You are on page 1of 84

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN


ĐỀ TÀI:

TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG THƠ HUY CẬN

(NHÓM 1)

Giảng viên: Hoàng Thị Thùy Dương


Học phần: Văn học hiện đại Việt Nam I
Mã lớp HP: LITR146001

S THÀNH PHỐ CÔNG


TÊN THÀNH HỒ CHÍ MINH
TỰ – THÁNG
NHÓM 10NHÓM
NĂM 2023TỔNG ĐIỂM
TT VIÊN VIỆC PHỤ ĐÁNH ĐÁNH TRƯỞNG (%)
TRÁCH GIÁ GIÁ ĐÁNH
GIÁ
(40%) (40%)
(20%)

Thuyết trình
Cao Thu Nguyệt chương 3,
(Nhóm trưởng) viết tiểu kết 100 100 100 100
1
47.01.601.081 chương 3 và
lời mở đầu

Thuyết trình
Trần Quốc Diệp chương 1,
2 100 100 100 100
47.01.601.043 viết tiểu kết
chương 1

Thuyết trình
Đinh Hương Minh chương 2,
3 100 100 100 100
46.01.601.077 viết tiểu kết
chương 2

Viết nội
Võ Thị Thuý Quỳnh
4 dung phần 100 99,1 100 99
46.01.601.120
1.1

Viết nội
Lê Triệu Vy
5 dung phần 100 100 100 100
47.01.601.109
1.2

Viết nội
Vũ Hà Thuỷ Tiên
6 dung phần 100 99,5 100 99
4501611122
2.1

7 Trần Thị Thuỳ Dung Viết nội 100 100 100 100
dung phần
47.01.601.109 2.2

Viết nội
Mạc Hoàng My
8 dung phần 100 100 100 100
47.01.601.075
2.3

Viết nội
Kim Xuân Mai
dung phần 100 100 100 100
9
47.01.601.070
3.1

Viết nội
Phạm Thị Mai
1
dung phần 100 100 100 100
0 47.01.601.072
3.2

Dương Thị Cẩm Viết nội


1 Nhung dung phần 100 100 100 100
1
46.01.601.101 3.3

Viết tổng
Ngô Huỳnh
kết, Tổng
1 Thanh Trâm
hợp Word 100 100 100 100
2 46.01.601.13
và làm
6
PowerPoint

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
Chương 1: Khái quát chung......................................................................2
1.1. Đôi nét về nhà thơ Huy Cận..................................................................2
1.1.1. Cuộc đời.............................................................................................2
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác..............................................................................2
1.2. Tình yêu đôi lứa trong phong trào thơ mới...........................................4
Tiểu kết chương 1.....................................................................................10
Chương 2: Đặc sắc nội dung trong thơ tình Huy Cận..........................11
2.1. Tình yêu đôi lứa cùng nỗi buồn...........................................................11
2.2. Cõi mộng tình yêu ..............................................................................26
2.3. Tình yêu đôi lứa cùng lời tâm tình kín đáo.........................................34
Tiểu kết chương 2.....................................................................................49
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật trong thơ tình Huy Cận.......................50
3.1. Ngôn từ nghệ thuật..............................................................................50
3.1.1. Sử dụng từ láy một cách hiệu quả....................................................50
3.1.2. Độc đáo trong việc sử dụng danh từ và định ngữ.............................52
3.1.3. Nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt.......................................................53
3.1.4. Cách sử dụng từ loại động từ và bổ ngữ của động từ......................54
3.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật...................................55
3.2.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................55
3.2.1.1. Không gian vũ trụ..........................................................................55
3.2.1.2. Không gian trần thế.......................................................................56
3.2.2. Thời gian nghệ thuật.........................................................................59
3.3. Tính nhạc điệu trong thơ.....................................................................62
Tiểu kết chương 3.....................................................................................67
TỔNG KẾT...............................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................69
PHỤ LỤC..................................................................................................71
MỞ ĐẦU
Huy Cận là một trong những nhà thơ trong phong trào thơ mới, ông đã để lại
cho đời những tập thơ quý giá như tập thơ Lửa Thiêng, Vũ Trụ Ca… hay những bài thơ
được đưa vào chương trình dạy học như Tràng Giang. Sáng tác trước Cách mạng tháng
8 năm 1945 của ông thường mang một nỗi buồn mang mác, trải dài các bài thơ, sau
Cách mạng thì mang một tinh thần lạc quan, tươi vui – khác với trước.
Trong phong trào thơ mới, chủ đề tình yêu là một trong những đề tài mà các nhà
thơ mới lúc bấy giờ khai thác khá nhiều. Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có những phong
cách thể hiện khác nhau đối với chủ đề tình yêu này, tạo nên một “khu vườn tình ái”
rực rỡ trên mảnh đất thơ mới. Vậy những “đoá hoa” của “hạt giống” có điểm gì đặc
biệt so với những “đoá hoa” khác. Đề tài chúng tôi sẽ phân tích những điểm nổi bật
trong thơ tình Huy Cận, xét về cả nội dung và nghệ thuật.

1
Chương 1: Khái quát chung
1.1. Đôi nét về nhà thơ Huy Cận
1.1.1. Cuộc đời
Huy Cận, tên khai sinh là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, mất
ngày 19 tháng 5 năm 2005. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông
dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân
Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ
Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp
rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở
phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu.
Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt
Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được
bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận
cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sau Cách mạng tháng Tám thành
công, khi mới 26 tuổi, ông đã là Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ liên hiệp
lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh đứng đầu Chính phủ. Từ cuối
năm 1945 ông là Ủy viên Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ.
Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa
Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ.
Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật
Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII. Tháng 6
năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Sự nghiệp sáng tác của Huy Cận chia thành 2 giai đoạn: Trước Cách mạng
tháng Tám và sau Cách mạng tháng Tám. Trước Cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận
mang nét sầu não, buồn thương. Còn sau Cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận đã lột

2
xác hoàn toàn, trở nên mới mẻ và tràn đầy sức sống. Có thể thấy rằng các sáng tác của
Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.
Giai đoạn trước tháng 8 năm 1945: Năm 1940, nhà thơ Huy Cận cho in tập
thơ “Lửa thiêng” gồm những bài đã đăng trên báo từ năm 1936-1940. Tập thơ này
mang một nỗi buồn da diết, thiên nhiên thì bao la, hiu quạnh. Nhưng chính tập thơ này
Huy Cận trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ Mới (1932-
1941) lúc bấy giờ. Ông còn nhiều tập thơ khác được in trên báo. Các tác phẩm như
Kinh cầu tự (1942, văn xuôi triết lí) và Vũ trụ ca (thơ đăng báo 1940-1942) ... đã mang
một màu sắc tươi mới hơn. Giai đoạn này hồn thơ Huy Cận mang nỗi u sầu, ảo não
mang nỗi sầu nhân thế. Bơ vơ trước cuộc đời, không tìm được hướng đi cho bản thân
mình.
Giai đoạn sau tháng 8 năm 1945: Giai đoạn này Huy Cận tìm được lý tưởng
của bản thân, chính con đường cách mạng đã thắp lên tia sáng, sự tươi mới đầy lý
tưởng và lạc quan tin vào tương lai trong thơ của ông. Ông cũng sáng tác một số tác
phẩm về biển. Các tập thơ như: Trời mỗi ngày lại sáng, Chiến trường gần đến chiến
trường xa, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi), Họp mặt thiếu
niên anh hùng, Những người mẹ, những người vợ, Ngày hằng sống ngày hằng thơ,
Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo, những năm sáu mươi.
Một số bài thơ tiêu biểu:
 Tập Lửa Thiêng (1940)
 Vũ Trụ Ca (1940 - 1942)
 Trời mỗi ngày lại sáng (1958)
 Đất nở hoa (1960)
 Bài thơ cuộc đời (1963)
 Hai bàn tay em (1967)
 Phù Đổng Thiên Vương (1968)
 Những năm sáu mươi (1968)
 Cô gái Mèo (1972)
3
 Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973)
 Thơ tình Huy Cận (1994)
1.2. Tình yêu đôi lứa trong phong trào thơ mới
Phong trào Thơ mới 1932-1945 là giai đoạn có những phát triển vượt bậc được
Hoài Thanh nhận xét “một ngày bằng mấy mươi năm”. Để có được lời nhận xét ấy,
hẳn thơ mới phải là một hướng đi đầy ngoạn mục của nền thơ ca Việt Nam. Hồn thơ ấy
đã gỡ xuống tấm áo trung đại đã tồn tại cả hàng trăm năm, đến nay đã sờn cũ phai màu
để khoác lên mình chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ, thay vì chỉ giữ nguyên những gì
là truyền thống, thì thơ mới đã thích nghi với thời đại và đi vào khám phá các khía
cạnh mới, mang đến những cái nhìn đa dạng hơn. Mới mẻ và đa dạng ở chỗ, tư duy lẫn
cảm nhận, tương quan với thế giới lẫn ngôn ngữ thơ đều có sự đóng góp để cùng thay
đổi. Cũng chính vì lẽ đó, phong trào thơ mới còn được xem là “cuộc cách mạng thi ca
chưa từng có trong lịch sử văn học dân tộc” (Trần Đình Sử, 1997), Những thế giới
nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, tr.107), là mảnh đất màu mỡ đã vun trồng biết bao hồn
thơ, luôn được trở thành tâm điểm nghiên cứu của nhiều công trình khoa học với nhiều
góc độ khác nhau.
Thế nhưng, tựu trung lại thì không ai có thể phủ nhận được thành tựu của thơ
mới đã góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, thúc đẩy sự
cách tân đồng bộ, toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống văn học, từ
những cảm xúc cá nhân cho đến những suy tư xã hội và chính trị.
Thơ mới được chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu từ 1932 -1935 là giai đoạn
đánh dấu sự chớm nở của thơ mới nổi bật với sự đấu tranh, công kích gay gắt đối với
thơ Đường luật. Giai đoạn 1936-1939 là giai đoạn thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so
với “thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Đây là giai đoạn xuất hiện
nhiều cây bút có tên tuổi lớn như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… Họ đều
thể hiện rõ tài năng nghệ thuật đặc sắc cũng như nói lên cảm xúc của mình một cách
trọn vẹn sau suốt một thời gian dài bị kìm hãm. Giai đoạn sau cùng là 1940-1945 với
nhiều khuynh hướng khác nhau xuất hiện, về cơ bản vẫn giữ được nét đặc trưng của
4
thơ mới những giai đoạn đầu song đã bắt đầu có sự thoái trào, cho thấy sự vận động tất
yếu của thơ mới.
Đọc lại những dòng Hoài Thanh đã chắp bút trong Thi nhân Việt Nam là cả một
khoảng trời suy tư âm vang với thời đại: “... trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao
giờ có một thời đại phong phú như thời đại này...” (Hoài Thanh, Hoài Chân (1988).
Thi nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 25). Gắn với phong trào thơ mới là cả
một xu thế khai thác thế giới tâm hồn con người qua nhiều cung bậc cảm xúc với đủ
mọi nỗi niềm cô đơn, yêu đương, có khi là hờn giận, chia ly, có khi lại day dứt bởi nỗi
đợi chờ khắc khoải.
“Ta là một, là riêng, là thứ nhất” (Trích “Hy Mã Lạp Sơn”, Tuyển tập Tự lực
văn đoàn, tập III, NXB Hội nhà văn), Xuân Diệu đã từng thốt lên như thế. Khuynh
hướng chung của thời kì thơ mới những năm 1932-1945 là khuynh hướng lãng mạn với
những góc nhìn mang tính thẩm mỹ hóa hiện thực rối ren của xã hội. Bởi vậy, đây cũng
là lúc mà cái tôi trữ tình đặc sắc hơn cả, lên ngôi mạnh mẽ với biết bao khao khát mong
được trọn vẹn cái “tôi”, cái “tình”.
Không thể phủ nhận sự thành công rực rỡ của phong trào thơ mới bởi bước
ngoặt quan trọng trong văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Thơ mới rộng mở chủ đề
tình yêu, hoặc hướng về tình thôn quê, có khi man mác kỷ niệm, khi lại bâng khuâng
cùng đất trời, vũ trụ hay tâm tưởng vọng về quá khứ… Nhưng điều đáng nhắc tới là sự
cách tân về chủ đề tình yêu đôi lứa, bởi ngòi bút của phong trào thơ mới đã cho phép
tình yêu được tự do cất lên tiếng nói của lứa đôi. Các nhà thơ đã dám khám phá những
khía cạnh sâu sắc và phức tạp của tình yêu, bao gồm cả niềm hạnh phúc và nỗi đau
khổ, khác hẳn với thơ cũ ít nói đến tình cảm trong sáng và đẹp đẽ này bởi những rào
cản của nho giáo phong kiến, tấm lòng đôi bên phải khép mình lại trong những khuôn
phép mực thước.
Cuộc sống của dân ta trải ra đến đâu thì hóa thành thơ đến đó. Biết bao vần thơ
đã chứng kiến và ghi nhận từng khía cạnh đời sống và tình cảm của người dân Việt.
Qua thơ, ta thấy được dòng thời gian đang chảy trôi, thấy được cái “tình” mà bất cứ nơi
5
đâu ta cũng gặp: tình non nước, tình quê hương, tình bằng hữu, và đặc biệt là tình yêu
đôi lứa - “cây đàn muôn điệu” (Thế Lữ) chạm vào từng ngõ ngách tâm hồn con người.
Trước đó, văn học dân tộc đã có cả một kho tàng ca dao, dân ca nói về tình yêu
lứa đôi. Tình yêu cũng là một đề tài lớn trong thơ cổ điển. Ví như Truyện Kiều của
Nguyễn Du, hay thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ…. Điều đặc biệt trong
những tác phẩm ấy là xu hướng vượt khỏi mọi rào cản định kiến, đòi quyền sống và
giải phóng cá nhân khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến để hưởng quyền hạnh
phúc của con người.
“Tình già” đăng trên Phụ nữ Tân văn (10.3.1932) được biết đến là bài thơ mở
đầu cho phong trào thơ mới. Không chỉ thể hiện sự tự do trong tình yêu, “Tình già” còn
khám phá những cảm xúc phức tạp của tình yêu và cuộc sống, góp phần làm thay đổi
cách nhìn phong kiến của người Việt về ái tình, khiến cho tình yêu trở nên tự do và
chân thực hơn. Với những tiêu biểu cho thể loại thơ mới từ hình thức đến nội dung, tác
phẩm này cũng đã tạo nên một tiền đề cho sự phát triển của phong trào thơ mới và
những nhà thơ hàng đầu như Lưu Trọng Lưu, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận và nhiều
người khác.
Người ở bên trời ta ở đây;
Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy.
Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây.
Vạn lý tình
Thời kì lãng mạn là giai đoạn bùng nổ tình cảm, lấy tình yêu làm chủ đề trung
tâm là điều thật dễ hiểu. Lấy cái tôi làm trung tâm, lấy thanh sắc trần gian làm tài liệu
thì thanh sắc yêu đương thực sự chiếm vị trí hàng đầu. Tình yêu ấy không gò bó bởi
một định kiến nào, nó tuân theo một quy luật cuộc sống: quy luật giải phóng cá nhân,
đem lại tự do cho con người được yêu, được hạnh phúc.

6
Tiếng thơ - tiếng lòng của Xuân Diệu tiên phong trong phong trào Thơ mới giai
đoạn 1930-1945 với những lời tự bạch kêu gọi tuổi trẻ hãy yêu và sống hết mình trong
cái hữu hạn của đời người.
Xuân Diệu với mệnh danh “ông hoàng thơ tình” bởi lẽ tình yêu trong Xuân
Diệu nồng nàn, da diết và mãnh liệt, đôi lúc tưởng chừng như giây phút cuối cùng được
yêu. Ông thường yêu một cách toàn diện, bằng tất cả các giác quan và kể cả là tâm hồn,
trái tim và khối óc. Cách định nghĩa tình yêu của Xuân Diệu thực sự độc đáo và sâu sắc
bởi ông coi tình yêu là những điều tận tụy nhất từ tâm tư tình cảm của mình.

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.

Vội vàng
Ông luôn đặt trái tim và tâm hồn mình vào những tình cảm tinh túy và sâu lắng,
thể hiện tình yêu không chỉ bằng những từ ngữ, mà còn bằng cảm xúc và tâm trạng của
mình, không ngần ngại thể hiện những trạng thái tâm hồn, những cung bậc cảm xúc đa
dạng của tình yêu. Có lẽ một tình yêu nhẹ nhàng, giản đơn sẽ không đủ cho trái tim
nồng nhiệt của ông: “Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi!” (Tương tư chiều).
Lại nói đến Hàn Mặc Tử, mặc dù ông không viết nhiều về tình yêu đôi lứa,
nhưng tác phẩm của ông thường thể hiện sự ám ảnh và nỗi đau của mình đối với cuộc
đời và tình yêu. Những bài thơ về tình yêu của ông thường nói về nỗi đau sâu sắc khi
tình yêu không được đáp lại hoặc khi nó tan vỡ. Nỗi nhớ, nỗi thương thường là chủ đề
chính trong các tác phẩm về tình yêu của Hàn Mặc Tử:

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ,

Em lấy chồng rồi hết ước mơ…

7
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,

Ngồi lên để thả cái hồn thơ…

Em lấy chồng

Cảm xúc khi bồi hồi, khi da diết mãnh liệt, khi câm lặng như được khắc vào tâm
trí người đọc một cách chân thực và sâu sắc, làm cho người đọc cảm nhận, và có khi là
ám ảnh sự điên loạn và bất ổn trong hồn thơ không tồn tại sự sống của ông:

Trời hỡi bao giờ tôi chết đi?

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Bao giờ mặt nhật tan thành máu

Và khối lòng tôi cứng tợ si?

Những giọt lệ
“Cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai lá giống nhau. Trong rừng người
cũng vậy, chưa từng thấy hai người hình dung giống hệt như nhau. Hình dung còn thế
huống nữa là tinh thần.” (Từ Sơn, 1999). Nếu thơ Xuân Diệu mang hơi hướng của
những dòng thơ tượng trưng Pháp, thơ Huy Cận đậm dấu ấn từ thời trung đại của thơ
Đường, thì thơ Nguyễn Bính lại mang một cảm quan rất thuần Việt. Giữa buổi tân thời,
khi người ta náo nức đi tìm những hội vui, say sưa trong những thứ mới mẻ, thì
Nguyễn Bính quay trở lại với con đường đất, tìm trở về linh hồn làng mạc, băn khoăn
về sự chuyển giao với tình cảm chân thành và tha thiết. Quan niệm tình yêu của
Nguyễn Bính so với những nhà thơ Mới khác cũng có sự khác biệt rõ ràng và rất mực
truyền thống: tình yêu phải gắn liền với hôn nhân.
Kể đến Huy Cận, ta thường nhớ đến sự tập trung vào cảm xúc và tâm trạng của
tác giả đối với người yêu, chứ không phải việc bộc lộ bằng mọi hình thức hiện hữu của

8
thân thể như trong một số bài thơ tình khác của Xuân Diệu. “... động tiên đã khép, tình
yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Tơ ngơ ngẩn buồn trở về hồn
ta cùng Huy Cận.” (Hoài Thanh - Hoài Chân, 1988, tr.45). Quả vậy, sắc thái đặc biệt
của thơ tình Huy Cận là sự thể hiện tình yêu một cách sâu sắc và tinh tế bằng cách tạo
ra không gian tình yêu và giao cảm tinh thần. Tình yêu đôi lứa trong thơ Huy Cận dịu
và thấm chứ chẳng ào ạt đắm say, hay thổn thức não nề, hay da diết tuyệt vọng. Bởi
trạng thái trong thơ ông như chơi vơi chếnh choáng giữa vũ trụ, như hòa quyện bởi
những điều trong trẻo nhất của tâm hồn, lại như tiếng thì thầm chỉ được cảm nhận khi
độc giả chính tâm thức của mình để lắng nghe.

Người ở bên trời ta ở đây;

Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy.

Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,

Vạn lý sầu lên núi tiếp mây.

Vạn lý tình
Thế mới thấy, thơ mới thực sự là một cuộc cách mạng trong văn học Việt Nam
khi nó đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng nhất của văn học Việt Nam trong thời kỳ thơ
mới. Mà đặc biệt hơn cả là khi phong trào thơ mới đã giải phóng cái tôi cá nhân của
từng hồn thơ, từng bước dẫn dắt thi đàn Việt Nam vào giai đoạn sôi nổi nhất. Và có lẽ,
đây chính là lúc, là nơi tình yêu đôi lứa không chỉ là một đề tài, mà còn là nguồn cảm
hứng chính để thể hiện cảm xúc với biết bao tinh tế và sâu lắng. Để hiểu hết, hiểu sâu,
hiểu đa chiều tình yêu trong thơ mới, người đọc cần phải dành cả thời gian lẫn tâm
huyết để tìm hiểu và khám phá, mà có khi là cả một đời người mới có thể làm được
điều ấy.

9
Tiểu kết chương 1
Từ góc nhìn khách quan, trong chương này nhóm chúng tôi nhấn mạnh có hai
vấn đề quan trọng cần đáng chú ý. Thứ nhất, về cuộc đời sự nghiệp sáng tác của nhà
thơ Huy Cận, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân, giác
ngộ lí tưởng cách mạng từ khá sớm, tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt
trận Việt Minh, đây được xem yếu tố giúp nhà thơ của chúng ta thấm nhuần những lí
tưởng sâu sắc về cuộc sống và tình yêu, là nền tảng cho việc phát triển con đường thơ
ca sau này. Đã từng có cơ hội cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn, có thể nói đây là
một trong những bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của thi sĩ, có ảnh hưởng lớn
trong việc hình thành và phát triển tình cảm trong thơ của Ông. Bên cạnh những tập
thơ giá trị mang ý nghĩa vượt thời đại thì nhắc đến Huy Cận không thể không kể đến ba
tập thơ chính là - Tập Lửa Thiêng (1940), Vũ Trụ Ca (1942), Trời mỗi ngày lại sáng
(1958).
Thứ hai, trong quá trình vận động và phát triển của nền văn học Việt Nam thì
phong trào thơ mới được xem như “cuộc cách mạng thi ca chưa từng có trong lịch sử
văn học dân tộc”, bởi lẽ cũng từ đây mà vấn đề tình cảm cá nhân, những nỗi niềm
thầm kín từ trước đến nay chưa dám thể hiện rõ nét sau bức màn nhung của văn học
trung đại. Và đặc biệt hơn cả là khi phong trào thơ mới đã giải phóng cái tôi cá nhân
của từng hồn thơ, từng bước dẫn dắt thi đàn Việt Nam vào giai đoạn sôi nổi nhất, dưới
ánh sáng của phong trào thơ mới, có biết bao nhiêu câu chuyện về tình yêu đôi lứa với
những khung bậc khác nhau của các thi sĩ, nhiều xúc cảm cũng trở nên khắc họa đậm
đà hơn, sâu sắc hơn như chưa bao giờ có từ trước đến nay. Phong trào thơ mới đã giúp
10
những cây bút thỏa sức thể hiện cái tình yêu đôi lứa dạt dào trong mỗi nhà thơ trong đó
có Huy Cận.

Chương 2: Đặc sắc nội dung trong thơ tình Huy Cận
2.1. Tình yêu đôi lứa cùng nỗi buồn
Mặc dù Huy Cận nổi tiếng với những bài thơ, những con chữ thấm đẫm một nỗi
sầu vạn kỉ, một ngòi bút mà đã hết lòng cho cách mạng, thế nhưng ở một mặt khác
trong cuộc đời, ông vẫn là một con người bằng máu thịt và có một trái tim thổn thức
trước tình yêu. Huy Cận cũng đã có lần kể rằng: “Tình yêu của tôi cũng như tình yêu
của nhiều người, không có cái gì đặc biệt. Có những tình yêu lâu dài, dai dẳng cho đến
tận sau này, cũng có những tình yêu ngắn ngủi. Và cũng có cả những tình yêu không
thành. Nhưng mà tôi cũng có những cái tình yêu hấp dẫn...”.1Như vậy, ta có thể cảm
nhận được rằng dẫu qua nhiều, trong tâm hồn Huy Cận vẫn sáng lên một ngọn lửa yêu
đời và yêu người. Dù vậy, ngay cả trong những bài thơ viết về tình cảm, Huy Cận cũng
dường như chẳng thể thoát khỏi nỗi buồn.
Trước tiên, ta biết rằng Huy Cận đã làm thơ từ rất sớm, ngay từ lúc ông chỉ mới
đôi mươi, ông đã viết nhiều bài thơ đăng báo. Nhưng ngay từ khi mới bắt đầu viết, nỗi
buồn da diết đã xuất hiện ở trong thơ của ông nói chung, thơ tình nói riêng ta đều có
thể thấy được điều này. Để lý giải một phần của nỗi buồn trong Huy Cận ta có thể tiếp
cận trên một số phương diện: xã hội, gia đình, cá nhân Huy Cận.

1
Huy Cận và một mối tình thơ (2006), Tuổi trẻ online

11
Đối với xã hội lúc bấy giờ những năm trước 1945 đương là lúc giao thời đầy rối
ren, những cảnh đời éo le, những công cuộc đấu tranh rải rác khắp nơi. Đồng thời đó
cũng là thời đại của thơ Mới. Huy Cận cũng là một trong số những nhà thơ mới. Mà
đặc trưng của thơ mới có thể kể tới việc các nhà thơ mạnh dạn nói ra cái tôi cá nhân,
nói ra sự cô đơn, buồn rầu trong bản thân mình và đồng thời cũng vẫn rất lãng mạn,
vẫn nhìn thấy thế giới này không hẳn tuyệt vọng. Điều này sinh ra bởi sự bất hoà với
thực tại, bất hoà giữa nhân sinh thời thế và thẩm mĩ. Do vậy các nhà thơ Mới đã có
những trải nghiệm cá nhân rồi cuối cùng đã coi sự buồn, sự đau trong đời cũng như là
một phạm trù mĩ học. Từ đây, ta có 3 mối sầu tư lớn trong thường thấy trong thơ Mới
đó là: sầu nhân thế - sầu thời thế - sầu thân thế. Chính Huy Cận cũng có những nỗi sầu
này trong thơ của mình. Tuy nhiên, kể cả khi các dòng thơ Tây thành thực nói về cảm
nhận cá nhân, cái tôi cá nhân đến như thế nào nhưng Huy Cận vẫn cảm thấy không trọn
vẹn khi bày tỏ những suy tư, tình cảm trắc ẩn, thẳm sâu, chân thực trong cõi lòng mình.
Dường như cũng bởi vì cảm giác không hiểu, không trọn vẹn như vậy để rồi Huy Cận
quay trở về với nỗi buồn vạn cổ phương Đông. Có người đã nhận xét rằng: “Cái hồn
thơ ấy thẳm vời về sâu xa ký ức ngàn năm dân tộc. Ông cô đơn một mình giữa mênh
mông Thơ mới, cô đơn trong chính cõi lòng, trong chính sự ồn ào náo động Thơ mới.
Phải chăng chính nỗi niềm ấy đã biến chàng trai đang tràn trề sức của tuổi hai mươi
lại mang trong mình một tâm hồn thơ vạn cổ, nhưng đầy cuốn hút, trẻ trung.”2
Đối với gia đình của Huy Cận. Gia đình nhà Nho nghèo ở tại chân núi Mồng
Gà, sông Ngàn Sâu (Hương Sơn, Hà Tĩnh). Cha ông vốn là một nhà Nho có tiếng
nhưng sau đó đã về quê dạy học. Cha và mẹ ông đều rất yêu chữ nghĩa, cha ông đặc
biệt yêu thích và thông hiểu truyện Kiều. Từ nhỏ Huy Cận đã được tiếp xúc với những
vần thơ trác tuyệt của Nguyễn Du thông qua cha ông như vậy. Nhưng sau này do gia
đình nghèo nên ông được gửi vào cậu ở Huế để nhờ cậu nuôi ăn học, cho đến lúc đỗ tú
2
Trần Anh Thái. (2019). Hồn buồn trường cửu trong thơ Huy Cận. Báo quân đội nhân
dân

12
tài Pháp và trở ra học tại trường Cao đẳng Canh nông Hà Nội, đây cũng là lúc ông bắt
đầu ở cùng Xuân Diệu tại Hà Nội. Mở ra một thời đại với hai nhà thơ nổi tiếng với nỗi
buồn.
Đối với cá nhân Huy Cận. Huy Cận từ thuở nhỏ đã được thấy núi cao sông lớn,
sống trong cảnh thiên nhiên tự tại đẹp vô cùng nên có lẽ niềm yêu thích với quang cảnh
quê hương nước nhà đã được nhen nhóm từ đây. Hơn nữa, sống trong môi trường cha
mẹ đều yêu thơ Nguyễn Du, yêu những vần thơ cổ đầy tinh tế, nên Huy Cận cũng đã
mang theo những ảnh hưởng bởi thơ cổ, thơ Đường, và sau này khi trở thành tú tài
Pháp ông còn tiếp nhận thêm những ảnh hưởng từ văn học Pháp. Ngoài ra ta có thể
thấy, cuộc đời học tập của ông luân chuyển rất nhiều nơi trên đất nước. Có lẽ trong quá
trình di chuyển và sinh sống tại nhiều địa điểm trong thời cuộc hỗn loạn như vậy đã
làm cho Huy Cận thấy được nhiều tình cảnh nhân gian hơn những người đồng trang
lứa.
Đối với chuyện tình cảm cá nhân ông cũng đã có những mối tình dài ngắn trong
đời nhưng dường như khi còn trẻ, nhưng năm trước 1945, chuyện tình nam nữ của ông
không thật sự nổi bật. Thậm chí còn có những đồn đại lặng lẽ về quan hệ bạn bè giữa
ông và Xuân Diệu. Những điều ấy thật mơ hồ và riêng tư. Không có nhiều tư liệu để
bàn luận về đề tài này. Đành chỉ xem như đời sống tình cảm riêng tư của Huy Cận hồi
trẻ là một mảng mờ với những đường nét thấp thoáng hiện lên qua những con chữ,
những bài thơ mà ông để lại.
Và cá nhân ông cũng đã từng chia sẻ rằng “Tôi có ước mơ và mộng tới một sự
nghiệp làm một cái gì cho văn học và triết học nước nhà. Tôi thích không gian mênh
mông, xa vắng, thích văn chương, suy nghĩ về thế sự và kiếp người. Tất cả những chất
liệu đó dễ vào trong tôi, bồi đắp tôi. Cảnh trời đất mênh mông, bát ngát, cuộc đời
nhiều xót xa là cái gốc cho tôi cảm thương. Tôi là một sinh viên có lòng yêu quê hương
đất nước và luôn biết đến truyền thống quê hương (một xã có phong trào Xô-viết -
Nghệ Tĩnh). Yêu quê hương đất nước, nhưng không tìm được ra lối thoát. Và tuổi trẻ
cũng rất yêu cuộc sống, cuộc đời rất đáng sống nhưng càng yêu cuộc đời càng thấy bế
13
tắc, xoáy sâu vào bế tắc. Sau này tôi thâu tóm lại trong mấy chữ: Yêu đời nhưng đau
đời.” 3Dường như bởi vì nhiều lẽ ấy Huy Cận dẫu chỉ mới đôi mươi nhưng lại mang
trong mình những suy tư tư về cuộc đời, về nhân tình thái thế đầy sâu sắc. Những suy
tư không làm cho mọi chuyện thay đổi, thời thế chẳng thể tốt đẹp lên chỉ vì người ta
suy tư. Vậy là đối với Huy Cận “Cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn buồn”. Để rồi Huy
Cận đã phải thốt lên rằng:

Này đây là nước mắt,


Ngọc đau buồn, nguyên khối vẫn chưa tan,
Trình bày
Tôi đã đành mang nặng nghiệp yêu thương.
Từng bước lạnh teo, một mình lủi thủi,
Tin ngây thơ: hồn sẽ hiểu qua hồn;
Tôi đâu biết thịt xương là sông núi
Chia biệt người ra từng xứ cô đơn.
Trình bày
Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán,
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh.
Trình bày
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
Ê chề
Cái nỗi buồn thảm thiết biết nhường nào, cái nỗi đau khổ vì đã phải mang trong
lồng ngực một trái tim người. Một trái tim biết yêu thương, nhưng yêu thương càng sâu
đậm thì càng phải đau đớn nhiều. Cái cuộc đời này đâu phải chỉ cứ yêu là đủ, một trái
tim ngây dại làm sao biết được những lọc lừa dối gian của trần thế này.
3
Câu chuyện về Lửa thiêng của nhà thơ Huy Cận (2005). Báo Nhân Dân điện tử.

14
Cả linh hồn, tôi đem cho trọn vẹn;

Vốn nhà nghèo không quen thói bán buôn,

Đến những kẻ mới vờ duyên hứa hẹn,

Tôi cũng cho trọn vẹn cả linh hồn.

Trình bày

Đời nghèo thế! không dành tôi chút lạ...

Đến ái ân cũng hết cả đợi chờ;

Quanh quẩn
Một trái tim người mới tuổi đôi mươi, chỉ biết yêu thôi chứ nào có hiểu gì khác.
Cái tôi trữ tình trong từng câu thơ đã phải nếm mùi cay đắng khi biết rằng thiên hạ này
đâu coi trọng cái chữ “tình”. Những chờ đã mệt, trông mong tối đen hai mắt, khóc
những đêm sầu đến chết. Chỉ còn biết trông vào Thượng đế hãy thương mình. Nhưng
chỉ thêm đau đớn làm sao, khi cái tôi trữ tình nhận ra rằng thế gian này chỉ có mình lạc
lõng khi yêu đương thắm nồng đến thế. Chẳng có ai thấu hiểu được ai hoàn toàn. Tâm
hồn vốn là thứ chẳng ai nhìn thấy và cũng chẳng ai tình nguyện cảm thông cho ai. Cái
xác xương thịt này chẳng hơn gì một đống bùn tội lỗi. Hồn người thi sĩ chỉ biết trơ vơ
trong cõi hoang tàn. Sinh ra đã là kẻ lạc loài. Nếu như Thượng đế biết rằng đời người
khổ đau đến vậy chỉ vì đã đốt cháy trái tim mình cho những điều ước vọng thì chắc
ngài đã ngượng ngùng vì tạo ra loài người.

Nghìn yếu đuối theo sau nghìn yếu đuối,

Bước ngày mai sẽ chồng dấu hôm nay.

A! thân thể! một cái bình tội lỗi!

15
Đất sơ sinh đã hoá lại bùn lầy.

Thân thể
Thứ hai, đối với thơ Huy Cận, không chỉ buồn mà cái buồn của Huy Cận cũng
có nhiều cung bậc khác nhau, ngoài cái buồn thảm thương thì còn có cái buồn nuối
tiếc, trong sáng nhẹ nhàng những ngày tuổi hoa đi học. Những mộng mơ trên trang
sách của người thiếu niên.

Đã chảy về đâu những suối xưa?

Đâu cơn yêu mến đến không chờ?

Tháng ngày vùn vụt phai màu áo

Của những nàng tiên mộng trẻ thơ.

Buồn
Những tháng ngày áo trắng vùn vụt chảy trôi trong kí ức. Cứ ngỡ là còn ngay
trước mắt nhưng hoá ra chỉ là một cơn mơ. Khi thức giấc bỗng nhiên cảm thấy có chút
hụt hẫng. Những xuân, những nắng ấm tuổi trẻ dường như chỉ còn trong kí ức, giờ đây
chỉ còn thấy những lạnh lẽo, bơ vơ.

Đời mất về đâu, hỡi tháng, năm?

Xuân không mọc nữa với trăng rằm!

Chẳng bao lâu ngủ sầu trong đất,

Vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm.

Nay hẵng còn đây ấm mặt trời,

Mà sao lòng lạnh tuyết băng rơi?

16
Buồn

Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,

Tuổi hai mươi đến, có ai ngờ!

Một hôm trận gió tình yêu lại:

Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ.

Học sinh
Hình ảnh trong thơ bình dị, lời thơ nhẹ nhàng, giọng thơ chậm rãi cứ như một
cơn mưa bâng quơ nhưng lại làm người đọc thấy như đang đi ngược về nơi quá khứ đã
từng nhiệt huyết tràn trề, đã từng có những mối tình học sinh giản dị biết bao. Nhưng
những ngày ấy đã qua rồi, giờ đây chỉ còn lại nỗi nhớ thổn thức về một thời đã qua.
Và cũng như biết bao người khác, trong tình cảm, cũng có những lúc phải chạy
theo nhau. Huy Cận cũng đã được trải qua hoàn cảnh ấy và cũng có những niềm băn
khoăn rất dễ thương.

Chân theo lòng mà người chẳng theo tôi.

Đường không dài: người tránh để thêm xa…

Gặp ngay đi! Đời may rủi lắm mà!

Và nếu không yêu, mà thừa yêu mến,

Cứ thả mộng cho lòng tôi ghé bến…

Đứng lại giùm, tôi đã mỏi theo sau,

Ôi! nỡ nào suốt đời đuổi bắt nhau!

Cầu khẩn
17
Cái tôi trữ tình cũng muốn theo đuổi một bóng hình, nhưng chưa toại ý. Chỉ biết
thốt lên rằng “Đời may rủi lắm mà”. Cái tôi trữ tình cũng mạnh dạn đi theo tiếng gọi
của trái tim mình nhưng người ấy không đứng lại với ông. Cái sự xoay vần trong tình
cảm làm lòng người khó chịu, chộn rộn, cái tình cảnh giống như biết bao người yêu và
theo đuổi tình yêu. Cuộc rượt đuổi trong tình ái như một trò chơi, nhưng trái tim chân
thành nào đâu muốn vậy. Chẳng lẽ lại rượt đuổi nhau suốt đời.
Và rồi tình yêu cũng có những lúc đơn phương ngẩn ngơ. Những nhân duyên
nhẹ bẫng giữa đời. Những gương mặt mà có lẽ chúng ta chẳng bao giờ gặp quá một lần
nhưng đôi khi lại làm cho lòng ta xao xuyến. Cái diệu kì của tình cảm nằm ở chỗ ta
chẳng thể nào hiểu được nó. Những điều này cứ làm cho lòng thi như man mác buồn.

Cô gái nhỏ thung dung

Qua miếng vườn hoa nhỏ.

Đất nằm im dưới cỏ,

Hoa tạ màu nhớ nhung.

Thu

Gánh xiếc đi qua chỉ một lần,

Bây giờ có lẽ đã chia tan...

- Và nàng cưỡi ngựa đâu rồi nhỉ?

Ngơ ngác chàng trai tự hỏi thầm.

Gánh xiếc

18
Dẫu vậy, tình cảm vẫn có những lúc rất nồng nàn, trong sáng. Những câu từ
không rầu rĩ và ủ dột mà lại tươi sáng, dễ thương vô cùng với những cung bậc cảm xúc
trong trẻo của tình yêu tuổi trẻ.

Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,

Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa.

Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,

Tình rộng quá, đời không biên giới nữa.

Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở.

Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh:

Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh

Tình tự

Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng,

Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng,

Trí vô tư cho da thở hương tình.

Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình

Như sắp nói, nhưng mà không; - khóm trúc

Vừa động lá, ta nhận vào một lúc

Cả không gian hồn hậu rất thơm tho;

Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ...

19
Đi giữa đường thơm

Nhưng mà:

“Thuở chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm,

Đời tàn rơi cùng sao rụng cảnh canh thâu;

Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,

Gió than thở biết mấy lời van vỉ?”

Tình tự

“Tri bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều:

Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu

Chân đang bước bỗng e dè dừng lại

- Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại....”

Đi giữa đường thơm


Bởi dù cho tình yêu tuổi trẻ đẹp đẽ và hồn nhiên là thế nhưng tình yêu ấy nhanh
chóng vỡ tan và rơi vào vô vọng bởi sâu thẳm trong tâm hồn Huy Cận vẫn luôn có một
nỗi buồn đè nặng, bắt nguồn từ chính những bi kịch và bế tắc thuở xa xăm. Nhưng
cũng chính nhờ sự hòa quyện giữa sự hồn nhiên và vẻ u hoài ấy đã khiến Huy Cận trở
thành nhà thơ có nỗi sầu bậc nhất trong những nhà Thơ mới.
Và cũng như ai, Huy Cận cũng ôm trong mình những nỗi hối hận muộn màng.
Chẳng ai biết thật sự đã có chuyện gì đằng sau những câu thơ nhưng người ta đều có
thể đồng cảm được với nhà thơ, những khi tuổi trẻ có thể còn quá đơn thuần, vụng về
và sai lầm trong cả trong chuyện tình cảm hay chuyện đời. Những sai lầm đôi khi có

20
thể sửa chữa nhưng đôi khi không. Người ta phải lãnh nhận hậu quả cho sai lầm của
mình. Chẳng thể làm gì hơn hối hận, tự trách và tiếc nuối khôn nguôi.

Quá hiền nên vụng tính,

Tôi đã phá đời tôi.

Điên rồi, khi vụt tỉnh;

Hạnh phúc đi xa rồi!

Hối hận

Một lời nói nếu có gan ướm thử;

Một bàn tay đừng lưỡng lự trao thơ;

Một lúc nhìn thêm, đôi lúc tình cờ,

Chắc có lẽ đã làm nên luyến ái...

Yêu biết mấy nếu có lần gặp lại!

Tình mất
Rồi không chỉ buồn trong chính mình, ông còn thương và buồn cùng người yêu.
Một tâm hồn rộng mở và biết thương thay cho kẻ khác giữa dòng đời đau đớn. Ông
hiểu rằng đời này chẳng dễ dàng với bất kì ai. Kể cả với người yêu của mình.

Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...

- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?

Tay anh em hãy tựa đầu,

Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...


21
Ngậm ngùi
Trong thơ Huy Cận, mà kể cả là trong thơ tình, có một nỗi cảm thức cô đơn như
một mạch ngầm xuyên suốt hồn thơ, với nhiều cung bậc, thanh âm, hoặc sâu đậm, hoặc
mờ nhòe, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thể hiện trong hầu hết các bài thơ. Cô đơn
dường như bao phủ không gian, thời gian, cô đơn hiện hữu trên từng lá cây, ngọn cỏ,
cánh bèo, đám mây, dòng sông, con thuyền, cơn mưa, làn gió, cánh chim trời. Không ít
lần, ta bắt gặp trong thơ Huy Cận thảng thốt, xót xa tiếc nuối trước những cuộc chia lìa,
giã biệt.

Khi bóng hoàng hôn phủ núi xa,

Khi niềm tơ tưởng vướng chân, và

Khi cầm không được, anh ngồi khóc:

Ấy lúc em tôi đã tới nhà.

Tới ngã ba sông, nước bốn bề

Nửa chiều gà lạ gáy bên đê

Làng xa lặng lẽ sau tre trúc

Bến cũ thuyền em sắp ghé về

Em về nhà

Vì ta đợi cho nên người chẳng đến

Người xa ta, xa từ thuở sơ sinh

Nhưng chân đẹp vội rẽ đường trăm lối

Gió bay qua thôi đưa tiếng cười chào


22
Rồi một bữa đứng chờ người chẳng tới

Bi ca
Sự cô đơn dường như đã có từ thuở lọt lòng, cái ám ảnh của kí ức. Nỗi cô đơn
cứ dồn nén lại, kết thành khối thành hình trong thẳm sâu linh hồn của người thi sĩ. Cô
đơn dường như chảy ra thành “sợi sợi buồn”, lắng sâu, chảy thiết tha trong thơ Huy
Cận. Dù cho ông viết những bài thơ đầu tiên chỉ mới ở lứa tuổi hai mươi. Cái tuổi mà
nhiệt huyết dạt dào, nhạy cảm với nỗi cô đơn vô cùng và tâm hồn thì tha thiết với tình
yêu. Và rồi phải chiêm nghiệm lấy nỗi cô đơn khi mà mong muốn cho đi mà không có
người nhận, là muốn nhận mà “chờ mãi” chẳng có ai cho, cô đơn là chờ đợi, mà cái
mình chờ đợi chẳng bao giờ đến, cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt, không phải cách
biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng…
Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong thơ Huy Cận hay nhắc đến hồn đơn chiếc,
lòng quạnh hiu, hồn góa bụa… điều này cho thấy đối với Huy Cận, trần thế này dường
như chỉ thấy ly biệt và rời xa, sự đoàn viên, sum vầy hẳn là điều hiếm hoi.

Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển

Suốt một đời như núi đứng riêng tây

Mai sau
Có lẽ vì vậy mà Huy Cận đã phải lắng nghe lấy cái nhịp nhàng, lặng lẽ của thế
giới bên trong. Khi mờ nơi thế giới bên ngoài, nơi thực tại quá mức xô bồ, tâm hồn
chẳng thể nào gắn kết với tâm hồn. Con người dường như tách biệt với chính mình.

Đêm mưa làm nhớ không gian

Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…

Tai nương nước giọt mái nhà

23
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn

Buồn đêm mưa


Trong thế giới của nỗi cô đơn, cảm xúc của nhà thơ hiện lên đầy chân thật. Cái
lạnh nơi đêm mưa cùng với cái lạnh trong lòng làm người ta càng thêm khắc khoải.

Nghe đi rời rạc trong hồn

Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...

Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...

Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...

Tương tư hướng lạc phương mờ...

Trở nghiêng gối nặng hững hờ nằm nghe

Gió về, lòng rộng không che

Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư...

Buồn đêm mưa


Tác giả Cao Thị Hồng đã đưa ra lời nhận xét rằng: “Con người không chỉ cô
đơn trong không gian mà còn cô đơn trong thời gian. Đếm mưa rơi như đếm từng giọt
thời gian đang rơi rơi hòa tan vào mênh mang vũ trụ… một mình trong cái khoảnh
khắc hiện tại, xa cách quá khứ, đối diện với tương lai bấp bênh, mờ mịt, con người
không chỉ xa lạ, “lạc hướng phương mờ” với môi trường sống của mình mà còn xa lạ
với chính mình, xa lạ với quá khứ và của tương lai của mình. Tìm kiếm đâu hơi ấm, cái
nhìn và lời nói ân tình của tha nhân? Khi xung quanh nhiều lúc sự bất công, thói đời
phản bội, đen bạc, lòng người lạnh lùng, vô cảm như xé nát trái tim ta, khiến ta khi đối
diện với tha nhân chỉ cảm thấy mình bị vây hãm và tổn thương sâu sắc? Đó là nỗi cô

24
đơn kinh hoàng bởi sự vô tâm và lòng dạ hiểm ác của con người gây ra đối với con
người…”4
Cái tôi trữ tình đầy hoang mang, bất an trong mỗi phút giây hiện hữu. Chẳng
biết làm thế nào chỉ đành trốn chạy, nhưng càng cố lánh xa lại càng rơi vào nỗi cô đơn
sâu sắc hơn.

Trốn tránh bơ vơ chạy ngủ lang,

Hồn ơi! Có nhớ giấc trần gian

Nệm là hơi thở, da: chăn ấm

Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn?

Ngủ chung
Nỗi cô đơn tột cùng lạnh lẽo chẳng thể san sẻ cùng ai, chỉ có thể tự ôm lấy
mình, những xương cọ vào xương, những niềm miên man về cái chết, bụi đời, tàn
phai… càng làm cho nỗi cô đơn hằn sâu hơn vào trái tim người thi sĩ. Sự cô đơn bởi
nỗi cách xa, lạnh lùng giữa người với người. Như là nỗi ám ảnh sắc nhọn đâm vào trái
tim Huy Cận mỗi phút giây. Cô đơn dường như đã trở thành người bạn đồng hành với
người thi nhân. Dường như ở trong cô đơn, thi nhân càng lặng lẽ chiêm nghiệm cuộc
đời này hơn. Để rồi Huy Cận đã có những dòng thơ bộc bạch:

Chàng yêu lắm nên bị người hắt hủi

Chàng yêu lâu nên thiên hạ lìa xa

Chàng tự tình bằng những khúc bi ca

Chàng tâm sự với buổi chiều quạnh quẽ

4
Cao Thị Hồng. (2020). Cảm thức cô đơn trong Lửa thiêng của Huy Cận.
25
Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển

Suối một đời như núi đứng riêng tây

Lòng chàng xưa chốn nọ với nơi này

Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc

Mai sau
Có một điểm đặc biệt đối với những nhà thơ Mới thời điểm đó, cái buồn trong
thơ của họ là một cái buồn đẹp, buồn tích cực của những hồn thơ chưa hẳn héo hon, ơ
thờ trước cuộc đời mà vẫn còn muốn hoà nhập giữa nỗi buồn, cô đơn cá nhân cùng với
thời đại chung. Và cái hồn buồn trong thơ Huy Cận là cái hồn buồn của chàng trai 19
tuổi đầy sức sống mãnh liệt. Chính cái hồn buồn trẻ trung đầy sức sống ấy đã làm nên
sự trường cửu trong thơ ca của ông
Cuối cùng thì ta có thể nói rằng, Huy Cận sống cùng nỗi cô đơn nhưng không bi
luỵ, mà chỉ là buồn sâu sắc, đằng sau những đớn đau vẫn là niềm tin vào tình yêu, vào
cuộc đời, vào tương lai phía trước. Bởi vậy nên dư âm lưu lại trong lòng người đọc thơ
Huy Cận là một nỗi buồn thăm thẳm nhưng đầy chất nhân sinh và đẹp cái yêu đương
thầm kín ẩn sâu.

Có lúc xa người, bởi quá yêu,

Than ôi! Sông núi lại buồn nhiều.

Mây xa lạc gió bên trời vắng,

Đời bạt lòng ta, - lại gặp nhiều.

Tình mất
2.2. Cõi mộng tình yêu trong thơ Huy Cận

26
Thơ mới ra đời cùng ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã đưa đến cho làng
thơ Việt Nam một diện mạo tân kỳ với những điểm sáng tạo độc đáo mới mẻ. Song ẩn
chứa trong đó là những ẩn kí cất giấu nét phản ánh hiện thực thậm chí siêu thực. Đặc
biệt ở cõi siêu thực, nơi đó các nhà thơ mới thường tạo cho mình những cõi mộng
riêng. Thông qua những biểu tượng mộng, người nghệ sĩ có thể phát hiện những tầng
sâu vô thức, những bí ẩn, nơi lưu giữ cất giấu những tình cảm, cảm xúc tinh vi khó có
thể nắm bắt. Ngược lại, những chiêm bao, mộng mơ nghệ thuật cũng góp phần kiến tạo
cấu trúc văn bản, một sự mã hóa nghệ thuật- tồn tại như một sự giao tiếp nghệ thuật,
một nguyên tắc cắt nghĩa hiện thực. Những dấu hiệu trên tồn tại là do sự ảnh hưởng
của khuynh hướng tượng trưng- một khuynh hướng phát triển mạnh mẽ không kém chủ
lưu của phong trào thơ mới là khuynh hướng lãng mạn. Nhờ đó thơ mới đã có những
cách tân, thể nghiệm táo bạo, ấn tượng để khắc ghi một bước tiến mới mạnh mẽ vượt
bậc trong lịch sử đường dài của thơ ca.
Các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng không ít từ trường phái thơ tượng trưng của
Pháp thông qua các dấu ấn của các tác giả thơ tượng trưng lớn như Baudelaire, Arthur
Rimbaud, Paul Verlaine cũng vì thế trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh Hoài Chân
đã khẳng định rằng “Các nhà thơ mới không nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác
nhau, đều bị ám ảnh bởi Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ ấy”. Sự thu hút này
phần nhiều đến từ tính độc đáo, hiện đại của khuynh hướng này. Đó là việc khi sáng
tác, các nhà thơ có thể nhìn nhận một cách phổ quát vạn vật, giữa con người và đa vũ
trụ có mối liên hệ siêu việt, đồng thời, chủ trương thơ phải khơi gợi, ám thị, hàm súc,
kiệm lời, trọng ý, chuộng cái dư vang dư vị, “ý tại ngôn ngoại”. Mặt khác, trong hoàn
cảnh xã hội đang biến họ thành kẻ mất tự do ngay trên chính quê hương mình. Cũng
chính điều đó khiến họ nảy sinh tâm lí bất mãn với cuộc sống hiện thời. Mang bản chất
nhạy cảm tinh tế của người thi sĩ, không khó để họ nhận ra tình cảnh hiện tại của mình,
một mặt nhận thức được chất thù địch của hoàn cảnh, mặt khác họ tự mở lòng và góp
nhặt được những bi kịch trong tâm hồn. Vì thế trên con đường sáng tác nghệ thuật hay
chính là con đường tìm lối thoát để giải phóng cho những bức bối chất chứa trong lòng,
27
họ khao khát được khám phá ra những giá trị thẩm mỹ mới. Một trong số đó chính là
nới rộng ra biên độ thẩm mỹ, mở ra một lãnh địa mới mà ở đó ranh giới giữa thực và
ảo, tỉnh và thức, đẹp và xấu, vô hình và hữu hình được xóa mờ. Đồng thời hiện hữu ở
nơi đó được coi như là phương thức giải thoát họ khỏi nỗi buồn rầu chán nản và để một
lần nữa khẳng định lại bản thân. Không gian ấy gọi là “cõi mộng”- thế giới hình thành
trong trạng thái tâm linh của con người. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, mộng là những giấc
mộng nhưng theo nghĩa rộng hơn thì mộng có thể hiểu là một thế giới tồn tại song song
với thế giới thực nhưng được xây dựng hoàn toàn dựa trên trí tưởng tượng lãng mạn
của người mơ, đồng thời nơi đó sẽ trở thành một nơi lý tưởng để họ trốn tránh khi quá
chán nản với điều kiện ngột ngạt của đời thực. Dẫu vậy, tuy đều là mộng nhưng với
mỗi nhà thơ lại tương ứng với những kiểu mộng khác nhau tùy thuộc vào cá tính sáng
tạo của người đó. Như Xuân Diệu, tìm đến mộng để ôm lấy những ảo ảnh để an ủi lòng
mình, trầm mình vào cơn hoan lạc thân xác để quên đi những ngậm ngùi của đời
thường. Còn nếu như với Bích Khê, ông xem việc sử dụng các yếu tố mộng, như là một
thủ pháp nghệ thuật để xây dựng biểu tượng. Theo ông mộng thường đi liền với những
cảm giác chỉ có được khi lặn sâu vào thế giới tâm linh. Sự ảo hóa của Bích Khê làm
cho thế giới được mộng ảo hóa, kì dị, khác thường. Đến với Huy Cận, ta bắt gặp một
cõi mộng được chọn là địa hạt của tình yêu, nơi ấy tình yêu hòa lẫn với mộng tạo thành
một không gian kì ảo nhưng cũng chân thật đến lạ. Đọc thơ của ông đặc biệt là thơ
tình, người ta chẳng thể phân biệt rằng đang đi lạc ở một cõi mộng mị nào đó được bao
trùm bởi một thứ tình yêu ngọt ngào nhưng cũng rụt rè chút trầm buồn hay đang ở một
hiện thực kì lạ nào đó khó nắm bắt. Vì lẽ đó để nhìn rõ và ngẫm nhiều hơn về cõi mộng
tình yêu trong thơ Huy Cận, phải từng bước cẩn thận đi sâu vào thế giới riêng của ông.
Huy Cận là nhà thơ viết nhiều và viết hay về những giấc chiêm bao. Ta gọi đó là
một thế giới kì ảo nơi có những giấc mộng bí ẩn, vừa hư lại vừa thực. Ông viết nhiều
về những giấc mơ, về thế giới mộng của mình và tiếp nối nó thành một nguồn mạch
trong nhiều tập thơ khác nhau. Khi ông đưa mình chìm vào giấc chiêm bao cũng là lúc
hồn ông được tìm về với người tình nương vẫn hằng mong nhớ.
28
Chiêm bao thỉnh thoảng em về

Mắt còn toả mộng cuồng mê thuở đầu.

Chiêm bao
Dáng hình có thể mơ hồ song đôi mắt chứa chan giấc mộng yêu đương cuồng
mê thửa nào không thể nào phai mờ. Mộng chiêm bao chồng mộng ái tình khiến cả cõi
mơ ấy ngỡ như trở thành thế giới riêng của “anh” và “em”. Thế nhưng nỗi buồn rơi rác
vẫn được Huy Cận lượm lặt được gửi gắm vào giấc mộng ấy. Huy Cận triền miên trong
cảnh xưa, trò chuyện với người xưa, người mà ở đời thực “gặp nhau không ngợ ngàng
nhau”, mà má đào vẫn phớt hồng “màu ráng xưa”. Rõ ràng nhất trong trong thơ tình
của người thi sĩ là thứ tình yêu hòa lẫn với mộng, bởi thực tế xa cách khiến ông phải tự
huyễn hoặc bản thân trầm mình vào cõi mộng nơi hai giấc mơ giao cảm để lứa đôi có
cơ hội tự tình. Trong khi Xuân Diệu yêu thì phải bộc bạch thổ lộ cho chừng hết, phải
quấn quýt hòa hợp về thể xác trong hiện tại, say sưa với tình trong đời thì Huy Cận lại
ưa say với tình trong mộng, là những mối tình được chắp nối duyên xa.

Thân dù sông núi xa xôi

Giấc mơ qua lại lứa đôi tự tình

Chiêm bao
Cũng bởi thế mà, trong những giấc mộng hoặc là ông đi tìm người tình của
mình hoặc người ấy sẽ tìm đến ghé thăm. Có lẽ quá mong muốn được hội ngộ nên ông
đã tạo ra cõi mộng- nơi gặp gỡ lí tưởng của chỉ riêng mình và người tình rồi bao bọc nó
bởi tình yêu. Dẫu vậy việc chỉ được gặp nhau trong thế giới lãng mạn nơi vượt qua
đường biên của hiện thực mà chính mình tạo ra vẫn khiến người thi sĩ não lòng.

Đã rằng nương bóng trăng thanh

Đêm đêm em đến thăm tình có ta

29
Ta còn, em cũng chưa xa

Yêu nhau kẻ thực, người ma não lòng

Đã rằng nương bóng trăng thanh


Sầu mộng- nơi những ảo não, khắc khoải ngậm ngùi trong tình yêu của Huy Cận
được diễn giải rõ nét nhất. Ông luôn muốn đưa không chỉ bản thân mà cả người thương
cùng tình yêu của mình vào cõi mộng. Bởi lẽ khi nhìn đời trôi cuốn cùng những tuyệt
vọng, bất lực của bản thân, thì chỉ có cõi mộng mới chứa những điều tốt đẹp - cái mà
hiện thực không thể đáp ứng- sẽ đón nhận ông về với nó.

Em ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây.

Ngậm ngùi
Ở cõi mộng đó, tình cảm được giãi bày tự nhiên, mọi biểu hiện của tình yêu
được phô bày theo cách chân thực nhất.

Lòng anh mở với quạt này;

Trăm con chim mộng về bay đầu giường

Ngủ đi em, mộng bình thường!

Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ.


Lòng anh cũng rộng mở trong giấc em mơ. Tình thương anh mở ra với quạt này
ru em vào giấc ngủ yên bình, thanh thản với những giấc mơ đẹp. Trăm con chim mộng
bay quanh vỗ về em vào “mộng bình thường”, nơi đó có anh cận kề em và không gì có
thể khiến em sợ hãi. Tiếng thuỳ dương ngân cao mãi như đánh thức thực tại, xế chiều
kéo dài nỗi buồn miên man, bóng cây cũng ngẩn ngơ trước tình cảm này. Để đến lúc
Huy Cận cất tiếng ngậm ngùi “Hồn em đã chín mấy mùa thương đau” như hỏi em mà

30
cũng hỏi chính mình, đã bao mùa trôi qua mà nỗi sầu trong tim ta vẫn nặng trĩu. Tay
anh cũng là nơi an toàn để em tựa đầu vào mà êm giấc bình yên.

Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…

- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?

Tay anh em hãy tựa đầu,

Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…


Lời thơ nhẹ nhàng, êm dịu những vẫn ngậm ngùi một nỗi đau tê tái không thể
nói rõ thành lời. Ngủ - thức, tỉnh- mơ cứ đan cài chồng chéo nên nhau khiến người ta
chẳng thể phân biệt được đâu là hư đâu là thực. Cũng có lẽ cả chính nhà thơ cũng bối
rối chẳng thể vạch ra ranh giới phân định giữa mộng và thực, bởi trong khoảnh khắc
ngỡ là thực tại thì nửa hồn chàng đã trầm mình vào cơn mộng mị lúc nào chẳng ai hay.
Chỉ còn nỗi buồn réo rắt neo đậu ở cuối lời ru. Hoặc trong vũ trụ mộng khác,giữa mênh
mông hiu hắt ở xứ lạ nơi chẳng có ai chịu ghé đến gõ cửa trái tim tương tư của chàng
thi sĩ. Để mặc chàng cứ ngẩn ngơ buồn bã chờ đợi trong giấc mộng bâng quơ.

Hiu hắt đày tôi giữa xứ hờ.

Ý buồn tự kể mộng bâng quơ.

Tương tư thấp thoáng sau khe cửa,

Tuy chẳng mong ai cũng đợi chờ.

Mưa
Nhưng Huy Cận mở khóa cho vùng đất của những giấc chiêm bao không chỉ để
thổn thức những nỗi niềm khắc khoải trong tình yêu. Ngẫm thơ Huy Cận cũng thấy
tình được gắn với mộng buồn song không có nghĩa là đánh rơi những giấc mộng vui.

31
Nhà thơ đi giữa cuộc đời mà ngỡ chỉ là giấc mộng đẹp, chếch choáng trong men tình,
hô hấp trong bầu không khí yêu thương trìu mến:

Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời;

Hồn em anh thở ở trong hơi.

Nắng thơ dệt sáng trên tà áo,

Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.

Áo trắng
Trong cõi mênh mông ấy, đôi tình nhân quấn quýt say sưa không khí hạnh phúc
tựa như thần tiên quyến lữ không vướng bận chốn phàm trần. Hai tâm hồn giao hòa
chắp cánh thăng hoa vào cõi mộng của ái tình. Các giác quan của nhà thơ được mở
rộng tối đa ở mọi chiều kích, hạnh phúc tràn đầy tới mức có thể nắm chặt trong tay.
Ngắm nhìn thế giới mộng trong những giấc chiêm bao bằng con mắt đang hạnh phúc
trong ái tình, Huy Cận mới gửi cho đời khổ đau những bài thơ dịu đẹp, tươi sáng cốt để
xua đi những mịt mù tối tăm trả lại những tia sáng hi vọng của tình yêu.

Đôi lứa thần tiên suốt một ngày.

Em ban hạnh phúc chứa đầy tay.

Dịu dàng áo trắng trong như suối

Toả phất đôi hồn cánh mộng bay.

Áo trắng
Hiện thực lúc nào cũng có phần chua chát, yêu nhau nhưng phải trải qua nỗi nhớ
dài tựa hàng vạn thế kỉ, là ngày gặp mặt nhưng phải hẹn từ ngàn xưa. Tình lớn thế cũng
không bì kịp với không gian vĩnh viễn của đất trời. Song đối với Huy Cận miễn là có

32
tình, trời dài đất rộng không yêu nhau ở hiện thực ta lại tìm về những giấc mơ, về cõi
mộng của riêng đôi ta mà “em” đã xây sẵn, chỉ cần “anh” gõ cửa ghé thăm. Huy Cận
luôn có cách giải tỏa những bế tắc bối rối của đời thực bằng cách chuyển giao tất cả
đến không gian mộng tưởng bởi chỉ có nơi đó con người mới có được một tình yêu
hoàn toàn trọn vẹn, những tấm lòng sẽ tự do yêu với hạnh phúc tràn đầy.

Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,

Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa.

Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,

Tình rộng quá, đời không biên giới nữa

Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở.

Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh:

Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh

Tình tự
Tình yêu trong thơ Huy Cận hóa thành một không gian thẩm mĩ, ở đó có người
tình tinh khôi “Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong” (Áo trắng) không gian cõi mộng là
nơi chốn hẹn hò gần gũi của đôi tình nhân “Tay người ta gối thâu đêm/ Mộng về theo
mộng, tình êm với tình” (Gối tay- Vũ trụ ca). Thơ tình Huy Cận dịu và thấm. Huy Cận
đưa người đọc về cõi mộng, nơi những giấc hạnh phúc nhưng man mác buồn. Thế giới
mộng trong thơ Huy Cận chứa đựng phần nhiều những hình ảnh mang tính ám gợi dẫn
dụ hơn là những miêu tả cụ thể. Chính vì thế ranh giới giữa mộng và thực mờ đi những
đường viền cụ thể.Cảnh vật trong thơ Huy Cận dường như không còn những nét rõ,
tính chất mơ hồ tăng lên, được cảm nhận bởi sự tương hộ lẫn nhau của các giác quan.
Ta thấy “mộng bâng quơ” (Mưa - Lửa thiêng) của những nỗi tương tư, “mộng trắng

33
trong” của tấm áo người tình, cảm nhận được “mộng bơ vơ” (Nhớ hờ - Lửa thiêng)
trong mối tình nhớ thương câm lặng, nếm được “dòng mộng tuôn giòn” (Trông lên -
Lửa thiêng) trong nét đẹp xuân thì của người yêu. Thế giới mộng thơ ông là một thế
giới tràn ngập hình ảnh màu sắc và cả hương vị xen lẫn, cùng các giác quan giao hòa
tạo ra chiều không gian mang tính phức hợp hơn là cụ thể. Mỗi câu thơ luôn mở ra
nhiều tầng cảm xúc, khơi gợi, dẫn dắt bước chân người thơ dập dìu đi giữa đường
thơm.
Biểu tượng “mộng” trong thơ tình Huy Cận đã mở ra những chiều hướng khám
phá mới về đời sống, về các phương diện khác nhau của tình yêu, về chiều không gian
được hình thành trong tâm thức của người thi sĩ đang yêu và mong muốn được yêu.
Trong thơ, đó chính là thành phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, những nhân vật trong
đó từ người đàn ông yêu cho đến anh chàng tương tư đều là hóa thân cho cho chủ thể
sáng tạo. Hiện hữu ở cõi mộng ấy là nhờ “năng lượng vô thức chuyển từ mục tiêu thỏa
mãn bản năng sang mục tiêu thẩm mỹ, gửi vào đó sự đồng nhất và cuộc sống”, đồng
thời thể hiện được quan điểm tình yêu và lý tưởng thẩm mỹ của Huy Cận. Song cũng
cần làm rõ Huy Cận tạo ra thế giới mộng tưởng không phải để trốn tránh thực tại, mà
ông khao khát xây dựng một thế giới huyễn hoặc để tìm lại cảm giác an tâm trong tâm
hồn và tránh xa những đau khổ phiền nhiễu ở đời sống hiện thực. Và chẳng phải ông đã
phải sống, phải trải nghiệm cho bằng hết những hỉ nộ ái ố mọi hạnh phúc niềm đau thì
mới biết đời thường ấy có chỗ nào đáng buồn chán để mà cải tạo nó trong giấc mộng
của mình. Đứng ở bờ mộng mị, Huy Cận vừa ngắm nhìn thế giới hiện thực, vừa thả
hồn trôi theo những giấc chiêm bao.
2.3. Tình yêu đôi lứa cùng lời tâm tình kín đáo
Đặc sắc nội dung trong thơ Huy Cận không chỉ dừng ở việc ông thổi vào thơ
ông nỗi buồn thấm vào những vần thơ, người thi sĩ không chỉ đứng giữa ranh giới thực
ảo để mà đôi lúc trốn vào cõi mộng tình yêu, mà Huy Cận còn có một kiểu chuyện trò,
một kiểu tâm tình, một kiểu thủ thỉ thù thì rất đỗi da diết và cũng kín đáo làm sao. Khi
ta tiếp xúc với thơ ông, lướt trên những vần thơ ông, ta lại càng cảm nhận được người
34
thi sĩ này có những lời bày tỏ tâm tư chạm đến đáy lòng ta, nhưng cách bày tỏ của ông
không phải là kiểu “khua chiêng gióng trống”, cũng không phải là lững lờ nửa tỏ nữa
giấu mà Huy Cận đã hình thành một kiểu bày tỏ rất đỗi chân thành, bao nhiêu tâm tư
đều được phô bày ngay trên mặt chữ, ấy thế mà vẫn kín kẽ, vẫn có gì đó thật cẩn trọng,
thật nâng niu.
Thi sĩ Huy Cận không chỉ bộc bạch tình cảm trong bài thơ mà ngay từ tiêu đề
bài thơ dường như thi sĩ cũng đã đưa ta vào trạng thái cảm xúc của chủ thể của bài thơ,
khiến ta có thể hiểu được, để mà khi đọc bài thơ ta cũng dễ dàng cảm nhận được tâm
tình của chủ thể. Như với bài thơ “Ngậm ngùi”:

Nắng chia nửa bãi; chiều rồi…

Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.

Sợi buồn con nhện giăng mau;

Em ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây.

Lòng anh mở với quạt này;

Trăm con chim mộng về bay đầu giường.

Ngủ đi em, mộng bình thường!

Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ…

Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…

- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?

Tay anh em hãy tựa đầu,

Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...

35
Ngậm ngùi
Nếu chỉ đọc ba dòng thơ đầu, ta cảm tưởng như chủ thể đang mô tả cảnh vật
xung quanh, nào là nắng, nào là chiều, nào là vườn hoang, nào là lá, nào là con nhện,
những sự vật hữu hình ấy qua ngòi bút nhà thơ cho ta có cảm giác về sự êm ả nhưng lại
trầm buồn, trời đang lững lờ chuyển chiều sang đêm. Như ấy sao những câu thơ tả cảnh
bình thường ấy lại giống như đang tâm sự với ai? À, ra là “Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu
quạt đây / Lòng anh mở với quạt này; / Trăm con chim mộng về bay đầu giường.” Vậy
ra chủ thể không chỉ đơn thuần mở ra quang cảnh trước mắt ta mà cảnh vật ấy dường
như cũng là những lời chuyện trò của chủ thể với “Em”, chủ thể như muốn nói rằng,
trời đã sang chiều, vườn cây trinh nữ đã xếp lá lại rồi, con nhện thì đang giăng tơ, còn
em ơi, em hãy ngủ đi, để anh quạt cho em. Đọc đến đây, ta lại bỗng cảm thấy kì lạ, cớ
vì sao trời mới chuyển chiều tối, chủ thể trong bài lại mời cô gái đi ngủ, để mà ngồi
hầu quạt? Khi đọc đến câu sau, ta mới rõ tâm tình của chủ thể: “Lòng anh mở với quạt
này / Trăm con chim mộng về bay đầu giường / Ngủ đi em, mộng bình thường! / Ru em
sẵn tiếng thùy dương mấy bờ”, vậy ra nói rằng ngồi “quạt” để “em” ngủ thế thôi, thực
chất là muốn ở gần hơn với “em”, cùng “em” cảm nhận không gian xung quanh, cùng
“em” trải qua thời khắc chuyển giao chiều tối, mà “lòng anh” mở như cánh quạt đang
dùng để quạt cho em này, anh như “trăm con chim mộng” bay về đầu giường nơi “em”
an giấc. Những con chim mộng ấy bay đến nơi đầu giường, bảo toàn cho em một giấc
ngủ bình yên. Ru em còn có tiếng lá dương liễu, hòa cùng thanh âm của tiếng quạt tạo
nên khung cảnh rất đỗi êm ả cho giấc ngủ của em, vậy thế nên em hãy “Ngủ đi em,
mộng bình thường!”. Nhưng nếu chỉ là “mộng” bình thường thôi thì có gì đặc biệt?
Những câu thơ cuối bài càng làm ta bất ngờ hơn nữa khi: “Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
/ - Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? / Tay anh em hãy tựa đầu, / Cho anh nghe
nặng trái sầu rụng rơi...” Đến đây ta phát hiện ra rằng “em” đã không còn nữa,
“mộng” kia chỉ là “mộng” mà chủ thể tự nói đấy thôi, còn “em” đã yên giấc ngàn thu,
không thể tỉnh lại, sao gọi là “mộng”, ấy thế nhưng chủ thể vẫn xem như “em” đang

36
trong một giấc mộng dài, mà bao trùm giấc mộng của em là cảnh vật nhuốm màu trầm
buồn đến xót xa.
Và “bàn tay anh” cũng xót xa muốn em gối đầu, để mà thấm thía nỗi sầu rơi
vào lòng anh. Như vậy có thể nói từ đầu đến cuối bài thơ, chủ thể đang tâm tình với
một người không còn nữa, những lời bày tỏ của chủ thể vừa buồn mà cũng lại thiết tha
làm sao, tay anh quạt cho em ngủ như đưa em về giấc mộng vĩnh hằng, ngàn con chim
mộng bay đến để bảo vệ giấc mộng của em không còn ưu phiền âu lo, tiếng thùy dương
cũng góp nên một bản nhạc sầu biệt ly như tiễn em vào trong giấc mộng. Vừa đọc, ta
vừa thấm thía nỗi đau buồn của tác giả, ấy thế nhưng, trong bài thơ có mấy khi tác giả
nói ôi tôi đau lắm, tôi buồn lắm chăng? Chủ thể bằng một loạt những lời tâm tình của
mình đã cho ta cảm nhận được tấm lòng rất đỗi thầm kín của chủ thể. Nào là nắng chỉ
chiếu nửa bãi, nào là đôi lá rầu, nào là sợi buồn của con nhện, nào là bóng xế ngẩn
ngơ,... Ở đây, thi sĩ đã mượn những hình ảnh nghệ thuật để vừa phô bày lại vừa thể
hiện được sự kín đáo của chủ thể: “vườn hoang trinh nữ”, “xếp đôi lá rầu”, “con
nhện giăng mau”, “trăm con chim mộng”,... Nếu ta đã từng thắc mắc tại sao khung
cảnh chiều tối lại buồn bã đến thế, hóa ra người thi sĩ đã nhìn cảnh vật xung quanh nơi
em nằm bằng tấm lòng của mình, ấy thế nên những lời tâm sự tuy giống như đang nói
về cảnh vật cho em nghe đấy thôi, nhưng vẫn không giấu nổi nỗi buồn toát ra từ những
điều mà mình tâm tình.
Ngoài ra không thể không nói đến tiếng kêu “Em ơi!” nghe đầy xót xa, chủ thể
gọi em đó, nhưng em nào có nghe được nữa đâu, ấy thế nhưng chủ thể vẫn tiếp tục tâm
tình với em, rằng em hãy ngủ cho yên, nơi đây có chủ thể cầm quạt ru em ngủ, có chim
mộng bay đến, có tiếng thùy dương và có cả hàng cây dài ngẩn ngơ, tất cả đều hy vọng
em có một giấc mộng đẹp đẽ và yên bình không còn vướng bận lo âu. Chủ thể như nói
với “em”, tâm sự cùng “em”, nói cho “em” nghe bao điều, bày tỏ với “em” bao điều
nhưng “em” không còn trên cõi đời này nữa, nên những lời tâm tình ấy đã được chủ thể
hòa cùng lòng mình biến thành những lời tâm tình với nỗi buồn tuy da diết mà không
nặng nề, mà lại rất đỗi thầm kín. Các câu mang màu sắc tu từ được vận dụng hiệu quả
37
và hợp lý khiến những lời tâm tình càng thêm da diết: “Ngủ đi em, mộng bình thường!;
“- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?”. Tác giả chỉ dám bày tỏ cảm xúc bằng cảnh
vật, bằng tiếng gọi “em” ơi, bằng lòng mong mỏi và hy vọng “em” có thể gối đầu lên
tay và cũng là để nỗi sầu rơi vào lòng anh thật nặng trĩu, muốn nói với “em” là “em” ơi
anh buồn lắm, nhưng không có câu thơ nào nói rằng “anh buồn”, mà lại vẫn có thể
khiến cho chúng ta vẫn cảm nhận được nỗi buồn, nỗi lòng của thi sĩ, đây là điểm đặc
sắc trong thơ (tình) Huy Cận. Đọc xong bài thơ, có mấy ai không thấu cảm được sự
“ngậm ngùi” của chủ thể?
Vẫn tiếp tục là lời tâm tình kín đáo mang cảm xúc buồn bã, nhưng lần này tác
giả đã đưa nỗi buồn ấy trở thành tiêu đề bài thơ: “Yêu nhau nhớ mấy cho vừa”

Lòng ta một khối, ơi tình

Chạm đâu cũng vọng nỗi mình với ta

Yêu nhau nhớ mấy cho vừa

Đâu là nỗi nhớ, đâu là nỗi thương

Đâu là dằng dặc tơ vương

Đâu là bóng, đâu là gương hỡi lòng

Trong mình đã có ta trong

Trong ta mình lại nấu nung bồn chồn

Mùa xuân vĩnh viễn em ơi!

Trăm hoa chúm chím gọi mời đôi ta

38
Mới gần, đã lại cách xa!

Giá anh nuốt được thân ngà em yêu!

Trong anh mỗi sáng mỗi chiều

Có em, anh được thương nhiều em thương.

Yêu nhau nhớ mấy cho vừa


Nếu như ở “Ngậm ngùi”, tác giả chỉ để chủ thể kêu lên “Em ơi” một lần xót xa
thì ở đây, tác giả đã gọi cả “tình” lẫn em”, nhưng âm hưởng “em ơi” trong bài thơ này
tuy đã khác nhưng tác giả vẫn dùng lời gọi ấy như lời để tâm tình, bộc bạch. Vậy với
“Yêu nhau nhớ mấy cho vừa”, chủ thể đã tâm tình như thế nào, những lời tâm tình ấy
được bộc lộ ra sao?
Đúng như tiêu đề bài thơ, chủ thể trong bài thơ đã thể hiện nỗi nhớ, nhưng nỗi
nhớ ấy chẳng phải nỗi nhớ đơn thuần, mà cứ phải là “Yêu nhau nhớ mấy cho vừa / Đâu
là nỗi nhớ, đâu là nỗi thương / Đâu là dằng dặc tơ vương / Đâu là bóng, đâu là gương
hỡi lòng / Trong mình đã có ta trong / Trong ta mình lại nấu nung bồn chồn”. Nhớ
không chỉ là nói tôi rất nhớ em, tôi nhớ em quá, mà Huy Cận đã cho chúng ta thấy
được nỗi nhớ ấy tức là thế nào, tức ra làm sao, và dường như chủ thể đang muốn nói
rằng em ơi tôi nhớ em ngần này, tôi nhớ em như thế, tôi nhớ em như thế này, bao nhiêu
cảm xúc trào dâng trong lồng ngực đều được phô bày qua những lời bộc bạch rất đỗi
chân tình, đọc đoạn thơ mà những con người khi có tình yêu cũng như thấy mình trong
đó, cũng thấy nỗi nhớ ấy sao mà quen thuộc, và có chăng giống như chủ thể đang tâm
sự với những người yêu nhau rằng tôi nhớ người tôi yêu đến thế, những người đang
yêu cũng đáp lại rằng, bạn cũng giống tôi, chăng? Nỗi nhớ của chủ thể không chỉ là
nói, không chỉ là biểu đạt thành lời, mà nỗi nhớ ấy hóa thành những lời tâm tình gửi
đến “em”, nào là nỗi nhớ, nào là nỗi thương, nào là dằng dặc tơ vương, nào là bóng là
gương, nào là nấu nung bồn chồn, mượn nhiều hình ảnh thế nhưng cốt để bày tỏ rằng

39
tôi nhớ “em” rất mực đấy thôi. Có những người yêu nhau khi nhớ chỉ đơn thuần bộc lộ
rằng họ nhớ nhau, nhưng Huy Cận không chỉ như thế, chủ thể trong bài còn gọi tên nỗi
nhớ ấy, chủ thể không hô lớn rằng “Ôi! Tôi nhớ em làm sao!”, mà chủ thể chỉ cho đối
phương biết rằng nỗi nhớ của ông như thế nào, ra làm sao, một cách thầm kín qua
những lời tâm tình ấy thôi.
Sau nỗi nhớ là sự khao khát được thể hiện một cách tinh tế của chủ thể: Mùa
xuân vĩnh viễn em ơi! / Trăm hoa chúm chím gọi mời đôi ta / Mới gần, đã lại cách xa! /
Giá anh nuốt được thân ngà em yêu! / Trong anh mỗi sáng mỗi chiều / Có em, anh
được thương nhiều em thương.” Khi gọi “em ơi”, hẳn chủ thể muốn chuyện trò cùng
“em”, muốn mượn mùa xuân để cho “em” biết nỗi khao khát được hòa vào nhau của
chủ thể, muốn nói với “em” rằng mùa xuân kia là vĩnh viễn, trăm hoa trong cơn vui
xuân như mời gọi “anh” và “em”, ấy thế nhưng chưa gần gũi được bao lâu đã phải xa
cách, ấy thế nên lòng anh bộn bề nỗi khát khao thầm giấu. “Anh” muốn bên “em” từng
giây từng phút để lòng được khỏa lấp nỗi nhớ mong và được cảm thấy tràn ngập yêu
thương. Sự chuyển hóa cảm xúc của tác giả cũng rất hợp tình hợp lý, có bao giờ ta nhớ
một ai đó mà không khao khát được gặp? Ấy thế nên sau khi tâm tình về nỗi nhớ, chủ
thể đã bày tỏ nỗi khao khát đang trào dâng trong lòng. Qua hình ảnh mùa xuân, chủ thể
như muốn hòa mình cùng “em”, để đôi lứa chẳng cách xa, để có thể xua tan đi nỗi nhớ
này. Mà nỗi khao khát ấy, chủ thể là “anh” luôn muốn “em” nghe thấy được, “em” cảm
nhận được, “em” biết được cả tấm lòng này. Có thể thấy rằng trong bài thơ những hình
ảnh ẩn dụ đã được sử dụng rất hiệu quả, những hình ảnh ẩn dụ ấy cũng chính là nỗi
lòng mà chủ thể thầm kín bày tỏ, nào là bóng là gương, nào là mùa xuân, tất cả đều ẩn
dụ cho nỗi nhớ nhung khao khát cồn cào trong lòng ấy thôi. Chủ thể đã dùng những lời
tâm tình hòng để “em” hiểu rõ nỗi lòng của mình, nhưng những lời tâm tình ấy vẫn rất
mực kín kẽ, dù cho chủ thể dường như đang phô bày hết tất cả những tâm tư trong lòng
thì lời tâm tình vẫn như đang rón rén chạy đến bên “em” để tỏ bày thế thôi.

40
Một bài với cảm xúc ngậm ngùi nên mang tên “Ngậm ngùi”, một bài vì phô bày
nỗi nhớ nên trong tiêu đề nhắc đến nỗi nhớ, vậy với “Tình tự”, tác giả sẽ “tự” cho
chúng ta điều gì về “tình”?

Sáng hôm nay hồn em như tủ áo,

Ý trong veo là lượt xếp từng đôi.

Áo đẹp chưa anh! Hoa thắm thêu đời,

Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé.

Vàng rạng cùng xanh, hồng cười với tía,

Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương.

Hồn em đây đủ muôn ánh nghê thường,

Anh hãy bận hồn em màu sáng chói.

Anh có biết hôm nay là ngày hội

Của lòng ta. Em trần thiết, trang hoàng

Anh đã về; em nghe dưới chân vang

Hoa lá nở với chuông rền giọng thắm.

Thuở chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm,

Đời tàn rơi cùng sao rụng cảnh canh thâu;

Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,

41
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?

Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,

Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa.

Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,

Tình rộng quá, đời không biên giới nữa.

Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở.

Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh:

Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh

Tình tự
Như đã trình bày ở phần 2.2, có những lúc thi sĩ như ở nơi lưng chừng giữa thực
và ảo, khi đọc những dòng thơ ông, ta như đi vào trong cõi mộng của ông. Tuy nhiên
dù là mộng tưởng hay hiện thực, dù ở bất kì không gian nào, cũng có thể thấy thi sĩ
dùng lời tâm tình của mình để gửi gắm nỗi lòng. “Áo đẹp chưa anh! / Hoa thắm thêu
đời, / Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé. / Vàng rạng cùng xanh, hồng cười với tía, /
Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương.” Khi đọc những dòng thơ này, ta liền cảm nhận
được giọng điệu hồ hởi của “em” dường như đang chuyện trò cùng “anh”. “Em” nói về
màu sắc của áo, nào là vàng, nào là hồng, nào là màu tía, như rồi để như dẫn đến “Xin
mời anh chọn hình sắc yêu đương” và nói với người thương rằng “Anh hãy bận hồn
em màu sáng chói”, những câu thơ tiếp theo cũng là những lời trò chuyện cùng tâm
tình của “em” và “anh”. “Em” mượn hình ảnh của hoa, của sao của canh thâu, của
trăng của gió để nói với anh rằng khi anh về hoa lá nở, chuông rền giọng thắm, và thời
gian đợi chờ là thời gian rét buốt, và khi ta đợi chờ nhau, đời như rơi cùng sao, và cũng

42
khi ấy, ánh trăng như chia ngang tình sầu, gió như nói những lời van xin cầu khẩn.
“Em” như đang tỉ tê với “anh” rằng đợi chờ khiến con người ta mòn mỏi như thế ấy,
buồn tủi như thế ấy, ấy thế nên khi người mà “em” đang đợi chờ về, được gặp nhau,
khiến lòng rộn ràng vui tươi “Hoa lá nở với chuông rền giọng thắm”. “Em” khéo léo
bày tỏ trong những lời tâm tình, nói trăng nói sao là thế, nhưng điều “em” cốt muốn nói
vẫn là “Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ”, ấy thế nên “em” mới thấy thời gian chờ đợi
sao mà đằng đẵng, sao mà héo mòn, sao mà làm cảnh vật xung quanh như hoang tàn
đến thế, để mà khi gặp lại người thương, “em” mới có sự vui tươi, có sự hồ hởi, và
cảnh vật xung quanh cũng rực rỡ hơn. Tất cả những điều đó chung quy lại cũng chỉ là
“em” đang tâm tình với “anh” rằng “em” nhớ anh lắm đấy thôi. Nỗi nhớ mang lại cho
“em” những cảm xúc trong khi chờ đợi, những cảm xúc khi chấm dứt được sự đợi chờ,
ấy cũng là “em” với “nỗi nhớ” và khi đã giải tỏa được nỗi nhớ ấy. Vậy nên “Gặp hôm
nay nhưng hẹn đã ngàn xưa”, gặp nhau hôm nay mà tưởng chừng như đã chờ nhau
ngàn xưa rồi. Ấy chính là cái nỗi lòng thường trực của những người yêu nhau, luôn
luôn khao khát gặp nhau, dù chỉ mới không gặp một chút thôi, đã cảm tưởng như năm
năm tháng tháng đã trôi qua rồi.
“Em” mang những cảm xúc ấy, tâm tình với anh về sự chờ đợi, về nỗi nhớ,
“em” cũng không che giấu nỗi nhớ và xúc cảm của mình nhưng cách “em” bày tỏ lại
kín kẽ. “Em” chỉ bày tỏ trăng sao hoa lá thế thôi, còn lòng “em” đây, “em” mong “anh”
hiểu được. Đọc “Tình tự”, dường như ta cũng đang đứng giữa ranh giới thực ảo của tác
giả, giữa hiện thực và cõi mộng mơ của ông, nhưng dù là thực hay ảo, hay ta đang
đứng nơi “ranh giới mờ” ấy, ta vẫn có thể thấy được những lời tâm tình tha thiết ngọt
ngào, cũng cảm nhận được sự kín đáo dè dặt nhưng chẳng cố gắng che giấu bao giờ
của chủ thể. Và ta cũng thấy được thi sĩ Huy Cận đã sử dụng không gian nghệ thuật rất
hiệu quả, đọc bài thơ ta như đứng giữa không gian tràn ngập màu sắc lại pha chút ảo
mộng, bên cạnh đó, thi sĩ cũng rất tinh tế khi tạo “tính nhạc” ngay trong chính bài thơ
của mình, nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được thi sĩ vận dụng vô cùng tài tình, từ
nhìn ngắm những sắc màu mà “em” đề cập đến, ta như nghe thấy tiếng reo vui khi
43
“anh” về. Những thủ pháp đó đều khiến cho ta có thể không chỉ lắng nghe lời “em” nói
mà còn có thể cảm nhận những lời tâm tình ấy thật sâu sắc. Và “tình” đã được “tự” như
thế đấy. Ấy phải chăng vì thế nên Bùi Giáng đã từng nói về Huy Cận: “Huy Cận
chẳng khi nào nói tới tình yêu một cách sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan như
Nguyễn Bính. Huy Cận kín đáo và ngậm ngùi.”?
Hay với “Có tình yêu nào mà không đau”, thi sĩ thật sự đã cho ta cảm nhận
cùng nỗi đau trong tình yêu mà thi sĩ nếm trải:

Có tình yêu nào mà không đau

Đã yêu chất chứa sẵn vui sầu

Em ơi, anh nén lòng anh lại

Chưa dám, gặp em, ngỏ một câu

Đốt ngón hồn anh như lửa thầm

Bao năm bao tháng mối tình câm

Yêu em tha thiết, yêu da diết

Như ủ hầm sâu rượu sủi tăm

Như rượu lưu niên càng ngấm say…

Em yêu! Nghiêng bóng đẹp đôi mày

Tóc mun nghiêng bóng mành tơ nhẹ

44
Ru dịu lòng anh trong phút giây

Tình mạnh hơn đời, mặn muối đời

Yêu em say đắm, chết khôn nguôi

Gặp nhau một thuở, tình ngàn thuở

Hôn nắng mùa em, anh cháy môi

Có tình yêu nào mà không đau


Vẫn là lời tâm tình của chủ thể, nhưng lần này là về tình yêu. Chủ thể yêu em
thế nào, yêu em ra sao, tất cả đều được bộc bạch qua những lời tâm sự. Ấy thế nhưng
chủ thể hãy còn rụt rè lắm, muốn nói với “em” rằng tình yêu nào cũng sẽ có vui vẻ và
ưu sầu, tình yêu nào cũng sẽ có cả hạnh phúc và đau đớn, nhưng “anh” đâu dám nói
thế, chủ thể “nén lòng” mình lại nhưng cũng muốn phô bày lòng mình ra cho “em”
thấy, ấy thế mà tâm tình cho em nghe. Muốn em nghe điều gì? Muốn em biết rằng mối
tình này đã đốt hồn anh như ngọn lửa thầm, tại sao thi sĩ lại sử dụng hình ảnh so sánh
là “lửa thầm”? Vì “anh” đã cất giữ tấm lòng này qua “bao năm bao tháng”, và vì đây là
mối tình câm lặng. Lửa cháy âm ỉ trong lòng nhưng cứ thầm lặng mà thôi, ấy vậy mà
vẫn cứ cháy. Tuy cháy thầm lặng là thế nhưng ngọn lửa này lại chẳng thua bất kì ngọn
lửa tình nào trên đời, bởi “Yêu em tha thiết, yêu da diết / Như ủ hầm sâu rượu sủi
tăm”. Chủ thể đã bày tỏ rằng chủ thể yêu em như thế đó, cháy bỏng tha thiết và mãnh
liệt nhưng vẫn mãi âm ỉ trong lòng như hầm rượu ủ lâu vậy. Chủ thể dường như
chuếnh choáng vì bình rượu tình ngâm lâu này nhưng mãi vẫn cứ ủ trong lòng như thế
thôi. Ta cũng từng bắt gặp lời giãi bày của một tấm lòng tương tư này qua “Hỡi em
yêu, hỡi em thương”, chủ thể gọi em tha thiết để tỏ rõ cái lòng tương tư của mình:

Hỡi em yêu, hỡi em thương

45
Thân em cẩm thạch tẩm hương rừng trầm

Mưa trời ướt lá lâm thâm

Tương tư ngày tháng ướt đầm hồn anh


Và rồi dù “Chưa dám, gặp em, ngỏ một câu”, chủ thể vẫn không ngăn được
dòng cảm xúc lại mà vẫn muốn nói với em một tiếng “Em yêu!”, rồi nói với em rằng
đôi mày của em đẹp ra sao, tóc mun của em xinh thế nào để mà “Ru dịu lòng anh
trong phút giây”. “Em” đang hiện hữu trong “anh” như thế đó, em có biết hay chăng?
Ấy rồi những câu thơ cuối vẫn là những dòng thơ tâm sự thủ thỉ về “anh” cùng tấm
lòng anh dành cho “em”: “Tình mạnh hơn đời, mặn muối đời / Yêu em say đắm, chết
khôn nguôi”. Tình cảm là điều mạnh mẽ hơn mọi sự ở đời, và cũng thấm những câu
chuyện đời thường, và anh thì yêu em say đắm, có chết cũng khôn nguôi lòng. “Anh”
cũng muốn nói rằng “Gặp nhau một thuở, tình ngàn thở / Hôn nắng mùa em, anh cháy
môi”. Gặp nhau có thể chỉ trong phút chốc thôi nhưng đó lại là mối tình ngàn đời của
mình, và anh hôn lên em lại cảm thấy như hôn lên nắng, khiến anh cháy cả môi. Hình
ảnh so sánh giữa môi “em” và nắng đã khiến tấm lòng của chủ thể như được phô bày rõ
ràng hơn. Đến đây có thể thấy rằng cả bài thơ là lời tâm tình của chủ thể, chủ thể tâm
tình về tình yêu, về nỗi lòng ngập tràn yêu thương của chủ thể với em. Chủ thể như
muốn gửi những lời ấy tới em, để em hiểu rằng chủ thể đã yêu em tha thiết da diết như
thế nào và đậm sâu ra sao, để em thấy được rằng ra là trong mắt chủ thể em đã hiện lên
với hình ảnh như thế đó. Đó là những điều chủ thể muốn bộc bạch cùng em, tỏ bày
cùng em, tâm tình cùng em rằng tình yêu anh dành cho em sâu sắc nồng đượm mà
thầm kín thế đó, em trong mắt em dịu dàng với đôi mày và tóc mun, hình ảnh em khiến
lòng anh dịu đi và cuối cùng chủ thể như muốn nói ôi anh yêu em làm sao.
Ấy thế nhưng như chúng ta cũng đã thấy, tâm tình là thế nhưng chủ thể nào đâu
dám nói, cứ “nén lòng” mình lại và nói tình yêu ấy như “hầm sâu rượu sủi tăm”, lại còn
như “lửa thầm” bởi đó là “mối tình câm”. Tình yêu ấy ngập tràn trong lòng khiến chủ
thể không thể nào không nói ra nhưng cuối cùng vẫn là những câu tỏ tình giấu sâu
46
trong lòng, nào ai biết đâu? Yêu em là thế nhưng nào dám cho em biết, ấy thế nên mới
nghẹn ngào rằng “Bao năm bao tháng mối tình câm”. Lời tâm tình tỏ bày ấy thế mà
cuối cùng cũng là những lời thầm kín từ sâu trong đáy lòng.
Hay với bài thơ “Gặp em một sáng”:

Gặp em một sáng trời se lạnh

Em đẹp hừng đông, anh choáng say

Bão dậy trong lòng chưa phút tạnh

Chiêm bao lẩn quất tháng năm này

Mây trắng về đâu mây trắng ơi

Nhớ thương từng mảng ngáng chân trời

Yêu em, anh muốn làm mây trắng

Khuya sớm tìm em nay tới nơi

Gặp em một sáng


Chỉ gặp người tình của mình một thoáng thôi nhưng chủ thể đã bộc lộ cảm xúc
của mình bằng những lời tâm tình nhỏ nhẹ nhưng lại rất đỗi chân thành. Gặp em trong
một buổi sáng trời se se lạnh, anh thấy em xinh đẹp như hừng đông, vẻ đẹp của em
khiến anh chìm trong cơn say chuếnh choáng, gặp em khiến lòng em dạy sóng như cơn
bão, những cơn mơ luẩn quẩn trong anh năm năm tháng tháng. Rồi sau đó anh gửi lòng
mình lên mây trắng, tâm tình với “em” nhưng cũng là tâm tình với mây trắng, nhưng
tâm tình với mây trắng vẫn là để tỏ tấm lòng với “em”. “Mây trắng về đâu mây trắng
ơi”, chủ thể da diết hỏi mây trắng ở đâu, để mà “Nhớ thương từng mảng ngáng chân

47
trời”. Chủ thể nói như thế, cốt cũng là để muốn hóa vào mây trắng, hóa vào mây trắng
để làm gì? Vẫn là muốn hướng đến “em”, muốn tìm “em”, muốn ở bên “em”. Với bài
thơ này, chủ thể tâm tình về lần gặp “em” vào một sáng đông lạnh, chủ thể nói với
“em” rằng trông “em” thế nào khi anh gặp “em”, anh đã cảm thấy đắm say thế nào, để
rồi chủ thể gửi lời, tâm tình đến mây trắng, tâm tình đến mây trắng nhưng cũng là lời
bóng gió tâm tình với “em” đấy thôi. Chủ thể muốn nói với “em” rằng chủ thể muốn
hóa thành mây trắng để có thể bay đến bên “em” và được gặp “em”. Một lời bày tỏ rất
ngọt ngào và chân thành nhưng chủ thể cũng chỉ dám gửi tâm tình qua hình ảnh trung
gian “mây trắng”, chủ thể chỉ tâm tình với “em” rằng hôm nay “em” gặp “em” như thế,
anh thấy “em” đẹp như thế nào, còn cụ thể anh cảm thấy ra sao, anh chỉ nói rằng “em”
làm anh nổi bão lòng và cảm tưởng như đó là cơn mơ qua bao năm tháng, rồi sau đó
chủ thể cũng chỉ dám gọi mây, gọi mây để nói được tiếng lòng mình rằng muốn bay
đến bên “em”, ở bên “em”. Như vậy với bài thơ “Gặp em mỗi sáng”, chủ thể cũng đã
dùng những lời tâm tình với “em”, với mây để bày tỏ cảm xúc của mình, bộc lộ nỗi
lòng của mình với người tình của mình. Nhưng cũng như một số bài thơ khác, nỗi lòng
ấy cũng được gửi gắm đến “em” thật kín đáo qua biện pháp nhân hóa và hình ảnh trung
gian. Nhân hóa “mây” để tâm tình với “mây”, và “mây” cũng là hình ảnh trung gian để
chủ thể gửi gắm nỗi lòng. Có thể nói, “mây” là hình ảnh nghệ thuật được thi sĩ sử dụng
để tô điểm cho lời tâm tình chân thành của chủ thể.
Tóm lại, khi ta du đãng trong những vần thơ tình của Huy Cận, đôi lúc ta sẽ cảm
tưởng như mình đang lắng lòng lại cùng với thi sĩ. Ta lắng lòng lại để nghe những lời
thi sĩ nói, những lời tâm sự từ tận đáy lòng của thi sĩ, nhưng những lời tâm tình ấy
không dung tục, không phô trương mà lại rất đỗi thầm kín. Điều đặc biệt của Huy Cận
là tuy cách bộc lộ của ông mang vẻ kín đáo nhưng ông chưa từng ngần ngại bộc bạch
cảm xúc của mình, ông như muốn cho người tình và cả người đọc thấy được cảm xúc
trào dâng trong lòng mình thế nào, nhưng ông rất ít dùng cách bộc lộ trực tiếp, ông
muốn bộc lộ, nhưng kín kẽ thôi, không cần phô trương hay “khua chiêng gióng trống”.
Giống như lời của Xuân Diệu khi nhận xét về Huy Cận: “Huy Cận! Một tâm hồn đặc
48
biệt quá, nồng cháy bên trong, e lệ bên ngoài, hay nói nhỏ và hay làm thinh, để cho
men lòng càng rạo rực hơn nữa; một tâm hồn hãy lặng yên để nước mắt chảy, không
biết khóc vì cái gì; vừa mạnh, vừa yếu, rất mới và rất xưa, rất Âu – Tây và rất Á Đông:
nghĩa là cả con người, con người phức tạp”. Huy Cận là một trong những nhà thơ Mới
đặc biệt trong thi đàn Việt Nam và như chúng ta đã biết, thơ Mới chủ trương bộc lộ
tình cảm chân thật của con người.
Với Huy Cận, ông cũng đã bộc lộ tình cảm một cách chân thật nhất, nhưng cách
bộc lộ của ông lại khác với những nhà thơ cùng thời, thơ ông có những điểm giao thoa
giữa truyền thống và hiện đại. Thơ ông có hiện đại không? Có chứ, bởi có khi nào ta
đọc một bài thơ tình của Huy Cận mà ta không thể cảm nhận được tấm lòng của thi sĩ
hay của chủ thể trong bài thơ? Biết bao nhiêu tình yêu, nỗi nhớ nhung, bồn chồn, say
đắm đều được ông thể hiện trong thơ, ông có bao giờ ngần ngại bộc lộ những cảm xúc
chân thật của con người? Nhưng thơ ông cũng mang những nét truyền thống. Bộc lộ là
thế nhưng lại thầm kín, không phô trương, không nói về tình yêu như những điều quá
“đao to búa lớn” mà như chúng ta đã thấy, tình yêu nhiều lúc được Huy Cận nói qua
những lời tâm tình, bày tỏ, rất đỗi đơn sơ mộc mạc, là những lời tỏ tình giữa người và
người với nhau, những lời tỏ tình này cũng chẳng phải cao sang bóng bẩy mà lại có sự
kín đáo, dung dị, đây là nét giao thoa độc đáo giữa truyền thống và hiện đại trong thơ
Huy Cận.

Tiểu kết chương 2


Huy Cận được biết đến là nhà thơ của những nỗi buồn, những nỗi sầu thiên cổ.
Đặc điểm ấy phả vào thơ về tình yêu đôi lứa của ông rất rõ nét. Tình yêu đôi lứa trong
thơ ông mang những cung bậc, trạng thái của nỗi buồn da diết, buồn nhiều lẽ. Nỗi buồn
ấy đại diện cho một cảm xúc cá nhân riêng biệt và cũng là đặc trưng trong Thơ mới.
Buồn không có nghĩa là ông bỏ quên cuộc sống mà chính vì quá yêu và càng yêu thì
càng buồn khi không được đáp lại. Với ảnh hưởng của thơ tượng trưng, Huy Cận tạo
cho mình một cõi mộng riêng. Nơi đó ông được giãi bày mọi cảm xúc của mình. Đó là
49
không gian của lí tưởng tình yêu, là nơi những giác quan của ông được giao cảm.
Nhưng Huy Cận vẫn giữ được nét truyền thống trong chuyện tình yêu. Những cảm xúc
của ông thường không được bộc lộ trực tiếp mà qua những hình ảnh gần gũi, giản dị,
qua lối hóa thân, cách trình bày dung dị. Tất cả những điều trên làm thành một Huy
Cận thật mãnh liệt mà cũng đổi chân thành, tinh tế trong tình yêu.

Chương 3: Nghệ thuật trong thơ tình Huy Cận


3.1. Nghệ thuật ngôn từ
Ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng thứ nhất của văn học. Trong văn học, ngôn
ngữ thơ ca được xem là ngôn ngữ mang nhiều sắc thái biểu cảm nhất. Ngôn ngữ thơ là
sự kết hợp giữa tính trữ tình và tính biểu đạt cao nhất tạo nên “sự thăng hoa” cho
những bài thơ được chế tác. Nói theo Lâm Ngữ Đường: “Thơ là tuyệt đỉnh của văn
nghệ”. Quan niệm này có nguồn gốc từ thiên hướng coi trọng thế giới tâm linh, lấy
biểu hiện cảm xúc, lấy trữ tình làm trọng.
50
Thơ của Huy Cận là thơ của con người có thế giới tâm hồn phong phú và
sâu sắc. Trước Cách mạng tháng Tám, với hai tập thơ “Lửa thiêng” và “Vũ trụ ca”
nhà thơ đã để lại vô vàn những cảm xúc và sự rung động mãnh liệt của mình thấm sâu
vào tâm hồn của độc giả bởi sự điêu luyện trong cách chọn lựa và sử dụng ngôn ngữ
của mình. Có được điều này, một phần là nhờ vào nghệ thuật sử dụng ngôn từ của nhà
thơ. Đã có rất nhiều ý kiến khen tài: “chọn chữ” của nhà thơ Huy Cận, cái tài ấy
chẳng phải là “nhả ngọc, phun châu”, tài gọt giũa, nắn nót câu chữ mà là tài khéo lựa
chọn, sử dụng từ ngữ đúng lúc, đúng chỗ.”
Huy Cận rất có ý thức trong việc cân nhắc, tìm tòi và sáng tạo về ngôn
ngữ, trả lại cho ngôn từ “cái thanh sắc nguyên sơ và làm cho nó phập phồng chất
sống”. Đặc sắc của nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Huy Cận được thể hiện rõ nhất qua
nghệ thuật kết hợp từ. Trong thơ của ông, nhiều cụm từ có cấu trúc đặc biệt nhưng giá
trị gợi tả, gợi cảm rất cao. Qua tìm hiểu thơ Huy Cận, chúng tôi nhận thấy rằng ngôn
ngữ trong thơ Huy Cận đa dạng, được sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo, thể hiện
được những tình cảm, tâm tư mà nhà thơ muốn gửi gắm.
3.1.1. Sử dụng từ láy một cách hiệu quả
Ý thức được vai trò và giá trị của từ láy, Huy Cận trên hành trình sáng tạo nghệ
thuật cũng không ngừng trau dồi và phát huy khả năng biểu hiện của từ láy để làm nên
âm điệu du dương, trầm lắng rất riêng cho lời thơ, tạo nên sức cuốn đối với người đọc.
Những từ láy tượng hình trong thơ Huy Cận không chỉ mô tả trạng thái vận động của
hiện tượng, sự vật mà đồng thời còn góp phần đưa người đọc thâm nhập vào thế giới
nội tâm của nhà thơ:

Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt

Xa nhau chỉ biết nhớ vơi đầy

Vạn lý tình

51
Dường như mọi hoạt động ở đây như thể đang ngưng lại, không gian trở nên rất
yên tĩnh thì nhà thơ mới có thể cảm nhận rõ tiếng gió. Gió ở đây không thổi xào xạc
mà là hiu hiu thổi. Sự lay động nhẹ của tiếng gió, tạo cho ta cảm giác vắng lặng và man
mác buồn của nỗi lòng chất chứa nhiều tâm sự. Huy Cận không chỉ mô phỏng hình ảnh
lay động của gió mà còn cảm nhận một cách tinh tế cái hồn của cảnh vật theo từng hơi
thở của cơn gió. Mượn hình ảnh của gió để nói lên tiếng lòng của mình.
Từ láy hình tượng trong thơ Huy Cận còn là một phương tiện đắc lực trong việc
miêu tả trạng thái, tình cảm của con người:

Thổi lạc hương rừng cơn gió đến

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

Nhớ hờ
Bâng khuâng gợi lên cho ta một tâm trạng với nhiều cung bậc cảm xúc khác
nhau đang pha trộn, một cảm xúc khó tả. Đó là sự xao xuyến, luyến tiếc, có chút nhớ
thương của nhà thơ khi đứng trước cảnh vật gợi lại nhiều kỉ niệm. Chỉ một từ láy thôi,
nhà thơ đã diễn tả và làm bật lên được những tình cảm kín đáo của con người.
Nếu trong thơ của Xuân Diệu, nghệ thuật sử dụng từ láy mang tâm trạng buồn
man mác, tâm trạng cô đơn của người thi sĩ, hay một niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Tâm trạng này được Xuân Diệu thể hiện rõ trong hai tập thơ “Thơ thơ” và “Gửi hương
gió”. Thì trong thơ Huy Cận, ngoài tác dụng tạo hình và giá trị gợi cảm, từ láy còn có
tác dụng trong việc thể hiện giọng điệu riêng của nhà thơ. Từ láy được Huy Cận dùng
để biểu hiện những trạng thái cảm xúc, tình cảm khác nhau nhưng chúng đều có sắc
thái giảm nhẹ. Thành công của Huy Cận trong việc tài tình vận dụng từ láy vào trong
thơ là đã khai thác và diễn tả một cách tinh tế các trạng thái, tình cảm kín đáo trong
tâm hồn con người. Ngoài ra, từ láy còn góp phần thể hiện tính dân tộc đậm đà trong
thơ Huy Cận, góp phần thể hiện nét riêng về ngôn ngữ trong thơ ông.
3.1.2. Độc đáo trong việc sử dụng danh từ và định ngữ:

52
Trong thơ Huy Cận việc kết hợp sử dụng danh từ và những định ngữ rất là cao,
mang lại nhiều giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Những danh từ thường xuất hiện
trong thơ Huy Cận là những danh từ chỉ thời gian và thiên nhiên như sông, núi, mây,
trăng, vũ trụ, … Những danh từ này khi kết hợp với những định ngữ nghệ thuật tạo nên
những cụm từ có cấu trúc đặc biệt, tạo ra nhiều hình ảnh có giá trị biểu cảm, gợi nhiều
liên tưởng sâu xa cho người đọc.

Chàng tình tự bằng những khúc bi ca

Chàng tâm sự với buổi chiều quạnh quẽ

Mai sau
Huy Cận cảm nhận buổi chiều như một người bạn và tâm sự với buổi chiều,
nhưng buổi chiều ấy cũng không có chút niềm vui nào sưởi ấm tâm hồn của nhà thơ.
Chiều kết hợp với tính từ quạnh quẽ đã nhân lên sự vắng vẻ, trống trải đến cô đơn của
không gian buổi chiều. Tâm sự với buổi chiều để tìm sự an ủi nhưng chiều lại là một
chất xúc tác nhân lên nỗi buồn của nhà thơ.
Huy Cận còn chứng tỏ cách kết hợp từ chỉ thời gian và định ngữ nghệ thuật
một cách độc đáo qua việc còn tạo nên những hình ảnh có sức ám ảnh da diết:

Hoàng hôn mù, xuống nặng

Gió sông buồn em ơi

Khung tình
Danh từ hoàng hôn khi đứng một mình chỉ mang nghĩa biểu hiện dấu hiệu của
thời gian nhưng khi kết hợp chúng với những định ngữ chỉ tính chất thì hoàng hôn trở
thành những hình ảnh có sức biểu cảm rất cao. Hoàng hôn mù gợi liên tưởng đến hình
ảnh một bóng hoàng hôn mờ mịt đang dần dần bao phủ kín cả không gian, con người
và mọi vật như mất hết sức sống chỉ còn lại bóng hoàng hôn u tối vây quanh.

53
Có thể nói, bằng tâm hồn nhạy cảm, khả năng quan sát tinh tế của Huy Cận đã
có sự kết hợp từ ngữ một cách độc đáo, tạo ra những từ mới có khả năng diễn đạt trọn
vẹn với những cung bậc cảm xúc sâu kín trong tâm hồn nhà thơ.
3.1.3. Nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt
Trước năm 1945, thơ Huy Cận thiên về nội tâm, đó là tiếng thơ trầm lắng, nặng
nề về suy tư nên từ Hán Việt có một vai trò ý nghĩa trong việc tạo nên tính hàm súc, cô
đọng cho lời thơ. Những từ Hán Việt này tạo nên nhiều sắc thái tu từ có ý nghĩa quan
trọng trong việc khắc họa cái tôi hoài cổ của nhà thơ.
Với sắc thái trừu tượng cao, những từ Hán Việt là những đơn vị đo thời gian đã
nhấn mạnh hơn tính hoài niệm của Huy Cận:

Người một thuở mà chàng sầu vạn kỉ

Sống một đời chàng tưởng vọng muôn năm

Gió trăng ơi! Chắc nới chỗ chàng nằm

Chăn chiếu mục đã nở màu vĩnh viễn.

Mai sau
Những đơn vị đo thời gian như vạn kỉ, vĩnh viễn gợi nên một khoảng thời gian
dài nhưng không xác định được cụ thể. Những từ Hán Việt được đặt vào cuối dòng thơ
dễ gây nên một tiếng vọng trong lòng người đọc, đồng thời còn tô đậm lên sự hoài cổ
của nhà thơ.
Huy Cận là một nhà thơ nặng về suy tư và tâm tưởng, thơ ông luôn gắn
liền với ý niệm có tính hoài cổ xa xưa. Thể hiện điều này trong tác phẩm mình, từ Hán
Việt như một công cụ đắc lực, chiếm ưu thế cao. Có thể nói, từ Hán Việt trong thơ Huy
Cận đã mang lại những giá trị nội dung và hiệu quả nghệ thuật cao. Chúng không chỉ
tạo nên một sự cổ kính, trang trọng, làm cho lời thơ tăng thêm tính cô đọng và hàm súc
mà còn là yếu tố nhấn mạnh phong cách cổ điển mang đậm bút pháp Đường thi của

54
Huy Cận. Đồng thời, chúng cũng là một biểu hiện kế thừa tinh hoa thơ ca truyền thống
trong thơ Huy Cận trước năm 1945.
3.1.4. Cách sử dụng từ loại động từ và bổ ngữ của động từ
Nhờ có bổ ngữ theo sau nên tâm trạng, cảm xúc của con người được bày tỏ rõ
ràng hơn và có sức lay động sâu xa:

Chàng tình tự bằng những khúc bi ca

Chàng tâm sự với buổi chiều quạnh quẽ

Mai sau
Tình tự là trung tâm ngữ của vị ngữ phía sau nhằm bày tỏ những tình cảm yêu
đương sâu kín trong tâm hồn của tác giả, khúc bi ca làm bổ ngữ cho câu thơ tăng thêm
sự cô đơn, buồn tẻ của nhà thơ trước khung cảnh buổi chiều tà. Động từ tâm sự nói về
cuộc trò chuyện của hai hay nhiều người để thổ lộ những chuyện riêng tư nhưng ở đây
nhà thơ lại tâm sự cùng buổi chiều quạnh quẽ, cho thấy sự hiu quạnh bên trong tâm hồn
của tác giả. Hai động từ tình tự và tâm sự cùng với những danh từ những khúc bi ca,
buổi chiều quạnh quẽ gợi lên sự cô đơn, trống vắng và chất chứa một nỗi buồn da diết
đang âm ỉ trong lòng nhà thơ giữa một buổi chiều vắng lặng.
Những động từ thiên về giãi bày thế giới nội tâm của con người trong thơ Huy
Cận thể hiện những trạng thái tự nhiên, gần gũi của con người nhưng vẫn có sức hấp
dẫn kì diệu:

Ôi! Nắng vàng sao mà nhớ nhung

Có ai đàn lẻ để tơ chùng

Có ai tiễn biệt nơi xa ấy

Xui bước chân đây cũng ngại ngùng

55
Nhớ hờ
Nhớ nhung, ngại ngùng đều là những từ biểu thị tình cảm của con người. Nhớ
nhung thể hiện một sự nhớ thương da diết, khôn nguôi còn ngại ngùng thể hiện tâm
trạng e ngại. Hai động từ này xuất hiện ở cuối câu thơ, cùng với vần ung tạo nên một
sự dàn trải, vu vương kéo dài đã tô đậm lên nỗi nhớ nhung da diết trong lòng nhà thơ.
Tóm lại, động từ và bổ ngữ trong thơ Huy Cận không chỉ góp phần thể hiện thế
sự độc đáo trong tư duy thơ mà còn góp phần thể hiện được những tâm tư, tình cảm sâu
kín của chính nhà thơ.
3.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
3.2.1. Không gian nghệ thuật trong thơ Huy Cận
3.2.1.1. Không gian vũ trụ
Nếu Tố Hữu thường dùng các hình ảnh mặt trời chói lọi, con đường tỏa về mọi
ngả để nói lên ánh sáng lý tưởng và con đường cách mạng. Xuân Diệu hay lấy hình ảnh
mùa xuân phập phồng nhựa sống để nói về tuổi trẻ và tình yêu. Hay Nguyễn Bính lại
thích trở về với giàn trầu, hàng cau, dậu mồng tơi, cây đa, giếng nước… để hát những
bài thôn ca tình tứ đậm đà. Huy Cận cũng có một vài hình ảnh quen thuộc. Ông viết về
nhựa, hạt, mầm, nụ, hoa lá… Bên cạnh đó, tất cả những ảnh tín hiệu của vũ trụ cũng
trở thành phương tiện, thành một thứ chất liệu, thành ẩn dụ nghệ thuật để chiếm lĩnh
không gian và cảm hứng vũ trụ thường trực trong lòng Huy Cận.
Không gian vũ trụ được tìm thấy trong thơ Huy Cận qua nhiều lớp ngôn từ.
Không gian vũ trụ với trăng, sao, mây, trời, gió, sông, núi… hoặc có khi là chính tên
gọi của nó vẫn là vũ trụ (vũ trụ tàn) là không gian theo cảm thức riêng của từng bài thơ.
Quan niệm về một không gian bao la của vũ trụ, khát vọng vươn lên cao với con
mắt bao quát thế gian hơn từ dưới vọng tưởng, ngưỡng mộ, ngẩng lên cao đã có trong
suy nghĩ bao đời của con người.
Trong không gian mênh mông, con người bé nhỏ, cô đơn trong vũ trụ rộng lớn:

Một chiếc linh hồn nhỏ:

56
Mang mang thiên cổ sầu.

Ê chề
Cái tôi cô đơn của nhà thơ luôn bị ám ảnh trong không gian rộng, một điều mà
nhà thơ từng giải thích đó là ấn tượng từ tuổi thơ về bầu trời rộng, sông dài bát ngát…
những cảm giác đầu tiên về ý nghĩa cuộc đời và vũ trụ. Và, ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ,
cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi…

Trời mênh mông nên rất đỗi nhớ nhung.

Họa điệu
Cảm hứng vũ trụ ca là hơi thở mang đậm nét đặc trưng của Huy Cận. Có thể
thấy được rằng, không gian nghệ thuật thơ Huy Cận là một thế giới bên trong sâu lắng,
bàng bạc mênh mông những cảm xúc. Lấy cảm hứng từ vũ trụ và thiên nhiên, thơ Huy
Cận là cõi bao la trong nỗi buồn mênh mang, là sự cảm nhận thân phận bé nhỏ cô độc
của con người trước thế giới, là cái hữu hạn đời người trước cái vô tận của trời đất…
3.2.1.2. Không gian trần thế
Nếu văn thơ trung đại miêu tả không gian vũ trụ bao la rộng lớn, vô tận, những
người nghệ sĩ sáng tác lấy cái rộng lớn nhiều chiều của đất trời làm chuẩn mực thì
không gian nghệ thuật trong văn học hiện đại trở nên gần gũi, gắn bó hơn với đời sống
của con người. Các nhà thơ hiện đại đã hạ dần độ cao của không gian vũ trụ về không
gian có giới hạn của trần thế. Những hình ảnh được miêu tả trong thơ của người nghệ
sĩ hiện đại cũng gắn liền với cuộc sống thực tại, đây là một đặc điểm nổi bật trong thơ
hiện đại.
Hòa chung không khí của thời cuộc, Huy Cận nhanh chóng hòa vào dòng chảy
của thời đại mới, ông chọn miêu tả những hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong cuộc
sống thường nhật.
Càng yêu cuộc sống, nhà thơ rất quan tâm đến sự tồn tại, sự vận động của con
người và vạn vật trong tự nhiên. Không gian trần thế trong thơ Huy Cận chủ yếu viết

57
về không gian tự nhiên của tạo vật, dường như mọi hơi thở của cuộc sống đều được
nhà thơ ghi lại và gọi tên bằng những cụm từ đặc biệt. Huy Cận dành nhiều tâm tư để
viết về không gian tự nhiên. Những khung cảnh của đồng nội tạo cho Huy Cận cảm
giác thoải mái, trấn an được tâm hồn vốn cô đơn của nhà thơ:

Nắng chia nửa bãi chiều rồi

Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu

Sợi buồn con nhện giăng mau

Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây

Ngậm ngùi
Không ít các nhà thơ đã tìm đến nơi vườn tược để di dưỡng tinh thần, sống cuộc
sống thanh thản và rời xa trần thế. Mảnh vườn khi ấy là nơi ấp ủ sự nhàn nhã, là nơi trú
ngụ tinh thần, lẩn trốn mọi sự bon chen của cuộc đời:

Trải nguy nan, đã mấy phen

Thân nhàn phúc lại được về nhàn

Niềm xưa trung ái thề không phụ

Cảnh cũ điền viên thú đã quen

Thú điền viên


Bằng những cảm xúc chân thành và tình cảm tha thiết nhà thơ tìm về với cuộc
sống, hòa nhập vào không gian trần thế gần gũi, hiền hòa và ấm áp để lắng nghe những
xao động của cuộc sống đời thường.
Trong không gian trần thế, Huy Cận dành nhiều sự ưu ái cho cuộc sống thiên
nhiên, ông ít nhắc đến hình ảnh con người trong thơ nhưng thực chất Huy Cận đã khéo

58
léo hợp nhất hai chủ thể ấy thành một. Trong bức tranh rộn ràng của thiên nhiên ta cảm
nhận như đã có đôi tay của con người đang ôm cả sự sống vào lòng mình:

Hai hàng cây xanh

Đâm chồi hy vọng

Ôi duyên tốt lành

Én ngàn đưa vòng

Hương đồng lên hanh

Chiều xuân
Chính phong cảnh bình dị, mộc mạc và man mác hương đồng gió nội của cảnh
vật đang đua nở như cây xanh đâm chồi, én chao nghiêng, hương đồng nội đang đâm
hồi nảy sinh sự sống… tất cả đã đánh thức bao cung bậc cảm xúc yêu thương và ru ngủ
tâm hồn luôn tê táo, cô đơn của nhà thơ.
Có thể nói rằng cách chiếm lĩnh không gian trần thế trong thơ Huy Cận giai
đoạn này gần gũi với thi pháp của thơ ca hiện đại. Không gian trần thế trong thơ hiện
đại thường thiếu vắng những hình ảnh bao la như núi cao, sông rộng, non xanh nước
biếc… mà thay vào đó là những hình ảnh cụ thể trong sinh hoạt và đời sống con người
như ao làng, cầu tre, ruộng lúa, mái nhà tranh, những cồn xanh bài tía… Chúng gợi lên
những bức tranh gần gũi, êm đẹp và hiền hòa cho cuộc sống con người. Huy Cận cảm
nhận không gian cuộc sống bằng sự gắn bó hòa hợp giữa thiên nhiên. Đặc biệt, nhà thơ
còn cảm nhận được những hương thơm nồng nàn của thiên nhiên, chúng lan tỏa khắp
không gian góp phần tô điểm thêm cho vẻ đẹp của tạo hóa. Đó là hương của mùi đất
mới đang tỏa ngào ngạt phảng phất trong không gian như hương của tình yêu đôi lứa:

Thơm tho quá, lòng ơi, vườn mới xởi

59
Vẩn vơ thơm như mùi của tơ duyên

Vỗ về
hay:

Giấc xoan trên cỏ; dưới hoa cành

Anh lại nằm mơ hoa lá xanh

Màu lí chiều hè là xứ sở

Lòng em đi tới với lòng anh

Em ạ, vườn xoan
Có thể nói, không gian trần thế với những vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên là
nguồn cảm hứng bất tận trong thơ Huy Cận. Với tâm hồn nhạy cảm, luôn nặng lòng
với cảnh vật quy hương, nhà thơ cảm nhận gần như đến từng chi tiết nhỏ; luôn hướng
tâm hồn về những vẻ đẹp bình dị, êm đềm của cuộc sống đời thường đã tạo nên những
vần thơ dạt dào tình cảm. Cách nhà thơ chiếm lĩnh không gian trần thế như thế là một
biểu hiện tiêu biểu cho vẻ đẹp hiện đại trong tư duy của thơ Huy Cận.
3.2.2. Thời gian trong thơ Huy Cận
Nếu không gian trong thơ Huy Cận mở ra nhiều chiều về vũ trụ và trần thế thì
thời gian trong thơ Huy Cận cũng dài đằng đẵng, vô tận với không gian ấy.
Trong những bài thơ của Huy Cận, không khó để nhận ra được chủ thể trữ tình
hoạt động nhiều trong chiều tối - khoảng thời gian được Huy Cận nhắc đến nhiều trong
các tác phẩm của mình chính. Trong tập “lửa thiêng” không khó để ta bắt gặp những
“chiều tê cuối đầu, chiều mồ côi, chiều quạnh quẽ, chiều vĩnh biệt, chiều tận thế, đêm
mưa, đêm mơ”, những buổi chiều mang màu sắc buồn như chính tâm trạng của nhà
thơ:

Đêm mưa làm nhớ không gian,

60
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...

Buồn đêm mưa

Đã rằng nương bóng trăng thanh

Đêm đêm em đến thăm tình có ta

Ta còn, em cũng chưa xa

Yêu nhau kẻ thực, người ma, não lòng!

Tình đau một thuở

Gió về, chiều sẽ kể…

Bước chậm tưởng gần người...

Tiễn đưa
Có những vần thơ thổn thức mãi trong lòng Huy Cận về buổi chiều tà không chỉ
là thời gian trong ngày, Huy Cận còn khéo léo nhân hóa buổi chiều thành một người
bạn để dãi bày tâm sự:

Chiều ơi! Gặp gỡ đã đòi cơn,

Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn,

Một buổi xưa kia phòng vắng bạn,

Đó ngày quen biết với cô đơn.

Có lúc xa người, bởi quá yêu,

61
Than ôi! Sông núi lại buồn nhiều.

Mây xa lạc gió bên trời vắng,

Đời bạt lòng ta, lại gặp nhiều.

Tâm sự
Phải quen thuộc với những đặc điểm của buổi chiều tà như thế nào thì Huy Cận
mới bày tỏ tấm lòng mình một cách tinh tế như thế. Những dòng tâm sự của ông không
bộc lộ trực tiếp những từ ngữ ám chỉ người; ông dùng những đặc tính của buổi chiều:
nắng xế, chiều đìu hiu… như đang miêu tả tâm trạng của chính mình. Những hình ảnh
ấy gợi về cho mỗi người cái đằng đẵng vô tận của chiều tà.
Buổi chiều tà cũng có một vị trí hết sức đặc biệt trong thơ Huy Cận, Giữa tâm
hồn nhà thơ với bóng hoàng hôn dường như còn có một mối tương giao. Viết về buổi
chiều cũng là cách tác giả bộc lộ những “nỗi đau thương” của lòng mình. Nhà thơ đặc
biệt hay nhạy cảm với buổi chiều cũng là nhạy cảm trước nỗi buồn của con người.
Trong những dòng thơ của mình, Huy Cận nhắc nhiều về hình ảnh chiều với
nhiều tâm sự, vì thế mà ông cũng miêu tả thời gian một cách dài đằng đẵng, như tăng
thêm tính đặc sắc cho bài thơ cũng là ý muốn của tác giả:

Em hỡi! Yêu nhau chẳng muộn màng

Lửa bền trong đá mấy muôn năm

Lửa đôi ta chẳng cùng nhau đượm

Sẽ đốt lòng ta ra bụi than

Muộn màng
Thời gian chảy trôi trong thơ Huy Cận cứ men theo những dòng tâm trạng của
tác giả mà chảy mãi chảy mãi, không có điểm dừng. Trong không gian bao lạ nhiều

62
chiều rộng của vũ trụ, Huy Cận hòa mình trong không gian ấy, thời gian dài vô tận đến
mức tưởng chừng như người thi sĩ ấy không thoát ra được.
Cuộc đời và vũ trụ là hai cực tạo hóa luôn song hành tồn tại và hấp dẫn trái tim
nghệ thuật của nhà thơ. Dù đau khổ nhưng nhà thơ không quay lưng lại với cuộc đời,
vẫn khát khao chiếm lĩnh cả không gian trần thế để tồn tại vĩnh hằng. Nặng tình với đời
nhưng lại bế tắc trước hiện thực xã hội, nhà thơ chọn lượn mình lên tầng cao vũ trụ,
khám phá bí ẩn của không gian tự do, khoáng đãng.
Trước năm 1945, thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ Huy Cận đang bị
bủa vây trong bóng tối và bế tắc. Cũng như đang chạy trốn hỏi vòng tròn của tạo hóa,
Huy Cận chủ yếu quan tâm nhiều đến thời gian của nhân thế, khát khao tìm về quá
khứ.
Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận là một trong thơ những nhà thơ tiêu biểu
của thơ mới. Không gian và thời gian trong thơ Huy Cận là tiếng lòng thiết tha gắn bó
với quê hương và niềm khao khát được hiến dâng tuổi trẻ, nhưng khi đối diện với thực
tại nghiệt ngã thì không gian và thời gian ấy đã chìm vào một màu sắc u tối.
Như nhiều nhà thơ lãng mạn khác, sáng tác của Huy Cận giai đoạn này luôn
được đặt trong không gian mang cảm giác buồn thường trực, nhưng đó là biểu hiện
sinh động của tâm trạng tác giả và đáng được trân trọng, nhận được sự cảm thông.
3.3. Tính nhạc điệu trong thơ
Nhạc điệu thơ là một thứ âm thanh rất đặc biệt được các nhà thơ, các nghệ sĩ
sáng tạo từ ngôn ngữ thông qua các yếu tố như: điệp âm, thanh điệu, nhịp, vần… Khi
cảm xúc dâng trào, các nghệ sĩ đã biến những lời nói bình thường thành những lời nói
đầy nhạc điệu, những câu chữ như biết hát để từ đó người đọc cảm giác được giọng
điệu du dương hay nhẹ nhàng sâu lắng, thấu hiểu tâm tư, nỗi niềm của tác giả được gửi
gắm trong mỗi bài thơ.
Khi đọc thơ Huy Cận cảm nhận đầu tiên của người đọc là một giọng điệu tha
thiết, chất chứa bao nỗi buồn, bao nỗi tâm tư của tác giả. Nỗi buồn đó chắc hẳn là một
nỗi buồn về tình yêu, tác giả nhung nhớ về tình yêu đó. Tác giả đang chìm đắm vào
63
một thể giới mơ mộng do mình tạo ra để thỏa sức yêu, thỏa sức bày tỏ nỗi niềm của
mình. Trong những bài thơ nói về tình yêu của Huy Cận tác giả đã thoát ly hẳn thế giới
hiện thực để được yêu trong thế giới mơ mộng, thế giới mộng đó chuyển hóa thành một
không gian thẩm mỹ. Đó là không gian mang chất đẹp buồn. Nhà thơ sống trong trạng
thái chơi vơi chếnh choáng, sống với tình cảm ngọt ngào trong trẻo, hô hấp bằng không
khí yêu thương trìu mến.

Lòng ta một khối, ơi tình


Chạm đâu cũng vọng nỗi mình với ta
Yêu nhau nhớ mấy cho vừa
Đâu là nỗi nhớ, đâu là nỗi thương
Đâu là dằng dặc tơ vương
Đâu là bóng, đâu là gương hỡi lòng
Trong mình đã có ta trong
Trong ta mình lại nấu nung bồn chồn

Mùa xuân vĩnh viễn em ơi!


Trăm hoa chúm chím gọi mời đôi ta
Mới gần, đã lại cách xa!
Giá anh nuốt được thân ngà em yêu!
Trong anh mỗi sáng mỗi chiều
Có em, anh được thương nhiều em thương.
Yêu nhau nhớ mấy cho vừa
Bài thơ “yêu nhau nhớ mấy cho vừa” là nỗi nhớ người yêu da diết, khôn nguôi
của tác giả. Bài thơ sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, nhịp thơ giữa các câu không
đồng đều và thống nhất với nhau. Tất cả các câu thơ trong bài đều có nhịp thơ là 2/2/2:
“lòng ta một khối, ơi tình” nhịp thơ 2/2/2, “chạm đâu cũng vọng nỗi mình với ta” nhịp
thơ 2/2/2. Nhưng xét đến câu thơ “Đâu là bóng, đâu là gương hỡi lòng” nhịp thơ lại có

64
sự thay đổi, ở đây nhịp thơ lại là 3/3/2. Nhịp thơ đóng một vai trò rất quan trọng góp
phần tạo nên nhạc điệu cho bài thơ, cùng với đó nhịp thơ cũng tạo nên giai điệu, tính
nhạc, âm hưởng cho câu thơ. “yêu nhau nhớ mấy cho vừa’ như là một bản nhạc sâu
lắng, mang một nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi của nhà thơ đối với người con gái
mình thương. Với điệp từ “đâu là”, tác giả như đang liên tiếp đặt những câu hỏi cho
chính bản thân mình, tác giả không phân biệt được ở đâu là nỗi nhớ và ở đâu là nỗi
thương nữa. Bởi vì mang một nỗi nhớ quá lớn, nó chiếm hết mọi tâm tư, mọi cảm nhận
của tác giả, nó lấn hết cái nỗi thương mà tác giả dành cho người con gái mình yêu rồi.
Với nhịp thơ 2/2/2 nhẹ nhàng sâu lắng nhưng bên cạnh đó câu thơ mang nhịp 3/2/3, với
sự ngắt nhịp như vậy cũng giống như sự tổ chức tiết tấu, chia phách trong âm nhạc,
làm cho bài thơ như một bài hát khi trầm khi bổng, khi cao khi thấp.
Bên cạnh đó để dễ dàng nhận biết tính nhạc trong thơ của ông. Chúng ta cũng
không thể bỏ qua những bài thơ đã được phổ thành những bản nhạc đặc sắc như bài thơ
“ngậm ngùi”, “áo trắng” “tình tự”.

Nắng chia nửa bãi; chiều rồi…


Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Ngậm ngùi

65
Khi đọc bài thơ trên ta bắt gặp ngay thể thơ rất quen thuộc. Đó là thể thơ lục bát
truyền thống của dân tộc. Với thể thơ lục bát thì nhạc điệu phải rất da diết, nhẹ nhàng
và êm đềm. Nhưng khi đọc thơ Huy Cận chúng ta có thể cảm nhận được một sự khắc
khoải, một tâm trạng nao nao, u buồn. Sự khác biệt đó chính là nhờ sự sáng tạo bằng
cách ngắt nhịp của thi nhân. Cụ thể là Huy Cận đã thay đổi cắt ngắt nhịp của câu thơ
lục bát, bình thường với cách ngắt nhịp là 2/2/2 thì nhà thơ đã ngắt thành 2/4 hoặc 4/2.
Ví dụ như câu “Nắng chia nửa bãi; chiều rồi...” nhịp thơ 4/2. Nhưng ở câu thơ “sợi
buồn con nhện giăng mau” nhịp thơ ở đây lại 2/4. Với cách ngắt nhịp như vậy thì sẽ bị
mất cân đối, sự nhấn mạnh về nội dung sẽ nghiêng về phần bị tách. Khi đọc câu thơ
người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được tâm trạng nặng nề, một nỗi niềm bị dồn nén của
người nghệ sĩ. Không chỉ sáng tạo ở câu lục mà nhà thơ còn thay đổi cách ngắt nhịp
của câu bát, thường sử dụng cách ngắt nhịp 4/4, cho câu thơ như bị bẻ đôi, làm nổi bật
sự tương phản giữa hai hình ảnh thơ. Vừa hồn nhiên, trong trẻo lại vừa ảo não, vừa
sống với thực tại lại mơ về quá khứ. Như câu thơ “vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá trầu,
“hồn em đã chín mấy mùa thương đau” nhịp thơ 4/4. Khi đọc thơ là vậy nhưng khi
nghe bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát có cùng tên. Bài hát cũng có sự
ngắt nhịp sáng tạo tương đồng như trong thơ của Huy Cận. Chính bởi sự ngắt nhịp đó
tạo thành những nốt nhạc khi trầm khi bổng, khi cao khi thấp. Bài hát đã đi vào lòng
những người yêu âm nhạc với ca từ da diết và giọng điệu u buồn.
Huy Cận là một trong những nhà thơ mới (1932-1945). Thơ của ông như một
mạch sóng ngầm, chảy xiết mạnh mẽ giữa sự sục sôi của những cơn sóng cuồn cuộn
của thơ mới. Thơ của ông như những bản nhạc tình buồn, sâu lắng, da diết. Ông không
yêu vội vàng như Xuân Diệu mà Huy Cận yêu một cách nhẹ nhàng mà đằm thắm.
Nhưng không vì vậy mà làm mất đi sức sống mãnh liệt của chàng trai trẻ tuổi ấy. Bởi
vì sức sống mãnh liệt đầy trẻ trung ấy mà thơ của ông đã mang lại cảm xúc khó quên
cho nhiều bạn đọc

66
Tiểu kết chương 3
Chủ đề tình yêu trong thơ ca là một mảnh đất màu mỡ giúp các thi nhân thoả
sức gieo trồng những hạt giống của mình để tạo nên những bông hoa rực rỡ, mỗi sắc
hoa đều có nét đẹp riêng, mỗi một thi sĩ sẽ có những phong cách nghệ thuật khác nhau.
Những “bông hoa” của Huy Cận trong khu vườn tình yêu ấy cũng có những nét rất
riêng, bằng cách sử dụng ngôn từ, khai thác những hình ảnh trong không gian, phát
triển những cảm thức về thời gian trong tình yêu cùng với việc tạo nên những nhịp ngắt
67
giàu tính nhạc điệu đã giúp cho thơ tình Huy Cận có sức hút rất đặc biệt đối với độc
giả.

Nếu xét về mặt nghệ thuật của thơ tình Huy Cận, có rất nhiều mặt để khai thác,
tuy nhiên chúng tôi lựa chọn phân tích 3 điểm nổi bật: Ngôn từ; Không gian và thời
gian; Tính nhạc điệu.

Xét về cách sử dụng ngôn từ của Huy Cận trong mảng thơ tình, ông đã thành
công trong việc chọn lựa các từ láy, từ Hán Việt phù hợp và đặt vào những vị trí “đắt
địa” trong bài thơ, đồng thời ông cũng thành thạo trong việc kết hợp các danh từ với
định ngữ nghệ thuật, động từ với bổ ngữ để tạo nên những cụm từ, những câu giàu tính
biểu cảm.

Xét về việc xây dựng thời gian và không gian trong nghệ thuật, Huy Cận đã tạo
dựng lên những khoảng không gian từ mộng tưởng, vũ trụ đến cõi thực tại đầy tính thơ,
thời gian thường được sử dụng là chiều hoặc tối – đây là khoảng thời gian mà con
người dễ cảm nhận được nhiều cảm xúc nhất, đặc biệt phù hợp với những tâm trạng
sầu buồn da diết, có thể nói thời gian và không gian là chất xúc tác, là nơi để thể hiện
những cảm xúc trong tình yêu trong thơ Huy Cận.

Về tính nhạc điệu trong thơ Huy Cận, ta rất dễ bắt gặp những giọng điệu dịu
dàng, tha thiết, những thanh âm trầm bổng kết hợp với những cách ngắt nhịp có lúc đều
đều, có khi lại hẫn một vài nhịp làm người nghe, người đọc như cảm nhận từng nhịp
điệu trong bài thơ - giống như tiếng tim đập của người khi yêu, khi rộn rạng, khấp khởi
lúc lại dịu dàng, da diết.

TỔNG KẾT
Trong hơn một thập kỷ tồn tại, phong trào Thơ mới (1932-1945) đã để lại những
dấu ấn nhất định trong tiến trình thơ ca Việt Nam. Thơ mới đã chịu sự ảnh hưởng của
các trào lưu văn học phương Tây cùng với những đổi mới trong tư tưởng, thi pháp đã
thực sự tạo nên “Một Thời đại trong thi ca”. Tất cả như được thời đại sắp đặt và sứ

68
mệnh mà lịch sử trao cho thi ca giai đoạn trước Cách Mạng đó là vai trò cách tân mạnh
mẽ. Đề tài về tình yêu đôi lứa được nhiều nhà thơ quan tâm như Xuân Diệu, Lưu Trọng
Lư… Nếu tình yêu của Xuân Diệu là hăm hở, đắm say và mộng tưởng thì với Huy Cận
đó là tình yêu mang tính mộng mơ, có một chút gì cô đơn, suy tưởng. Khi đọc thơ của
Huy Cận, ta sẽ cảm nhận được sự đau khổ, tuyệt vọng, luôn chất chứa những nỗi âu
sầu, buồn bã nhưng có thể thấy được cái tôi rất riêng của Huy Cận. Sau quá trình tìm
hiểu và thực đề tài “Tình yêu đôi lứa trong thơ Huy Cận” thì nhóm chúng tôi đã đưa ra
được những đặc sắc về thơ tình của ông như sau: đó là một tình yêu buồn, tình yêu gắn
với cõi mộng và tình yêu qua những lời tâm tình kín đáo. Đồng thời nhóm chúng tôi đã
chỉ ra được những điểm nổi bật trong việc sử dụng ngôn từ, không gian và thời gian
trong thơ và tính nhạc điệu. Với số lượng bài thơ tương đối nhiều, mỗi trang thơ đều
đong đầy một nỗi cô đơn và buồn da diết, Huy Cận đã được mệnh danh là nhà thơ có
nỗi sầu vạn kỷ. Huy Cận miêu tả và diễn đạt thành công hình tượng nỗi buồn, ông đã
sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ,... Qua đó,
chúng ta có thể thấy được sự tinh tế trong cảm nhận và tài hoa trong quá trình sáng tạo
nghệ thuật. Huy Cận là một nhà thơ tài năng, có những sáng tạo thơ ca độc đáo, có
đóng góp quan trọng cho nền thơ ca dân tộc và ảnh hưởng của thơ ông đến các nhà thơ
hiện đại Việt Nam sau này là điều không thể phủ nhận, đặc biệt là mảng thơ về tình yêu
đôi lứa. Theo như ý kiến của Tuần báo Nghệ thuật số 9 ngày 4-12-65: “Thơ Huy Cận
là những đỉnh núi nhỏ trùng trùng trong một dãy núi lớn. Có “Ngậm ngùi” “Tràng
giang” “nhạc sầu” và “Điệu buồn” Đọc thơ là phải đọc Huy Cận. Làm thơ là phải
tránh Huy Cận.”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


TÀI LIỆU SÁCH
1. Đào Kim Chi. (2014). Đặc điểm nghệ thuật thơ Huy Cận trước năm
1945.
69
2. Hoài Thanh & Hoài Chân. (2016). Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học
3. Huy Cận. (1942). Vũ trụ ca.
4. Huy Cận. Lửa Thiêng. NXB Đời nay, Hà Nội.
5. Nguyễn Đăng Điệp. (2009). Huy Cận: Tác phẩm chọn lọc. NXB Giáo
dục Việt Nam.
6. Nguyễn Tấn Long. (1972). Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển Trung).
NXB Sống mới.
7. Nguyễn Thị Kim Ửng. Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua Lửa
Thiêng. NXB Văn học.
8. Phạm Hồng Minh. (2018). Đặc điểm sử dụng từ vựng trong thơ Huy Cận
trước và sau cách mang Tháng Tám năm 1945 qua các tập thơ Lửa Thiêng, Vũ trụ ca,
Hạt lại giao, Những năm sáu mươi. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
9. Bùi Thị Thu Hương. (2002). Thế giới mộng trong thơ của các nhà thơ
mới 1932-1945, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, trường Đại học Trà Vinh.
10. Phan Thị Ngọc Châu. (1999). Những chuyển biến của thơ Huy Cận qua 2
tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” và “Đất nở hoa”. Khóa luận tốt nghiệp môn Văn học
Việt Nam.
11. Trần Khánh Thành, Lê Dục Tú (2000). Huy Cận về tác gia và tác phẩm.
NXB Giáo dục
12. Trần Kim Hạnh. (2018). Kiến tạo biểu tượng mộng trong thơ mới. Tạp
chí nhân lực khoa học xã hội. (4). 93-98.

TÀI LIỆU INTERNET

70
1. Anh Ngọc. (2023). “Ngậm ngùi” bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ
Mới. Truy xuất ngày 08/10/2024 từ https://cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/ngam-ngui-
bai-tho-tieu-bieu-cua-phong-trao-tho-moi-i681199/
2. Cao Thị Hồng. (2020). Cảm thức cô đơn trong Lửa thiêng của Huy Cận,
Truy xuất ngày 08/10/2023 từ http://fjc.tnus.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/chi-tiet/cam-
thuc-co-don-trong-lua-thieng-cua-huy-can
3. Câu chuyện về Lửa thiêng của nhà thơ Huy Cận (2005). Báo Nhân Dân
điện tử, Truy xuất ngày 07/10/2023 từ https://nhandan.vn/cau-chuyen-ve-lua-thieng-
cua-nha-tho-huy-can-post603264.html
4. Huy Cận và một mối tình thơ (2006), Tuổi trẻ online, Truy xuất ngày
07/10/2023 từ https://tuoitre.vn/huy-can-va-mot-moi-tinh-tho-122061.htm
5. Nỗi buồn trong thơ mới. (2015). Truy xuất ngày 07/10/2023 từ
https://xunauvn.org/2015/04/29/noi-buon-trong-tho-moi/.
6. Phạm Quốc Văn. (2022). Bàn về hai chữ “tình yêu” I Talk about the
word "love", Khoa Học Công Giáo và Đời Sống Vol. 2; No. 3; 2022,
DOI:10.54855/csl.22239
7. Phan Thái Quốc Tân. (2015). Cái tôi trữ tình trong thơ Huy Cận. Đại học
Đà Nẵng
http://repository.udn.vn/bitstream/handle/DHDN_125/580/PhanThaiQuocTan.TT.pdf?
sequence=1
8. Trần Anh Thái. (2019). Hồn buồn trường cửu trong thơ Huy Cận. Báo
quân đội nhân dân, Truy xuất ngày 07/10/2023 từ https://ct.qdnd.vn/van-hoc-nghe-
thuat/hon-buon-truong-cuu-trong-tho-huy-can-523631

71
PHỤ LỤC
KHẢO SÁT THẾ GIỚI MỘNG TRONG THƠ

Đã chảy về đâu những suối xưa?

Đâu cơn yêu mến đến không chờ?

Tháng ngày vùn vụt phai màu áo

Của những nàng tiên mộng trẻ thơ.

Buồn - Lửa Thiêng

Nằm im dưới gốc cây tơ,

Nhìn xuân trải lụa muôn tờ lá non.

Gió se dòng mộng tuôn giòn,

Đem theo hương vị đời ngon ngàn đời.

Gió đưa hơi, gió đưa hơi,

Lá thơm như thể da người: lá thơm…

Trông lên - Lửa thiêng

Và nếu không yêu, mà thừa yêu mến,

Cứ thả mộng cho lòng tôi ghé bến…

Cầu khẩn - Lửa thiêng

72
Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,

Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa.

Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,

Tình rộng quá, đời không biên giới nữa.

Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở.

Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh:

Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh

Tình tự - Lửa thiêng

Câm lặng. Hoa rơi cánh đợi chờ.

Chiều đi, ở lại mộng bơ vơ.

Thoảng vòng tóc gió qua bên má,

Khiến động làn da rợn ý sờ.

Nhớ hờ - lửa thiêng

Giấc mộng Minh Hoàng không trở lại,

Trăng ôi! ai chép nhại Nghê thường?

73
Cõi đời cúi mặt quên xa biếc,

Đi hết thời gian, không nhớ thương.

Hồn xa - Lửa thiêng

Ngày sẽ về, gió sẽ mát, hoa tươi,

Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười,

Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc;

Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc

Còn biết gì trời đất ở bên kia;

Bướm bay chi! tay nhậy đã chia lìa;

Tình gọi đó, nhưng lòng thôi bắt mộng.

Chết - Lửa thiêng

Hiu hắt đày tôi giữa xứ hờ.

Ý buồn tự kể mộng bâng quơ.

Tương tư thấp thoáng sau khe cửa,

Tuy chẳng mong ai cũng đợi chờ.

Mưa - Lửa thiêng

74
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,

Hôm xưa em đến, mắt như lòng.

Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,

Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng.

Áo trắng - Lửa thiêng

Chiêm bao thỉnh thoảng em về

Mắt còn toả mộng cuồng mê thuở đầu.

Gặp nhau không ngợ ngàng nhau

Má xuân trời cũ động màu ráng xưa

Chiêm bao yêu muộn nhớ thừa

Là nơi họp mặt ngày đưa tiễn rồi.

Thân dù sông núi xa xôĐã chảy về đâu những suối xưa?

Đâu cơn yêu mến đến không chờ?

Tháng ngày vùn vụt phai màu áo

Của những nàng tiên mộng trẻ thơ.

Buồn - Lửa thiêng

Nằm im dưới gốc cây tơ,

75
Nhìn xuân trải lụa muôn tờ lá non.

Gió se dòng mộng tuôn giòn,

Đem theo hương vị đời ngon ngàn đời.

Gió đưa hơi, gió đưa hơi,

Lá thơm như thể da người: lá thơm…

Trông lên- Lửa thiêng

Và nếu không yêu, mà thừa yêu mến,

Cứ thả mộng cho lòng tôi ghé bến…

Cầu khẩn - Lửa thiêng

Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,

Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa.

Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,

Tình rộng quá, đời không biên giới nữa.

Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở.

Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh:

Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh

76
Tình tự - Lửa thiêng

Câm lặng. Hoa rơi cánh đợi chờ.

Chiều đi, ở lại mộng bơ vơ.

Thoảng vòng tóc gió qua bên má,

Khiến động làn da rợn ý sờ.

(Nhớ hờ- lửa thiêng)

Giấc mộng Minh Hoàng không trở lại,

Trăng ôi! ai chép nhại Nghê thường?

Cõi đời cúi mặt quên xa biếc,

Đi hết thời gian, không nhớ thương.

Hồn xa - Lửa thiêng

Ngày sẽ về, gió sẽ mát, hoa tươi,

Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười,

Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc;

Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc

Còn biết gì trời đất ở bên kia;

77
Bướm bay chi! tay nhậy đã chia lìa;

Tình gọi đó, nhưng lòng thôi bắt mộng.

Chết - lửa thiêng

Hiu hắt đày tôi giữa xứ hờ.

Ý buồn tự kể mộng bâng quơ.

Tương tư thấp thoáng sau khe cửa,

Tuy chẳng mong ai cũng đợi chờ.

Mưa - Lửa thiêng

Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,

Hôm xưa em đến, mắt như lòng.

Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,

Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng.

Áo trắng - Lửa thiêng

Chiêm bao thỉnh thoảng em về

Mắt còn toả mộng cuồng mê thuở đầu.

78
Gặp nhau không ngợ ngàng nhau

Má xuân trời cũ động màu ráng xưa

Chiêm bao yêu muộn nhớ thừa

Là nơi họp mặt ngày đưa tiễn rồi.

Thân dù sông núi xa xôi

Giấc mơ qua lại lứa đôi tự tình

Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình

Chiêm bao em có một mình chăng em?

Đời buồn lạnh gối đêm đêm

Biệt ly gì mộng! Nhớ tìm thăm nhau.

Chiêm bao - Vũ trụ ca

Giấc mơ qua lại lứa đôi tự tình

Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình

Chiêm bao em có một mình chăng em?

Đời buồn lạnh gối đêm đêm

Biệt ly gì mộng! Nhớ tìm thăm nhau.

Chiêm bao - Vũ trụ ca

79

You might also like