You are on page 1of 11

Chiều tối

Bác Hồ khi xưa đã từng nói rằng: “Làm thơ ta vốn không ham/ Nhưng mà trong ngục
biết làm chi đây/ Ngày dài ngâm ngợi cho khuây/ Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự
do”. Trong lời giãi bày bác vốn không ham làm thơ, nhưng khoảng thời gian trong
ngục làm thơ ngâm ngợi để vơi đi nỗi buồn, đồng thời làm thơ cũng là để thể hiện ý
chí sắt đá của người chiến sĩ cách mạng. Trong tập Nhật kí trong tù ta không thể
không nhớ đến bài thơ Chiều tối, tác phẩm được sáng tác khi bác chuyển từ nhà lao
Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ đã làm bật lên tinh thần kiên cường của
người tù cách mạng.

Mộ (Chiều tối) là bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo: Điều khác lạ là
bài thơ được viết trong hoàn cảnh người bị giải đi trên đường, với gông cùm xiềng
xích, nhưng không phải là một lời than vãn xót xa. Trái lại, đó là một nét hoan ca về
cuộc sống, về con người, biểu hiện tâm hồn hết sức đẹp đẽ, nhân cách lớn lao của
Hồ Chí Minh.

“Chiều tối” được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai
câu thơ đầu Bác đặc tả cảnh thiên nhiên núi rừng với hai hình ảnh tiêu biểu cánh
chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ tượng trưng mang đậm chất cổ điển của
thi pháp phương Đông Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang bay tìm
chốn ngủ. Đó là chi tiết gợi không gian mênh mông, gợi ý niệm thời gian buổi chiều
đã về. Trong thơ ca không ít lần ta có bắt gặp hình ảnh cánh chim ấy là “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi thót về rừng” hay của bà Huyện Thanh
Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” rồi trong “Tràng Giang” của Huy Cận là
hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”. Từ “quyện” trong câu thơ mang
nghĩa mỏi mệt chỉ tâm thế tồn tại của con người, lại định ngữ cho danh từ “điểu”,
được dùng để đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim ở đây không chỉ được Bác
quan sát trong sự vận động mà còn được cảm nhận từ bên trong là “Chim mỏi”. Nhà
thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn của bầu trời. Trong
khoảng trời mênh mông ấy chỉ có cánh chim nhỏ nhoi bay với đôi cánh mệt mỏi. Bác
đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận,
tâm trạng của mình. Ở đây vừa có sự đối lập vừa có nét tương đồng. Đối lập là nếu
con chim bị lạc đàn, bay mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả nhưng vẫn thoải mái tự
do vào rừng tìm chốn ngủ còn nhà thơ vẫn bị kìm kẹp, giam cầm. Tương đồng tâm
trạng giữa người tù và cánh chim chiều. Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ
đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng
cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước
“Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự
đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.

Không chỉ vậy Người còn quan sát thấy hình ảnh đám mây trôi chầm chậm trên nền
trời mênh mông, bao la gợi ý niệm lữ thứ, cô đơn. Đây cũng là một thi liệu rất quen
thuộc trong thơ xưa. Thôi Hiệu đã từng viết: “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn
năm mây trắng bây giờ còn bay) hay đó là đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn
Khuyến với câu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Tuy nhiên mây trong thơ Bác
không gợi sự vĩnh viễn mà mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người khách băn
khoăn không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu nhưng trong bản dịch chưa thực sự lột
tả được ý nghĩa của từ “cô”. Chỉ với vài nét đặc tả, chấm phá lấy linh hồn của thiên
nhiên mà vẽ nên một bức tranh buổi chiều tối ảm đạm, yên ả. Cánh chim và đám
mây đã từng xuất hiện trong thơ Lý Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ
nhàn”. Đó là nét cổ điển mà Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại thể
hiện ước muốn được tự do, được nghỉ ngơi như cánh chim, như đám mây trên trời
cao.

Trong hai câu thơ đầu chỉ đặc tả cảnh thiên nhiên nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ
đó là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Ta không thấy có chân dung của người tù khổ
ải mà chỉ thấy phong thái ung dung, tao nhã của thi nhân mặc khách dù chân vướng
xiềng lê từng bước trên đường đi, cảnh chiều mênh mông rợn ngợp nhưng tâm hồn
Bác vẫn hướng về thiên nhiên, quát sát từng chi tiết vận động của cảnh vật. Nếu
không phải là một người yêu thiên nhiên tha thiết, một con người có nghị lực phi
thường, bản lĩnh kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh làm sao có được sự tự do về
tinh thần. Nhà lao, xiềng xích có thể giam cầm thân thể Bác chứ không thể trói buộc
được tâm hồn thi nhân.

Trên nền cảnh của thiên nhiên hình ảnh con người bỗng hiện lên trong thơ Bác. Con
người ở đây là thiếu nữ đang lao động giữa chốn núi rừng mênh mông như một
điểm sáng làm cho bức tranh đời sống trở nên có hồn có thần sắc vui tươi hơn:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)

Hình ảnh con người và cuộc sống được nối tiếp hiện lên qua hai câu thơ. Thiếu nữ
ở đây là người con gái (bé gái) trong lứa tuổi dưới thanh nữ chứ không phải như
bao bài phân tích khác là cô gái. Hình ảnh bé gái đang xay ngô trong đêm tối là để
hô ứng với cánh chim cô đơn, lẻ loi bên trên cô độc đối diện với cối xay. Ngòi bút
của Bác hướng đến sự vận động của con người. Đây là một nét hiện đại, mới mẻ
trong thơ Hồ Chí Minh. Thiếu nữ miền sơn cước toát giữa núi rừng mênh mông
không những không bị hòa tan với thiên nhiên mà nổi bật chói lòa trong không gian
ấy. Không giống như những bài phân tích khác tôi nhận thấy qua cấu trúc liên miên
đối ở các từ “ma bao túc” câu trên và “bao túc ma hoàn” câu dưới cho thấy con
người ở đây đang phải lao động vất vả, nặng nề, triền miên, kéo dài trong đêm.
Trong mạch vận động của của thời gian ở nguyên tác không hề nhắc đến chữ “tối”
nhưng với bản dịch thơ người dịch cho thêm vào làm mất đi sự thú vị của ý thơ,
khiến cho câu thơ mất đi nét đẹp của ý tại ngôn ngoại không cần nhắc đến nhưng
vẫn hiện ra là một đêm tối bao phủ. Trong câu thơ “Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” theo
tôi đó là sự nối tiếp công việc, kết thúc một công việc lại mở ra một công việc mới,
nhà thơ đã dùng hình ảnh bếp lửa được đốt lên để nói sự vận động của thời gian.
Từ xưa nay đa số mọi người đều hiểu theo nghĩa là hồng tính từ, làm sáng rực lên
hình ảnh con người trong đêm nhưng theo nguyên tác chữ Hán đó hồng của động
từ mang ý nghĩa hành động là đốt để đối với từ “ma” (xay). Đây là hiện tượng đồng
âm trong tiếng Hán, nếu không cẩn thận tìm hiểu sẽ khiến cho mọi người nhầm lẫn
với ý nghĩa khác. Qua hình ảnh con người trong đêm cho thấy cuộc sống nơi đây cơ
cực, khó khăn khiến cho tác giả đồng cảm, đồng điệu. Bác đã dùng vòng xoay của
cối xay để nói lên tâm trạng nặng nề của mình, dùng hình ảnh bé gái để nói lên cảm
nhận cuộc sống. Nam Cao đã từng viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn
tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” nhưng đối với Hồ Chí Minh thì đi ngược lại với
điều đó. Bác là một con người có tấm lòng thương yêu đồng loại đến vô cùng không
chỉ là đối với nhân dân Việt Nam mà còn là biết bao những con người cơ cực trên
hành tinh này. Đúng như Tố Hữu đã từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm
cả non sông mọi kiếp người”.

Bài thơ là thành công của nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và sự
cách tân hiện đại trong ý thơ. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được coi là nhãn
tự, là con mắt thần của tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc được Hoàng Trung Thông
nhận xét rằng: “Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã
làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu
đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối”. Đồng thời
chữ “hồng” ấy cũng thể hiện cho niềm tin, hy vọng của Bác vào một tương lai tươi
sáng ở ngày mai, đó là điều đáng quý, đáng trân trọng. Dù ở trong hoàn cảnh ngục
từ nhưng con người ấy không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, số phận.
Trong thơ Hồ Chí Minh luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ hồng được
xuất hiện rất nhiều lần như trong bài “Tảo giải” hiện lên: “Phương Đông màu trắng
chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn sớm sạch không” hay có câu Bác viết: “Trong
ngục giờ đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” đó là sự lạc quan, niềm
tin của Bác vào con đường cách mạng nước nhà, vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở
tương lai.

Bút pháp vừa đậm màu sắc cổ điển vừa thể hiện tinh thần cách mạng thời đại:
Cổ điển: Thể thơ tứ tuyệt hàm súc; bút pháp chấm phá, gợi hơn là tả; thi đề, hình ảnh
quen thuộc; nhân vật trữ tình hòa hợp với thiên nhiên, ung dung tự tại.
Hiện đại : Nhân vật trữ tình chiếm vị trí chủ thể trong bức tranh phong cảnh. Tư tưởng và
hình tượng thơ vận động từ bóng tối , lạnh lẽo ra ánh sáng, ấm áp, luôn hướng đến sự
sống, lạc quan. Ngôn ngữ trong bài thơ hàm súc, chân thực nhưng giàu sức gợi, giàu
cảm xúc khiến bài thơ không chỉ chân thực mà còn mang cả tâm hồn của con người ấy.
Bác cũng sử dụng các biện pháp tu từ trong bài Chiều tối như: điệp ngữ vòng, ẩn dụ, bút
pháp miêu tả thời gian để vừa tả cảnh vừa tả tâm tư của chính mình, gửi gắm nỗi lòng
qua từng câu từng chữ.

Như vậy chỉ với 28 câu thơ thất ngôn tứ tuyệt được kết hợp hài hòa giữa chất cổ
điển và hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ với trái tim thép người chiến sĩ, bài thơ đã làm
xúc động người đọc trước tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống và sự
cảm thông, thương yêu con người của vị cha già dân tộc. Con người Bác là tấm
gương sáng để cho biết bao thế hệ đồng bào Việt Nam học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Từ ấy
Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một
tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với
Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng
bào, đồng chí.

“Dù ai thay ngựa giữa dòng

Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi

Vẫn là ta đó những khi

Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm,
chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ
Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà
qua các tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…. Bài thơ Từ ấy chính
là một bài thơ xuất sắc nhất trong tập thơ Máu lửa. Bài thơ “Từ ấy” đã tỏ rõ lí tưởng
Đảng cao đẹp của người thanh niên trẻ tuổi trẻ lòng ấy.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và mang tên
tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ. Được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938;
nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát
của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lênin trong ngày
hội lớn của cách mạng.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc
mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh
mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ
sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy
hoàng của chân lí.

“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng

Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say
mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách
mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã
tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mạng
cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết
hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng
cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hồn “ đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn
xuân rực rỡ trong muôn sắc màu "hoa lá", ngào ngạt "đậm hương” và "rộn tiếng
chim" hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn
lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi
lí tưởng và tình yêu lí tưởng.

Niềm vui như hòa vào tiếng chim để rồi nhà thơ thấy “Nhẹ nhàng như con chim cà
lơi/ Say đồng hương nắng vui ca hát”. Tố Hữu đã từng viết: “Lòng tôi vui sướng vô
cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi vào tâm hồn tuổi trẻ
của mình”. Tố Hữu đã cất lên tiếng nói, tiếng hát, sự cảm nhận chung cho các thanh
niên trí thức bấy giờ. Đó là âm điệu ca hát cho lí tưởng cách mạng. Như vậy khổ thơ
đầu chính là niềm vui, hạnh phúc và lòng biết ơn Đảng đã khai sáng cho tâm hồn
mở ra cho ông và biết bao người thanh niên khác những nhận thức mới mẻ.

Sau những phút giây được chắp cánh bởi lí tưởng cộng sản nhà thơ chân thành bộc
bạch suy nghĩ, nhận thức mới mẻ của bản thân về sự nghiệp cách mạng:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Khác với nhận thức của nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn. Người
chiến sĩ cách mạng xa rời quần chúng nhân dân để rồi nhận lại bi kịch cho cái chết.
Còn Tố Hữu cũng như Đảng cộng sản ta luôn hướng về nhân dân, gắn bó với quần
chúng. Bác Hồ từng khuyên cán bộ đảng viên “Phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng” chính vì vậy Tố Hữu “buộc lòng tôi với mọi người” từ “buộc” cho thấy ý
thức tự nguyện, tinh thần gắn bó “cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung cộng đồng, để
cho tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ
quốc cũng là ý thức trách nhiệm gánh vác việc đời. Tố Hữu luôn luôn gần gũi, đồng
cảm và sẻ chia khổ đau, bất hạnh với những “hồn khổ” của dân tộc. Hồn khổ ấy là
“Em bé mồ côi”, là “Lão đầy tớ”, là “Chị vú em”… và biết bao nhiêu hoàn cảnh cơ
cực trên đất Việt. Càng đồng cảm bao nhiêu thì nhà thơ càng căm hờn kẻ đã gây ra
tội ác, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, cơ cực bấy nhiêu, càng thôi thúc nhà thơ
gắn bó và chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Tố Hữu đã từng
nói: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số” để “Gần gũi
nhau thêm mạnh khối đời”. Khối đời là hình ảnh ẩn dụ chỉ những người có chung
hoàn cảnh, chung lí tưởng cách mạng cũng là để chỉ tinh thần đoàn kết của đồng
bào Việt Nam, mỗi người cán bộ, chiến sĩ, mỗi người dân cùng chung tay làm nên
sức mạnh của toàn dân tộc, là tinh thần yêu nước của nhân dân ta đã nhấn chìm lũ
bán nước và cướp nước. Khổ thơ đã cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của tác
giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường, cũng thể hiện niềm tin, niềm hạnh phúc
vào khối đời dân tộc, vào con đường cách mạng nước nhà. Tố Hữu đã từng cất lên
tiếng hát ngợi ca Bác và lí tưởng của Đảng:

“Từ vô vọng mênh mông đêm tối

Người đã đến chói chang nắng dọi

Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu

Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu”

Từ những nhận thức mới mẻ sâu sắc ấy trong tư tưởng người thanh niên trẻ tuổi đã
có sự chuyển biến về tình cảm, từ số phận của trí thức tiểu tư sản chuyển sang
người trí thức cộng sản. Giờ đây tác giả tự đặt mình vào trong gia đình dân tộc Việt
Nam bằng tình cảm ruột thịt chân thành:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”


Nhà thơ đã xác định mình là thành viên của “vạn nhà”. Cách sử dụng điệp từ “là”,
“của” kết hợp với các danh xưng “con”, “em”, “anh” và hàng loạt các từ chỉ số lượng
nhiều: “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” nhà thơ bộc lộ tình cảm của mình gắn bó với
nhân dân như anh chị em ruột thịt trong gia đình, đó là tình hữu ái giai cấp, yêu
thương dành cho những con người đồng khổ. Ông đã từng viết:

“Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau”

Hay nhà thơ đã từng lột tả niềm vui sướng chân thành của mình khi được trở về với
nhân dân trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

Như vậy ta có thể thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của nhà thơ cách mạng với
quần chúng nhân dân Việt Nam. Chính điều đó làm cho thơ ông thật gần gũi, thân
thương.

Bài thơ "Từ ấy" giàu nhạc điệu. Thơ Tố Hữu r là thơ trữ tình - chính luận, hướng
người đọc đến chân trời tươi sáng. Sử dụng các biện pháp tu từ gợi cảm: ẩn dụ, so
sánh, điệp ngữ. Hình ảnh thơ tươi sáng, rực rỡ và giọng thơ tâm tình mà đậm chất
trữ tình chính trị.

*lý tưởng sống

Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết
nhưng vẫn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách
thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn
cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn
đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì
một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Cả cuộc đời “Tố Hữu vừa làm cách mạng vừa làm thơ, làm thơ để làm cách mạng,
và làm cách mạng để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ”. Lí tưởng cách mạng có
sức ảnh hưởng, có sự cảm hóa mãnh liệt đối với Tố Hữu cũng như bao nhà thơ
lãng mạn khác. Như ta từng biết Tố Hữu xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản
nên cái tôi cá nhân rất cao với lối sống ích kỉ nhưng ông đã vượt qua được rào cản
giai cấp để hòa mình vào cái ta chung của cộng đồng. Mỗi một tác phẩm của ông là
một sự kiện cách mạng được ghi dấu đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:

“Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

Mỗi một nhà thơ cách mạng cũng phải là một người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa
tư tưởng và Tố Hữu ngay từ khi mới vào mặt trận ấy đã dành được vị trí vững chắc
xứng đáng là “Một viên ngọc trong nền văn học Việt Nam”.

Những điểm cần phân tích ở bài thơ Chiều tối


Dù lâm vào cảnh bị đày đoạ, Bác vẫn thể hiện tình cảm yêu mến thiết tha và thái độ đồng
cảm, chia sẻ với tạo vật, thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Cánh chim mỏi mệt
( quyện điểu ) và chòm mây lẻ loi ( cô vân ) vừa là đối tượng của niềm thương cảm vừa là
biểu hiện bên ngoài của nỗi buồn trong lòng người tù trên con đường đày ải, xa đất nước
quê hương. Sự chuyển cảnh ở nửa sau bài thơ cho thấy lòng yêu con người , yêu cuộc
sống đặc biệt sâu sắc của Bác . Bác đã nói về hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô với biết
bao cảm xúc trìu mến. Bác hiểu nổi nhọc nhằn vất vả của người lao động ( cụm tù ma bao
túc được lặp lại theo trật tự đảo ngược ở câu 3 và 4 góp phần biểu đạt ý này) nhưng đồng
thời cũng nhìn thấy nét đẹp riêng, chất thơ riêng ở những cảnh đời bình dị (ít gặp trong
thơ cổ điển ).Ánh hồng của lò than được nhắc tới ở cuối bài ( qua chữ hồng– nhãn tự
trong tác phẩm) cho thấy tâm trạng của Bác đang chuyển biến từ buồn sang vui. Quan
trọng hơn, nó giúp ta hiểu được niềm lạc quan đáng quý ở nhà cách mạng. Rõ ràng trong
hoàn cảnh nào Bác cũng hướng tới phần tươi sáng của cuộc đời.
Nét đẹp tâm hồn tác gia Hồ Chí Minh trong Nhật ký trong tù
1. Bác yêu con người , gắn bó trước hết với cuộc sống con người ( nhất là cuộc
sống người lao động); thường biểu lộ tình cảm một cách tự nhiên, bình dị, dễ
hoà đồng với chung quanh.
2. Bác có tinh thần thép, ý thức rõ về đường đi của mình, kiên nghị trước thử
thách, tự chủ trong mọi hoàn cảnh. Bác luôn lạc quann, tràn đầy lòng tin vào
cuộc sống, tương lai, vào xu thế vận động tích cực của sự vật.
3. Bác rất yêu thiên nhiên , luôn dạt dào cảm xúc thi ca trước mọi sắc thái đa dạng
của nó ( từ cảnh hiu hắt, tiêu sơ đến cảnh hoành tráng, lộng lẫy).

You might also like