You are on page 1of 43

KHOA LỊCH SỬ

ĐỀ TÀI

NHẤT THỂ HÓA CHÂU ÂU

Học phần: Quan hệ quốc tế ở châu Âu từ sau Chiến tranh Thế


giới thứ 2 đến nay
Mã lớp học phần: HIST107402
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Chung Thủy

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 5 năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ

ĐỀ TÀI
NHẤT THỂ HÓA CHÂU ÂU
Học phần: Quan hệ quốc tế ở châu Âu từ sau Chiến tranh Thế
giới thứ 2 đến nay
Mã lớp học phần: HIST107402
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Chung Thủy
Nhóm sinh viên thực hiện:
Nguyễn Kim Ngọc – 47.01.608.092
Đinh Thị Quỳnh Hương – 47.01.608.059
Trần Thị Ngọc Ánh – 47.01.608.037
Võ Huỳnh Phương Anh – 47.01.608.035
Nguyễn Phạm Nhã Linh – 47.01.608.070

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 5 năm 2023


MỤC LỤC
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhất thể hóa châu Âu là quá trình hình thành và phát triển của Liên
minh châu Âu (EU) từ khi thành lập đến nay. EU được coi là một tổ
chức liên chính phủ của các nước châu Âu có mục đích thúc đẩy hợp tác
và phát triển kinh tế, xã hội và chính trị của các thành viên. Quá trình
thống nhất này có những dấu mốc quan trọng như việc các quốc gia
thành viên mới gia nhập, hợp nhất đồng tiền euro và quản lý chính sách
đối ngoại. EU không chỉ là một cộng đồng kinh tế, mà còn là tầm nhìn
về một châu Âu thống nhất và hòa bình. Nhất thể hóa châu Âu có nhiều
lợi ích quan trọng đối với các nước thành viên, giúp tăng cường sức
mạnh kinh tế và chính trị, đảm bảo an ninh và ổn định khu vực, hỗ trợ
phát triển các nước thành viên và tăng cường quyền lợi của công dân.
Bên cạnh lợi ích, quá trình nhất thể hóa châu Âu cũng đang gặp phải
nhiều thách thức vì các lãnh đạo EU phải đối mặt với sức ép từ phía một
số quốc gia thành viên và cả những nước bên ngoài. Đồng thời, quá trình
này cũng phải đối mặt với những khó khăn trong việc đồng bộ các chính
sách kinh tế, xã hội, an ninh, và chính trị của các quốc gia thành viên.
Ngoài ra, châu Âu cũng phải đối mặt với các thách thức an ninh truyền
thống và phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt trong bối
cảnh tình hình kinh tế và chính trị thế giới đang thay đổi liên tục. Điều
này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ và đồng thuận giữa các quốc gia thành
viên, để tạo ra một châu Âu vững mạnh và thịnh vượng.
Với đề tài “Nhất thể hóa châu Âu”, nhóm chúng em mong muốn
đóng góp một phần kiến thức mà chúng em tìm tòi được vào quá trình
nghiên cứu, học tập. Nhóm chúng em sẽ tập trung tìm hiểu và làm rõ
những vấn đề xoay quanh bối cảnh, quá trình nhất thể hóa châu Âu, các
2

tác động của quá trình này, các thách thức, khó khăn hiện nay của châu
Âu đang phải đối mặt.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nhất thể hóa ở châu Âu, các quốc gia thành
viên thuộc Liên minh châu Âu.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: khu vực châu Âu.
Phạm vi về thời gian: từ sau cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai
cho đến nay
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp liên và chuyên ngành,
phương pháp tiếp cận tài liệu lịch sử, tài liệu liên quan đến đề tài.
4. Kết cấu của bài
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung đề tài
được chia thành 4 chương như sau:
Chương I: Bối cảnh diễn ra nhất thể hóa châu Âu
Chương II: Quá trình nhất thể hóa châu Âu
Chương III: Tác động của nhất thể hóa châu Âu
Chương IIII: Thách thức mà Liên minh châu Âu phải đối mặt
3

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: BỐI CẢNH DIỄN RA NHẤT THỂ HÓA CHÂU ÂU


Giai đoạn 1950 – 1954: Sự hình thành cộng đồng Châu Âu:
Thời kì tiên phong, khi mọi thứ dường như vẫn có thể xảy ra, cũng
là thời kì mà một số ý tưởng bốc đồng mang dấu ấn của sự vội vàng
hoặc chủ nghĩa không tưởng, trở thành nạn nhân của các sự kiện hoặc sự
trì trệ của các chính phủ. Tiếp theo đó là một thời kì mà nhiều thành tựu
được hình thành. Việc sử dụng các phương pháp đồng thuận và liên
chính phủ đã nhường chỗ cho các sáng kiến thuộc loại mang lại hy vọng
cho một cách tiếp cận siêu quốc gia. Cộng đồng châu Âu non trẻ, ra đời
từ Kế hoạch Schuman (kế hoạch này bắt nguồn từ việc vào ngày
09/05/1950, Bộ Ngoại giao Pháp Robert Schuman đã đề xuất ý tưởng)
đã thực hiện những bước đầu tiên và bắt đầu hình thành tổ chức. Tiền
thân của EU là Cộng đồng Than thép châu Âu (ECSC), một tổ chức hợp
tác kinh tế giữa Pháp, Tây Đức, Bỉ, Ý và Luxembourg, Hà Lan được
thành lập vào năm 1952 theo Hiệp ước Paris 1951.
Giai đoạn 1955 - 1957: Sự hồi sinh của Châu Âu và các Hiệp ước
Rome
Ấn phẩm điện tử về 'Sự hồi sinh của Châu Âu và các Hiệp ước
Rome (1955–1957)' cung cấp một loạt tài nguyên liên quan đến bối cảnh
và ý nghĩa của các cuộc đàm phán dẫn đến việc ký kết các Hiệp ước
Rome thành lập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) và Cộng đồng Châu
Âu. Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử (EAEC hoặc Euratom) vào ngày
25 tháng 3 năm 1957.
Giai đoạn 1958–1968 Thành công và khủng hoảng
4

Để đối phó với cuộc khủng hoảng năng lượng do Khủng hoảng
Suez năm 1956 gây ra, Đại hội đồng đã đề xuất mở rộng quyền hạn của
Cộng đồng Than và Thép Châu Âu (ECSC) sang các nguồn năng lượng
khác như khí đốt, điện và năng lượng nguyên tử. Hiệp ước Bruxelles ra
đời vào năm 1965 với mục đích nhằm hợp nhất Cộng đồng Than – Thép,
Cộng đồng Nguyên tử và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu.
Giai đoạn 1969–1979: Hoàn thiện, đào sâu và mở rộng
Vào cuối những năm 1960, Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC)
gồm 6 nước đã trải qua một thời kỳ khó khăn. Cần phải chấm dứt tình
trạng bế tắc về chính trị và thể chế tồn tại từ năm 1967 khi Tướng de
Gaulle phủ quyết việc Vương quốc Anh gia nhập Thị trường chung lần
thứ hai. Thống nhất phải được tạo động lực mới. Tại một cuộc họp báo
được tổ chức vào ngày 10 tháng 7 năm 1969, Tổng thống mới của Cộng
hòa Pháp, Georges Pompidou, đã đề nghị một cuộc họp của các Nguyên
thủ Quốc gia hoặc Chính phủ của Sáu người để thảo luận về các vấn đề
cấp bách mà Cộng đồng phải đối mặt. Pompidou đã tóm tắt các ưu tiên
mới của EEC trong một cụm từ ngắn gọn: 'Hoàn thành, đào sâu, mở
rộng.'
Giai đoạn 1980–1986 Mở rộng về phía nam và Đạo luật châu Âu duy
nhất
Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) đã trải qua một số thay đổi lớn
trong những năm 1980. Chỉ bao gồm các nước công nghiệp hóa ở Bắc
Âu trong nhiều năm, nó đã mở cửa cho các nền dân chủ mới nổi ở Nam
Âu, với sự gia nhập của Hy Lạp vào năm 1981 và Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha vào năm 1986
Vào ngày 17 và 28 tháng 2 năm 1986, Nhóm mười hai người châu
Âu đã thông qua Đạo luật chung châu Âu (SEA). Khi làm như vậy, Cộng
đồng - tiếp tục hướng tới tăng cường hội nhập kinh tế với việc tạo ra một
thị trường duy nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 1993 và thành lập một khu
5

vực châu Âu không có biên giới nội bộ - dần dần loại bỏ đặc tính kinh tế
thuần túy của mình và hướng tới một cộng đồng gắn bó chặt chẽ hơn.
Cộng đồng được trang bị quyền lực lớn hơn trong các lĩnh vực chính trị
và xã hội. Do đó, mục tiêu mà Cộng đồng đang hướng tới là trở thành
một Liên minh châu Âu (EU), như được quy định trong hiệp ước được
ký kết tại Maastricht vào ngày 7 tháng 2 năm 1992.
Giai đoạn 1987-1997: Liên minh Châu Âu trong một Châu Âu đang
trên đà thay đổi:
Hiệp ước Amsterdam, ký kết vào 1997 và đi vào hiệu lực năm
1999 dựa trên các Hiệp ước hiện có, đã sửa đổi một số điều khoản của
Hiệp ước Maastricht và các Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu và
các Đạo luật liên quan khác. Đáng chú ý nhất, nó cho phép tăng cường
vị thế của nhân quyền trong Liên minh, sự kết hợp của các thỏa thuận
Schengengia nhập Liên minh châu Âu, bãi bỏ sự vi phạm chính sách xã
hội của Vương quốc Anh và thiết lập một khu vực tự do, an ninh và công
lý, giúp củng cố các phương tiện để hành động trong các vấn đề về chính
sách đối ngoại.
Cuối thế kỷ 20 là thời điểm xảy ra những biến động địa chính trị
lớn ở Đông Âu. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào tháng 11 năm 1989
đã đặt dấu chấm hết cho Chiến tranh Lạnh và sự chia rẽ bắt nguồn từ
Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự sụp đổ của khối Cộng sản đã dẫn đến sự
kết thúc của một thế giới lưỡng cực được xây dựng xung quanh sự cạnh
tranh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.
Giai đoạn 1998 – 2009: Thống nhất Châu Âu:
Quá trình mở rộng Liên minh Châu Âu (EU) để bao gồm các quốc
gia Trung và Đông Âu (CEEC). Đây là kế quả của những cải cách quan
trọng trong hệ thống kinh tế, chính trị và xã hội của các nước “phương
Đông” sau khi họ được giải phóng khỏi ách cộng sản. Ngày 1 tháng 5
năm 2004, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Ba Lan,
Slovakia
6

và Slovenia, cùng với Malta và Síp, đã trở thành các Quốc gia Thành
viên EU.
Hiệp ước Nice được hoàn thiện vào tháng 2 năm 2001 đã nổ lực
mang lại những cải cách thể chế cần thiết cho việc gia nhập của các quốc
gia ứng cử viên đã được các quốc gia khác theo đuổi nhiệt tình. Nhựng
các quốc gia thành viên EU lo ngại về sự yếu kém và tốc độ chậm chạp
của quá trình tái cấu trúc thể chế này.
Hiệp ước thiết lập Hiến pháp cho Châu Âu của Chủ tịhc Valery
Giscard (18/07/2003)được đệ trình lên Chủ tịch Hội đồng Liên minh
Châu Âu của Ý sau đó được sửa đổi bởi Hội nghị liên chính phủ (IGC)
và ký kết tại Rome. Tuy nhiên Hiệp ước thiết lập Hiến pháp cho Châu
Âu sẽ không bao giờ có hiệu lực. Vào mùa xuân năm 2005, mặc dù nó
đã được mười một quốc gia thành viên phê chuẩn, nhưng thất bại trong
các cuộc trưng cầu dân ý ở Pháp và Hà Lan đã dẫn đến việc đình chỉ quá
trình phê chuẩn. Trong khi bảy quốc gia thành viên sau đó tiếp tục với
thủ tục phê chuẩn của họ, bảy quốc gia khác đã hoãn nó vô thời hạn.
Liên minh châu Âu (EU) đã rơi vào một cuộc khủng hoảng chưa từng có
sẽ kéo dài trong hai năm.
Để thay thế cho Hiệp ước về thành lập một hiến pháp cho châu Âu
bị thất bại, các lãnh đạo EU đã rất cố gắng để đạt được một văn bản
pháp lý cho toàn EU. Hiệp ước Lisbon được ký vào tháng 12 năm 2007
có hiệu lực vào ngày 1/12/2009. Hiệp ước đã hủy bỏ ba trụ cột cơ bản
của Hiệp ước Maastricht để tạo ra một khuôn khổ pháp lý chung cho
Liên minh Châu Âu. Hiệp ước Lisbon đã tạo ra một EU dân chủ và minh
bạch hơn với bộ máy hoạt động được đơn giản hóa và hiệu quả hơn.
Không những thể còn tạo ra cho Châu Âu những quyền lợi và giá trị
riêng: tự do, đoàn kết và an ninh.
7
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH NHẤT THỂ HÓA CHÂU ÂU
2.1. Sự thành lập tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (WWII), năm 1945, Châu Âu bị tàn
phá. Hiến chương thành lập Liên hợp quốc đã được ký kết tại San
Francisco vào năm đó. Nhiều người tin rằng có thể hình dung ra một
châu Âu thống nhất hơn và bắt đầu thực hiện phong trào ủng hộ châu Âu
đầu tiên như một mô hình mới cho hòa bình trong khu vực. Khái niệm
thống nhất châu Âu là một chướng ngại vật chống lại sự trở lại của chủ
nghĩa dân tộc trong Thế chiến thứ hai. Kế hoạch phục hồi châu Âu hay
kế hoạch Marshall năm 1948 (European Recovery Program) là kế hoạch
trong đó Mỹ giúp đỡ các nước châu Âu phục hồi nền kinh tế của họ do
ảnh hưởng của Thế chiến 2. Mỹ đã cung cấp cho châu Âu khoảng 12 tỷ
USD, tương ứng với khoảng 4% thu nhập quốc dân của các nước này.
Năm 1948, “kế hoạch Marshall” đã khởi động một trong những tiến
trình quan trọng nhất cho việc thống nhất châu Âu. Tổ chức Hợp tác
Kinh tế châu Âu (OEEC) được thành lập vào tháng 04 năm 1948, đây là
sáng kiến quan trọng trong quá trình thống nhất châu Âu. Bao gồm 17
nước châu Âu, tổ chức đề ra những mục tiêu rất đơn giản: quản lý viện
trợ của Hoa Kỳ, phối hợp, thông qua các khuyến cáo, đường lối kinh tế
của các nước, thu hẹp khoảng cách giữa đồng dollar và các đồng tiền
châu Âu, tự do hóa mậu dịch châu Âu.
Ý tưởng cuối cùng đã đạt được và vào năm 1949, Hội đồng Châu Âu
được thành lập tại London bởi 10 quốc gia tại hội nghị toàn châu Âu đầu
tiên thúc đẩy dân chủ và nhân quyền. Vào thời điểm đó, Châu Âu đang
chịu ảnh hưởng nặng nề của Chiến tranh Lạnh, một giai đoạn quốc tế
căng thẳng kéo dài (1945-1991) giữa “Khối phương Tây” (do Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ đứng đầu) và “Khối phương Đông” (do Hoa Kỳ
đứng đầu). Liên Xô). Hai siêu cường có cách tiếp cận chính trị và kinh tế
hoàn toàn
8

khác nhau (dân chủ tư bản so với chủ nghĩa cộng sản) chia châu Âu
thành hai khu vực ảnh hưởng. Các liên minh quân sự được thành lập:
NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương) cho phương Tây và
Hiệp ước Warsaw (Tổ chức Hiệp ước Warsaw) cho phương Đông1.
2.2. Sự thành lập cộng đồng than và thép Châu Âu (ECSC) và
Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC)
Pháp và Đức thúc đẩy thành lập một liên minh kinh tế và vào năm
1951, Cộng đồng Than và Thép Châu Âu được thành lập tại Paris bởi
Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Bỉ và Luxemburg. Cộng đồng Than - Thép châu
Âu (ECSC) là một tổ chức hợp tác kinh tế giữa giữa một số quốc gia Tây
Âu, được thành lập năm 1952 theo Hiệp ước Paris 1951, nhằm mục đích
phối hợp quản lý giá cả, sản xuất và điều kiện lao động liên quan đến
các tài nguyên than và thép là những đầu vào thiết yếu cho sản xuất quân
nhu - hai trong những yếu tố góp phần gây ra hai cuộc chiến tranh thế
giới. Về bản chất, kế hoạch này không đơn thuần chỉ là một hiệp định
kinh tế mà nó xuất phát từ mục đích chính trị của nước Pháp khi muốn
kiểm soát sức mạnh của Đức, để quốc gia này không bao giờ có thể uy
hiếp Pháp như trong quá khứ. Và Pháp đã dùng “sợi dây kinh tế” để
buộc chặt lợi ích của Đức và các quốc gia khác (Ý và ba quốc gia
Benelux) với nhau để giảm thiểu nguy cơ xung đột chính trị.
Được thúc đẩy bởi thành tựu này, 6 quốc gia đã quyết định mở rộng
thỏa thuận kinh tế sang các lĩnh vực kinh tế khác và vào năm 1957, Hiệp
ước Rome đã được ký kết, tạo ra Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC).
Cũng vào năm 1957, Hiệp ước Euratom được thành lập bởi Cộng đồng
Năng lượng Nguyên tử Châu Âu. Mục đích ban đầu của Hiệp ước là tạo

1
Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân
9

ra một thị trường chuyên biệt cho năng lượng hạt nhân ở châu Âu. Nền
tảng của châu Âu đã được thiết lập2.

Hình 1. Hội nghị thành lập EEC - nền móng đầu tiên cho Liên minh châu Âu (EU)
hiện đại. Nguồn:https://cand.com.vn/Chuyen-de/eec--su-phac-thao-dien-mao-
chau-au-hien-dai-i683655/
2.3. EEC và Đạo luật Châu Âu duy nhất
2.3.1.Sự mở rộng của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu
Dự án chung châu Âu cũng được mở ra cho các quốc gia khác
nhằm xây dựng hòa bình và thịnh vượng ở châu Âu. Vào những năm
1970, Đan Mạch, Ireland và Vương quốc Anh đã tham gia dự án chung.
Vào những năm 1980, Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) đã mở cửa
cho các nền dân chủ mới nổi ở Nam Âu (Hy Lạp năm 1981, Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha năm 1986).

2
Phụng Hoàng. (2005). Lịch sử Quan hệ quốc tế ở châu Âu trong chiến tranh Lạnh (1949 – 1991).Trang 52
10
Sự mở rộng này của EEC đã tạo ra sự ổn định chính trị và phát
triển kinh tế ở khu vực Địa Trung Hải của Châu Âu. Các chính sách mới
để đối mặt với sự bất bình đẳng trong khu vực cũng được tạo ra. Cuối
cùng vào năm 1992, Liên minh châu Âu (EU) được thành lập (hiệp ước
được ký kết tại Maastricht) tung ra thị trường nội bộ duy nhất.
Giai đoạn mở rộng lớn thứ hai của EU là trong những năm 90 và
đầu những năm 2000. Năm 1995, Áo, Phần Lan và Thụy Điển gia nhập
EU, và sau đó vào năm 2004, các quốc gia Trung và Đông Âu (Cộng hòa
Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Ba Lan, Slovakia và Slovenia)
cộng với Malta và Síp là kết quả của cải cách sâu sắc về kinh tế và xã
hội được thực hiện3.
Quá trình hội nhập châu Âu phi thường bắt đầu một cách khiêm
tốn vào những năm đầu sau chiến tranh và tăng tốc hướng tới các hiệp
ước sâu rộng của những năm 1990 chủ yếu là kinh tế và thứ hai là chính
trị về động lực, cấu trúc và kết quả. Tuy nhiên, một khía cạnh xã hội đi
kèm của
sự thống nhất châu Âu đã bắt đầu nhận được sự chú ý học thuật, cụ thể
là bản chất của chính sách xã hội trong cấu trúc có thẩm quyền của Liên
minh châu Âu (EU).
Những người theo chủ nghĩa châu Âu hỏi liệu việc nâng cao quyền
lực kinh tế và chính trị lên cấp độ EU có tìm thấy mối tương quan trong
chính sách xã hội hay không. Leibfried và Pierson (1995) lập luận rằng
một 'Châu Âu xã hội' đã tồn tại và đang tích cực tham gia vào các chính
sách phân phối lại, một phần nhờ vào nỗ lực của các nhóm áp lực xuyên
quốc gia và xuyên quốc gia đủ nhận ra rằng trong một số lĩnh vực có vấn
đề nhất định, quyền lực nằm ở Brussels, không phải thủ đô quốc gia.
Ireland (1995) lưu ý rằng về các vấn đề nhập cư, các quản trị viên EU đã

3
Sự mở rộng Liên Minh Châu âu nhìn từ góc độ địa chính trị, Ths Nguyễn Thị Thùy Nguyên, Đại học KHXN&NV
11
có lập trường hoạt động để bảo vệ người lao động nước ngoài và gia
đình của họ, bước vào nơi mà các chính phủ quốc gia đã thất bại trong
việc duy trì nhân quyền. Nhưng Streeck (1995) cảnh báo, trước tiên,
rằng sự can thiệp của EU vào một số lĩnh vực không phản ánh một
chương trình nghị sự cải cách được thúc đẩy về mặt ý thức hệ. Thứ hai,
EU chịu ơn lợi ích thị trường và sẽ rút lại bất kỳ động thái nào đối với sự
can thiệp xã hội nếu nó đe dọa sự thống trị thị trường. Quan điểm của
Streeck ngụ ý rằng chủ nghĩa tập đoàn ở cấp quốc gia đã bị đánh bại bởi
hội nhập châu Âu thực sự, ông tuyên bố rằng lao động chỉ có mặt trong
quá trình hội nhập trong chừng mực nó đại diện cho thị trường lao động
trên toàn châu Âu.4
2.3.2.Anh gia nhập EEC
Trong các cuộc đàm phán gia nhập đầu tiên vào năm 1961, Chính
phủ Anh do đảng Bảo thủ lãnh đạo đã đặt ra một số điều kiện, vì họ
muốn duy trì các mối quan hệ kinh tế và tiền tệ đặc quyền của Vương
quốc Anh với các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung. Các chính trị
gia Lao động cũng lo ngại không kém về viễn cảnh vứt bỏ những thành
tựu của Khối thịnh vượng chung để đổi lấy một châu Âu mà theo quan
điểm của họ, phần lớn là tư bản chủ nghĩa. Cũng có nhiều người lo sợ
rằng họ sẽ thấy giá hàng nhập khẩu của Khối thịnh vượng chung tăng
cao do hệ thống ưu tiên của đế quốc biến mất. Các chính trị gia cấp cao
của Anh cũng cẩn thận trấn an các đối tác của họ ở các nước Tự trị,
những người rất lo lắng rằng từ đó họ sẽ thấy mình bị xếp xuống hạng
thứ hai trong mối quan tâm của Anh. Vì lý do đó, Hiệp hội Công nghiệp
Khối thịnh vượng chung,
Nhưng đến cuối những năm 1960, mối liên hệ giữa Vương quốc
Anh và Khối thịnh vượng chung đã yếu đi đáng kể. Trong khi các quốc
gia Khối thịnh vượng chung vẫn cung cấp 48% hàng nhập khẩu của Anh
và chiếm 49% hàng xuất khẩu của nước này vào năm 1954, thì đến năm
4
Hà Hải Bình (2008), Sự mở rộng của NATO dưới góc độ địa chính trị, ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, Hà Nội
1972, Vương quốc Anh chỉ nhập khẩu 19% hàng hóa của mình từ Khối
thịnh
12
vượng chung, hơn nữa, khối này chiếm không quá 20% Hàng xuất Anh.
Trong cùng thời kỳ, Cộng đồng Châu Âu ngày càng có xu hướng thay
thế phần đầu tư ra nước ngoài của Vương quốc Anh trong Khối thịnh
vượng chung. Ngoài ra, các liên kết chính trị và chiến lược giữa Vương
quốc Anh và các quốc gia thuộc Đế quốc Anh cũ, mặc dù có sự gắn bó
tình cảm truyền thống, vẫn tiếp tục suy giảm trong những năm 1960 5.
Vào năm 1963, lần đệ đơn xin gia nhập đầu tiên của Anh vào EEC đã bị
phủ quyết bởi Tổng thống Pháp Charles de Gaulle với lí do cho rằng nền
kinh tế nước này không tương hợp với phần còn lại của Châu Âu. Tuy
nhiên, trong những năm 1960 tốc độ tăng trưởng ở Châu Âu là 4,5% còn
của Anh là gần 6% theo Văn phòng Thống kê Quốc gia6. Nhưng thực tế
ông lo ngại rằng tư cách thành viên của Anh sẽ làm suy yếu tiếng nói
của Pháp ở châu Âu. Bên cạnh đó ông cũng lo sợ rằng mối quan hệ Anh
– Mỹ thân thiết với nhau sẽ dẫn đến việc Hoa Kỳ gia tăng ảnh hưởng
của mình ở châu Âu. Sau đó thì Tổng thống Charles de Gaulle cũng phủ
quyết đơn lần thứ hai từ Anh vào năm 1969.
Theo đó, các nhà đàm phán Anh đã chọn đường lối linh hoạt hơn
và lần này đặt ra ít điều kiện hơn để các đối tác châu Âu tương lai của họ
đáp ứng. Quyết định gia nhập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) của
Vương quốc Anh được đưa ra trên cả cơ sở kinh tế và chính trị. Người
Anh nhận thức rõ rằng, khi đã gần như từ bỏ khía cạnh đế quốc trong
chính sách đối ngoại của mình, nước này không còn có thể bị cô lập khỏi
Cộng đồng mà ngược lại, ngày càng trở nên quyết đoán hơn trên trường
quốc tế. Ngày càng khó dung hòa mối quan hệ đặc quyền của Vương
quốc Anh với Hoa Kỳ với sự tham gia chặt chẽ hơn của nước này vào

5
MOUTON, Victoria. Bibliographie chỉ dẫn. La décolonisation: ses enjeux géopolitiques et son Impact sur le
processus d'intégration européenne. Sanem: Trung tâm Virtuel de la Connaissance sur l'Europe. 2016.
6
Ros Taylor, LSE, Why Britain really joined the EEC, https://blogs.lse.ac.uk/brexit/2015/11/26/why-britain-really-
joined-the-eec-and-why-it-had-nothing-to-do-with-helping-our-economy/, Truy cập ngày 20/05/2023.
các vấn đề châu Âu. Đồng thời, sự tăng trưởng kinh tế không ngừng của
Six khiến EEC trở nên hấp dẫn hơn từng ngày.
13
Các vấn đề được tranh luận sôi nổi nhất là đóng góp tài chính của
Vương quốc Anh cho các nguồn lực của Cộng đồng và sự tham gia của
Vương quốc Anh vào chính sách nông nghiệp chung (CAP). Những vấn
đề này, được liên kết chặt chẽ, không bao giờ được làm rõ. Kết quả là,
Chính phủ Thatcher sẽ quay trở lại với họ vào cuối những năm 1980.
Ngược lại, một giải pháp dứt khoát đã được tìm ra cho những trở ngại
khác, cụ thể là đường Tây Ấn Độ và bơ New Zealand. Trong suốt mùa
hè năm 1971, Chính phủ của Edward Heath đã theo đuổi một chiến dịch
tuyên truyền rầm rộ ở Anh ủng hộ việc gia nhập Thị trường chung. Vào
ngày 7 tháng 7 năm 1971, Chính phủ đã xuất bản Sách trắng về Vương
quốc Anh và Cộng đồng Châu Âu, trong đó xem xét từng điểm một về
những lợi thế của việc Anh gia nhập EEC.
Hạ viện đã phê chuẩn việc Anh gia nhập Cộng đồng Kinh tế Châu
Âu (EEC) vào ngày 28 tháng 10 năm 1971 trong một cuộc bỏ phiếu
được mô tả là lịch sử. Bất chấp sự chia rẽ trong các đảng chính trị, cuộc
bỏ phiếu 'có' đã diễn ra trong ngày.
Hình 2.Tổng thống Pháp Georges Pompidou và thủ tướng Anh Edward Heath
trong cuộc hội đàm về việc Anh gia nhập EEC năm 1972. Nguồn: Reg
Lancaster/Getty Images.
14
Ngày 22 tháng 1 năm 1972, tại Bruxelles, Vương quốc Anh ký
Hiệp ước gia nhập. Ngày 13 tháng 7 năm 1972, Hạ viện một lần nữa
tuyên bố ủng hộ việc gia nhập. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1972, House of
Lords cũng làm theo. Vào ngày 6 tháng 10, Nữ hoàng đã trao sự đồng ý
của Hoàng gia cho việc gia nhập Vương quốc Anh vào Cộng đồng châu
Âu, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1973. Điều này đã nâng số
thành viên EEC lên chín. Tiếp đó chỉ sau 2 năm, mối quan hệ Anh – EU
bắt đầu rạn nứt. Năm 1975, Thủ tướng Harold Wilson của Công đảng
kêu gọi trưng dân ý về tư cách thành viên của Anh ở EEC để cố gắng
xoa dịu những người chống đối và kết quả tỷ lệ ủng hộ là 67% đồng ý
Anh ở lại EEC.
2.3.3. Đạo luật Châu Âu duy nhất
Đạo luật chung châu Âu (SEA), có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7
năm 1987, đã mở rộng đáng kể phạm vi của EEC. Nó tạo cơ sở pháp lý
cho các cuộc họp của EPC và kêu gọi sự phối hợp chặt chẽ hơn về chính
sách đối ngoại giữa các thành viên, mặc dù các quyết định về chính sách
đối ngoại được đưa ra bên ngoài các thể chế cộng đồng. Thỏa thuận đã
đưa Quỹ Phát triển Khu vực Châu Âu chính thức tham gia các hiệp ước
của cộng đồng như một phần mới về sự gắn kết kinh tế và xã hội nhằm
khuyến khích sự phát triển của các khu vực suy thoái kinh tế. Kết quả
của đạo luật là đã có sự gia tăng đáng kể về tài trợ cho các chương trình
xã hội và khu vực. SEA cũng yêu cầu các chính sách kinh tế của cộng
đồng kết hợp các điều khoản để bảo vệ môi trường, và nó cung cấp một
chính sách nghiên cứu và phát triển công nghệ chung, chủ yếu nhằm
mục đích tài trợ cho các nỗ lực nghiên cứu xuyên quốc gia.
Tổng quát hơn, SEA đặt ra một thời gian biểu cho việc hoàn thành
một thị trường chung. Một loạt các rào cản pháp lý, kỹ thuật, tài chính
và vật chất tiếp tục hạn chế sự di chuyển tự do của hàng hóa, lao động,
vốn và dịch vụ. Ví dụ, sự khác biệt về tiêu chuẩn an toàn và sức khỏe
quốc gia đối với hàng tiêu dùng là một trở ngại tiềm ẩn đối với thương
mại. Để tạo điều kiện hoàn thành thị trường chung vào năm 1992, quy
trình lập pháp
15
của cộng đồng đã được sửa đổi. Ban đầu, Ủy ban đề xuất luật, Nghị viện
được hỏi ý kiến và Hội đồng Bộ trưởng đưa ra quyết định cuối cùng.
Các quyết định của hội đồng nói chung cần có sự nhất trí, một yêu cầu
cho phép mỗi thành viên có quyền phủ quyết đối với tất cả các luật. SEA
đã giới thiệu biểu quyết đa số đủ điều kiện cho tất cả các luật liên quan
đến việc hoàn thành thị trường chung. Theo hệ thống này, mỗi thành
viên được trao nhiều phiếu bầu, số lượng phiếu bầu phụ thuộc vào dân
số quốc gia và việc phê chuẩn luật cần khoảng 2/3 số phiếu bầu của tất
cả các thành viên. Thủ tục mới cũng tăng vai trò của Nghị viện châu Âu.
Cụ thể, các đề xuất lập pháp đã bị Nghị viện bác bỏ chỉ có thể được Hội
đồng Bộ trưởng thông qua bằng một cuộc bỏ phiếu nhất trí7.
2.4. Hiệp ước Maastricht định hình EU
Hiệp ước Maastricht với tên gọi chính thức là “Hiệp ước về Liên
minh châu Âu”, đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn mới trong quá
trình thành lập một liên minh chặt chẽ hơn giữa các quốc gia ở châu Âu,
thông qua việc cung cấp cho các cộng đồng trước đây một khuôn mẫu
chính trị. Văn kiện được ký ngày 7/2/1992 và có hiệu lực từ ngày
1/11/1993.
Hiệp ước Maastricht ra đời vào thời điểm được cho là thuận lợi
nhất đối với châu Âu, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Liên Xô (trước
đây) tan rã, nền dân chủ đạt được mức phổ biến rộng rãi. Chính bối cảnh
đó đã thúc đẩy việc thiết kế lại EC, cộng đồng tính đến thời điểm đó chỉ
chủ yếu tập trung vào việc xây dựng một thị trường miễn thuế, cố gắng
7
Madsen, Peter. "Đạo luật châu Âu duy nhất". Encyclopedia Britannica , ngày 20 tháng 3 năm 2023,
https://www.britannica.com/topic/Single-European-Act. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023
ràng buộc vận mệnh các quốc gia thành viên và ngăn ngừa những cuộc
xung đột vũ trang trong tương lai. Đại diện các nước Bỉ, Đan Mạch,
Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Italy, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha và

16
Vương quốc Anh đã đặt bút ký Hiệp ước Maastricht, nhấn mạnh rằng đã
đến lúc phải hướng tới mục tiêu cao hơn.
Việc Hiệp ước Maastricht có hiệu lực đã mang tới sự thay đổi lập
tức cho người dân châu Âu. Cơ chế công dân EU tự động được cấp cho
tất cả người dân của các nước thành viên liên minh. Theo đó, công dân
EU có quyền di chuyển và cư trú tự do trong phạm vi toàn khối, tham
gia bầu cử và ứng cử tại các cuộc bầu cử địa phương cũng như của khối
tại quốc gia cư trú. Tình trạng pháp lý nhanh chóng trở thành một trong
những thành tựu đáng quan tâm nhất của EU.
Hiệp ước Maastricht cũng đánh dấu bước tiến trong việc hướng tới
thành lập đồng tiền chung châu Âu (euro). Trong khi Đan Mạch và
Vương quốc Anh nhanh chóng phê chuẩn các ngoại lệ để rút khỏi đồng
tiền chung, 10 quốc gia thành viên còn lại đã đồng ý tuân thủ những tiêu
chí chính để giúp hội tụ các nền kinh tế vốn tồn tại nhiều sự chênh lệch.
“Tiêu chí Maastricht” đã đặt ra các quy tắc về lạm phát, lãi suất, tỷ giá
hối đoái, nợ công và vẫn sẽ được áp dụng với bất kỳ quốc gia nào muốn
gia nhập liên minh đồng tiền chung8.
CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẤT THỂ HÓA
CHÂU ÂU
3.1 Tác động của quá trình nhất thể hóa đến các nước châu Âu

8
VT. (2018). Liên minh châu Âu (EU) - European Unio (EU). Được truy lục từ tulieuvankien.dangcongsan:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/to-chuc-quoc-te/lien-minh-chau-au-eu-
european-unio-eu-3287
Nỗ lực tiếp tục thống nhất châu Âu có nhiều ý nghĩa đối với việc
đo lường sức mạnh của các quốc gia. Sự nổi lên của Liên minh châu Âu
với tư cách là một bên tham gia mạnh mẽ trong hệ thống quốc tế thời
hậu Chiến tranh Lạnh vẫn còn phải chờ xem. Sự thống nhất châu Âu
không làm xói mòn nghiêm trọng sức mạnh của các quốc gia như Anh,
Pháp,

17
Đức, Ý. Các quốc gia hùng mạnh hơn này bị ảnh hưởng tiêu cực bởi quá
trình toàn cầu hóa chứ không phải hội nhập khu vực.
Khi chúng ta kết thúc một thế kỷ và chuẩn bị bắt đầu một thế kỷ
mới, nhiều câu hỏi đặt ra về vai trò của nhà nước trong hệ thống quốc tế.
Trong phần còn lại của thế kỷ 20, các học giả về chính trị quốc tế và
khoa học chính trị phần lớn coi nhà nước là chủ thể thống trị trong hệ
thống quốc tế. Tuy nhiên, trong nửa cuối thế kỷ này, bản chất của mối
quan hệ giữa các quốc gia đã thay đổi khi những ảnh hưởng và chủ thể
mới gia nhập hệ thống. Có khoảng bốn lần số quốc gia nhỏ hơn trong hệ
thống quốc tế. Sức mạnh nhà nước không còn chỉ được cân nhắc về sức
mạnh quân sự và việc giành được lãnh thổ. Các quốc gia và công dân
của họ cạnh tranh để giành thị phần và không tập trung vào việc giành
thuộc địa hoặc thống trị lãnh thổ như một cách để giành quyền đối với
tài nguyên. tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia và xuyên quốc gia
cũng như nhiều thị trường nước ngoài đặt ra các giới hạn đối với khả
năng theo đuổi chính sách của nhà nước. Vào cuối thế kỷ 20, các quốc
gia ngày càng phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến mối quan hệ
giữa nền kinh tế trong nước và toàn cầu.
Một sự kiện quan trọng thứ hai trong nửa sau của thế kỷ 20 liên
quan đến Tây Âu. Lục địa châu Âu từ lâu đã là chiến trường của các
quốc gia và các chủ thể khu vực. Chiến tranh thế giới không chỉ bắt
nguồn từ châu Âu mà còn từ khái niệm hiện đại về nhà nước. Định nghĩa
về nhà nước hiện đại và các quyền chủ quyền quan trọng nhất của nó
xuất hiện từ châu Âu với Hòa ước Westphalia năm 1648. Thỏa thuận lịch
sử này đặt nền móng cho chính phủ hiện đại cũng như quan hệ giữa các
quốc gia. Trong suốt ba trăm năm, các quốc gia thường xuyên xung đột
với nhau, cuối cùng lên đến đỉnh điểm là Thế chiến thứ nhất và thứ hai,
gây ra sự hủy diệt lớn cho hầu hết Tây Âu. Để xây dựng lại các quốc gia
Tây Âu bị ảnh hưởng bởi các cuộc chiến tranh này, các nhà lãnh đạo của
họ, với sự khuyến khích từ Hoa Kỳ, hội nhập khu vực như một con
đường để tái phát
18
triển. Hội nhập khu vực đã giúp nâng châu Âu khỏi đống đổ nát của Thế
chiến thứ hai, nhưng hầu hết sẽ thừa nhận rằng điều này chỉ liên quan
đến các vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, các quốc gia thành viên của Liên
minh châu Âu đã vượt ra khỏi ranh giới hội nhập kinh tế và thông qua
Chính sách đối ngoại và an ninh chung và Hiến chương xã hội cũng như
xây dựng Tòa án. Công lý châu Âu đã trở thành một cơ quan pháp lý
mạnh mẽ. Với bản chất lịch sử của các mối quan hệ giữa các quốc gia,
những diễn biến này dường như sẽ làm tổn hại đến nhiều quyền của các
quốc gia này đối với chủ quyền và quyền ra quyết định. Do đó, tiến hành
hội nhập khu vực ở mức độ này sẽ làm suy yếu sức mạnh hành động của
họ không chỉ trong hệ thống quốc tế mà còn liên quan đến các chính thể
và nền kinh tế trong nước của họ.
Chính các quốc gia này cũng đã gặp khó khăn trong việc thực hiện
và đồng ý với Hiến chương xã hội, và Chính sách đối ngoại và an ninh
chung phần lớn bị coi là giả tạo. Vượt qua đặc điểm dân tộc, văn hóa và
ngôn ngữ đã được xác định rõ ràng của quốc gia-dân tộc châu Âu hiện
đại dường như là một sự tưởng tượng khá lớn. Điều gì sẽ sở hữu những
quốc gia này để vứt bỏ hàng trăm năm lịch sử? Tuy nhiên, do tương lai
kinh tế toàn cầu ngày càng bất định và việc Mỹ không sẵn sàng nắm
quyền kiểm soát quyết định trong những vấn đề này, một chủ thể hoặc
nhà nước châu Âu thống nhất, mạnh mẽ có thể là con đường dẫn đến sự
ổn định và cấu trúc hệ thống lớn hơn nữa.
Có lẽ, ít có năm nào châu Âu lại phải đối mặt với nhiều sóng gió
như năm 2009. “Vết dầu loang” của cuộc khủng hoảng tài chính từ năm
2008 đã khiến nhiều thành viên EU chao đảo. Hệ thống ngân hàng và
một loạt ngành kinh tế mũi nhọn của EU lâm vào thế “nghìn cân treo sợi
tóc”, nợ ngân sách nhà nước chồng chất, nhiều quy định nghiêm ngặt
chung về kinh tế, tài chính bị phá vỡ... Không chỉ các nền kinh tế đầu tàu
của EU như Đức, Pháp, Anh bị chấn động, mà ngay cả các nền kinh tế
nhỏ ở Đông Âu, Trung Âu cũng phải đối mặt với những hệ luỵ tương tự.
Kinh tế EU
19
đã bước vào vạch đỏ suy thoái và sự đoàn kết của châu Âu bị thử thách
hết sức khắc nghiệt. Những nỗ lực giải cứu nền kinh tế khỏi bờ vực sụp
đổ bằng việc chi hàng nghìn tỉ ơ-rô và cơ cấu lại các ngành kinh tế mà
chính phủ các nước thành viên đã áp dụng, đã tạo ra những kết quả đáng
lạc quan. Trong sáu tháng cuối năm, các nền kinh tế trong khu vực đã
bắt đầu tăng trưởng trở lại tuy chưa vững chắc.
Cuộc khủng hoảng tài chính cũng đã làm lộ rõ những “hạn chế”
trong EU khi chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng trở lại khiến xuất hiện
những rạn nứt trong nội khối. Cơ chế “mạnh ai, nấy chạy” của các nước
giàu Tây Âu đã đẩy kinh tế các nước Đông Âu, mới gia nhập EU năm
2004, vào cảnh khốn khó. Việc EU không thể kê được một toa thuốc
chung để chữa trị “con bệnh” khủng hoảng kinh tế đã bộc lộ rõ sự rạn
nứt trong tổ chức 27 thành viên này. Tinh thần liên kết trong EU thực sự
bị thử thách khi phải vất vả lắm EU mới tìm được tiếng nói chung trong
vấn đề cải cách thể chế. Việc EU hoàn tất tiến trình phê chuẩn Hiệp ước
Li-xbon tháng 11-2009 sau 8 năm tranh cãi với 3 cuộc trưng cầu ý dân
thất bại, được coi là một bước tiến lịch sử khi nó thúc đẩy quá trình nhất
thể hóa EU như hạn định, bỏ lại đằng sau những bất đồng lớn và phức
tạp vốn tồn tại trong hơn 50 năm qua. Hiệp ước Li-xbon đã thay đổi cơ
bản các cơ cấu hoạch định chính sách của EU và giản lược nhiều quy
định về pháp chế nhằm tăng cường khả năng thông qua và thực hiện các
chính sách chung… đáp ứng được lợi ích căn bản của các nước thành
viên.
Năm 2009 còn chứng kiến những chuyển biến tích cực về ngoại
giao của EU, trong đó mối quan hệ chủ chốt giữa EU với Mỹ và Nga
thiên về đối thoại hơn là những chỉ trích gay gắt, giảm căng thẳng và
thúc đẩy hợp tác. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-
ba-ma (Barak Obama) đã có hàng loạt các chuyến thăm các đối tác châu
Âu quan trọng, khẳng định Mỹ theo đuổi chính sách đa phương, coi
trọng quan hệ đối tác chiến lược với châu Âu. EU và Mỹ đã tìm được
tiếng nói chung trên nhiều vấn đề quốc tế như biến đổi khí hậu, chống
khủng hoảng kinh tế… Trong
20
quan hệ với Nga, cả hai đều thừa nhận là đối tác quan trọng và đã đạt
được một số điểm đồng thuận trong các cuộc đàm phán về một Hiệp
định hợp tác và đối tác mới sau một thời gian gián đoạn do cuộc xung
đột ở Gru-di-a tháng 8-2008. Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn chưa thể
coi là dễ dàng hoặc chân thành, do vẫn có tiếng nói khác biệt trong nhiều
vấn đề như năng lượng, an ninh, sự mở rộng của EU sang phía Đông hay
sự chi phối của NATO trong khu vực.
Hiện tại EU đang đối mặt với thời kì khó khăn chưa từng có trong
50 năm hình thành và phát triển. Những vấn đề chính mà EU gặp phải
có thể nói đều bắt nguồn từ việc khối này chuyển từ một khối liên kết từ
tiền tệ, kinh tế sang hình thức liên kết chính trị. Từ đó, hàng loạt vấn đề
chính trị, kinh tế và xã hội khác nảy sinh.
Với một khu vực có số lượng thành viên lớn và đa dạng như Liên
minh Châu Âu, chênh lệch về trình độ phát triển là điều tất yếu. Càng
hội nhập sâu rộng bao nhiêu, thì những cách biệt về trình độ phát triển
càng bị “nới rộng” giữa các nước phát triển và những nước lạc hậu hơn.
Châu Âu đang hướng tới xây dựng một cơ chế bình đẳng và dân
chủ, tuy nhiên, trong các vấn đề quan trọng như kinh tế, chính trị người
ta thấy vai trò của Đức và Pháp nổi lên rõ rệt, trong khi các quốc gia nhỏ
hơn hầu như không có tiếng nói riêng. Sự bất bình đẳng này có thể xuất
phát từ tiềm lực kinh tế của các quốc gia. Đức và Pháp là hai đầu tầu
kinh tế của Châu Âu, cũng là hai quốc gia đóng góp nhiều nhất cho ngân
sách của EU. Theo số liệu của Eurostat, năm 2011, Đức đóng góp đến
21.11% tổng ngân sách của EU, tương đương 22.2 tỷ Euro. Pháp đóng
góp 16.44%, tương đương 17.3 tỷ Euro. Trong khi các nước thuộc nhóm
EU 12 chỉ đóng góp chưa tới 1% tổng ngân sách. Đặc biệt, Romania và
Bulgaria không đóng góp kinh tế cho ngân sách này. Chênh lệch về tỷ lệ
đóng góp quốc gia đồng nghĩa với sức ảnh hưởng của các quốc gia là
khác nhau.

21
Tình hình càng thêm căng thẳng, khi các nước EU đang bối rối vì
vấn nạn nợ công, thì Pháp và Đức vẫn còn “dền dứ” trong việc lựa chọn
hướng giải quyết. Chỉ khi Đức và Pháp thống nhất quan điểm thì tương
lai của Hy Lạp mới được đảm bảo bằng việc nhận khoản cứu trợ khổng
lổ từ EU và IMF. Có thể thấy rằng, sự bất bình đẳng đang thể hiện rất rõ
thông qua sự chênh lệch về tiềm lực kinh tế giữa các quốc gia trong
Châu Âu. Trong đó, Đức và Pháp hoàn toàn có thể “nắm vận mệnh” các
quốc gia khác (và kể cả đồng Euro) trong tay và xoay vần nó theo ý chí
riêng của mình. Vô hình chung, vấn đề này đi ngược lại với những tôn
chỉ về bình đẳng, tự do và dân chủ mà EU đang xây dựng. Chênh lệch
trình độ phát triển là tất yếu và nó sẽ còn tiếp tục cản trở quá trình nhất
thể hóa, tiến tới một thể chế bình đẳng giữa các quốc gia trong Châu Âu.
Sự chênh lệch trình độ phát triển ở Châu Âu còn tạo nên hai tốc độ
phát triển khác nhau giữa các nhóm quốc gia. Nhóm nước giàu hơn là
các nền kinh tế Bắc Âu, còn lại là các nền kinh tế yếu hơn. Khủng hoảng
kinh tế và khủng hoảng nợ công đang hoành hành tại Châu Âu đã làm
những khoảng cách kinh tế này nới rộng hơn, dẫn tới những nguy cơ
mới trong nền kinh tế, đặc biệt là vấn đề thất nghiệp.
Không chỉ gây ra những tác động đến chính trị và kinh tế, vấn đề
chênh lệch trình độ phát triển còn làm nảy sinh nhiều xu hướng xã hội
khác ở Châu Âu. Một trong số đó là hiện tượng dòng lao động từ các
nước nghèo hơn trong khu vực Trung và Đông Âu chảy sang các nước ở
Tây Âu. Cụ thể trong năm 2010: 2.9 triệu người từ EU 12 đã di cư sang
EU 15. Theo Viện nghiên cứu Kinh tế Đức, con số này sẽ còn tiếp tục
tăng mạnh. Hiện tượng này đang làm các nước trong Châu Âu “già” lo
lắng bởi những ảnh hưởng tiêu cực của nó tới thị trường lao động và tạo
gánh nặng lên vấn đề an sinh xã hội, đồng thời nó cũng gây nên những
ảnh hưởng tới vấn đề hội nhập của các thành viên mới cũng như sự thiếu
hụt các thành phần kinh tế trong khu vực. Tình trạng này càng khó kiểm
soát khi người dân châu Âu được phép tự do đi lại theo Hiệp ước
Schengen.
22
Tỷ lệ thất nghiệp cao là tác nhân gây nên sự chuyển dịch về nhân
lực lao động. Trước vấn đề này, EU cũng đã đưa ra những biện pháp để
quản lý dòng người nhập cư. Các nước thành viên EU đã thực hiện chính
sách thẻ xanh hoặc ký kết với nước thứ ba, trong đó áp dụng đối với cả
các nước thành viên mớicủa EU trong thời gian chưa được phép tự do di
chuyển lao động. Cùng với tiến trình nhất thể hóa, sự phân hóa về kinh
tế giữa các quốc gia thành viên sẽ gây ảnh hưởng tới các vấn đề chính trị
và xã hội khác.
3.2 Tác động của hội nhập châu Âu đối với các nền dân chủ quốc gia
Nền dân chủ có nguy cơ gia tăng trong cuộc khủng hoảng khu vực
đồng tiền chung châu Âu. Hội nhập châu Âu từ lâu đã có tác động nâng
cao đối với các nền dân chủ quốc gia của châu Âu. Ngoài việc đáp ứng
các cam kết ban đầu về hòa bình và thịnh vượng, Liên minh Châu Âu đã
tạo ra các chính sách để giải quyết các vấn đề mà chính phủ các quốc gia
không thể tự mình giải quyết một cách hiệu quả trong một thế giới ngày
càng toàn cầu hóa. Tuy nhiên, trong khi hội nhập châu Âu ngày càng sâu
rộng đã mang lại lợi ích cho các quốc gia thành viên của Liên minh châu
Âu theo vô số cách, thì nó cũng có một số tác dụng phụ không lường
trước được đối với các nền dân chủ quốc gia của họ.
Khi việc ra quyết định trong lĩnh vực chính sách này đến lĩnh vực
chính sách khác đã chuyển lên cấp độ EU, hội nhập châu Âu ngày càng
lấn sâu vào các vấn đề cốt lõi là chủ quyền và bản sắc quốc gia. Tiền tệ
và chính sách tiền tệ, tổ chức kinh tế và thị trường lao động, biên giới và
nhập cư, dịch vụ công cộng và thậm chí cả đảm bảo phúc lợi, tất cả đều
ngày càng nằm trong các chính sách hoặc quy định của EU. Tuy nhiên,
vấn đề đối với các nền dân chủ quốc gia không phải là các chính sách
của EU lấn sang các chính sách quốc gia, mà là công dân có rất ít tiếng
nói trực tiếp về những vấn đề này, chứ đừng nói đến việc tham gia vào
các cuộc tranh luận chính trị trên toàn EU về các chính sách. Bản chất
rời rạc của “nền dân chủ” châu Âu có nghĩa là trong khi các chính sách
được
23
quyết định ở cấp độ EU, nói chung là theo cách phi chính trị hoặc kỹ trị,
thì chính trị vẫn mang tính quốc gia. Tuy nhiên, các chính sách có thể
thực sự mang tính “chính trị” (hoặc mang tính chính trị), đặc biệt là
trong cuộc khủng hoảng Khu vực đồng tiền chung châu Âu .
Vì các công dân quốc gia ngày càng có ít ảnh hưởng trực tiếp hơn
đối với các chính sách ảnh hưởng đến họ nhiều nhất, nên họ đã bày tỏ
mối quan tâm của mình ở cấp độ duy nhất mà họ có thể: cấp quốc gia.
Người dân ngày càng thể hiện sự không hài lòng của họ thông qua các
cuộc biểu tình và thùng phiếu, dẫn đến sự trỗi dậy của những người theo
chủ nghĩa dân túy cực đoan và sự thay thế ngày càng tăng của các chính
phủ đương nhiệm. Hơn nữa, các chính phủ quốc gia ngày càng thấy
mình bị kẹt giữa kỳ vọng bầu cử của công dân và các quy tắc và quyết
định được thống nhất chung của EU.
Kết quả là, các chính phủ quốc gia phải đối mặt với những thách
thức kép: từ chủ nghĩa dân túy ở cấp quốc gia và từ chế độ kỹ trị ở cấp
độ EU. Nhưng chế độ kỹ trị tự nó là một sản phẩm của chính các chính
phủ. Với tư cách là các quốc gia thành viên trong các hiệp định liên
chính phủ của EU được phối hợp, họ ngày càng ủy quyền thực thi và
giám sát cho các cơ quan siêu quốc gia, chẳng hạn như Ủy ban EU,
Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số lượng lớn các cơ quan quản
lý. Một lần nữa, mặc dù tập hợp thẩm quyền của họ để giao trách nhiệm
có thể là cách tốt nhất để đáp ứng những thách thức toàn cầu, nhưng nó
cũng làm giảm thêm biên độ điều động quốc gia của chính phủ, đặc biệt
là đối với nhu cầu của số lượng lớn công dân của chính họ.
Cuộc khủng hoảng Khu vực đồng tiền chung châu Âu đã làm cho
những vấn đề như vậy trở nên tồi tệ hơn không chỉ vì chính trị và kinh tế
khó khăn, mà còn vì các chính sách kinh tế và quy trình quản lý của EU
để đối phó với khủng hoảng. Những điều này chỉ làm tăng thêm những
thách thức dân chủ đối với công dân cũng như chính phủ của họ, vì ngày
càng có nhiều quyết định được đưa ra thông qua sự phối hợp liên chính
24
phủ và phái đoàn siêu quốc gia ở cấp độ EU 9. Người dân ngày càng cảm
thấy ảnh hưởng bị suy giảm của mình sâu sắc hơn, dẫn đến sự mất lòng
tin nhanh chóng vào cả chính phủ quốc gia của họ và vào EU, điều này
cũng thể hiện ở sự biến động chính trị thậm chí còn lớn hơn.
Tuy nhiên, lưu ý rằng tác động của EU, đặc biệt là trong cuộc
khủng hoảng Khu vực đồng tiền chung châu Âu, đã rất khác biệt. Không
chỉ phản ứng của người dân đối với EU và cuộc khủng hoảng Khu vực
đồng tiền chung châu Âu là rất khác nhau giữa các quốc gia thành viên,
mà các nền dân chủ quốc gia cũng có những trải nghiệm rất khác nhau
về EU và cuộc khủng hoảng Khu vực đồng tiền chung châu Âu. Trong
khi một số nền dân chủ quốc gia đã bị suy yếu nghiêm trọng, những nền
dân chủ khác đã được trao quyền. Hy Lạp theo thỏa thuận cứu trợ mới
9
. Fabbrini 2013; Dehousse 2015
nhất được cho là ví dụ điển hình nhất về sự cạn kiệt của nền dân chủ
quốc gia, trong khi Đức - với cả vị trí của mình trong Hội đồng và vai
trò của Tòa án Hiến pháp trong việc xem xét luật pháp EU - được cho là
có khả năng tốt nhất hàng rào nền dân chủ quốc gia của riêng mình.
3.3 Lí do Anh rời khỏi châu Âu
Thuật ngữ Brexit xuất phát từ: “Britian” Vương quốc Anh – “Exit”
rời khỏi, ra đi. Brexit ý ám chỉ nói về việc Vương quốc Anh rời khỏi EU.
Brexit: Là một cuộc trưng cầu ý dân ở Anh ngày 23/06/2016 tại cuộc
trưng cầu này số biểu quyết lựa chọn của người dân Anh với 52% đồng
ý rời đi và 48% phản đối.
Lí do dẫn đến sự rời đi của Vương quốc Anh:
Đồng Euro là quyết định thảm họa: Khi cả khổi Liên minh Châu
Âu quyết định chỉ sử dụng một đồng tiền chung các quốc gia thành viên
sẽ là đối tượng chịu nhiều ảnh hưởng nhất. Ví dụ như cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008 đã gây ra cuộc khủng hoảng nợ công trên cả
EU. Sau
25
7 năm từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 hậu qua r của nó
vẫn chưa được khắc phục khi các quốc gia trong khối liên minh như Hy
Lạp và Tây Ban Nha chưa thể xử lý hết được nợ nần, tỷ lệ thất nghiệp
tăng trên mức 20%. Tuy nhiên nền kinh tế và đời đời sống người dân
Anh cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính nhưng không
nặng nề như các nước trong EU. Điều này có thể lý giải tại sao Anh vẫn
duy trì sử dụng đồng bảng Anh thay vì Euro.
Khủng hoảng dân nhập cư: Anh tham gia vào Công đồng kinh tế
Châu Âu – EEC (tiền thân của EU) năm 1973 có quy định cho phép các
cư dân trong khối có thể tự do đi lại. Điều này khiến Anh có thể khó mà
quản lý được lượng người nhập cư. Đặc biệt khi làn sóng khủng hoảng
kinh tế xảy ra ảnh hưởng tới Liên minh Châu Â, nước Anh may mắn
trong khu vực không chịu quá nhiều tác động tiêu cực bởi đồng Euro.
Điều đó dẫn đến việc lượng người lao động từ các nước như Ý,
Ireland, ... đổ về nước Anh với mong muốn có việc làm. Chính điều này
đã khiến cho cuộc nhập cư vào Anh diễn ra mạnh mẽ. Lượng người nhập
cư này đã làm ảnh hưởng tới quyền lợi, làm giảm việc làm, thu nhập của
người địa phương và làm tăng tệ nạn xã hội. Nổi bật là sự trỗi dậy của
các phần tử cực đoan Hồi giáo, làm cho tình hình chính tại Xứ sở sương
mù dần dần bị mất kiểm soát.

26
Hình 3. Tỉ lệ phần trăm người Anh xác định nhập cư là một trong 3 vấn đề
quan trọng. Nguồn: https://www.vox.com/2016/6/24/12025514/brexit-cartoon
Các quy định ngặt nghẽo của EU: Các quy định ngày càng chặt chẽ
và có phần bất khả thi gây phản cảm của EU được đưa ra khiến nền kinh
tế Anh bị tổnt hất lên tới con số 600 triệu bảng Anh mỗi tuần. Một số
quy định “vô lý” có thể kể đến: không được tái chế túi trà, những hạn
chế về công suất máy hút bụi hay trẻ dưới 8 tuổi không được thổi bóng
Khoản đóng góp hàng năm cho EU: Vì không được thu thuế trực
tiếp nên để duy trì ngân sách hoạt động, EU yêu cầu các quốc gia thành
viên phải đóng góp một khoản tiền cho ngân sách trung ương. Theo số
liệu thống kê vào năm 2015, Anh đã đóng góp 8,5 tỷ bảng Anh vào Ngân
sách của EU. Khoảng đóng góp này tương đương 12,57% ngân sách của
tổ chức này đứng sau Pháp và Đức. Số liệu từ Open Europe đã chỉ ra 10
điều luật mà EU đưa ra đã làm cho Anh tốn 33,3 tỷ bảng.
CHƯƠNG IV: THÁCH THỨC MÀ LIÊN MINH CHÂU ÂU PHẢI
ĐỐI MẶT
Khủng hoảng năng lượng, lạm phát tăng cao tác động tiêu cực đến người
tiêu dùng, có thể đặt dấu chấm hết cho sự phục hồi kinh tế của khu vực
sau đại dịch COVID-19, kéo theo nguy cơ bất ổn chính trị - xã hội gia
tăng. Bối cảnh này đang đặt các nhà hoạch định chính sách của châu Âu
trước những bài toán nan giải.
Khủng hoảng năng lượng:
Sau khi Nga tiến hành “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraine hồi
tháng 2-2022, Liên minh châu Âu (EU) và Mỹ đã tiến hành áp đặt các
biện pháp trừng phạt chưa từng có đối với Nga, khiến quan hệ Nga - EU
suy giảm nghiêm trọng, nguồn cung năng lượng của Nga cho châu Âu
trở nên khan hiếm. Không chỉ đường ống dẫn khí đốt "Dòng chảy
phương Bắc 2" bị bỏ hoang, mà đường ống dẫn khí đốt "Dòng chảy
phương Bắc 1" tới Đức cũng đã ngừng hoạt động vô thời hạn. Tình trạng
khan hiếm
27
nguồn cung đã khiến giá năng lượng tăng mạnh, giá khí đốt tự nhiên đạt
mức 3.100 USD/1000m3 vào giữa tháng 8-2022, tăng 610% so với cùng
kỳ năm 2021. Với mức giá này, nhiều trạm phát điện không đủ khả năng
hoạt động lâu dài. Do chi phí nhiên liệu đầu vào tăng cao, giá điện ở
châu Âu đã tăng gần 300% vào năm 2022, phá vỡ mọi kỷ lục. Nhìn
chung, giá năng lượng hiện nay tăng hơn gấp 10 lần so với mức giá
trung bình trong 5 năm qua.
Nhiều quốc gia châu Âu bắt đầu lo ngại về trữ lượng khí đốt tự
nhiên và than đá trong mùa đông năm nay, thậm chí Na Uy, quốc gia
trước đó từng xuất khẩu năng lượng sang châu Âu, bắt đầu hạn chế xuất
khẩu điện vào tháng 8-2022. Toàn bộ châu Âu đang chìm trong tình
trạng thiếu hụt năng lượng nghiêm trọng. Đức - nền kinh tế lớn nhất EU
- đã phải chi 100,2 tỷ euro (tương đương 2,8% GDP) khi nước này bị
ảnh hưởng nặng nề do phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung cấp khí đốt
của Nga. Ngày 21-9-2022, Đức tuyên bố quốc hữu hóa Tập đoàn khí đốt
khổng lồ Uniper do đang gặp khó khăn. Pháp chi 53,6 tỷ euro, tương
đương 2,2% GDP được phân bổ, kể từ khi nước này bảo vệ người tiêu
dùng trước việc tăng giá điện và khí đốt vào tháng 11-2021. Về tổng thể,
kể từ tháng 9-2021 đến nay, các nước EU đã chi khoảng 314 tỷ euro để
đối phó với cuộc khủng hoảng năng lượng.
Khủng hoảng năng lượng châu Âu còn trở nên nghiêm trọng hơn
do sự suy giảm của thanh khoản. Các sàn giao dịch, công ty thanh toán
bù trừ và công ty môi giới đã nâng tỷ lệ ký quỹ ban đầu lên 100 - 150%
giá trị hợp đồng, khiến việc bảo hiểm rủi ro trở nên quá tốn kém. Tập
đoàn khí đốt hàng đầu của châu Âu Equinor (Na Uy) cho biết, các công
ty năng lượng châu Âu, ngoại trừ Anh, cần ít nhất 1.500 tỷ USD để trang
trải chi phí do giá khí đốt tăng cao. Con số này có thể so sánh với 1.300
tỷ USD các khoản vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ vào năm 2007, vốn
đã gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (3). Deutsche Bank
dự báo, một

28
cuộc suy thoái “dài hơn và sâu hơn” sẽ diễn ra ở châu Âu, trong khi cuộc
khủng hoảng năng lượng diễn biến theo chiều hướng ngày một tồi tệ
hơn.
Nội bộ châu Âu chia rẽ, bất đồng:
Năng lượng là một chủ đề chính gây bất hòa giữa các nước châu
Âu, là tâm điểm của các cuộc tranh luận chính trị và kinh tế tại châu lục
này trong thời gian qua. Ngày 9-9-2022, Bộ trưởng Năng lượng các
nước EU đã tiến hành họp tại Brussels (Bỉ) để tìm kiếm thỏa thuận về
các biện pháp bảo vệ người dân trước giá năng lượng tăng cao và ngăn
chặn các công ty năng lượng phá sản. Các nước thành viên EU nhìn
chung ủng hộ đề xuất giúp các nhà cung cấp điện không bị phá sản do
khó khăn về thanh khoản nhưng vẫn chia rẽ về kế hoạch áp mức giá trần
đối với khí đốt của Nga. Các nước Baltic nằm trong số những nước ủng
hộ ý tưởng này vì cho rằng điều này sẽ giảm nguồn thu của Nga trong tài
trợ cho chiến dịch quân sự của Nga tại Ukraine. Tuy nhiên, Hungary
phản đối việc áp mức giá trần đối với khí đốt của Nga bởi điều này sẽ
khiến Nga ngừng cung cấp khí đốt sang châu Âu ngay lập tức, đi ngược
lại với lợi ích của Hungary. Bỉ cũng cho rằng, hiện kim ngạch xuất khẩu
khí đốt của Nga đến châu Âu là rất ít, vì vậy giá trần khí đốt không gây
ảnh hưởng đối với Nga.
Một thách thức khác có thể đe dọa đến sự đoàn kết, làm chia rẽ các
nước thành viên EU, đó là Ủy ban châu Âu (EC) sẽ phải làm thế nào để
bảo đảm việc sử dụng dự trữ khí đốt một cách kiểm soát. Ngày 27-6-
2022, EU nhất trí từ nay đến ngày 1-11-2022 phải lấp đầy ít nhất 80%
kho dự trữ khí đốt của toàn khối để đề phòng khi Nga cắt hoàn toàn
nguồn cung khí đốt. Mặc dù đến cuối tháng 8-2022, mức dự trữ khí đốt
của châu Âu đã vượt 80%, nhưng thỏa thuận của EU không quy định rõ
trong trường hợp thiếu khí đốt, các nước sẽ sử dụng kho dự trữ theo quy
tắc nào. Đây cũng là một thách thức mà nếu không giải quyết kịp thời sẽ
là nguồn cơn tiếp tục gây chia rẽ châu Âu.
Nợ công gia tăng:
29
Chiến sự Nga - Ukraine, giá năng lượng tăng cao, giá cả leo thang
cùng tình trạng lạm phát đang buộc các chính phủ châu Âu phải tăng
cường hỗ trợ sức mua cho người dân trong nước. Dữ liệu do Reuters và
Tổ chức tư vấn Bruegel tổng hợp cho thấy, chính phủ các nước EU đã
cam kết 282 tỷ euro (tương đương 2,3% GDP của cả khối) cho các biện
pháp cứu trợ và một số nước còn có kế hoạch chi thêm hàng tỷ euro.
Ngày 4-9-2022, Chính phủ Đức đã đề xuất một gói hỗ trợ thứ ba trị giá
65 tỷ euro. Bộ Tài chính Pháp ước tính, các biện pháp được thực hiện kể
từ năm 2021 đến nay đã tiêu tốn 67 tỷ euro, bao gồm 24 tỷ euro để bù
đắp cho giá khí đốt và điện đang gia tăng, cũng như các khoản giảm giá
có trợ cấp đối với nhiên liệu xe. Italia cũng không “thua kém” với các
biện pháp hỗ trợ cam kết đã lên tới 52 tỷ euro và đang có kế hoạch cho
một gói mới trị giá ít nhất 10 tỷ euro. Tương tự, Chính phủ Tây Ban Nha
cho biết họ đã huy động được hơn 30 tỷ euro cho mục đích này (5). Tuy
nhiên, chi tiêu mạnh tay hơn đồng nghĩa với nợ công gia tăng. Trong quý
I-2022, nợ công tương đương tới 189% GDP ở Hy Lạp, 152,6% ở Italia,
127% ở Bồ Đào Nha, 117,7% ở Tây Ban Nha, 107,9% ở Bỉ và 114,4% ở
Pháp. Chi tiêu cao hơn cũng đi kèm với chi phí đi vay ngày một tăng (6).
Tháng 7-2022, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng lãi suất
lần đầu tiên trong hơn một thập niên qua để chống lại lạm phát phi mã -
vốn là một hệ quả từ giá năng lượng tăng cao.
Khan hiếm lương thực, thực phẩm:
Một thực tế là, năng lượng được sử dụng trong suốt quá trình sản
xuất thực phẩm từ phân bón đến thu hoạch, làm lạnh, do vậy, người
nông dân không chỉ phải gánh chi phí năng lượng tăng cao, mà còn chi
nhiều hơn cho phân bón, đóng gói và vận chuyển. Tổng chi phí sản xuất
nông nghiệp đã tăng nhanh hơn bao giờ hết. Ngành sản xuất sữa và bánh
mì bị ảnh hưởng lớn bởi quá trình thanh trùng và tạo sữa bột cũng tốn
nhiều năng lượng. Nhiều nông dân trồng rau quả đã giảm diện tích trồng
cho vụ thu hoạch tiếp theo vì chi phí vận hành nhà kính cao hơn nhiều so
với số
30
tiền mà họ có thể kiếm được. Hiện nay, khoảng 40% trong số 3.000
thành viên của Tổ chức Glastuinbouw Nederland (đại diện cho những
nông dân trồng rau trong nhà kính tại Hà Lan) đang gặp khó khăn về tài
chính .Sản lượng nông sản được trồng trong các nhà kính có hệ thống
sưởi của Anh trong năm nay được dự báo giảm một nửa so với mức
trung bình các năm do chi phí năng lượng tăng cao. Copa - Cogeca, liên
minh nông dân và hợp tác xã nông nghiệp ở EU, Food Drink Europe và
PFP, hai trong số các hiệp hội sản xuất thực phẩm lớn nhất khu vực này
cho biết, các thành viên bắt đầu phải đóng cửa nhà máy hoặc giảm sản
lượng. Pháp cũng đang phải chuẩn bị cho tình trạng thiếu lương thực và
giá cả tăng cao sau đợt nắng nóng khắc nghiệt vào mùa hè vừa qua. Liên
đoàn Legumes de France ước tính, thiệt hại từ 25 - 35% sản lượng rau và
giá rau tươi đã tăng 4,9% trong hơn một năm qua
Lạm phát tăng phi mã, nguy cơ suy thoái kinh tế:
Số liệu do Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) công bố ngày 16-9-
2022 cho thấy, tỷ lệ lạm phát tại EU đã tăng lên mức kỷ lục 10,1% trong
tháng 8-2022, so với mức 9,8% của tháng 7-2022. Tại khu vực
Eurozone, tỷ lệ lạm phát trong tháng 8-2022 là 9,1%, cao hơn mức 8,9%
trong tháng 7-2022. Các tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm
2021 khi lạm phát tại Eurozone chỉ là 3% và toàn EU là 3,2%. Pháp là
quốc gia có tỷ lệ lạm phát thấp nhất với 6,6%, tiếp theo là Malta (7%) và
Phần Lan (7,9%). Lạm phát vẫn cao nhất tại 3 quốc gia Baltic với lần
lượt Estonia (25,2%), Latvia (21,4%) và Litva (21,1%) (10). Viện
Nghiên cứu kinh tế IFO của Đức dự báo, trong năm 2022, tỷ lệ lạm phát
của nền kinh tế Đức sẽ ở mức 8,1% và năm 2023 là 9,3%. Giá năng
lượng tăng vọt ở châu u kết hợp với sự suy thoái rõ rệt trong chi tiêu
tiêu dùng và hoạt động kinh doanh ở các quốc gia khu vực Eurozone
khiến các nhà kinh tế lo ngại rằng nền kinh tế Eurozone đang bước vào
suy thoái. Để giải quyết thách thức này, ECB buộc phải tăng thêm lãi
suất, chống lạm phát. Tuy nhiên, việc chống lạm phát sẽ khiến chi phí sử
dụng vốn tăng lên, ảnh hưởng đến các nhà đầu tư
31
lớn cùng các quỹ phòng hộ có giao dịch ký quỹ. Tín dụng tiêu dùng tăng
cũng sẽ làm giảm nhu cầu của người dân.

Hình 4. Hơn 70.000 người biểu tình yêu cầu Thủ tướng Séc Petr Fiala từ chức vì
để lạm phát leo thang nghiêm trọng, ngày 3-9-2022. Nguồn: theguardian.com
Theo các nhà phân tích, nguyên nhân chính khiến lạm phát tại EU
gia tăng chủ yếu do những cú sốc kinh tế của đại dịch COVID-19 cùng
cuộc xung đột Nga - Ukraine dẫn tới giá năng lượng tăng phi mã. Tuy
nhiên, việc tìm lời giải cho bài toán hạ giá năng lượng của EU gặp nhiều
khó khăn, nhất là khi nguồn cung khí đốt từ Nga tiếp tục gián đoạn và
nhu cầu sưởi ấm dự kiến tăng cao trong mùa đông sắp tới. Ngoài ra, các
yếu tố như giá thực phẩm tăng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, nắng nóng
kéo dài… cũng là những nguyên nhân khiến tình trạng lạm phát tại EU
càng trở nên nghiêm trọng.
Nguồn cung năng lượng đang bị thiếu hụt trầm trọng, trong khi giá
lại liên tục thiết lập những kỷ lục mới. Hậu quả là các nhà máy công
nghiệp lần lượt phải đóng cửa do chi phí quá cao, trong khi đời sống
sinh
32
hoạt của người dân cũng bị ảnh hưởng nặng nề . Hàng nghìn nhân viên
có thể bị nghỉ việc và không có việc làm. Trước viễn cảnh đó, hầu hết
các dự báo đều cho rằng, nền kinh tế châu Âu sẽ thu hẹp lại trong năm
2022. Ngân hàng JPMorgan Chase dự báo, kinh tế Eurozone sẽ giảm 2%
trong quý IV-2022. Một bài báo trên tạp chí The Economist (Anh) thậm
chí còn cho rằng, kinh tế EU đang rơi vào suy thoá
Dấu hiệu bất ổn xã hội:
Dấu hiệu bất ổn đã xuất hiện ở châu Âu và đang dần lan rộng. Từ
đầu tháng 9-2022 đến nay, tại nhiều nước châu Âu liên tục xuất hiện tình
trạng người dân xuống đường biểu tình phản đối chính phủ do lạm phát,
giá cả sinh hoạt và năng lượng leo thang. Ngày 18-9-2022, tại Moldova,
hàng nghìn người tập trung bên ngoài tòa nhà chính phủ yêu cầu Tổng
thống Moldova Maia Sandu và nội các từ chức vì để xảy ra tình trạng
lạm phát và giá năng lượng tăng cao. Ngay 17-9-2022, hơn 30.000 người
đã tham gia các cuộc biểu tình phản đối giá cả tăng cao ở Áo, trong đó
có khoảng 20.000 người đã xuống đường ở Thủ đô Vienna. Những
người biểu tình gây sức ép với liên minh Xanh - Bảo thủ, cáo buộc nhiều
doanh nghiệp lớn đang bóc lột người tiêu dùng tư nhân khi họ phải vật
lộn trước chi phí năng lượng, sưởi ấm và thực phẩm tăng vọt.
Trước đó, ngày 9-9-2022, tại Đức cũng diễn ra biểu tình ở hai bang
Thuringia và Sachsen với quy mô lên tới hàng nghìn người, đòi chính
quyền phải hỗ trợ chi phí cho các hộ dân, phản đối chính sách thắt chặt
năng lượng của chính phủ. Tại Séc, ngày 3-9-2022, hơn 70.000 người
biểu tình yêu cầu nội các của Thủ tướng Séc Petr Fiala từ chức vì để lạm
phát leo thang nghiêm trọng. Các chuyên gia lo ngại, trong mùa đông
sắp tới, nhiều khả năng bất ổn xã hội sẽ tràn ngập khắp châu Âu. Đối
mặt với tình trạng giá cả leo thang và khả năng phải áp định mức tiêu
thụ, Chính phủ Pháp lo ngại sẽ kích động một làn sóng bất mãn mới
tương tự như phong trào Áo vàng cách đây vài năm.
33
Già hóa dân số:
Châu Âu còn có tên gọi khác là lục địa già, không chỉ xuất phát từ
việc Châu Âu có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời mà còn có ý
nghĩa nhắc nhở về việc dân số của Châu Âu đang có xu hướng già đi
Theo kết quả thống kê, tỷ lệ người người trong độ tuổi lao động
của các nước Châu Âu đang ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Số người
già đã đến tuổi nghỉ hưu tăng lên mạnh mẽ. Trong khi đó, nhân lực trẻ để
bổ sung ngày càng ít ỏi.Theo tính toán, đến năm 2050, tại một số nước
Châu u. Tỉ lệ người lao động và người nghỉ hưu sẽ ngang bằng nhau.
Khi đó, tiền lương hưu sẽ phải chi trả ngày càng nhiều. Điều này ảnh
hưởng vô cùng nghiêm trọng tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã
hội.
Việc tăng trưởng dân số chậm có thể tác động khôn lường đến tình
hình kinh tế. Các công ty đầu tư ít hơn cho tương lai. Người lao động
lớn tuổi sẽ phải tiết kiệm khi về già. Tăng trưởng đình trệ, lãi suất
giảm.Việc tỉ lệ sinh suy giảm làm thay đổi cấu trúc dân số, tuổi trung
bình tăng và số người hưu trí cao hơn. Đồng thời, tuổi thọ cao hơn mang
đang đến nhiều thách thức cho chính phủ và các nhà hoạch định chính
sách: vấn đề về lương hưu,chính sách chăm sóc sức khỏe,...
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do nam nữ Châu Âu đang có
xu hướng không muốn kết hôn hoặc kết hôn nhưng không sinh con, từ
đó làm cho dân số mất cân đối. Tỷ lệ người cao tuổi tăng, già hóa dân số
diễn ra mạnh mẽ.
EU sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn nhất từ trước đến nay.
Sau hai năm đại dịch, các thay đổi trên mọi lĩnh vực ở quy mô toàn cầu
đã gây ra vô số vấn đề cho toàn khối, nếu EU không có hành động nhanh
chóng, các tác động sẽ trở nên tồi tệ hơn. Những vấn đề liên quan cuộc
khủng hoảng Ukraine ngày một nóng lên khi Nga tăng cường lực lượng
ở biên giới, nguy cơ về các mối đe dọa thương mại từ Trung Quốc, cuộc
khủng hoảng người di cư tại biên giới với Belarus…
34
Khủng hoảng di cư đang manh nha trở lại:
Châu Âu giờ đây còn phải đối mặt với làn sóng di cư mới. Số liệu
của Frontex, cơ quan về biên giới của EU công bố cho thấy, số lượng
người di cư đã tăng lên 117.720 người trong 6 tháng đầu năm 2022, tăng
84% so với cùng kỳ năm 2021. Số lượng người nhập cảnh qua Tây
Balkan tăng gần 200%. Dự kiến, khoảng 60.000 người sẽ đi thuyền vượt
biển trái phép để đến châu Âu trong năm 2022, tăng gấp đôi so với năm
2021. Đáng chú ý, những con số này không bao gồm hàng triệu người
Ukraine đã xin tị nạn ở EU kể từ tháng 2-2022. Hầu hết những người tị
nạn gần đây đến từ Syria, Afghanistan, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Belarus,
Bangladesh, Ai Cập và châu Phi cận Sahara. Cuộc xung đột tiếp tục diễn
ra ở Syria, mối đe dọa về các cuộc tấn công quân sự xuyên biên giới của
Thổ Nhĩ Kỳ vào các khu vực của người Kurd, các cuộc xung đột khác ở
Trung Đông và châu Phi, cùng với đó là hậu quả cuộc chiến ở Iraq, đang
làm gia tăng vấn đề nhập cư bất hợp pháp vào châu Âu. Séc không phải
là điểm đến cuối cùng của những người tị nạn. Chỉ trong tháng 6-2022,
khoảng 2.000 người đã cố gắng nhập cảnh vào Đức bất hợp pháp sau khi
đi qua Séc, tăng 140% so với cùng kỳ năm 2021. Nhưng kỷ lục này đã
nhanh chóng bị phá vỡ, với gần 3.000 vụ vượt biên trái phép trong tháng
8-2022.
Có thể thấy, khó khăn, thách thức của châu Âu hiện nay là khá bộn
bề. Châu Âu nói chung, EU nói riêng sẽ phải đổi mới một cách mạnh
mẽ, toàn diện và tăng cường đoàn kết hơn nữa để tạo ra một “đòn bẩy”
đủ mạnh giúp “lục địa già” ổn định lại kinh tế - xã hội. Và ở khía cạnh
khác, cuộc khủng hoảng năng lượng châu Âu hiện nay cũng được xem là
cơ hội, động lực giúp châu Âu quyết tâm hơn trong việc giảm sự phụ
thuộc năng lượng vào Nga.

35

KẾT LUẬN
Trải qua hơn 60 năm hình thành và phát triển, Liên minh Châu Âu
(EU) đạt được nhiều thành tựu to lớn, là hình mẫu liên kết khu vực vì
mục tiêu hòa bình, thịnh vượng và phát triển. Tuy nhiên, sự kiện Brexit
(Anh rời khỏi EU) cùng với hàng loạt các vấn đề khủng hoảng nhập cư,
chủ nghĩa dân túy, đang đặt EU trước những thách thức to lớn. Để thúc
đẩy nhất thể hóa, EU cần phải cải tổ mạnh mẽ hơn nữa, từ cải cách thể
chế tới thực hiện các chính sách trong các lĩnh vực, nhằm giúp EU vượt
qua khủng hoảng. Nhất thể hóa châu Âu là cơ hội để quốc gia cùng hợp
tác xây dựng một giá trị chung, một khối thịnh vượng chung. Những
thành công của hội nhập có tầm quan trọng lớn đối với khu vực châu
Âu. Tuy nhiên, thống nhất không chỉ đơn giản là vạch ra một lộ trình với
một loạt các mục tiêu rồi thực hiện các mục tiêu đó một cách trôi chảy,
mà nó phải trải qua một quá trình lâu dài thử thách quốc gia kiên cường
chống chọi với khó khăn trở ngại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Eurostat: “Inflation in the euro area” (Tạm dịch: Lạm phát
trong khu vực đồng euro), ngày 16-9-2022,
https://ec.europa.eu/eurostat/statistics-explained/ index.php?
title=Inflation_in_the_euro_area#Euro_area_annual_inflation_r
ate_and_its_main_components
2. Ifo Institute: “Expects Germany to face recession and
inflation” (Tạm dịch: Kỳ vọng Đức sẽ đối mặt với suy thoái và
lạm phát), ngày 12-9-2022, https://www.ifo.de/en/press-
release/2022-09-12/ifo-institute-expects-germany-face-
recession-and-inflation
3. The Times: “Europe's energy crisis is going to get worse. The
world will bear the cost” (Tạm dịch: Cuộc khủng hoảng năng
lượng của châu Âu sẽ trở nên tồi tệ hơn. Thế giới sẽ phải trả
giá), ngày 30-8-2022, https://time.com/6209272/ europes-
energy-crisis-getting-worse/
4. Morning Star: “France bracing for ‘catastrophic’ food
shortages following drought, farmers and unions warn” (Tạm
dịch: Pháp chuẩn bị cho tình trạng thiếu lương thực sau hạn hán,
nông dân và các nghiệp đoàn cảnh báo), ngày 9-9-2022,
https://morningstaronline.co.uk/article/w/france-bracing-
catastrophic-food-shortages-following-drought-farmers-and-
unions-warn
5. Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế
Quốc dân
6. Phụng Hoàng. (2005). Lịch sử Quan hệ quốc tế ở châu Âu
trong chiến tranh Lạnh (1949 – 1991)
7. Sự mở rộng Liên Minh Châu Âu nhìn từ góc độ địa chính trị,
Ths Nguyễn Thị Thùy Nguyên, Đại học KHXN&NV
8. Hà Hải Bình (2008), Sự mở rộng của NATO dưới góc độ địa
chính trị, ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, Hà Nội
9. MOUTON, Victoria. Bibliographie chỉ dẫn. La
décolonisation: ses enjeux géopolitiques et son Impact sur le
processus d'intégration européenne. Sanem: Trung tâm Virtuel
de la Connaissance sur l'Europe. 2016.
10. Madsen, Peter. "Đạo luật châu Âu duy nhất". Encyclopedia
Britannica , ngày 20 tháng 3 năm 2023,
https://www.britannica.com/topic/Single-European-Act. Truy
cập ngày 23 tháng 5 năm 2023.
11. VT. (2018). Liên minh châu Âu (EU) - European Unio (EU).
Được truy lục từ tulieuvankien.dangcongsan:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-
chung/to-chuc-quoc-te/lien-minh-chau-au-eu-european-unio-eu-
3287
12. Armingeon, K. and L. Baccaro. 2013. “The Sorrows of the
Young Euro: Policy Responses to the Sovereign Debt Crisis.” In
Coping with Crisis, edited by Nancy Bermeo and Jonas
Pontusson. New York: Russell Sage Foundation.
13. Caporaso, James A. 1974. The Structure and Function of
European Integration. Goodyear Publishing Company, Pacific
Palisades, California.
14. Cox, Robert W. 1989. "Production, the State and Change in
World Order" In Ernst-Otto Czempiel and James N. Rosenau
(eds.). Global Changes And Theoretical Challenges: Approaches
to World Politics for the 1990’s. Lexington: Lexington Books.
15. Collignon, Stefan 2004. Vive la République Européenne.
Paris: Edition de la Martinière.
16. Everling, Ulrich. 1980. "Possibilities and Limits of
European Integration." Journal of Common Market Studies 18:
217-228.
17. Enderlein, H. et al. 2012. Completing the Euro—A road map
towards fiscal union in Europe. Report of the Tommaso Padoa-
Schioppa Group. Notre Europe Study 92. Available at
http://www.notre-europe.eu/media/completingtheeuroreportpado
a-schioppagroupnejune2012.pdf?pdf=ok.
18. Kugler, Jacek, and William Domke. 1986. "Comparing the
Strength of Nations." Comparative Political Studies 19:39-69.
19. Nguyễn, A. H. (2019). Nhất thể hóa Liên minh Châu Âu
hiện nay: Thách thức và xu hướng.

You might also like