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu ý nghĩa
mang đậm dấu ấn Xuân Diệu.
Trong “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh từng nhận xét: “Chưa bao người ta thấy xuất hiện
cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị
như Chế Lan Viên,... và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài
Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi
đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh
liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng
tuổi trẻ. Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ
và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng
vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta
phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!

Đề 3: Phân tích còn lại.


Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới với hồn thơ tiêu biểu cho tiếng nói thiết
tha, tình yêu cuộc sống, con người và rạo rực khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế,
gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. "Vội vàng" không chỉ là thi phẩm
đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” - bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian mà còn là bài
thơ hay nhất trong cuộc sống sáng tác của ông. Trong đó khổ thơ cuối bài với tiết tấu nhanh và mạnh
như một lời kết luận cho châm ngôn sống vội của ông:
“Ta muốn ôm

“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người”
Bài thơ “Vội vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập
thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống
hết mình, hãy quý trọng từng phút giây của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn
thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Ngay từ nhan đề bài thơ đã cho ta thấy một cái gì đó hối hả,
vội vã, ta cảm nhận được lòng ham sống đến cuồng nhiệt của nhà thơ với một quan niệm mới về thời
gian, tuổi trẻ và hạnh phúc, một khát vọng sống cao đẹp đồng thời cũng là một triết lí sống mà nhà
thơ mang đến. Đó là một thái độ sống gắn bó, yêu quý cuộc đời, sống mãnh liệt, sống hết mình, trân
trọng tuổi trẻ, mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Vội vàng
không đồng nghĩa với lối sống chỉ biết đến hưởng thụ mà mà phải biết tận hưởng một cách cao đẹp,
nâng niu, sáng tạo.
Ở phần trên của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hóa có sinh ra con người
để mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian này đâu. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời
gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng
lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non,
xuân chưa già:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
Mở đầu khúc thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa bài thơ:
“Ta muốn ôm”
Ba từ “Ta muốn ôm” được tách riêng biệt làm nổi bật hình ảnh nhân vật trữ tình đầy kiêu
hãnh. Ông như muốn đứng trên cao, dang rộng vòng tay để cảm nhận, để ôm trọn trái đất này khiến
ta bỗng nhớ tới cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
(Với mọi việc trong trời đất này không việc gì không phải của ta)
Còn với Xuân Diệu, cái tôi của ông cũng thật kiêu hãnh, nếu đoạn mở đầu là điệp ngữ “tôi
muốn” thì đến đây lại trở thành “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp
theo thể hiện khát khao tận hưởng cuộc sống non tơ đang trào dâng mãnh liệt ngày càng nồng nàn và
cháy bỏng hơn trong trái tim yêu đời đến tham lam của Xuân Diệu. Đại từ nhân xưng “tôi” mở đầu
bài thơ bất ngờ chuyển hóa thành “ta” đã cho thấy tác giả muốn vượt thoát ra khỏi giới hạn của cái
tôi chật chội để trở thành một cái ta rộng mở, để đối diện với sự rộng lớn, bao la của vũ trụ. Bởi vậy
mà Viên Mai từng nói rằng: “Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không
có cái tôi”. Ba từ “Ta muốn ôm” như một nốt nhấn để rồi từ đó âm thanh của khát vọng tuôn trào,
dào dạt tràn qua cả ngôn từ. Giữa những câu thơ dài đột ngột xen vào một câu thơ ngắn như thắt
ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang níu giữ, quấn quít “cả sự sống mới bắt đầu mơn
mởn” – sự sống, sự vật đang ở độ non mướt, tươi tốt, đầy sức sống.
Lần theo bước chân vội vàng ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình ảnh sinh động, đẹp
đẽ:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều
Và non nước và câu và cỏ rạng”
Phép điệp cấu trúc “Ta muốn” đã khiến đoạn thơ trở nên dồn dập, gấp gáp tựa như những cơn
sóng ào ạt nối tiếp nhau, như hơi thở gấp gáp của thi nhân đã diễn tả khát khao đến hàm hở cuồng
nhiệt. Say đắm thiên nhiên, cảnh trời, Xuân Diệu muốn tận hưởng thiên nhiên và sự sống. Dĩ nhiên,
với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao phải là thiên
nhiên giữa thời tươi, phải là sự sống mới bắt đầu mơn mởn, phải là xuân hồng căng mọng, quyến rũ.
Điều ấy có nghĩa là Xuân Diệu tham lam, ham hố tận hưởng tất cả những gì ngon nhất, đẹp nhất của
sự sống. Nàng xuân mà Xuân Diệu đắm đuối hết sức thanh tân quyến rũ, rạo rực xuân sắc, đắm đuối
xuân tình. Đến với thiên nhiên, đến với mùa xuân như đến với người tình tuyệt vời của mình, thi sĩ
tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến lần lượt
xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “ riết”, “say”, “thâu”, “cắn” cùng với đó là những hình ảnh nồng
nàn, khỏe khoắn: “mây đưa và gió lượn”, “cánh buồm với tình yêu” là biểu hiện của tình yêu ngày
càng say đắm mãnh liệt. Ôm chọn khắp, riết thật chặt, say sưa mê đắm và lên đến đỉnh điểm là
“cắn”. Xuân Diệu đã tận hưởng thiên nhiên như tận hưởng ái tính. Hình ảnh “thâu trong một cái hôn
nhiều” rất Tây. Đi liền đó là câu thơ thừa thãi liên từ “và”: “và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Chính
sự lặp lại có vẻ như thừa thãi ấy lại là một sáng tạo rất hiện đại của Xuân Diệu. Sự lặp lại liên tiếp
liên từ “và” trong một dòng thơ đã truyền đến người đọc một cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một
gã suy tình trước tình nhân đắm đuối.
Xuân Diệu tận hưởng sự sống mơn mởn như tận hưởng ái tình và phải đạt đến độ no nê, đã
đầy, chếnh choáng. Nghĩa là phải thỏa thuê, ngây ngất, mê đi, lịm đi:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Điệp từ “cho” đi kèm với những từ láy “chếnh choáng”, “no nê”, “đã đầy” dồn đẩy cảm xúc
yêu đương cuồng nhiệt, mãnh liệt đến vô biên, tuyệt đích, đã cực tả cảm giác tận hưởng tới mãn
nguyện của niềm yêu. Thi nhân tựa như “cánh bướm với tình yêu” hút mật ngọt của đời, nhụy thơm
của hoa say, trái đắng, say đắm, đê mê, nghiêng ngả trong thanh sắc của thời tươi, là một gã si tình
chếnh choáng trong men say tình ái.
Lời yêu cháy bỏng không thể kìm nén trong lòng, thì thầm trong trái tim mà vang lên thành
lời đối thoại dõng dạc, trực tiếp”:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
“Cắn” là động thái mạnh nhất trong hệ thống từ tăng tiến, nó đưa nhà thơ lên tới đỉnh điểm
hạnh phúc, khiến sự tận hưởng cuộc đời của thi nhân mang đậm sắc thái nhục cảm đầy cám dỗ.
Cùng với tình từ “hồng” cho thấy niềm ham muốn vô hạn độ của thi sĩ đã được biểu hiện qua nghệ
thuật chuyển đổi cảm giác. Khi ấy, mùa xuân không còn là một khái niệm trừu tượng chỉ thời gian,
cuộc đời hay tuổi trẻ mà trở thành “xuân hồng” một mùa xuân khác với “xuân xanh” trong thơ
Nguyễn Bính:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh”
“Xuân hồng” là đôi má nồng nàn của thiếu nữ, như một trái chín với sắc tươi thắm ngọt ngào,
với hương thơm ngào ngạt, với sự căng tràn quyến rũ, khơi gợi cảm xúc say mê và niềm khát khao
chiếm lĩnh. Với Xuân Diệu con người mới là chuẩn mực của cái đẹp nên mùa xuân cũng giống như
người thiếu nữ căng tràn sự sống. Nhà thơ muốn cắn vào nó cho thỏa mãn đam mê. Với cách sử
dụng từ ngữ sinh động, Xuân Diệu đã thể hiện một ham muốn không có giới hạn. Đứng trước sự hấp
dẫn của mùa xuân dường như thi sĩ không nén nổi lòng yêu thiên nhiên đã đi đến một cử chỉ táo bạo
nhưng cũng thật đáng yêu.
Ở đây, dường như để biểu đạt niềm yêu đời cuồng nhiệt vô biên của mình, Xuân Diệu đã dùng
đến yếu tố phi lí, phi hiện thực. Cũng chính vì thế mà câu thơ: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào
ngươi!” trở thành một trong những vần thơ độc đáo, táo bạo nhất trong thơ hiện đại. Cùng với
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, Xuân Diệu đã làm cả một cuộc cách mạng lớn trong thi
ca để trở thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Với thể thơ tự do, ngắt nhịp linh hoạt, tiết tấu gấp gáp, vội vã, giọng thơ sôi nổi, dồn dập, bộc
lộ niềm khao khát mãnh liệt và sựu vồ vập bồng bột không thể che giấu, kìm nén. Đoạn thơ có sự kết
hợp của nhiều biện pháp tu từ đặc sắc: Hệ thống điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp trong đoạn thơ đã
giúp Xuân Diệu thể hiện nỗi khát thèm ham hố, sự cuống quýt, hối hả muốn nhanh chóng thâu nhận
cả sự sống vô biên trong vòng tay. Phép tăng tiến trong hệ thống động từ thể hiện rõ nhất sắc thái
của từng nỗi khát khao (ôm – riết – say – thâu – cắn). Những ẩn dụ chuyển đổi cảm giác với khả
năng biến cái không thể thành có thể trong khao khát đam mê. Sự sáng tạo độc đáo trong từ ngữ (hệ
thống động từ, tính từ) hình ảnh thơ (mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu, xuân hồng…) tạo
nên những câu thơ rất mới mẻ, chứa chan cảm xúc, thể hiện rõ nét đặc sắc trong thơ Xuân Diệu –
nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu và niềm khát khao giao cảm với đời, nhà thơ “mới nhất
trong các nhà thơ mới”.
Đoạn thơ cuối trong bài thơ "Vội Vàng" đã diễn tả chân thực quan niệm nhân sinh tiến bộ và
mới mẻ của Xuân Diệu. Không chỉ bộc lộ cái tôi khát khao mãnh liệt sống, tận hưởng. Nhà thơ còn
muốn gửi gắm tới mọi người thông điệp nhân sinh ý nghĩa: Hãy sống vội vàng, sống hết mình trong
những khoảnh khắc tuyệt đẹp nhưng lại mong manh của tuổi thanh xuân bởi thời gian trôi đi sẽ kéo
theo mùa xuân và tuổi trẻ, cả những ước mơ, khát vọng.
Trong “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh từng nhận xét: “Chưa bao người ta thấy xuất hiện
cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị
như Chế Lan Viên,... và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài
Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi
đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh
liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng
tuổi trẻ. Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ
và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng
vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta
phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!

You might also like