You are on page 1of 8

Viêm xương khớp:

- Viêm xương khớp (Osteoarthritis - OA) là một bệnh ảnh hưởng đến tính toàn vẹn
của các mô khớp hai khớp và được đặc trưng chủ yếu bởi sự thoái hóa của sụn
hyaline.

- Viêm khớp thường gặp ở người cao tuổi và dần dần có thể dẫn đến tàn tật nếu
không được điều trị đúng cách. Nó được cho là nguyên nhân gây tàn tật đứng hàng
thứ tư trên thế giới vào năm 2020.

- Viêm xương khớp thường xuyên ảnh hưởng đến đầu gối, hông, bàn tay, bàn chân
và cột sống. Đặc biệt, đầu gối là vị trí bị ảnh hưởng thường xuyên nhất và chiếm
gần 85% gánh nặng của bệnh viêm xương khớp trên toàn thế giới, sau đó là đến
bàn tay và hông.
- Các biện pháp can thiệp bao gồm tập thể dục, trị liệu bằng tay, thay đổi lối sống
và dùng thuốc có thể giúp giảm đau và duy trì khả năng vận động ở các khớp bị
ảnh hưởng, tuy nhiên không có liệu pháp nào có thể thúc đẩy quá trình tái tạo các
mô bị thoái hóa.
-> Tế bào gốc trung mô (MSC) là nguồn hứa hẹn để điều trị viêm khớp do khả
năng biệt hóa thành tế bào sụn và khả năng điều chỉnh hệ thống miễn dịch của
chúng.

* MSC được phân lập từ nhiều nguồn khác nhau:


https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC7868850/
(Hình ảnh sơ đồ về các ứng dụng của tế bào gốc trung mô trong điều trị viêm
xương khớp. MSCs có thể được phân lập từ dây rốn, tủy xương và mô mỡ hoặc
được tạo ra từ các tế bào iPS. Tiêm MSC trong khớp được theo sau bởi sự tăng
sinh hoặc biệt hóa trong ống nghiệm. Bệnh nhân viêm khớp được điều trị bằng
cách tái tạo xương và sửa chữa sụn.)
- Trong số các mô, tủy xương và mô mỡ là nguồn cung cấp MSC trị liệu chính.
- Các nguồn MSC khác nhau có những đặc điểm khác nhau và có những ưu điểm cũng
như nhược điểm riêng.

(KHÔNG CẦN ĐỌC)


Về hàm lượng MSC trong mô, dây rốn (UC-MSC) có hàm lượng cao nhất, tiếp
theo là nước ối và mỡ. Về khả năng tăng sinh của MSC, MSC từ dây rốn và nước
ối có những ưu điểm nhất định, tiếp theo là mỡ và tủy xương (BM-MSC). Xét về
khả năng điều hòa miễn dịch, MSC có nguồn gốc từ mô mỡ, màng ối và dây rốn
(AD-MSC) có khả năng điều hòa miễn dịch vượt trội so với MSC tủy xương, trong
khi MSC nhau thai có khả năng điều hòa miễn dịch thấp nhất. Khi so sánh với các
đặc tính bài tiết cytokine, MSC dây rốn tiết ra nhiều yếu tố tăng trưởng tế bào hơn
MSC tủy xương. Ưu điểm và nhược điểm của các nguồn tế bào gốc khác nhau
được tóm tắt trong bảng sau:
Nguồn MSC Thuận lợi Nhược điểm

Tủy xương Khả năng tiếp cận dễ dàng Tốc độ tăng trưởng tế bào
tương đối thấp
Độ phân biệt đa dòng cao

Thử nghiệm lâm sàng


tương đối đầy đủ

Mô mỡ Khả năng tiếp cận dễ dàng Giảm khả năng biệt hóa

Số lượng khuẩn lạc hình Sự bất cập trong các thử


thành lớn hơn nghiệm lâm sàng

Khả năng điều hòa miễn


dịch vượt trội

Tế bào gốc máu Thời gian nuôi cấy dài hơn Sự hình thành khuẩn lạc
dây rốn tương đối ít

Khả năng tăng sinh cao Năng suất tương đối thấp
hơn

Tác dụng chống viêm cao Sự bất cập trong các thử
hơn nghiệm lâm sàng

- MSC có nguồn gốc từ tủy xương (BM-MSC) là nguồn MSC trị liệu được sử dụng
rộng rãi nhất vì khả năng tiếp cận đơn giản, tăng sinh tế bào nhanh, duy trì lâu dài
khả năng biệt hóa và giảm khả năng loại trừ miễn dịch.
- MSC có nguồn gốc từ mô mỡ (AD-MSC) là một nguồn tế bào hấp dẫn khác của
MSC trị liệu vì khả năng tăng sinh và biệt hóa lớn hơn BM-MSC.
- MSC có nguồn gốc từ dây rốn (UC-MSC) gần đây đã được công nhận là một
nguồn khác cho liệu pháp tế bào gốc vì ưu điểm của chúng là khả năng tăng sinh
cao hơn, khả năng biệt hóa tích cực và khả năng điều hòa miễn dịch vượt trội so
với BM-MSC.

* Liệu pháp tế bào gốc trung mô


- MSC đã được sử dụng rộng rãi trong các mô hình động vật tiền lâm sàng để
nghiên cứu các hoạt động truyền tín hiệu và biệt hóa chondrogenic của chúng để
điều trị viêm khớp, đặc biệt là trong tiêm nội khớp (IA).
- Những lợi ích quan sát được trong các nghiên cứu thực nghiệm này đã thúc đẩy
sự phát triển của liệu pháp MSC thành các thử nghiệm lâm sàng ở người.
- Tiêm nội khớp tế bào gốc trung mô đã mang lại kết quả đáng khích lệ trong điều
trị viêm khớp trong các thử nghiệm lâm sàng, tạo ra sự tái tạo các khiếm khuyết
sụn khớp và giảm bớt các triệu chứng một cách an toàn cũng như hiệu quả.

(a) Tiêm nội khớp:MSC tự thân hoặc đồng loài được nuôi cấy, thu hoạch và tiêm
vào khớp, nơi chúng tạo ra các yếu tố điều hòa miễn dịch, yếu tố dinh dưỡng và
các túi ngoại bào giúp tái tạo tổn thương sụn và giảm bớt các triệu chứng.
(b) Cấy ghép tế bào gốc trung mô tự thân (AMI): MSC được nuôi cấy tự thân được
cấy trở lại vào các vị trí tổn thương của sụn bằng sợi fibrin.
(c) Cấy ghép tế bào gốc trung mô tự thân được hỗ trợ bằng khung (MAMI): một
khung sinh học được đặt vào vị trí tổn thương sụn với các MSC được nuôi cấy mở
rộng.
https://www.mdpi.com/1422-0067/24/12/9939?
fbclid=IwAR19SRWQGvKCp3ZjTTsgLVtf_LbVIBbZQvMWdwyz2rSyw5uMfhRHIlsTcyU

Viêm khớp dạng thấp:


Viêm khớp dạng thấp (Rheumatoid arthritis – RA) là một bệnh tự miễn mãn tính
ảnh hưởng đến màng hoạt dịch của khớp (hệ thống miễn dịch thay vì bảo vệ lại
quay sang tấn công màng hoạt dịch gây tình trạng viêm làm dày bao hoạt dịch)
dẫn đến cứng khớp, đau, viêm, mất khả năng vận động và xói mòn khớp. Ngoài ra
các gân và dây chằng giữ các khớp với nhau cũng bị giãn và suy yếu khiến cho
khớp bị biến dạng và mất tính liên kết.
Viêm khớp dạng thấp không chỉ phá hủy làm tổn thương đến hệ khớp của cơ thể
mà còn có thể làm tổn thương đến cả hệ thống cơ thể bao gồm da, mắt, phổi, tim
và mạch máu.

https://ismq.org.vn/hat-duoi-da-trong-viem-khop-dang-thap/
- Rối loạn chức năng miễn dịch, bao gồm rối loạn hệ thống cytokine, rối loạn
đáp ứng miễn dịch trung gian qua bổ thể có liên quan đến sự tiến triển của
RA.
- Hiện nay, các phương pháp điều trị bằng thuốc, bao gồm corticosteroid,
thuốc chống thấp khớp và tác nhân sinh học được sử dụng để điều chỉnh các
phản ứng miễn dịch đã thay đổi. Việc sử dụng lâu dài các loại thuốc có thể
gây ra tác dụng phụ cho bệnh nhân, cùng với đó là khả năng kháng lại các
liệu pháp điều trị dùng thuốc.
→ Trong những năm gần đây, các liệu pháp dựa trên tế bào gốc trung mô (MSC) –
loại tế bào được biết đến với nhiều chức năng như khả năng biệt hóa thành nhiều
loại tế bào như nguyên bào xương, nguyên bào sụn; đặc tính điều hòa miễn dịch;
thúc đẩy sửa chữa và tái tạo mô - được đề xuất như một phương pháp trị liệu tế
bào gốc mới và đầy hứa hẹn trong điều trị RA.
MSC có thể ngăn chặn tình trạng viêm thông qua tương tác với các tế bào của hệ
thống miễn dịch và thông qua cơ chế cận tiết:

(https://www.mdpi.com/1422-0067/22/21/11592)
- Đại thực bào: đại thực bào trong màng hoạt dịch của bệnh nhân RA có thể
ảnh hưởng đến việc kích hoạt tế bào T và sự di chuyển – kích hoạt của tế
bào B, do đó tạo ra phản ứng viêm. MSC tác động đến sự biệt hóa của đại
thực bào nhằm duy trì sự cân bằng giữa các kiểu hình gây viêm và kháng
viêm: biệt hóa các đại thực bào M1 gây viêm thành các đại thực bào M2
kháng viêm. Đại thực bào M2 tiết ra hàm lượng IL-10 và TGF-β1 cao giúp
ngăn chặn tình trạng viêm và thúc đẩy tái tạo mô.
- Tế bào đuôi gai: tế bào đuôi gai gây ra tình trạng viêm thông qua việc trình
diện các kháng nguyên cho các tế bào T cùng với một lượng cytokine theo
sau đó, kích thích sự biệt hóa ra các tế bào T hỗ trợ. MSC ức chế sự trưởng
thành của tế bào đuôi gai bằng cách giảm kích hoạt và ức chế thụ thể Toll-
like và IL-12 do tế bào đuôi gai sản xuất.
- Tế bào B: MSC góp phần ức chế quá trình tạo tương bào và ảnh hưởng đến
sự biệt hóa tế bào B qua trung gian là chất đối kháng thụ thể IL-1RA do
MSC tiết ra.
- Tế bào T: có tác động lớn và đóng vai trò quan trong trong cơ chế bệnh
sinh của bệnh RA. MSC có khả năng kiểm soát sự tăng sinh, biệt hóa và hoạt
động của tế bào T và làm giảm việc sản xuất các cytokine gây viêm. Một số
nghiên cứu đã chứng minh rằng việc áp dụng MSC làm giảm đáng kể nồng
độ cytokine gây viêm (IL-1β, IL-6), trong khi mức độ biểu hiện của cytokine
chống viêm (IL-10) lại tăng lên
Cách ghép tế bào gốc trung mô: Hiện nay, điều trị khớp bằng tế bào gốc tự thân
từ mô mỡ hoặc tế bào gốc đồng loài từ mô dây rốn là hai phương pháp phổ biến.
Để đưa tế bào gốc đến vùng tổn thương phương pháp tiêm nội khớp thường được
sử dụng.
(https://tamanhhospital.vn/dieu-tri-thoai-hoa-khop-bang-te-bao-goc/)
(KHÔNG CẦN ĐỌC)
(Có hai con đường chính để đưa tế bào gốc đến vùng tổn thương là ghép cục
bộ và truyền tĩnh mạch:
- Đối với ghép cục bộ, tế bào gốc được tiêm trực tiếp vào vùng khớp tổn
thương. Đây là cách chủ động để kiểm soát được chắc chắn rằng tế bào gốc
được đưa đúng đến vị trí mà bác sĩ mong muốn.
- Đối với con đường tiêm truyền qua tĩnh mạch, việc kiểm soát đường đi của
tế bào phức tạp hơn. Thực tế, tại vị trí tổn thương, tế bào tổn thương và các
tế bào xung quanh nó đã tiết ra các tín hiệu. Bản chất của các tín hiệu này
là các yếu tố hòa tan trong máu, nó sẽ theo dòng máu đến khắp nơi trong cơ
thể với thông tin phát ra báo hiệu rằng có tổn thương xảy ra tại một vị trí cụ
thể trong cơ thể. Tùy vị trí tổn thương khác nhau mà các tín hiệu phát ra sẽ
có những đặc trưng riêng và nhờ đó các tế bào gốc có thể nhận diện và đi
đến được đúng vị trí. Bên cạnh khả năng tự có của cơ thể, bác sĩ cần phải
can thiệp trước đó nhằm đưa tế bào đến đúng vị trí. Tế bào gốc được nhận
tín hiệu sẽ bắt đầu quá trình hoạt hóa, di chuyển để đi đến vị trí tổn thương,
tham gia chữa lành vết thương. Quá trình này được gọi là cư trú.
Quá trình di chuyển phức tạp của tế bào gốc được điều phối bởi một lượng lớn
các cytokine, phân tử bám dính và các yếu tố tăng trưởng cần thiết cho việc
kiểm soát tốt sự tái sinh các mô chức năng một cách an toàn và hiệu quả.
Cytokine là các protein hay glycoprotein không phải kháng thể được sản xuất
và phóng thích bởi các tế bào bạch cầu viêm và một số tế bào khác không phải
bạch cầu. Các protein này hoạt động trong vai trò là các chất trung gian điều
hòa giữa các tế bào trong cơ thể. Cytokine giúp tế bào “sống sót”, tham gia
vào rất nhiều quá trình sinh học trong cơ thể như tạo phôi, sinh sản, tạo máu,
đáp ứng miễn dịch, viêm.)

You might also like