You are on page 1of 26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN VỀ TIỀN CÔNG VÀ


LIÊN HỆ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn: ThS. Hồ Ngọc Khương

SVTH Nhóm 1: 1/ Trần Quốc Kiệt 21145187


2/ Nguyễn Trung Hiếu 21145132
3/ Lê Lâm Bảo Chấn 21145083
4/ Ngô Tấn Bảo Châu 21145081
5/ Dương Sỹ Luân 21145199
Mã lớp học: LLCT120205_21_2_07CLC

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 05 năm 2022


LỜI CẢM ƠN

Mở đầu bài tiểu luận, chúng em xin gửi lời cảm ơn đến với trường, khoa và đặc biệt
là thầy Hồ Ngọc Khương vì đã tận tình giúp đỡ cho chúng em, truyền đạt cho
chúng em những kiến thức vô cùng bổ ích, tạo điều kiện để chúng em có thể hoàn
thành được bài tiểu luận ngày hôm nay. Không có sự thành công nào mà không qua
rèn luyện, chính những bài tiểu luận như này đã tạo cơ hội cho chúng em họp tác
với nhau, tiếp cần được phương pháp học tập mới mà trước giờ mình chưa từng trải
qua và đặt biệt là có cơ hội tìm hiểu sâu về kiến thức triết học. Những bài học thầy
dạy cho chúng em hôm nay sẽ là hành trang cho chúng em vững bước trên con
đường tương lai.

“ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.”

Câu nói đã khắc sâu trong tâm trí của chúng em, luôn nhắc chúng em phải luôn
biết ơn tôn trọng người đã dẫn dắt chỉ bảo mình. Trong khoảng thời gian học chúng
em đã được giảng viên bộ môn truyền đạt cho những kiên thức bổ ích. Do còn bị
hạn chế về kiến thức và khả năng còn chưa hoàn thiện nên bài làm còn nhiều chổ
thiếu sót mong được thầy góp ý để chúng em ngày càng hoàn thiện hơn. Em xin
được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất vì thầy đã sắp xếp thời gian quý
báu để hướng dẫn, nhận xét giúp chúng em hoàn thành tốt bài tiểu luận

Chúng em kính chúc thầy thật nhiều sức khoẻ, và đạt nhiều thành công trên con
đường giảng dạy
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………

Điểm: …………………………

KÝ TÊN
MỤC LỤC

Đề mục Trang

MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 1
NỘI DUNG........................................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN VỀ TIỀN
CÔNG............................................................................................................................. 3
1. Hàng hóa sức lao động........................................................................................3
1.1. Khái niệm hàng hoá sức lao động...................................................................3
1.2. Thuộc tính của hàng hoá sức lao động............................................................3
1.3. Phân biệt hàng hoá sức lao động và hàng hoá thông thường...........................5
1.4. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt...................................................5
2. Tiền công trong chủ nghĩa tư bản..........................................................................6
3. Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản...................................8
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY11
1. Thực trạng cải cách chính sách tiền công ở nước ta hiện nay........................11
2. Những hạn chế trong cải cách chính sách tiền công ở nước ta trong những
năm gần đây và nguyên nhân..................................................................................14
3. Một số phương hướng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả cải cách chính
sách tiền công ở nước ta hiện nay...........................................................................17
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

MỞ ĐẦU
Đối với con người, đăc biệt là người lao động, khi nói đến vấn đề “tiền lương” thì
đây luôn được xem là vấn đề cấp thiết nhất, và quan trọng nhất. Một số chính sách tiền
lương được đưa ra một cách đúng đắn sẽ góp phần tạo cho người lao động có động lực
cũng như thúc đẩy lao động một cách tích cực, từ đó sản xuất được phát triển, kinh tế
ngày một tăng trưởng nhanh, và đạt được trình độ cao nhất định. Hiện nay, chính sách
tiền lương ở nước ta là một trong số vấn đề bất cập cần giải quyết, vì vậy người lao đồng
rất cần các chính sách cải cách để nâng cao được đời sống của những người lao động.
Kinh tế ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa, vì thế
song song với cải cách tiền lương thì phải đi liền với lý luận của C. Mác về tiền công, rồi
từ đó đảm bảo đầy đủ giá trị sức lao động. Hiểu rõ được các vai trò của tiền công (tiền
lương) và đặc biệt là vai trò của nó đối với người lao động ở nước ta, nhóm chúng em xin
chọn đề tài: “Lý luận tiền công của C. Mác và sự vận dụng lý luận này trong cải cách
chính sách tiền công (tiền lương) ở Việt Nam hiện nay”.

 Mục tiêu nghiên cứu:

Một là, tìm hiểu một số vấn đề chung về tiền công trong kinh tế chính trị Mác Lênin

Hai là, tìm hiểu chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tiền công của Việt Nam hiện
nay

Ba là, tìm hiểu về kết quả thành tựu trong việc cải cách tiền lương ở Việt Nam.

 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Nghiên cứu về lý luận của kinh tế chính trị Mác Lênin về tiền công và các chính
sach cải cách tiền lương ở Việt Nam

 Cơ sở lý luận:

Sở dĩ phải nghiên cứu tiền công là vì về bản chất, tiền công là giá cả hàng hóa sức lao
động, nhưng bề ngoài lại biểu hiện như là giá cả lao động. Nếu tiền công là giá cả lao
2

động, nghĩa là người công nhân hao phí bao nhiêu lao động được trả công đầy đủ bấy
nhiêu, thì sẽ không có giá trị thặng dư và lý luận về giá trị thặng dư sẽ sụp đổ. Còn nếu
giá trị thặng dư được bảo đảm, qui luật giá trị (trao đổi và lưu thông theo nguyên tắc
ngang giá) sẽ bị phá vỡ.

Bài tiểu luận được xây dựng trên cơ sở lý luận về tiền công của C. Mác dưới chủ
nghĩa tư bản. Vào thời điểm Mác nghiên cứu về vấn đề này, chủ nghĩa tư bản có thể nói
đang rơi vào thời kì khủng hoảng nhất, đen tối nhất khi làn sóng mâu thuẫn trong lòng xã
hội giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đang lên đến cao trào – các cuộc đấu tranh của
công nhân liên tiếp nổ ra. Nhưng lý luận về giá trị thặng dư nói chung và về tiền công nói
riêng, không chỉ ý nghĩa phát hiện và phê phán trong giai đoạn trên hay trong chủ nghĩa tư
bản hiện đại. Nhìn nhận thực tế rằng: giá trị thặng dư là mục tiêu của mọi ngành, mọi nhà
kinh doanh hướng đến – khi xã hội chưa bước vào thời kì xã hội chủ nghĩa – là một tiền
đề quan trọng để có cái nhìn đúng đắn và khách quan về những lý luận kinh tế của Mác
mà lý luận về tiền công là một trong những lý thuyết cơ bản và phức tạp.

 Cấu trúc tiểu luận:

- Ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính sẽ
bao gồm 2 chương:

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN VỀ TIỀN CÔNG.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN VỀ TIỀN
CÔNG.
1. Hàng hóa sức lao động
1.1. Khái niệm hàng hoá sức lao động

Nhắc đến sức lao động thì hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa là hai
diều kiến đầu tiên cần nhớ đến. Theo C.Mác, sức lao động hay năng lực lao động là toàn
bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang
sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.

Trong bất cứ xã hội nào, thì sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất.
Nhưng không phải bất kì điều kiện nào, sức lao động cũng có thể là hàng hóa. Sức lao
động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định như sau:

– Một là người lao động được tự do về thân thể.

– Hai là người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất để tự kết hợp với sức lao
động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động.

Hai điều kiện nói trên tồn tại đồng thời với nhau và đó cũng là yếu tố tất yếu để biến
sức lao động trở thành hàng hóa. Khi sức lao động biến thành hàng hóa thì đây cũng là
điều kiện quyết định để cho tiền biến thành tư bản. Mặc dù vậy, để tiền trở thành tư bản,
thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định.

1.2. Thuộc tính của hàng hoá sức lao động


 Lý luận về tiền công của C. Mác

Cũng như các loại hàng hóa khác, thì hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc
tính: giá trị và giá trị sử dụng.

Giá trị hàng hóa sức lao động, cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng dối với sức lao động chỉ tồn tại như
4

một loại năng lực sống của con người. Nếu muốn tái sản xuất ra năng lực đó, thì bản thân
người công nhân phải tiêu dùng một lượng tiêu dùng sinh hoạt nhất định nào đó cả về ăn,
mặc, ở, học nghề.... Ngoài ra, người lao động còn phải thỏa mãn được những nhu cầu mà
gia đình và con cái của người lao động mong muốn. Chỉ như vậy, thì cũng đủ thấy rằng
sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên tục không ngừng.

Là loại hàng hóa đặc biệt, giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ khác với hàng hóa
thông thường ở chỗ nó còn bao gồm các yếu tố tinh thần lẫn lịch sử. Điều đó có hiểu ngắn
gọn là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh
thần, lẫn cả văn hóa… Những nhu cầu này có thể phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của
mỗi quốc gia ở từng thời kỳ cụ thể, đồng thời nó còn phụ thuộc vào các điều kiện địa lý,
khí hậu của quốc gia đó.

Có thể nói giá trị hàng hóa sức lao động đã bao hàm yếu tố tinh thần và lịch sử,
nhưng đối với mỗi quốc gia nhất định và trong một thời kỳ nhất định nào đó, thì quy mô
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động được xem là một đại lượng nhất
định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hóa sức lao động do những bộ phận
sau đây hợp thành hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng, cụ thể như sau:

– Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do một số lượng lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Giá trị của hàng hóa sức lao động
được tạo thành bởi các yếu tố sau:

+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái sản xuất sức lao
động.

+ Phí tổn đào tạo người lao động.

+ Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết bao gồm vật chất và tinh thần của người lao
động.

– Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu cầu của người
mua.
5

Người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu có giá trị lớn hơn,
giá trị tăng thêm. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện trong quá trình
sử dụng sức lao động.

1.3. Phân biệt hàng hoá sức lao động và hàng hoá thông thường

Tiêu chí Hàng hóa sức lao động Hàng hóa thông thường
6

Phương thức tồn tại Hàng hóa sức lao động gắn Không gắn liền với con
liền với người
Giá trị Hàng hóa sức lao động Hàng hóa thông thường chỉ
mang yếu tố vật chất, tinh mang yếu tố vật chất, được
thần và lịch sử. Nó được đo đo bằng thời gian lao động
gián tiếp bằng giá trị của xã hội cần thiết một cách
những tư liệu sinh hoạt cần trực tiếp
thiết để tái sản xuất sức lao
động
Giá cả Giá cả nhỏ hơn giá trị Giá cả có thể tương đương
với giá trị
Giá trị sử dụng Đặc biệt tạo ra giá trị mới Không tạo ra giá trị mới
lớn hơn giá trị của bản thân
nó, đó chính là giá trị thặng

Quan hệ giữa người mau và Người mua có quyền sử Người mua và người bán
người bán dụng, không có quyền sở độc lập với nhau
hữu, người bán phải phục
tùng người mua
Ý nghĩa Hàng hóa sức lao động là Được biểu hiện dưới dạng
nguồn gốc của giá trị thặng của cải

1.4. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt

Căn cứ vào định nghĩa hàng hóa sức lao động là gì và các thuộc tính cơ bản của hàng
hóa sức lao động, ta thấy hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt bởi:

– Để trở thành hàng hóa, sức lao động cần đáp ứng các điều kiện như đã nêu ở trên.
7

– Hàng hóa sức lao động được hình thành bởi con người với những nhu cầu đa dạng
và phức tạp của con người. Các nhu cầu đó toàn diện bao gồm cả vật chất và tinh thần
phù hợp với quá trình phát triển của xã hội.

Nhu cầu vật chất của con người rất đa dạng để đáp ứng các nhu cầu cơ bản như ăn,
mặc, sinh sống,…. Bên cạnh đó, công nhân còn mong muốn đáp úng các nhu cầu về tinh
thần như giải trí, được khuyến khích, được tôn trọng,… Thậm chí, việc cung cấp hàng hóa
sức lao động của con người còn phụ thuộc vào các nhu cầu thực tế khác như tâm lý, nhận
thức, văn hóa, khu vực địa lý, môi trường sinh hoạt,… Trong khi đó, xã hội luôn vận động
và phát triển dẫn đến các nhu cầu của con người ngày càng nâng cao.

2. Tiền công trong chủ nghĩa tư bản


 Bản chất kinh tế của tiền công

Trong xã hội tư bản, ngưòi công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nhất
định, tạo ra số lượng sản phẩm nhất định và được nhà tư bản trả cho một số tiền nhất định
gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của
lao động. Sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động
không phải là hàng hoá.

Sở dĩ như vậy là vì:

- Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình
thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là phải có tư liệu sản xuất.
Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ tự nến hành sản xuất ra sản phẩm
và mang bán hàng hoá do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động".

- Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận
sau đây:

Thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản
không thu được lợi nhuận giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy
luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
8

Thứ hai, còn nếu "hàng hoá lao dộng" được trao đổi không ngang giá để có giá trị
thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.

- Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động là
thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, nhưng bản thân lao động thì không có giá trị.
Người ta không thể dùng lao động để đo lao động. Vì thế, lao động không phải là hàng
hoá, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó, tiền công mà nhà
tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động.

Vậy, bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằng tiền
của giá trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài
thành giá cả của lao động.

 Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do những nguyên nhân
sau đây:

+ Thứ nhất, đặc điểm của hàng hoá sức lao động là không bao giờ tách khỏi người
bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là sau
khi lao động cho nhà tư bản, do đó nhìn bề ngoài chúng ta chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị
cho lao động.

+ Thứ hai, đối với công nhân, toàn hộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có
tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưỏng rằng mình bán lao động. Còn đối với
nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao dộng, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động.

+ Thứ ba, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản
phẩm sản xuất ra, điều dó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động.

Như vậy, tiền công đã che đậy mọi đấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời
gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư thành lao động được trả công và lao
dộng không được trả công, do đó tiền công che đậy mất bản chất hóc lột của chủ nghĩa tư
bản.

3. Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản
9

Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính
theo sản phẩm.

Tiền công, tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều
tùy theo thời gian lao động của công nhản (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn.

Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng. Tiền
công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay là thấp, vì nó còn
tùy theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn đánh giá chính xác mức tiền công
không chỉ căn cứ vào tiền công ngày, mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và
cường độ lao động. Giá cả của một giờ tao động là thước đo chính xác mức tiền công tính
theo thời gian.

Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc
vào số lượng sản phẩm hay số luợng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản
xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành.

Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác
định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số
lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một ngày, do đó về thực
chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm.
Vì thế tiền công tính theo sản phẩm là hình thức biến tướng của tiền công tính theo thời
gian.

Thực hiện tiền công thính theo sản phẩm, một mặt giúp cho nhà tư bản trong việc
quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn: mặt khác kích thích công
nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công, cao
hơn.

 Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế


10

Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử đụng để tái sản xuất sức lao động, nên tiền
công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền công thực tế.

Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và
dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.

Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm xuống
tùy theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường.
Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa không thay đổi, nhưng gỉá cả tư
liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm xuống, thì tiền lương thực tể sẽ giảm xuống
hay tăng lên.

Tiền là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự biến đổi của
giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng của các nhân tố tác động
ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng giá trị sức lao động như: sự nâng cao trình
độ chuyên môn của người lao động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu
cùng với sự phát triển của xã hội. Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động đó là sự
tăng năng suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng bé đi. Sự tác động qua lại của các
nhân tố đó dẫn tới quá trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động, do đó dần tới sự
biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.

Mặc dù, C.Mác đã vạch ra xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải
là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy. Bởi lẽ trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng
mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ;
đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, khiến cho cung về lao động làm thuê
vượt quá cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của
nó. Vì vậy tiền công thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp. Nhưng sự hạ
thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng, vì có những nhân tố chống lại sự
hạ thấp tiền công. Một mặt, đó là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền
11

công. Mặt khác, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày
càng tăng đã buộc giai cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người
lao động bằng lợi ích vật chất. Đó cũng là một nhân tố cản trở xu hướng hạ thấp tiền
công.
12

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng cải cách chính sách tiền công ở nước ta hiện nay.

Quy định mức lương cơ sở nhân với hệ số đã không thể hiện rõ giá trị thực sự của tiền
lương. Có rất nhiều loại phụ cấp, nhiều khoản thu nhập ngoài lương do nhiều cơ quan,
nhiều cấp quyết định bởi các văn bản quy định khác nhau đã làm phát sinh những bất hợp
lý, không thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong hoạt động công vụ

Chính sách tiền lương là một bộ phận vô cùng quan trọng của hệ thống chính sách
kinh tế- xã hội, liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các cân đối lớn của nền kinh tế, thị
trường lao động và đời sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị
tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Trong những năm gần đây nước ta đã tiến hành cải cách chính sách tiền công và đạt
được nhiều kết quả:

Nước ta có nhiều thành tựu quan trọng nhờ vào công cuộc đổi mới kinh tế, nâng cao
chất lượng đời sống cho người dân lao động. Hiện nay mức lương tối thiểu của vùng cao
nhất đang là 2,7 triệu đồng đối với vùng l và thấp nhất chỉ là 1,9 triệu đồng đối với vùng
lV đã được quy định tại Nghị định 103/2014/NĐ-CP. Nghị quyết 99/2015/QH2013 của
Quốc Hội sẽ gia tăng mức lương cơ sở từ 1,15 triệu đồng/tháng lên 1,21 triệu đồng/tháng
đối với viên chức, cán bộ công chức, lực lượng vũ trang, bảo đảm thu nhập của những
người dân có hệ số lương dưới 2,34 triệu không bị giảm so với mức lương họ đang
hưởng. Có thể coi việc tăng mức lương là cần thiết và quan trọng vì nó góp phần cải thiện
đời sống người lao động, đảm bảo cuộc sống tối thiểu để họ yên tâm đi làm.

Ta thấy rõ việc phân tách dần tiền lương khu sự nghiệp cung cấp dịch vụ công với
khu vực hành chính nhà nước và khu vực sản xuất kinh doanh, chính sách bảo hiểm xã
hội và chính sách tiền lương và ưu đãi cho người có công, trợ giúp xã hội. Đây có thể coi
là bước ngoặc rất quan trọng trong cải cách tiền lương trong điều kiện mới góp phần định
hướng thị trường.
13

Bên cạnh những kết quả tốt đẹp đạt được, chính sách tiền lương hiện nay vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập. Chính sách tiền lương trong khu vực công còn rất phức tạp, thiết
kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí, công sức việc làm, chức danh và chức vụ
lãnh đạo; còn mang nặng tính bình quân, chưa bảo đảm được cuộc sống tối thiểu cho
người lao động khu vực công, vẫn còn chưa phát huy được nhân tài, chưa tạo được động
lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức và lực
lượng vũ trang.

Những hạn chế, bất cập vừa được nêu trên có nguyên nhân khách quan đến từ nội lực
của nền kinh tế vẫn còn yếu, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, hiệu quả và sức
cạnh tranh vẫn còn rất thấp; tích luỹ vẫn còn ít, nguồn lực nhà nước còn nhiều hạn chế...
nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng về
chính sách tiền lương vẫn còn chậm, chưa có sự nghiên cứu căn bản và toàn diện về chính
sách tiền lương trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiệm vụ, chức năng còn
chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động vẫn còn chưa cao. Số đơn vị sự nghiệp công lập
tăng nhanh, số lượng người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước còn quá lớn.

Việc xác định vị trí việc làm vẫn còn chậm, chưa thực sự là cơ sở để xác định biên
chế, tuyển dụng, sử dụng, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ của viên chức,
cán bộ, công chức và trả lương.

Những lần cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam:

- Cải cách tiền lương giai đoạn 1960-1984: Trong đợt cải cách này, mức tiền lương
cụ thể được quy định cho từng loại công việc, thời gian trả, hình thức trả lương, nâng bậc
lương và các vấn đề khác liên quan đều do Nhà nước định sẵn thông qua hệ thống các bậc
lương và phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Về vấn đề tiền lương tối thiểu được Chính
phủ giới hạn trực tiếp bằng việc quy định cụ thể các mức lương trong các ngành. Trong
mỗi ngành đều có mức lương khởi điểm được trả cho mỗi người lao động ứng với các
công việc đòi hỏi trình độ và cường độ lao động thấp nhất. Mức lương của cán bộ lãnh
14

đạo cấp cao, cán bộ, nhân viên bị lãnh đạo; những người có chức vụ yêu cầu cao về kỹ
thuật, nghiệp vụ, người lao động trong điều kiện khó khăn, hại sức khỏe đều được quy
định đều thay đổi theo từng bậc, mức lương đều khác nhau.
- Cải cách tiền lương giai đoạn 1985-1992: Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8
khóa V (tháng 6-1985) và Nghị định số 235/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng Về cải tiến
chế độ tiền lương được ban hành. Điều 2 Nghị định số 235 có quy định: mức lương tối
thiểu là 220 đồng một tháng. Mức lương này ứng với mức giá ở những vùng có giá sinh
hoạt thấp nhất hiện nay (1)
. Vào tháng 9-1985, tiền lương của người lao động tăng 64%
nhưng nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp, lạm phát
đã làm cho giá trị của đồng tiền giảm mạnh, mưc lương không phản ánh đúng giá trị thực
tế của sức lao động. Hội đồng Bộ trưởng cho ra Quyết định số 202-HĐBT, theo đó mức
lương tối thiểu được nâng lên là 22.500 đồng/tháng. Đến năm 1987, Quốc hội đã thông
qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, và kể từ đó ở Việt Nam xuất hiện thêm thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cũng vì thế mà các yêu cần về chuyên môn, trình
độ cũng được nần lên và để đánh giá đũng giá trị của sức lao động, đảm bảo sự công bằng
thì mức lương tối thiểu cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 50 USD/tháng.
- Cải cách tiền lương giai đoạn 1993-2002: Sau biến cố ở Đông Âu và Liên Xô, nền
kinh tế nước ta cũng bị ảnh hưởng hết sức khó khăn, tỷ lệ lạm phát tăng cao (năm 1990 là
70%, năm 1991 là 67,5% và năm 1992 là 16,7%). Do vậy, chính sách tiền lương ở Việt
Nam mất dần ý nghĩa trong sản xuất và đời sống xã hội. Một trong những đặc điểm của
chính sách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn này là mức lương tối thiểu thường
xuyên được điều chỉnh tăng lên. Một trong những lý do là do sự tác động của quy luật
cung - cầu, giá cả, cạnh tranh đòi hỏi tiền lương tối thiểu liên tục được nâng lên. Về việc
điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp sinh hoạt phí đối với các đối tượng
hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí từ nguồn kinh phí thuộc nguồn ngân sách
nhà nước, với mức lương tối thiểu là 180.000 đồng/tháng. (2). Đến năm 2000, Chính phủ
điều chỉnh mức lương tối thiểu, mức trợ cấp và sinh hoạt phí đối với các đối tượng hưởng

1()
Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 235/NĐ-HĐBT (18-9-1985)
2()
Nghị định số 175/1999/NĐ-CP (15/12/1999)
15

lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí, với mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/tháng
(3)
. Những thành công và hạn chế của cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 1993-2002
đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định về tiền lương dựa trên cơ sở có quan hệ
giữa chủ sử dụng lao động và người lao động.
- Cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2020: Từ năm 2013, tiền lương tối thiểu để tính
lương cho người lao động ở khu vực công được đổi thành mức lương cơ sở. Ngày
9/11/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về kế hoạch tài chính 5 năm, trong đó có nội
dung tăng mức lương cơ sở tối thiểu trung bình 7%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Tính đến
ngày 1/7/2018, mức lương cơ sở của người lao động trong khu vực công đạt 1.390.000
đồng/tháng. Đối với khu vực doanh nghiệp, mức lương tối thiểu vùng I là 3.980.000
đồng/tháng; vùng II là 3.530.000 đồng/tháng; vùng III là 3.090.000 đồng/tháng; vùng IV
là 2.760.000 đồng/tháng. Đây là một trong những nội dung nổi bật của chính sách cải
cách tiền lương giai đoạn 2003-2020.
2. Những hạn chế trong cải cách chính sách tiền công ở nước ta trong những năm
gần đây và nguyên nhân.

Tuy đã qua nhiều lần cải cách chính sách tiền lương nhưng vẫn còn sot lại nhiều hệ
quả, bất cập, hạn chế như sau:

Mức lương tối thiểu hiện nay chỉ là 37,5% nhu cầu tối thiểu gồm bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế, giao tiếp xã hội, văn hóa, học tập, đi lại, ăn, ở, mặc... . Mặc dù đã
qua nhiều lần chỉnh sửa, tăng lương tối thiểu nhưng con số này vẫn còn là quá thấp thậm
chí không đủ để tái sản xuất giản đơn sức lao động.

Mức độ điều chỉnh tiền lương danh nghĩa và thời gian: Mặc dù đã bị lên án, xử phạt,
kiềm chế nhưng lạm phát ở nước ta vẫn ở mức khá cao qua từng năm, phải tăng mức
lương danh nghĩa ngang bằng với tốc độ lạm phát để người lao động có điền kiện sống ổn
định hơn. Tuy nhiên, việc điều chỉnh lương vẫn chưa hiệu quả và không đuổi kịp được tốc
độ lạm phát hiện nay.

3()
Nghị định số 77/2000/NĐ-CP (15/12/2000)
16

Chính sách tiền lương khu vực công là rất phức tạp,lương công chức viên chức, cán
bộ chưa phản ánh đúng giá trị lao động. Điều này làm phát sinh nhiều hệ quả không
mong muốn:

"Làm khó để ló ra tiền" .

Hiện nay có đến hơn 20 loại phụ cấp lương có tính chất cơi nới bù vào lương cho cán
bộ, công chức, viên chức lương thấp, dẫn đến việc trả lương theo người và thâm niên là
chủ yếu, làm cho biên chế ngày càng tăng và rất khó kiểm soát. Vẫn còn nhiều khoản thu
nhập ngoài lương nên việc quản lý tiền lương, thu nhập chưa thực sự được công khai,
minh bạch; cơ chế kiểm soát thu nhập vẫn còn kém hiệu quả.

Tình trạng lạm dụng chi phí hoạt động hành chính để bổ sung vào khoản thu nhập của
người lao động khá phổ biến, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà
nước, phát sinh những tiêu cực, lãng phí, hao hụt trong quản lý tài chính, kinh phí ngân
sách Nhà nước.

Mức tiền lương không đủ sống hiện nay đã dẫn đến nhiều hệ luỵ không mong muốn
là nhiều cán bộ, công chức, viên chức phải tìm nguồn thu nhập khác ngoài lương để bù
đắp phần thiếu hụt

Mâu thuẫn, bất cập rất dễ nhận biết là mặc dù tiền lương chưa đủ sống, nhưng thu
nhập ngoài lương lại vô cùng cao (phụ thuộc vào vị trí, chức danh việc làm, loại hình dịch
vụ công, vùng, miền...) và áp lực tăng chi ngân sách nhà nước ngày càng lớn.

Theo chuyên gia dự án hỗ trợ cải cách hành chính Thành phố Hồ Chí Minh ông Diệp
Văn Sơn cho rằng, mức lương quá thấp như hiện nay sẽ dẫn tới tệ nạn "tước đoạt để bù
đắp tiền lương" trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức, hay nói cách khác là "làm
khó để ló ra tiền," tham nhũng,ăn hối lộ, tiêu cực.

Tiền lương dần đã không còn là động lực cho lao động nhà nước làm việc bởi vì
lương đang bị cào bằng, xé nhỏ. Người làm nhiều cũng giống như người làm ít, đều được
tính lương theo thâm niên.
17

Những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về thực trạng tiền công của nước ta là bởi
vì:

Nhận thức người lao động chưa đầy đủ về tính chất hàng hóa của sức lao động cũng
như là bản chất của tiền lương, việc cải cách hành chính còn diễn ra chậm chạp, còn thiếu
tính cương quyết, tiền lương chưa thực sự là để đầu tư cho người lao dộng mà chỉ là một
khoản chi trả cho nhân công, việc trả công bị phụ thuộc vào ngân sách nhà nước eo hẹp,
công tác quản lý tiền lương và thu nhập cũng còn nhiều bất cập.

“Rỉ máu” chất xám, “Chảy máu” nhân lực:

Đến năm 2016 theo thống kê nước ta có 54,41 triệu người lao động, trong đó có 9
triệu lao động có hợp đồng lao động và 22 triệu lao động làm công ăn lương.

Từ năm 2004 đến 2007, mức lương cơ sở đã tăng với tốc độ tới 4,5 lần, nhưng vẫn
còn là quá thấp so với thị trường lao động. Điều này là không đủ đáp ứng cho người lao
động nhà nước.

Không tính tăng ca thì thu nhập của người lao động gần 5,5 triệu đồng/tháng. Ngoài
ra người lao động còn nhận thêm các khoản phụ cấp, hỗ trợ khác với khoảng 1,3-1,5 triệu
đồng hoặc từ làm thêm ca, thêm giờ…Cuộc sống họ sẽ khó khăn và không thể tiết kiệm
được khoản dư nào nếu không có các khoản làm thêm, hổ trợ, trợ cấp từ doanh nghiệp.

Tiền lương thấp đã làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và năng suất công việc và
phát triển ở thị trường lao động còn hạn chế. Đối tượng hưởng lương và trợ cấp từ ngân
sách nhà nước là rất lớn và còn đang tăng đã tạo sức ép lớn và khó khăn cho việc cải cách
cơ cấu ngân sách nhà nước.

Theo phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là ông Trần Văn Lý đưa ra
phép so sánh việc cải cách tiền lương đã không mang lại kết quả tốt đẹp như mong muốn,
vẫn đạt ở mức quá thấp so với thị trường lao động, nhiều người tiền lương tăng thêm còn
chưa đủ để chi bù cho tốc độ trượt giá.
18

Tại Tòa án Nhân dân Tối cao, bên cạnh nguồn thu nhập thêm từ tham gia các phiên
tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự thì Thẩm phán, Thư ký Tòa án được hưởng thu nhập
do tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, nghiên cứu khoa học (con số này
chiếm rất ít, chưa cải thiện, nâng cao đời sống của người lao động, hưởng lương), thu
nhập do tiết kiệm chi do khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ
quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.

Theo Phó Chánh án Lê Hồng Quang “Một số điểm bất hợp lý của hệ thống tiền lương
hiện hành chưa tạo được sự yên tâm công tác làm việc lâu dài và thực hiện tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao đối với đội ngũ cán bộ, công chức viên chức và công chức Tòa án,".

Áp lực công việc lớn, khối lượng công việc nặng nhưng hiện nay mức thu nhập bình
quân của nhân viên rất thấp chỉ từ 6-8 triệu đồng/người/tháng. Chính vì thế, nhiều nhân
viên, người lao động đã xin nghỉ việc. Từ năm 2013 đến nay, có 192 người đã nghỉ việc.
Riêng từ đầu năm 2018 đến nay đã có đến 14 người xin nghỉ, trong đó có cả nhân sự cấp
phó, trưởng phòng. Tình trạng nhân viên nghỉ việc hàng loạt vẫn sẽ tiếp diễn, khi số
lượng thu – chi hàng năm của Bảo hiểm xã hội Thành phố tăng mạnh từ 18 đến 25%.

Nhìn chung là có cải cách, có tăng dần tiền lương lên theo thời gian, theo lộ trình...
nhưng vẫn tồn tại rất nhiều hạn chế là do: quá trình cải cách vẫn còn chậm, chưa kịp thời
với sự biến động điều chỉnh của giá cả hàng hoá tiêu dùng, vẫn chưa đồng bộ với các giải
pháp khác, việc duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp, việc thực hiện chủ trương
xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công) còn chậm chạp và đạt kết quả
thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… từ đó gây khó khăn cho cải cách tiền lương
và tạo nguồn để trả lương cao cho cán bộ công chức viên chức, các lần cải cách luôn bị
chi phối bởi khả năng của ngân sách nhà nước... khiến cho tiền công thực tế của người lao
động thấp, đời sống khó khăn làm phát sinh nhiều tệ nạn.

3. Một số phương hướng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả cải cách chính sách
tiền công ở nước ta hiện nay.
19

Thứ nhất, xác định chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ
thống chính sách kinh tế-xã hội. Tiền lương plair là một nguoonf thu nhập chính và nó
phải đảm bảo được đời sống cho những người lao động cũng như cho gia đình của họ. cần
phải trả lương đúng, không cắt giảm lương người lao động vì trả lương đúng chính là một
cách để đầu tư cho việc phát triển nguồn nhân lực, tạo ra động lực to lớn để nang cao
năng suất lao động và hiệu quả làm việc của những người lao động. ngoài ra, nó còn góp
phần quan trọng trong việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đảm bảo cho xã hội
được ổn định chính trị cũng như góp phần thúc đẩy va nâng cao chất lượng tăng trưởng và
phát triên kinh tế xã hội.

Thứ hai, khi cải cách chính sách tiền lương thì phải đảm bảo được tính tổng thể, hệ
thống, đông bộ. cần phải kế thừa và phát huy những uu điểm cũng như khắc phục những
hạn chế, bất cập của chính sách hiện hành. Tuân thủ nghiêm các nguyên tắc phân phối
theo lao đọng và các quy luật khách quan của thị trường. ngoài ra, cần phải xem tăng năng
suất lao động như một cơ sở để tăng lương. Đáp ứng được yêu cầu hội nhập vào nền kinh
tế quốc tế và phải có một lộ trinh, con đường phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã
hội và nguồn lực đất nước.

Thứ ba, trong khu vực công, Nhà Nước cần phải tra lương cho cán bộ, công chức,
viên chức và các lượng lượng vũ trang một cách minh bạch, văn minh, công bằng. Trả
lương phải dựa vào các yếu tố như vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lành đạo. Bên
cạnh đó cũng phải phải phù hợp với nguồn lực Nhà Nước, đảm bảo sự công bằng cũng
như tính tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động. Thực hiện các chính
sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng minh bạch để tạo được động lực giúp nâng
cao chất lượng, hiệu quả của công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, giúp làm
trong sạch và nâng cao hiệu lực cũng như hiệu quả hoạt đong của hệ thống chính trị.

Thư tư, đối với các khu vực doanh nghệp, tiền lương chính là giá cả của sức lao động,
được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao đọng
theo quy luật của thị trường và có sự quản lý nghiêm ngặt của Nhà Nước. Nhà Nước quy
định tiền lương tối thiểu chính là mức trả lương thấp nhất để bảo vệ những người lao đọng
20

yếu thế. Đồng thời cũng là một trong những căn cứ để thỏa thuận tiền lương và điều tiết
được thị trường lao động. Ngoài ra, việc phân phối tiền lương phải đucợ dụa trên kết quả
lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo được mối quan hệ lao động được hài
hòa, ổn định và tiến bộ.

Thứ năm, cần phải xem cải cách chính sách tiền lương là một yêu cầu khách quan
cũng như là một nhiêm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hoàn thiện được thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để làm được điều này thì đòi hỏi phải có một quyết tam chính trị cao, gắn liền thúc đầy
cải cách hành chính, liên tục đổi mới cũng như sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị đảm bảo được sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Ngoài ra cũng cần phải
đổi mới hệ thống tổ chức quản lý kết hợp với nâng cao chất lượng và hiệu quả của các
đơn vị sự nghiệp công lập.

Đây chính là những điểm cốt lõi trong việc thực hiên mục tiêu xây dựng hệ thống
chính sách tiền lương quốc gai một cách khoa học, hiện đại, minh bạch, hiệu quả cũng
như phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước ta hiện nay. Đáp ứng được yêu cầu phát
triển của nền kinh tế thị trường góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra đọng lực to
lớn để giải phóng sức sản xuất, nâng cao được năng suất lao động, chất lương nhân sự
cũng như tăng mạnh sức cạnh tranh của nền kinh tế. Góp phần xây dựng được một hệ
thống chính trị ổn định, thống nhất, liên tục, thông suốt, tinh gọn, trong sạch, và hoạt
đọng một cách hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, lãng
phí. Thực hiên tiến bộ và công bằng xã hội, thức đẩy phát triển nền kinh tế xã hội và hội
nhập vào quốc tế.
21

KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên,ta có thấy được tầm quan trọng của hàng hóa sức lao động. Sự
kết hợp hài hòa giữa lí luận về hàng hóa sức lao động ở Việt Nam vừa là nhiệm vụ hàng
đầu của kinh tế cũng như vùa là mực tiêu quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, nâng
cao dân trí, giúp phát triển dược đội ngũ tri thức đặc biệt đó chính là trí thức tinh hoa.
Ngoài ra nó còn giúp thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đây
cũng là đóng góp tích cực cho việc hình thành cũng như phát triển của "nền kinh tế tri
thức" của nước ta. Không chỉ vậy, qua các thông tin về tiền công của người dân Việt
Nam. ta có thể thấy ngay rằng tiền công của người dân nước ta vẫn còn ở mức thấp, chưa
phản ánh được giá trị lao động cũng như không phù hợp với biến đổi thị trường. Mặc dù
đã đưa ra khá nhiều chính sách nhằm thay đổi thực trạng nhưng hầu hết lại thiếu hiệu quả,
không có tác động lớn, rõ ràng với mặt bằng chung của tiền công của người lao động Việt
Nam. Điều này đã dẫn đến việc không thể nâng cao được năng suất lao động cũng như
lảm giảm mạnh khả năng cạnh tranh của thị trương Việt Nam.Nếu muốn đưa nền kinh tế
nước ta phát triển thì cần phải hết sức nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như năng suất
lao động của các doanh nghiệp. Điều này chỉ có thể thực hiện chỉ khi tiền công của người
lao động được cải thiện và đáp ứng được mức sống, cũng như chăm lo được cho gia đình.
Làm được việc này cũng chính là làm cho đát nước Việt Nam ngày càng phát triển, văn
minh giàu đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]: Giáo trình: “ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin (Giành cho sinh
viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh)”,
Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2009.

[2]: PGS.TS. Vũ Anh Tuấn, GS.TS. Phạm Quang Phan, và TS. Tô Đức Hạnh, “ tài liệu
hứng dẫn học tập kinh tế chính trị Mác-Lênin” Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí
Minh, 2009.

[3]: TS. Đỗ Văn Quân - Viện Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và
ThS Lê Trung Kiên - Trường Chính trị Kiên Giang, “Chính sách tiền lương ở Việt Nam -
những chặng đường cải cách”, Hà Nội, Ngày 27/05/2022

[4]: Vương Đình Huệ: “Cải cách chính sách tiền lương để nâng cao đời sống cho cán bộ,
công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp”, (2018).

[5]: Chính phủ: Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004, Về chế độ tiền lương
đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

Địa chỉ: https://thuvienphapluat.vn/

[6]: Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 235/NĐ-HĐBT ngày 18-9-1985 về cải tiến chế độ
tiền lương của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang,

Địa chỉ: https://thuvienphapluat.vn/

[7]: Hội đồng Chính phủ: Nghị định 25/CP ngày 5-7-1960, quy định chế độ lượng thuộc
khu vực hành chính sự nghiệp, Hội đồng Chính phủ, 1960

Địa chỉ: https://thuvienphapluat.vn/

You might also like