You are on page 1of 51

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

🙡🕮🙣

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ


HỌC PHẦN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM III & IV
ĐỀ TÀI
NHỮNG QUAN NIỆM TIẾN BỘ, VƯỢT THỜI ĐẠI CỦA
NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU

Nhóm SV thực hiện: Nhóm 4 (Thứ 2 ca 1)

Mã học phần: LITR145904

Học phần: Văn học Trung Đại III & IV

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Đàm Thị Thu Hương

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2023


ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN

STT NỘI DUNG SỐ ĐIỂM GHI CHÚ

1 Văn bản Word /35

2 Powerpoint /25

3 Thuyết trình /20

4 Đặt câu hỏi /10

5 Trả lời câu hỏi /10

6 Tổng điểm /100

1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

.....................................................................................................................................
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

TỰ NHÓM
CÔNG VIỆC PHỤ
STT TÊN THÀNH VIÊN ĐÁNH ĐÁNH ĐIỂM
TRÁCH
GIÁ GIÁ

- Tìm kiếm, sưu tầm


nguồn tài liệu tham
khảo
- Xây dựng dàn ý chi
Bùi Công Trường
1
tiết 100% 100%
(47.01.601.104)
(Nhóm trưởng) - Phân chia công việc

- Viết mục 3.4 + C


- Thuyết trình mục 3.3
+ 3.4 + 3.5
- Nêu dàn ý sơ lược
- Tổng hợp bài

Phạm Thị Thanh Thùy - Tìm kiếm, sưu tầm


2
nguồn tài liệu tham 100% 100%
(47.01.601.094)
khảo
(Thư ký)
- Viết mục 3.2
- Thuyết trình chương
2 + mục 3.2
- Tìm kiếm, sưu tầm
nguồn tài liệu tham
khảo
Trần Ngọc Bảo Hân
3 (47.01.601.013) - Viết mục 3.1 100% 100%
- Nêu dàn ý sơ lược
- Thuyết trình chương
1 + mục 3.1
- Tìm kiếm, sưu tầm
nguồn tài liệu tham
Trương Thị Hằng khảo
4 100% 100%
(47.01.601.054) - Viết chương 1
- Nêu dàn ý sơ lược
- Làm Powerpoint
- Tìm kiếm, sưu tầm
nguồn tài liệu tham
khảo
Đinh Vũ Thùy Trang - Nêu dàn ý sơ lược
5 100% 100%
(47.01.601.097)
- Viết mục A.2 + 3.3 +
3.4
- Làm Powerpoint
- Tìm kiếm, sưu tầm
nguồn tài liệu tham
khảo
Trần Mai Tường Vy - Viết mục A.1 +
6 100% 100%
(47.01.601.110) chương 2
- Làm powerpoint
- Tổng hợp, ghi nhận
câu hỏi.
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài (Tường Vy) 6
2. Cấu trúc của tiểu luận (Thuỳ Trang) 6
B. NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM (Hằng) 7
1.1 Tác giả Nguyễn Du 7
1.1.1 Gia thế và cuộc đời 7
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương 8
1.1.3. Những yếu tố tác động đến quan niệm tiến bộ, vượt thời đại của Nguyễn Du trong
Truyện Kiều 8
1.3.1.1. Nguyễn Du là người giàu lòng trắc ẩn và có thái độ chân tình với mọi người 8
1.3.1.2. Phong trào sáng tác chính của thời đại 10
1.3.1.3. Cuộc đời riêng của Nguyễn Du 11
1.3.1.4. Hoàn cảnh xã hội đã tác động đến Nguyễn Du 12
1.2. Tác phẩm Truyện Kiều 13
1.2.1. Tóm tắt tác phẩm 14
1.2.2. Giá trị nhân đạo 15
1.2.3. Giá trị hiện thực 15
CHƯƠNG 2. TÓM LƯỢT MỘT SỐ QUAN ĐIỂM NHÌN NHẬN VỀ TRUYỆN KIỀU
(Tường Vy) 15
2.1. Quan điểm của những nhà Nho “chính thống” 16
2.2. Quan điểm của nhà Nho “phóng khoáng” 18
2.3. Quan điểm của lớp những nhà Thơ mới 19
2.4. Quan điểm của Thiền sư (Phật giáo) 20
CHƯƠNG 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM TIẾN BỘ, VƯỢT THỜI ĐẠI CỦA NGUYỄN DU
TRONG TRUYỆN KIỀU 21
3.1. Quan niệm tiến bộ, vượt thời đại của Nguyễn Du về cách ứng xử của con người trước
“thiên mệnh” (Bảo Hân) 21
3.2. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về mối quan hệ “Tâm – Tài” (Thanh Thùy) 26
3.3. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về tình yêu (Trang) 30
3.4. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về chữ “Trinh” (Trang) 38
3.5. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về tình dục (Trường) 40
C. KẾT LUẬN CHUNG 47
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài (Tường Vy)


Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc và là danh nhân văn hóa thế giới. Sự nghiệp của ông có
vô số tác phẩm đạt được nhiều giá trị tuyệt đỉnh cho nền văn học nước nhà. Một trong số đó
không thể không kể đến áng thơ bất hủ của dân tộc – “Truyện Kiều”. Thông qua việc tìm
hiểu và nghiên cứu về tác phẩm này, chúng tôi nhận thấy sự sáng tạo nổi bật mang tính điển
hình vượt thời đại của tác gia Nguyễn Du.

Giá trị của Truyện Kiều ngay từ khi ra đời đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và
nhận xét. Họ nhìn nhận và đánh giá Truyện Kiều ở nhiều góc độ khác nhau, phần lớn ý kiến
cho rằng Nguyễn Du đã có những quan niệm tiến bộ, vượt thời đại, nhiều bài viết uy tín cũng
đã đưa ra đánh giá và nhận xét về bình diện đặc sắc này của Truyện Kiều, tuy nhiên vẫn còn
mang tính chất rời rạc. Vì thế, nhóm chúng tôi lựa chọn “Những quan niệm tiến bộ, vượt thời
đại của Nguyễn Du trong Truyện Kiều” để làm đề tài nghiên cứu, với mong muốn giúp giới
độc giả yêu mến Truyện Kiều có thể tìm hiểu và khám phá thêm những bình diện đặc sắc,
sáng tạo trong quan niệm, tư tưởng của đại thi hào Nguyễn Du.

Ngoài ra, Truyện Kiều còn là tác phẩm có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ Văn
các cấp, vì thế chúng tôi cho rằng, việc nghiên cứu về những quan niệm tiến bộ vượt thời đại
của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là sự cần thiết.

2. Cấu trúc của tiểu luận (Thuỳ Trang)


Bài tiểu luận gồm 3 phần chính: mở đầu, nội dung và kết luận.

Phần nội dung của bài tiểu luận được chia thành 3 chương:

Chương 1: Giới thiệu chung về Nguyễn Du và Truyện Kiều.

Chương 2: Một số quan niệm trước đây đánh giá về Truyện Kiều.

Chương 3: Những quan niệm tiến bộ, vượt thời đại của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM (Hằng)

1.1 Tác giả Nguyễn Du

1.1.1 Gia thế và cuộc đời

Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Sinh
trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến
sĩ, từng giữ chức tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to
dưới triều Lê – Trịnh. Người địa phương có câu ca dao về dòng họ này:

“Bao giờ ngàn Hống hết cây,

Sông Rum hết nước, họ này hết quan”

Không chỉ công thành danh toại, gia đình Nguyễn Du còn có truyền thống văn chương.
Sống trong một môi trường giàu truyền thống văn học như thế, năng khiếu của Nguyễn Du
có điều kiện nảy nở từ rất sớm.

Tuổi thơ tươi đẹp không được bao lâu, năm Nguyễn Du tròn 10 tuổi đã có hai biến cố lớn
xảy ra: Nguyễn Trụ (anh trai cùng mẹ) và cha là Nguyễn Nghiễm qua đời. Khi Nguyễn Du
lên 13 tuổi, mẹ ông cũng mất. Sau đó Nguyễn Du sống với người anh khác mẹ là Nguyễn
Khản. Nguyễn Khản hơn Nguyễn Du 31 tuổi, sớm đỗ đạt, làm quan to trong triều, lại là một
con người tài hoa rất mực, đã có ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn Du sau này. Năm nhà thơ 18
tuổi, vừa đổ Tam trường, gia đình Nguyễn Khản gặp biến cố, kiêu binh nổi loạn, Nguyễn
Khản chạy lên Sơn Tây, sau đó thì về quê ở Hà Tĩnh. Từ đây, gia đình Nguyễn Du mỗi người
một ngã.

Trước kia, một ông quan họ Hà, làm việc dưới quyền Nguyễn Nghiễm, giữ chức Chánh
thủ hiệu quân hùng hậu ở Thái Nguyên, không có con trai, xin Nguyễn Du làm con nuôi. Sau
khi họ Hà mất, Nguyễn Du được tập ấm chức ấy. Năm 1789 do nhiều biến cố lịch sử, Nguyễn
Du từ biệt anh em về quê vợ ở xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Sơn Nam (nay là Thái
Bình), sống nhờ người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn lúc này đang giữ chức Thị Lang Bộ Lại
của nhà Tây Sơn. Được mấy năm Nguyễn Du trở về Hà Tĩnh.

Năm 1796, Nguyễn Du lên đường vào Gia Định, theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn.
Nhưng ông bị trấn tướng Tây Sơn là Nguyễn Thuận bắt giam. Sau vì Nguyễn Thuận là bạn
Nguyễn Nễ, lại mến tài của Nguyễn Du nên tha cho. Nguyễn Du trở về Tiên Điền và sống ở
đây một thời dài. Đây là những năm Nguyễn Du ở “dưới chân núi hồng”.

Năm 1802, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn. Tháng 8, Nguyễn Du được bổ nhiệm làm
tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Từ đó, ông được giữ nhiều chức vụ
khác nhau trong triều. Năm 1809, ông được bổ làm Cai bạ ở Quảng Bình và ở chức này bốn
năm liền. Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ sang
Trung Quốc. Năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri bộ lễ. Năm 1819, ông được cử làm Đề
điệu trường thi Quảng Nam. Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi, định cử ông đi làm chánh sứ
Trung Quốc lần nữa nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất đột ngột vào ngày 10 tháng 8
năm Đinh Thìn.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương

Tuy đến nay thời gian ra đời của những tập thơ chữ Nôm, chữ Hán đều chưa được xác
định rõ ràng, Truyện Kiều vẫn chưa tìm được bản in trước nhất, ba tập thơ chữ Hán chỉ mới
sưu tầm được hai trăm năm mươi bài nhờ công sức của nhiều người đời sau… nhưng không
ai có thể phủ nhận được tài năng sáng tạo bậc thầy, bút pháp nghệ thuật điêu luyện của
Nguyễn Du. Đặc biệt, ở thơ chữ Hán, chữ Nôm và nhất là trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du.

Nguyễn Du đã để lại cho đời sau một văn nghiệp có giá trị cao về chất lượng về cả hai
mảng thơ chữ Hán và chữ Nôm:

Thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập; Nam Trung tạp ngâm; Bắc Hành tạp lục.

Thơ chữ Nôm: Bài Thác lời trai phường nón; Văn tế sống Trường lưu nhị nữ; Văn tế thập
loại chúng sinh; Đoạn trường tân thanh (tức Truyện Kiều).

Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc, là tập đại thành của văn học phong kiến, người kế
thừa một cách sáng tạo truyền thống tốt đẹp của văn học dân tộc và nâng cao truyền thống ấy
lên đỉnh cao chói lọi.

1.1.3. Những yếu tố tác động đến quan niệm tiến bộ, vượt thời đại của Nguyễn Du
trong Truyện Kiều

1.3.1.1. Nguyễn Du là người giàu lòng trắc ẩn và có thái độ chân tình với mọi người

Có thể nói rằng Truyện Kiều là bức tranh xã hội rộng lớn về cuộc sống dưới thời phong
kiến thối nát. Nguyễn Du đã nói lên được nỗi day dứt đến đau đớn của mình trước sự áp bức
của chế độ phong kiến đối với quyền sống của con người, nhất là nỗi xót xa thương cảm trước
số phận đầy khổ đau của người phụ nữ. Suốt trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dành hết tình
cảm thương mến của mình cho những con người bị áp bức, bị chà đạp trong xã hội phong
kiến. Thúy Kiều, một nạn nhân của chế độ phong kiến, một điển hình của nỗi đau khổ vô
biên, được Nguyễn Du theo dõi từng bước đi, từng hơi thở. Đọc Truyện Kiều chúng ta thấy
rõ Nguyễn Du thông cảm sâu sắc với những số phận bị áp bức. Truyện Kiều thu hút được
tình cảm của nhân dân, đặc biệt là của phái nữ, chính là ở mối thông cảm đáng quý ấy. Nguyễn
Du đã tỏ thái độ bênh vực cho tài sắc của con người trong xã hội phong kiến thối nát, giữa
cái xã hội mà tất thảy đều vì tiền, chạy theo đồng tiền, chỉ biết có tiền, tài sắc của con người
trở nên thừa thải, không còn được ai chú ý đến.

Riêng về mối tình giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Nguyễn Du đã dũng cảm vượt qua tất
cả những lễ nghĩa giáo điều của hệ ý thức phong kiến, mạnh dạn xây dựng hình ảnh tình yêu
đôi lứa trong tình yêu tự do, táo bạo nhưng không kém phần trong sáng, đẹp đẽ. Rõ ràng
Nguyễn Du đã có quan niệm tiến bộ về tình yêu và hạnh phúc, điều này làm cho nhân dân
lao động đồng tình, đồng điệu với nhà thơ, làm cho họ thực sự yêu thích Truyện Kiều. Có thể
nói Nguyễn Du đã giải phóng con người đương thời, để tình yêu đôi lứa được thăng hoa.
Truyện Kiều của Nguyễn Du còn là bản cáo trạng đanh thép lên án, tố cáo những thế lực chà
đạp con người. Ở đây không chỉ một vài người cá biệt chà đạp Thúy Kiều, mà là cả xã hội.
Đó là xã hội đầy những bọn “đầu trâu mặt ngựa”, khoác áo công lý để cướp của, tống tiền
người dân vô tội. Xã hội mà “quan phụ mẫu” chuyên ăn đút lót, ngang nhiên giở thói tham ô,
thẳng tay đày đọa dân lành. Xã hội đó nhan nhản những bọn chuyên nghề “bán thịt buôn
người” lừa đảo và độc ác. Đó là xã hội của bạo hành và tiền bạc, một xã hội nhơ nhớp và phi
nhân tính đã bị Nguyễn Du bốc trần ra và chửi thẳng vào nó. Trong cái xã hội thối nát đó,
Nguyễn Du vẫn tin tưởng vào vẻ đẹp con người, tin vào sức sống kỳ diệu của nhân cách con
người. Đọc Truyện Kiều, ta còn thấy được ước mơ dẹp tan mọi sự nhiễu nương, xóa sạch
những bất công trong xã hội và báo thù những kẻ đã đày đọa con người. Ước mơ ấy chính là
Từ Hải, sự hiện thân vùng dậy đòi công lý của quần chúng nhân dân; Từ Hải xuất hiện trong
Truyện Kiều như một ánh sao băng trên nền trời đen thẫm, Từ Hải chỉ đến trong chốc lát mà
ân oán phân minh, trời đất bừng sáng. Nguyễn Du đã thấy được giấc mơ của nhân dân, của
những con người khát khao tự do và công lý.

Trong khi nói lên những cảnh khổ cực thương tâm của con người trong xã hội phong
kiến, không phải Nguyễn Du chỉ mô tả một cách khách quan theo chủ nghĩa tự nhiên, mà
trong mỗi cảnh ngộ éo le, mỗi sự đày đọa đối với con người đều chứa đựng một sự phẫn nộ,
một lời phản kháng đánh vào những kẻ đã gây ra tai họa. Cuộc đời của Kiều là một tấm gương
oan khổ, một câu chuyện thê thảm về vận mệnh xã hội cũ. Dựng lên một con người, một cuộc
đời như vậy là một cách Nguyễn Du phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề thời đại.
Tiếng nói của Nguyễn Du là môt lời bảo vệ thiết tha quyền sống của con người muốn sống
với những phẩm giá của mình. Tiếng nói ấy là một lời đanh thép chống lại những gì chà đạp
lên giá trị con người.

1.3.1.2. Phong trào sáng tác chính của thời đại: trào lưu nhân đạo chủ nghĩa

Văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX chứng kiến sự xuất hiện của trào lưu nhân
đạo chủ nghĩa. Trào lưu nhân đạo này đã phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn mà chế độ phong
kiến bộc lộ sự khủng hoảng trầm trọng. Văn học giai đoạn này thể hiện sự sống khổ và số
phận chìm nổi của nhiều lớp người trong xã hội đầy rối ren, li loạn. Lên án mạnh mẽ chế độ
phong kiến đã trở nên hết sức thối nát và tàn bạo, chà đạp lên con người. Khẳng định, đề cao
phẩm chất, tài năng của con người. Ngoài ra còn thể hiện lòng thương người; những khát
vọng chân chính như khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, khát vọng về
công lí, chính nghĩa; đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người với người.

Nhiều tác phẩm văn học đã lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người,
đặc biệt là người phụ nữ. Đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, ước mơ tự do và ý thức
về cá tính nhiều lúc đã vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng lễ giáo. Những tác phẩm tiêu
biểu nhất của văn học thời kỳ này, xét ở một phương diện nào đấy, có thể nói đều là những
bản án khác nhau về chế độ phong kiến. Nổi bật trong đó có tác phẩm “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du. Qua cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều, Nguyễn Du đã lên án xã hội phong kiến
đã dày xéo lên tài và sắc, đã phá tan hạnh phúc lứa đôi tuyệt đẹp của một cặp giai nhân tài tử.
Một xã hội thối nát đến mức đồng tiền có thể mua được tất cả, dù là chân lý hay công lý
“Trong tay sẵn có đồng tiền, Dẫu lòng đổi trắng thay đen, khó gì”, “Một ngày lạ thói sai nha,
làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền!” Một xã hội đầy rẫy những quan lại độc ác, những lưu
manh côn đồ, những bọn buôn thịt bán người có tên là Hồ Tôn Hiến, là “họ Hoạn danh gia”,
là Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạch Hạnh, Sở Khanh, Khuyển Ưng, Khuyến Phệ. Cả một
lũ đầu trâu mặt ngựa đào hố, giăng bẫy đẩy cô Kiều vào “Hết nạn nọ đến nạn kia”, “làm cho
sống đọa thác đày/Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi”.
Nguyễn Du đã sống trong giai đoạn mà văn học “trào lưu nhân đạo chủ nghĩa” phát triển
trong hoàn cảnh xã hội đầy biến động như thế, là một nhà văn trí thức ông cũng tham gia vào
trào lưu nhân đạo này nên tư tưởng văn chương của ông ít nhiều cũng bị ảnh hưởng, điều này
thể hiện rõ trong tác phẩm Truyện Kiều. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du đã nhiều lần
thốt lên:

Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung...

Trong xã hội ấy cực nhục nhất là người đàn bà vì phải chịu nhiều tầng áp bức hơn cả.
Nguyễn Du từ một người gia đình thuộc hàng đại quý tộc, cuộc sống ấm no. Do tình hình lịch
sử biến động, ông trải qua mười năm sống trong gió bụi, chính vì thế ông lại có dịp sống gần
gũi quần chúng nhân dân. Thiên tài lỗi lạc của Nguyễn Du có thể nói đã được ấp ủ và nảy nở
trong những năm tháng buồn vui lẫn lộn này. Có lẽ vì thế mà nhà thơ có một nỗi thông cảm
sâu sắc với những cảnh đời lầm than trong xã hội, có cái nhìn tinh tế về cuộc sống, ông hiểu
được về thân phận con người nhỏ bé bị kìm kẹp trong xã hội phong kiến đương thời. Từ đó,
ông quay trở về với nền văn hóa truyền thống Việt Nam, ông mạnh mẽ lên án tố cáo tội ác
của chế độ phong kiến, lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đăc biệt
là người phụ nữ. Ông thể hiện những tư tưởng tiến bộ của mình về quyền sống, quyền hạnh
phúc, quyền tự do, khát vọng về công lí, chính nghĩa, đặc biệt về tình yêu lứa đôi…thông qua
các tác phẩm văn chương của mình.

1.3.1.3. Cuộc đời riêng của Nguyễn Du

Nguyễn Du được tiếp nhận được nền văn hóa nhiều vùng (quê cha ở Hà Tĩnh, quê mẹ ở
Bắc Ninh, vợ ở Thái Bình). Đây là tiền đề thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật ở tác giả.

Thời thơ ấu và niên thiếu ông sống trong gia đình đại quý tộc nên có dịp hiểu biết về
cuộc sống xa hoa, phong lưu giới quý tộc, về thân phận ca nhi, kĩ nữ. Những hiểu biết đó để
lại dấu ân sâu đậm trong sáng tác của ông và nó ảnh hưởng đến dòng thoát ly tư tưởng chính
thống của Nguyễn Du.

Nguyễn Du có những năm tháng lưu lạc đầy sóng gió nơi đất Bắc. Nguyễn Du gọi mười
năm này là thập tải phong trần (mười năm gió bụi), chính những năm tháng này đã làm nên
tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn của nhà thơ để đến muôn đời sau khi đọc lại những áng thơ
của đại thi hào, người ta vẫn luôn cảm nhận được như có máu nhỏ trên ngọn bút, nước mắt
sa trên tờ giấy. Sống trong cảnh lang bạt nơi xứ lạ trong hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, Nguyễn
Du cũng từng nhiều lần trầm mặc chua xót cho cuộc đời chính mình chưa làm nên công danh
đã rơi vào ngõ cụt và thầm xót xa cho thảm kịch mà gia đình ông phải gánh chịu.

Mười năm trọn quê người nấn ná

Nương quê người tóc đã điểm sương.

Trong mười năm lưu lạc ở quê vợ ấy, Nguyễn Du sống gần gũi với nhân dân và thấm
thía bao nỗi cơ cực mà tầng lớp bình dân thấp cổ bé họng phải chịu đựng thời bấy giờ. Ông
thấu cảm cho bao nỗi khổ cực của nhiều mảnh đời bất hạnh và chính những nỗi niềm ấy đã
để lại trong tâm hồn đại thi hào những luồng sáng quý giá của tư tưởng sâu sắc. Mỗi tác phẩm
của ông đều hướng về một thân phận bất hạnh nào đó, chính những nỗi thấu cảm mà đại thi
hào dành cho con người đã hun đúc nên một tài năng của thế kỷ. Cũng trong những năm
tháng lưu lạc này, Nguyễn Du đã tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau và nhà thơ quay
trở về với nền văn hóa của nông nghiệp lúa nước, ông đề cao sự tự do trong tình yêu, quay
về với tín ngưỡng phồn thực của nền văn hóa truyền thống, đây là sự tiến bộ trong tư tưởng
của Nguyễn Du khi chính ông là một nhà nho bị kìm kẹp trong tư tưởng nho giáo, điều này
được thể hiện ngay trong chính tác phẩm Truyện Kiều.

1.3.1.4. Hoàn cảnh xã hội đã tác động đến Nguyễn Du

➢ Chế độ phong kiến khủng hoảng

Thời đại (cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX) xã hội có nhiều biến động. Chế độ phong
kiến Việt Nam đi từ khủng hoảng đến suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền
lực, chém giết lẫn nhau, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, xã hội loạn lạc, tăm tối. Đất
nước biến động bởi nội chiến và phong trào nông dân khởi nghĩa. Phong trào nông dân khởi
nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến
thống trị, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.

➢ Ý thức hệ nho giáo bắt đầu bị vụn vỡ

Nền kinh tế hàng hóa phát triển cho thấy sức mạnh của đồng tiền, cũng như tư tưởng
phóng khoáng của tầng lớp thị dân. Tầng lớp thị dân xuất hiện cùng với sự phát triển của đô
thị phong kiến thời kì này là mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và cũng là một
trong những nhân tố trực tiếp tác động đến xu hướng chống phong kiến đòi quyền sống,
quyền tự do cá nhân và quyền thể hiện bản ngã khẳng định cá tính của con người xã hội lâu
nay bị đè nén, bức bối nặng nề về đời sống vật chất lẫn tinh thần bởi sự khắt khe của lễ giáo
phong kiến. Đồng tiền có sức mạnh to lớn nó lật ngược công lí, nó là quyền lực nó mua được
Tiên. Sức mạnh của nó là vạn năng. Đồng tiền biến con người thành hàng hóa, xui con người
hành động trái đạo lí và có thể bẻ cong luật pháp. Nhưng đồng tiền còn có thể giúp con người
làm được nhiều việc có ích. Chính vì điều này đã làm thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội của
Nguyễn Du. Tư tưởng chống đối lễ giáo phong kiến xuất hiện trong những tác phẩm của ông,
sự khẳng định quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền khẳng định cái tôi cá nhân và
những ý nghĩa sâu sắc được ông đề cao và đưa vào những trang văn của ông. Đồng thời đây
cũng là thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một cách rực
rỡ. Trong thời đại này luồng tư tưởng nhân đạo nảy sinh, vấn đề chính là vận mệnh nhân dân,
số phận con người, số phận cá nhân được đề cao, thoát khỏi những lễ giáo phong kiến hà
khắc. Tình yêu thương con người được đề cao nhất là người phụ nữ. Xã hội phong kiến thối
nát được tác giả vạch trần, hướng đến những điều tốt đẹp, hoàn thiện nhất.

1.2. Tác phẩm Truyện Kiều

Truyện Kiều là tác phẩm thuộc thể loại Truyện thơ Nôm, gồm 3254 câu thơ lục bát.
Truyện Kiều là tên gọi thông thường theo tên nhân vật chính trong tác phẩm của Nguyễn Du.
Còn lúc sáng tác Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của mình là “Đoạn trường tân thanh” có
nghĩa là “tiếng nói mới về một nỗi đau đến đứt ruột”. “Đoạn trường tân thanh” không phải
do nhà thơ tưởng tượng, hư cấu và viết ra, mà do Nguyễn Du dựa theo một tiêu thuyết chương
hồi bằng văn xuôi của Trung Quốc có tên là “Kim Vân Kiều truyện” của tác giả hiệu là Thanh
Tâm Tài Nhân. Nhìn chung, Nguyễn Du dựa khá sát vào tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân
khi viết lại “Truyện Kiều”. Cụ thể như: các nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đều
là những nhân vật lấy từ “Kim Vân Kiều truyện”, những tình tiết, những biến cố những địa
danh và cốt truyện trong “Truyện Kiều” đều có trong “Kim Vân Kiều truyện”. Những nét độc
đáo, sáng tạo của Nguyễn Du là khi viết lại Truyện Kiều, một mặt ông dựa khá sát vào tác
phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, mặt khác ông làm sống lại “Kim Vân Kiều truyện”, bổ sung
vào đó những điều mà ông day dứt, trăn trở về xã hội, về cuộc sống, về số phận con người,
đặc biệt là người phụ nữ.

Với tài năng nghệ thuật tuyệt vời của mình, Nguyễn Du đã đã lọc gạn và biến hóa những
sự tích rườm rà, duy trực mà sơ sài về tâm lý của nguyên văn thành một tác phẩm vừa cổ
kính, vừa giản dị vừa hoa lệ, vừa phong phú vừa chất phác và thiết tha điêu luyện. Tác phẩm
được Nguyễn Du viết bằng ngôn ngữ dân tộc và sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân
tộc nên có sức sống mãnh liệt hơn và có chiều sâu trí tuệ mà nguyên tác của Thanh Tâm Tài
Nhân không có được.

1.2.1. Tóm tắt tác phẩm

Tóm tắt tác phẩm xoay quanh nhân vật Thúy Kiều, theo ba giai đoạn: Lúc chưa diễn ra
biến cố, biến cố 15 năm lưu lạc và kết thúc biến cố.

Lúc chưa diễn ra biến cố: Truyện Kiều là tác phẩm kể về cuộc đời xoay quanh nhân
vật chính là Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn. Em gai của Kiều là Thúy Vân có
sắc đẹp cũng không thua kém gì Thúy Kiều “mười phân vẹn mười”. Trong lễ tiết thanh minh
đầu năm họ đã gặp chàng trai tên Kim Trọng, Thúy Kiều và Kim Trọng đã này sinh tình cảm
và lập lời thề nguyện thủy chung.

Biến cố 15 năm lưu lạc: Tai họa lại ập đến nhà Thúy Kiều. Cha và em trai bị bắt, Kiều
quyết đinh bán mình cứu cha. Thuý Kiều rơi vào tay bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú
Bà. Kiều biết mình đã rơi vào lầu xanh nên dùng dao tự vẫn nhưng không chết. Tú Bà đã thuê
Sở Khanh lừa Kiều đi trốn, Tú Bà bắt được, Kiều bị đánh đập hành hạ, ép nàng phải sống
cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh.

Sau đó, nàng gặp Thúc Sinh một khách làng chơi hào phóng, nàng được chuộc ra khỏi
chốn lầu xanh. Nhưng Kiều bị vợ Thúc Sinh đánh ghen, hành hạ. Kiều phải trốn nương nhờ
nơi cửa Phật. Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, Bạc Bà cũng là kẻ buôn người
nên Kiều lại rơi vào lầu xanh lần thứ hai.

Ở đây, Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “đội trời đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều làm vợ,
giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa quan Tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Từ Hải phải chết đứng
Thúy Kiều bị ép phải đánh đàn, hầu rượu Hồ Tôn Hiến rồi bị ép gả cho viên thổ quan. Kiều
thấy đau đớn, tủi nhục đã trầm mình ở sông Tiền Đường. Nàng được Giác Duyên cứu và
nương nhờ cửa Phật lần thứ hai.

Kết thúc biến cố: Sau nửa năm về Liêu Dương chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm
Kiều. Lúc này chàng mới biết sự thật về gia đình Kiều. Chàng kết duyên cùng Thuý Vân,
nhưng vẫn đau buồn, nhớ người cũ, không quên được mối tình đầu say đắm. Chàng quyết
tâm đi tìm Thúy Kiều. Cuối cùng chàng gặp lại Kiều và đoàn tụ cùng gia đình. Nhưng Kiều
chỉ đồng ý “duyên bạn bầy” với chàng Kim.
1.2.2. Giá trị nhân đạo

“Truyện Kiều” là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của
con người. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau lớn của con người: tình
yêu tan vỡ, tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đày đọa…

Truyện Kiều đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những
khát vọng chân chính.

“Truyện Kiều” là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy. Bước chân “Xăm
xăm băng lối vườn khuya một mình” của Kiều đến với Kim Trọng đã phá vỡ những quy tắc
thánh hiền về sự cách biệt nam nữ. “Truyện Kiều” còn là giấc mơ về tự do và công lí. Qua
hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng “đội trời đạp đất” làm chủ cuộc
đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những “phường giá áo túi cơm”.

1.2.3. Giá trị hiện thực

“Truyện Kiều” là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công tàn bạo, là lời tố cáo xã hội
phong kiến chà đạp quyền sống của con người, đặc biệt là những người tài hoa, người phụ
nữ:

“Truyện Kiều” tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan
xử kiện, cho đến “họ Hoạn danh gia”, “quan Tổng đốc trọng thần”, rồi là bọn ma cô, chủ
chứa, …đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người.

“Truyện Kiều” còn cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm tha hóa con người,
đẩy những người vô tội vào khốn khổ. Đồng tiền làm đảo điên (“Dẫu lòng đổi trắng thay đen
khó gì”), đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và xóa mờ công lí (“Có ba trăm lạng việc
này mới xuôi”).

CHƯƠNG 2. TÓM LƯỢT MỘT SỐ QUAN ĐIỂM NHÌN NHẬN VỀ TRUYỆN KIỀU
(Tường Vy)

Đại thi hào Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa thế giới, những sáng tác của ông đạt
đến số lượng đồ sộ và chạm đến giá trị tuyệt đỉnh trong văn chương. Không thể không thể
đến “Truyện Kiều” với 3254 câu thơ miêu tả về cuộc đời đầy rẫy biến cố của nhân vật Thúy
Kiều đã giúp tác phẩm trở thành niềm tự hào của dân tộc. Qua thời gian, Truyện Kiều đã ngày
càng khẳng định vị trí và giá trị văn học của mình về nhiều mặt. Thấy được thành công của
Truyện Kiều thì không thể không kể đến thành công của Nguyễn Du khi ông đã có sự thoát
lo khỏi những quan niệm Nho giáo về văn học vào giai đoạn bắt đầu của “chủ nghĩa nhân
đạo” – đề cao đến thân phận, vai trò và tài năng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Mặc dù đã có nhiều quan niệm tiến bộ hơn so với thời đại của ông vẫn chịu sự ảnh hưởng
không ít của nhừng quan niệm chính thống của Nho giáo. Bên cạnh sự tiến bộ đó, Truyện
Kiều đã vấp phải không ít luồn ý kiến trái chiều về những gì mà Nguyễn Du đã gán vào tác
phẩm. Thời đại Truyện Kiều được sinh ra là thời kì đất nước tồn tại rất nhiều mâu thuẫn xảy
ra trong lòng xã hội phong kiến. Vì thế mà những tư tưởng của Nguyễn Du thể hiện trong tác
phẩm đã đi đi ngược lại với những tư tưởng của những nhà Nho chính thống cùng thời. Đến
nay Truyện Kiều mới được “đọc lại” bởi những nhà bình luận. Họ đứng từ nhiều gốc độ và
nhìn nhận lại Truyện Kiều một cách đầy đủ nhất.

2.1. Quan điểm của những nhà Nho “chính thống”


Nghiên cứu văn học không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu hoạt động sáng tác tác phẩm
của tác giả mà còn nghiên cứu cả hoạt động tiếp nhận. “Truyện Kiều” mang một giá trị hấp
dẫn lạ lùng về nhiều mặt và được nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội tiếp nhận với nhiều
hình thức phong phú. Có rất nhiều nhà Nho, dịch giả, những nhà thơ Việt Nam cùng thời đã
nêu lên ý kiến, quan điểm của mình về Truyện Kiều. Trong cuốn Văn học Việt Nam (Nửa
cuối thế kỉ XVIII – đến hết thế kỉ XIX) nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc đã đặc biệt nghiên cứu
về “Lịch sử vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều”. Các nhà Nho theo quan điểm đạo đức phong
kiến như Tự Đức, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Công Trứ đã bình luận về Truyện Kiều. Trong
đó Nguyễn Công Trứ đã nhận xét nhân vật Thúy Kiều như sau: “Xét sau trước đủ trung trinh
hiếu nghĩa – Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.” Quan điểm chính thống của Nho giáo về
tình yêu, chữ “trinh” và hôn nhân là một vấn đề nhạy cảm đối với con người – đặc biệt là với
thân phận người phụ nữ như nhân vật Thúy Kiều. Tình yêu đối với lớp tài tử ở giai đoạn này
rất khác rất nhiều đối với quan niệm tình yêu trong mắt của lớp người thơ mới. Trong mắt họ
Kiều là một nhân vật với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”, một vẻ đẹp phải khiến “hoa
ghen” “liễu hờn” và luôn khao khát tình yêu. Sở dĩ, vấn đề tình yêu là một vấn dề rất đỗi bình
thường trong sáng tác của các nhà Nho giai đoạn này là vì họ thể hiện một cách kín đáo, có
chừng mực. Nhưng đối với Nguyễn Du, vấn đề tình yêu của ông đã gây ra nhiều tranh cãi,
chính vì ông đã thể hiện tập trung nhất và táo bạo nhất trong những kiểu lựa chọn của thời
đại. Ông đã lựa chọn những biện pháp làm việc trái ngược với cách nhìn của lễ giáo xưa.
“Yếu tố thể xác” là yếu tố mà luôn gắn liền với nhân vật Thúy Kiều khi nàng bắt đầu với
những rung cảm của mình. Nàng “đầu mày cuối mắt”, “hai bên cùng liếc”, “ai có tiếc gì với
ai?” khẳng định nàng là của Kim Trọng. Đoạn miêu tả cách Kim Trọng và Thúy Kiều lần đầu
gặp nhau hết sức táo bạo và không thể thấy được trong những sáng tác của những truyện Nôm
khác cùng thời. Hai người “Sượng sùng, giữ ý, rụt rè – Kẻ nhìn rõ mặt, người e cuối đầu”.
Ánh mắt của Kiều “Lặng nghe lời nói như ru – Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng”.
Tình yêu trong Truyện Kiều luôn gắn liền với yếu tố thể xác. Nói đến cái rung cảm của xác
thịt và ca ngợi nó là cách nhìn của thời đại. Nhưng cái thời đại được người ta chấp nhận tình
yêu gắn liền với yếu tố thể xác luôn có sự mâu thuẫn với thời đại phong kiến. Một điều mà
phong kiến không thể chịu được là Kiều đã dám yêu trước khi được những uy quyền phong
kiến cho phép yêu. Cái phiền của Kiều ở đây chính là đã dám yêu trước khi được cho phép,
thậm chí còn là người chủ động đi tìm tình yêu của mình. Chỉ sau lần gặp gỡ đầu tiên tình
trong như đã mặt ngoài còn e Kiều đã dám chủ động tìm Kim Trọng để bày tỏ cái ý tình của
mình. Người ta ngỡ ngàng, thảng thốt trước sự táo bạo đến không ngờ của một cô gái phong
kiến, nề nếp lại “nổi loạn” và hẳn là mang cái táo bạo của con người thời hiện đại! Đã đành
là yêu trước khi được sự cho phép, đằng này Kiều và Kim còn thề hẹn, đính ước với nhau chỉ
dưới chứng giám của trăng, cây cỏ. Cái nổi loạn của Thúy Kiều là ở chỗ đã dám phá vỡ trật
tự phong kiến, coi thường và bất chấp những định kiến và quy định mà xã hội đặt ra cho
người phụ nữ. Trái tim của nàng khao khát cháy bỏng một tình yêu và nàng đi theo tiếng gọi
của trái tim để minh chứng cho một sự quẫy đạp ngầm ẩn trong tinh thần của Thúy Kiều.

Nói đến Truyện Kiều thế nào người ta cũng nói đến tình yêu – vấn đề tình yêu xoay
quanh những cuộc tình của Kiều. Kiều là người đàn bà mà Nho giáo sợ hãi, mà Phật giáo xua
đuổi lúc này đã thống trị toàn bộ văn học. Sở dĩ có sự đối lập trong hệ tư tưởng của Nguyễn
Du và những nhà Nho chính thống vì theo tiêu chuẩn của đạo đức, luôn “khắc phục bản thân
để theo lễ” – luôn làm theo những quy định về tôn ty trật tự xã hội. Khổng giáo đòi hỏi “cẩn
thận trong sự suy nghĩ”. Phật giáo yêu cầu “diệt dục” mà nguy hiểm nhất là “sắc dục”. Tình
yêu là con đẻ của những quan hệ xã hội, tất nhiên nó phải phản ứng những qun hệ xã hội đã
làm nảy sinh nó. Hình tượng nhà Nho trong Văn học Trung Đại được hình dung theo hai kiểu
diện mạo như nghiêm trang đĩnh đạc, trí lự thâm viễn, hết lòng vì nước, vì dân là một tấm
gương đạo đức cao cả. Hay họ là những nhân vật rất nhếch nhác, bảo thủ, lẩm cẩm, là đại
diện cho một thứ bậc đáng thương trong xã hội. Mặc dù là kiểu người thế nào nhưng chúng
ta vẫn không nghe học nhắc đến vấn đề tình yêu tình ái của họ trong sáng tác. Nguyễn Công
Trứ là nhà thơ đầu thế kỷ XIX, sáng tác của ông luôn nhắc đến chí làm trai theo tinh thần
Nho giáo, con người đã sinh ra thì phải có danh gì với núi sông, phải làm những việc lớn lao
và phải được ghi vào sử sách.“Chí làm trai nam, bắc, đông, tây / Cho phí sức vẫy vùng trong
bốn bể” (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ).

Cũng dễ để hiểu vì sao các nhà Nho thời này không bận tâm đến vấn đề tình yêu trai gái
vì trong sự hình dung phổ quát của các nhà Nho quan hệ giữa một người nam và một người
nữ mà không cùng huyết thống nếu muốn trở thành quan hệ một cách chính danh thì chỉ có
thể là quan hệ hôn nhân chứ không phải quan hệ tình nhân giữa nam và nữ. Mục đích hôn
nhân của Nho giáo là chỉ bóp hẹp trong phạm vi “tái sản xuất ra bản thân đời sống” nghĩa là
chỉ để duy trì nồi giống và giữa hai người không tồn tại thứ tình cảm tương tư như cái được
định nghĩa là tình yêu. Họ lấy nhau do bề trên sắp đặt, thậm chí đến khi động phòng hoa chúc
vẫn không biết mặt của nhau. Cả hai ý thức đượcc trách nhiệm và nghĩa vụ vủa mình trong
cuộc hôn nhân này, phải ăn ở với nhau theo lễ nghĩa, cư xử hòa hợp trọng trên nhường dưới
theo lễ nghi. Vợ chồng kính trọng lẫn nhau chứ không tồn tại “tiếng sét ái tình” bằng thứ tình
yêu say đắm và mãnh liệt như cách gặp gỡ lần đầu của Kim Trọng và Thúy Kiều. Quan niệm
“văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí” đã ngăn chặn được nhu cầu bộc lộ cảm xúc yêu đương bằng
văn chương của các tác giả nhà Nho. Họ quan niệm văn là để tải đạo nghĩa là chỉ để truyền
tải đạo lý, để nói đến những chuyện thế đạo nhân tâm, những việc quốc gia đại sự chứ không
dành cho dăm ba những ái tình lặt vặt. Vì vậy mà khi đọc Truyện Kiều nhiều tác giả đã bình
luận một cách gay gắt theo quan điểm của mình và cũng như bị tác động bởi yếu tố thời đại.

2.2. Quan điểm của nhà Nho “phóng khoáng”


Theo nguyên tắc thì đã gọi là nhà Nho ắt phải bảo vệ trật tự phong kiến. Nhưng trong
thực tế chế độ phong kiến ở nước ta từ vài trăm năm nay đã suy vi. Họ đã viết ra Truyện
Kiều, ngâm Kiều, vịnh Kiều say sưa trong mối tình đồng điệu. Có rất nhiều nhà Nho ở giai
đoạn này tỏ ra thông cảm, bên vực cho số phận của Kiều như Phạm Quỳnh, Ngô Đức Kế,
Huỳnh Thúc Kháng. Trong đó, nhà Nho Chu Mạnh Trinh tỏ ra thông cảm và thương xót đối
với cuộc đời bất hạnh của Thúy Kiều. Nếu như Mộng Liên Đường đã cắt nghĩa: "Tài mà
không được gặp gỡ tình mà không được hả hê đó là căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy"
thì Chu Mạnh Trinh cao hơn một mức: “Ông cho rằng nguyên nhân sâu xa của bấy nhiêu đau
khổ trong cuộc đời Thúy Kiều cũng như cái chết của Từ Hải là do bất công của xã hội”. Chu
Mạnh Trinh thì nhất định biện hộ cho Kiều trước những lời kết án gay gắt của những người
đứng trên quan điểm phong kiến cố chấp. Sự bất công trong xã hội thối nát đã đẩy Kiều đến
với con đường làm “đĩ” hết lần này đến lần khác. Sự bất công trong vụ án viên quan nhà họ
Vương đã đẩy Kiều vào vòng xoáy của xã hội. Sóng gió ập đến, gia đình tán gia bại sản đến
mức Kiều phải bán mình vào lầu xanh để cứu lấy gia đình. Xã hội phong kiến lúc bấy giờ là
một xã hội mà ở đó bọn quan lại, bọn lưu manh lộng hành tác oai tác oái trong triều đình.
Mỗi nhân vật đến với cuộc đời Thúy Kiều đều là những hiện thân của số mệnh. Cái số mệnh
cay nghiệt đó đã giày vò nàng. Những nỗi đau bất hạnh mà Kiều đang mang trong mình chính
là hệ quả của một xã hội phong kiến bệu rã. Cũng bênh vực cho số phận của Kiều mà Mộng
Liên Đường cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Du viết về Truyện Kiều như có máu rỏ lên đầu
ngọn bút nước mắt thấm qua tờ giấy. Cố nhiên đã yêu thương con người thì phải chống lại
những lực lượng chà đạp con người”. Kiều là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi nhưng cuộc đời
lại lắm truân chuyên. Cuộc đời của nàng trải qua biết bao nhiêu là tai họa đến mức Kiều phải
bán cả bản thân mình để cứu gia đình. Có thể nói câu chuyện thê thảm về số mệnh của một
người con gái phong kiến dưới ngòi bút của Nguyễn Du không thuần túy như cách người ta
thấy nghĩ về Thúy Kiều mà là vận mệnh do trời sắp đặt của một người con gái. Hay nói cách
khác là thông qua vận mệnh của một người con gái nhà thơ đã nói lên vận mệnh của con
người nói chung trong xã hội bất công tàn bạo. Đến thời đại này, những ánh mắt nhìn về
Truyện Kiều đã có sự phóng khoáng hơn trước đó. Họ còn cho rằng số phận của Kiều như
thế là do vận mệnh quyết định, Kiều không có quyền nói lên nỗi lòng của mình, tất cả những
thứ đẩy đưa Kiều là do Trời sắp đặt cho Nàng để Nàng hoàn thành số mệnh của mình. Bùi
Công Trừng có viết: “Không thể chối cãi rằng Truyện Kiều làm cho ta tin ở số mệnh và văn
Truyện Kiều làm cho quần chúng hàng phục đối với mọi cái thế áp bức… Văn Kiều vẫn là
đẹp, vẫn là hay mà cái đẹp, cái hay ấy nó ủ rũ, buồn bã, âm thầm như cái tinh thần của Truyện
Kiều. Chính cái văn chương Truyện Kiều hàm sẵn cái tinh thần nhu nhược và khuất phục”.

2.3. Quan điểm của lớp những nhà Thơ mới

Lớp nhà thơ mới là chủ thể khác về tên gọi cũng như khác hệ tư tưởng so với những nhà
Nho “phóng khoáng” mà phần trên chúng tôi đã giới thiệu. Những nhà Thơ mới đã nhìn
Truyện Kiều bằng cái nhìn của thời đại – một thời đại khác hoàn toàn so với trước đó. Lớp
nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Khắc Hiếu, Hàn Mạc Tử là những đại diện tiêu
biểu cho phong trào Thơ mới xuất hiện. Tuy khác nhau về thời đại nhưng khi nhìn vào quá
khứ họ có cảm tưởng với Nguyễn Du. Cho rằng Nguyễn Du là người duy nhất có thể hiểu
được mình và cùng chung một tâm trạng với mình. Xuân Diệu với tư cách là một nhà thơ ông
có những rung động thật rằng: "Chết mà không nhục mà còn đánh lại quân thù cho đến hơi
thở cuối cùng rồi ngang nhiên đứng sững đó. Từ Hải chết đứng bao nhiêu người vùng lên đã
bao phen chết đứng. Nhưng qua đời này đến đời nọ gián tiếp rồi trực tiếp họ đều đóng góp
cho cuộc cách mạng cuối cùng thành công: cách mạng vô sản!". Đó chính là cảm hứng xuất
phát từ hiện thực rối ren thối nát của một thời đại đã qua. Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng
với tư cách là một vị anh hùng hào kiệt nhưng cũng là bậc phong tình trượng nghĩa. Từ Hải
có thói đa tình, lòng kiêu hãnh, chí độc lập ngang tàng. Tính kiêu hãnh của Từ Hải là hoàn
toàn xứng đáng vì nó giúp con người vượt lên khỏi những “bụi bặm của cuộc đời ô trọc”.
Mặc dù kết cục của Từ Hải là thất bại dưới tay triều đình nhưng Từ Hải đã chiến đấu, “chết
đứng” với lòng kiêu hãnh. Từ Hải chết nhưng chết đứng - chết với lòng kiêu hãnh khôn cùng.
Chết mà vinh hơn kẻ thành công mà nhục. " Từ Hải chết đứng" là một pho tượng hào hùng
tiết ra một luồng sáng vụt ngang mày kẻ phản trắc. Cái chết gan lì của kẻ anh hùng chiến đấu
đến phút cuối cùng, cái chết yên lặng không một tiếng kêu, không một giọt lệ, không một cái
thở dài. Cái chết phi thường ấy là sự kết liễu tất nhiên của một con người có tâm hồn đầy
dũng khí, đầy tin tưởng, đầy thành thật. Cái chết đứng của Từ Hải là một lời nguyền rủa ngàn
đời ném vào mặt những kẻ sống bằng lừa lọc, bằng mưu mô xảo trá. Tồn tại trong xã hội đầy
xảo trá như thế đòi hỏi con người phải sống với thái độ nịnh nọt. lừa lọc lẫn nhau, không ai
có thể là “Từ Hải thứ hai” dám đương đầu với triều đình bằng sự kiêu hãnh khí phách của
mình. Từ Hải là nhân vật được cụ Nguyễn tâm đắc nhất khi xây dựng Truyện Kiều. Ông cho
rằng qua hình tượng nhân vật Từ Hải nhằm thể hiện ước muốn khao khát của người dân ở
chế độ chịu sự áp bức phong kiến muốn đứng lên đòi lại quyền sống của con người – đặc biệt
là thân phận người phụ nữ được thể hiện qua cuộc đời bất hạnh khổ đau tủi nhục của nhân
vật Thúy Kiều. Từ Hải đã cứu nàng thoát khỏi chốn địa ngục của lầu xanh, cho nàng cơ hội
“báo ân báo oán” với những người đã từng gây đau khổ cho Kiều. Xuân Diệu cho rằng nhân
vật Từ Hải là hiện thân của toàn bộ sức mạnh kiên cường, kiêu hãnh phản đối chiến tranh của
lực lượng cách mạng vô sản cùng thời với ông.

2.4. Quan điểm của Thiền sư (Phật giáo)

Có những học giả viết về những đề tài như “triết học Phật học trong Truyện Kiều” cho
rằng những triết lí Phật học trong Truyện Kiều rất mù mờ, chen lẫn với thuyết định mệnh và
quan niệm tài mệnh tương đố của Nguyễn Du. Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong “Thả một bè
lau” cũng từng nhận định về Nguyễn Du: “Chỉ có một điều: quan niệm, kiến thức Phật học
của Nguyễn Du lúc đó chưa uyên bác lắm. Quan niệm về nghiệp còn mù mờ, chất phác. Tuy
nhiên điều đó không có nghĩa là cụ Nguyễn Du không có tuệ giác đạo Bụt. Tuệ giác của cụ
lớn lắm, không phải là do cụ học Phật mà có, mà do cụ đã tiếp nhận từ các thế hệ tổ tiên”.
Chữ Tâm trong Truyện Kiều là lòng trắc ẩn, biết đồng cảm thương người, ý thức được thị
phi, phải trái biết lễ nghĩa. Tư tưởng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là tư tưởng chữ
“Tâm” đối lại với chữ “Tài”, bù đắp cho chữ “Tài”. Nguyễn Du dùng chữ tâm để khuyên
chúng ta không nên trông cậy vào cái tài của mình. Vì theo quan niệm của Phật giáo khi có
tài mà không có đức, không tu, không biết giấu tài của mình đi mà cứ khoe khoang, cho mình
là giỏi, thì tai nạn sẽ đến với mình và mình sẽ đau khổ rất nhiều. Chữ Tâm trong Truyện Kiều
không phải để ca ngợi sự hi sinh của nàng mà để nói đến nỗi đau đớn, “đoạn trường” của một
con người. Kiều là một người đa tài nhưng gặp nhiều luân phiên trắc trở, cái tài cũng không
thể cứu nàng thoát khỏi nghịch cảnh của số phận. Chỉ có chữ Tâm trong mỗi con người mới
có sức cứu vớt cuộc đời của nàng. Vì vậy mà sau khi trải qua bao nhiêu là trắc trở, truân
chuyên của cuộc đời Kiều do “tài mệnh” mang lại thì cụ Nguyễn đã cho Kiều quay về tu sửa
tâm của mình. Mặc dù được nhận xét rằng kiến thức Phật học chưa thật sự uyên bác nhưng
Nguyễn Du đã thể hiện cái tài của mình trong cách thay đổi cái nhìn của người đọc về quan
niệm “Có tài có sắc là có tất cả”. Đến cuối cùng chữ “tâm” vẫn là thứ điều khiển con người
ta sống đúng theo luân thường đạo lí. Đó cũng một trong những quan niệm sáng tạo trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du mà sau đây chúng ta cùng tìm hiểu.

CHƯƠNG 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM TIẾN BỘ, VƯỢT THỜI ĐẠI CỦA NGUYỄN
DU TRONG TRUYỆN KIỀU

3.1. Quan niệm tiến bộ, vượt thời đại của Nguyễn Du về cách ứng xử của con người
trước “thiên mệnh” (Bảo Hân)
*Thuyết “thiên mệnh” trong tư tưởng Nho giáo và sự thể hiện nó trong Truyện Kiều
Thuyết “thiên mệnh” là một nội dung chủ yếu của hệ thống tư tưởng Nho giáo. Trước
hết, thuyết “thiên mệnh” là những quan niệm về nguồn gốc của thế giới, vạn vật, là thế giới
quan của Nho giáo. Theo đó, thuyết này xem vạn vật đều là từ trời mà ra, trời là chúa tể của
vũ trụ, mọi sự tồn tại từ thế giới, vạn vật đến tổ tiên của loài người đều có nguồn gốc từ trời
như Kinh Lễ có nói: “Vạn vật bản hồ thiên” và “Nhân bản hồ tổ”. Và Khổng Tử trong Kinh
Xuân Thu, sách Luận ngữ cũng đã có bàn đến mệnh trời, nhà Nho ngoài việc xem trời là lực
lượng sinh thành của vạn vật còn xem trời như thực thể có ý chí quyết định thân phận hay số
phận của con người. Tử Hạ (học trò của Khổng Tử) đã kế thừa luận điểm về thiên mệnh của
Khổng Tử và nói: “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”. Có thể thấy, mệnh trời trong lý giải
của Khổng Tử và phần lớn nhà Nho giữ một vị trí quan trọng trong sự sinh thành, biến hóa
của vạn vật, nó có một vai trò toàn năng, chiếm quyền uy tuyệt đối, là ý chí tối cao mà con
người không thể thay đổi.

Cũng từ hai điểm trên mà thuyết “thiên mệnh” đã cụ thể thành 4 điểm cơ bản mà con
người phải làm khi đứng trước thiên mệnh, đó là tri mệnh (biết mệnh trời mà tuân theo, không
nên chống cải), phối mệnh (phải luôn trau dồi đức hạnh để thấu hiểu được sự chuyển biến
của trời đất), sĩ mệnh (không than vãn, trách cứ mà cứ nên an nhiên chờ đợi mệnh trời đến)
và úy mệnh (phải kính sợ mệnh trời, chớ có cãi lại). Dựa theo 4 điểm trên, thuyết “thiên
mệnh” gần như trở thành một vòng tròn giam cầm con người khỏi việc tự do tìm kiếm hạnh
phúc cá nhân, bởi “cái số kiếp” của con người đã trở thành một lực lượng tự nhiên mà con
người không thể thao túng. Như những câu thơ trong Truyện Kiều đã nói:

“Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần, phải phong trần,

Cho thanh cao, mới được phần thanh cao.” (3241-3244)

Tóm lại, thuyết “thiên mệnh” theo khuôn khổ tư tưởng chính thống thì được hiểu với hai
mệnh đề. Thứ nhất, trời sinh vạn vật nên trời có uy quyền tuyệt đối, có thể định sẵn số phận
con người và số phận định sẵn đó là kết quả tất yếu sẽ diễn ra, không thể thay đổi được. Thứ
hai, con người sau khi đã “tri mệnh” thì việc còn lại có thể là cũng chỉ là trau dồi đạo đức và
chờ vận mệnh đến, phải phục tùng, làm đúng “mệnh” không được cải lại hay phản kháng.

Bàn về thuyết “thiên mệnh” của khuôn khổ chính thống trong Truyện Kiều, ta không thể
phủ nhận về tầm ảnh hưởng của nó trong tác phẩm dài 3254 câu này. Nguyễn Du vẫn chấp
nhận một trong hai mệnh đề của thuyết “thiên mệnh”, là số phận không thể thay đổi. Bằng
chứng là từ lúc mở đầu cho đến khi kết thúc, cụ Nguyễn vẫn giữ nguyên suy nghĩ về sự bất
biến của số phận định sẵn Kiều với những câu thơ như:

“Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.” (1-2)


Mặt khác, sự đồng tình của cụ Nguyễn với quan niệm “thiên mệnh” không thể thay đổi
còn được thể hiện rõ qua những lời dự báo về số kiếp của Kiều đều sẽ ứng nghiệm, Thúy
Kiều dẫu biết về vận mệnh của mình nhưng vẫn không thể nào thay đổi nó được. Như lúc
nàng rút dao quyên sinh khi biết phận mình phải vào chốn lầu xanh thì nhận được lời Đạm
Tiên báo mộng về số kiếp lưu lạc chỉ khi đến sông Tiền Đường mới có thể dừng “Sông Tiền
Đường, sẽ hẹn hò về sau”. Và quả đúng như vậy, Thúy Kiều chỉ sau khi gieo mình dưới sông
Tiền Đường thì mới được xem như đã rút tên khỏi sổ đoạn trường, rồi mới có thể lại một lần
nên duyên cùng Kim Trọng.

Như vậy, Nguyễn Du ít nhiều vẫn bị trói trong cái ảnh hưởng thời đại, cụ thể là trong
cái tiền đề “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận”. Cụ Nguyễn vẫn xem cái “thiên định”
như một sự sắp đặt sẵn của tạo hóa và nó nhất định sẽ diễn ra mà không thể đổi khác.

*Sự tiến bộ trong quan niệm “thiên mệnh” của Nguyễn Du qua nhân vật Thúy Kiều

Mang những ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng “thiên mệnh” của Nho giáo, cốt truyện của
Truyện Kiều được tạo thành từ những chuỗi biến cố xảy ra trong cuộc đời Kiều, suốt 15 năm
trời, Thúy Kiều như đang dùng cuộc đời của mình để minh giải cho thuyết tài- mệnh tương
đố. Trên cốt truyện đó, nhân vật Thúy Kiều lại được đại thi hào Nguyễn Du xây dựng như
một nhân vật mang tính chủ động, một con người tự do có ý thức tranh chấp với số mệnh.
Nhìn theo góc độ này, ta mới phần nào thấy được tầm vóc, tâm tư của Nguyễn Du về con
người và mệnh số, phần nào hiểu được sức vóc của quyển truyện thơ mà theo Tiên Phong
Mông Liên Đường Chủ Nhân có nói: “Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút,
nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt
ruột”.

Như đã nói, thuyết “thiên mệnh” được hiểu với hai mệnh đề và trong đó mệnh đề thứ
nhất vẫn được tác giả giữ nguyên trong Truyện Kiều. Nhưng ở mệnh đề thứ hai, có thể dễ
dàng nhận ra đây là điểm tiến bộ vượt bậc, thoát ra khỏi khuôn khổ những tư tưởng chính
thống của Nguyễn Du, ông không xem “thiên mệnh” là không thể cải lại, không chấp nhận
con người dễ dàng khuất phục trước vận mệnh đã được định sẵn, quan niệm của ông về con
người trước số phận là con người phản kháng “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng
nhiều”(420). Trong suốt chiều dài tác phẩm, nhân vật Thúy Kiều đã bao lần vùng vậy cố thoát
ra khỏi cái số đoạn trường, khỏi vận mệnh “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”(2). Lúc bị
nhốt ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều chìm vào những nỗi buồn thương khi nhớ nhà, khi tiếc
thương cho mối tình giữa mình và Kim Trọng, lúc lại thương xót cho phận mình. Để rồi khi
gặp Sở Khanh mở lời, sự thôi thúc phải thoát khỏi chốn lầu xanh, phải chạy khỏi cái định
mệnh bẽ bàng mà nàng đã được Đạm Tiên báo mộng, Thúy Kiều chủ động viết thư cho Sở
Khanh:

“Đánh liều nhắn một hai lời,

Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.

Mảnh tiên kể hết xa, gần

Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.” (1079-1082)

Có người đã nhận xét rằng ở chi tiết này Kiều đã quá dễ tin nên mới bị Sở Khanh lừa,
nhưng có thật thế không? Nếu ta cứ nghĩ thế thì trách oan cho Kiều quá, nàng rõ ràng cũng
đã chú ý đến điểm đáng ngờ của Sở Khanh:

“Nghe lời nàng đã sinh nghi,

Song đà quá đỗi quản gì được thân” (1113-1114)

Những mong muốn được thoát khỏi lầu xanh này, chạy khỏi cái “thiên mệnh” vô hình
nhưng lại đè nặng lên đời mình của Kiều quá lớn khiến nàng dù đã có ngờ vực vẫn “Cũng
liều nhắm mắt đưa chân”(1115). Thêm vào đó, Sở Khanh lúc bấy giờ chính là tia hy vọng
duy nhất mà nàng có thể nắm lấy. Nhưng rõ ràng hy vọng của Kiều đã trao sai người, để rồi
nàng phải gánh lấy hậu quả của cuộc chạy trốn thất bại này là một trận đòn từ Tú bà “vùi hoa
dập liễu tơi bời” và nàng cũng bị bắt đi tiếp khách, số phận nghiệt ngã đến nỗi nàng đã nghĩ:

“Dẫu sao bình đã vỡ rồi,

Lấy thân mà trả nợ đời cho xong”

Một dẫn chứng khác biểu hiện cho việc Thúy Kiều cố gắng phản kháng trước số phận
là chi tiết nàng gặp Thúc Sinh, gặp Từ Hải. Trước khi về làm vợ lẽ Thúc Sinh, Kiều đã có
suy nghĩ:

“Đã đày vào kiếp phong trầo,

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!” (1273-1274)


Câu thơ chất chứa bao nhiêu là nỗi tủi nhục, đau đớn của Thúy Kiều, sự uất ức và đau
thương khi mang trong mình quá nhiều nỗi oan sai nghiệt ngã khiến câu thơ như một lời nói
bất chấp tất cả “sỉ nhục một lần mới thôi”. Hay trước lúc gặp Từ Hải, Thúy Kiều đang phải
chịu kiếp lầu xanh lần thứ hai, nỗ lực trốn thoát nhưng rồi lại phải quay lại khiến Thúy Kiều
đã nghĩ rằng:

“Biết thân tránh chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh” (2163-2164)

Câu thơ tựa than, tựa khóc cho thân phận nàng, cứ ngỡ đã có thể thoát khỏi lầu xanh
nhưng rồi lại phải quay về, Thúy Kiều như mắc vào tấm lưới trời “tránh chẳng khỏi”. Ở đây,
ta có thể thấy được sự mâu thuẫn trong suy nghĩ và hành động của Thúy Kiều, nàng thường
hay nghĩ rằng thôi cứ chấp nhận số phận này, chịu đựng số kiếp này như một cách để trả
nghiệp. Nhưng hành động của nàng thì hoàn toàn trái ngược, đã nghĩ rằng “sỉ nhục một lần
rồi thôi”, “liều mặt phấn cho rồi ngày xanh” nhưng khi thấy được một hy vọng, một cơ hội
để thoát khỏi lầu xanh (gặp Thúc Sinh, Từ Hải) nàng sẽ ngay lập tức nắm lấy. Do đó mà trong
“thanh y hai lượt” của Kiều với Thúc Sinh và Từ Hải không phải chỉ có tình cảm lứa đôi mà
nó còn là một sự đấu tranh muốn vượt thoát ra khỏi cái kiếp lưu lạc thanh lâu.

Ngoài ra, sau khi bị Hoạn Thư đẩy ra đến Quan Âm các, Thúy Kiều đã đưa ra những lí
do thấu tình cốt để Thúc Sinh có thể cứu mình ra, như để “thiên hạ trông vào cũng hay” hay
vì “Chẳng trăm năm cũng một ngày, duyên ta”(1964). Nhưng Thúc Sinh lại từ chối vì “Lòng
người nham hiểm biết đâu mà lường?”(1968). Khi Thúc sinh từ chối, trước sự ghen tuông
cực kì nham hiểm của Hoạn Thư đến nỗi “Nghe thôi kinh hãi xiết đâu”(2003), “Nghĩ càng
thêm nỗi sởn gai rụng rời”(2006) Kiều đã quyết định tự mình đi trốn. Động lực để vượt thoát
ra khỏi Quan Âm các như là một minh chứng của nàng Kiều đang cố gắng tranh chấp với số
phận đoạn trường, nó mạnh mẽ đến mức mà Kiều sẵn sàng thực hiện những hành vi sai trái.
Đó là lúc Kiều quyết định bỏ trốn nhưng lại lo một thân một mình sẽ phải gặp nhiều khó khăn
nên thoáng thấy “Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân”(2024) thì nàng đã ăn cắp nó “Bên mình
giắt để hộ thân”(2025) rồi vượt tường hoa mà chạy trốn. Đến khi Chiêu Ẩn am của Giác
Duyên trụ trì thì vì để có nơi ở mà nàng đã nói dối sư Giác Duyên rằng:

“Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,

Quy sư, quy phật tu hành bấy lâu


Bản sư rồi cũng đến sau,

Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh” (2043-2046)

Nhìn chung, Thúy Kiều trong cách xây dựng của Nguyễn Du đã bật lên một đức tính rất
Việt Nam, đó là tính phản kháng với cái sai, đấu tranh giành quyền tự do cho mình. Nhà thơ
thông qua hình ảnh cô Kiều với cuộc đời lưu lạc để nói đến quan niệm về cách ứng xử của
con người trước “thiên mệnh”. Con người trước mệnh số rất nhỏ bé, nhưng như thế không có
nghĩa là con người chấp nhận tròng lên cho mình một chiếc vòng khóa để rồi trói buộc bản
thân, con người vẫn có thể phản kháng, vẫn có thể bất bình để vượt thoát cái rào cản hạn chế
mà vươn lên cái tốt đẹp. Quan điểm này của cụ Nguyễn cũng là một trong số các quan điểm
đã biểu hiện tầm nhìn vượt thời đại của cụ. Cụ đã nêu lên một vấn đề mà những tư tưởng
phong kiến xưa chưa bao giờ để cho con người ta nói đến, đó là bản năng sống, sống cho
đúng với một kiếp người, sống hạnh phúc. Truyện Kiều của Nguyễn Du tiến bộ cũng là vì
ông dám nói lên cái khát vọng được sống hạnh phúc này và khẳng định sự tồn tại của cá nhân
con người.

3.2. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về mối quan hệ “Tâm – Tài” (Thanh Thùy)
“Tài” có nghĩa là tài năng, tài hoa, trí tuệ của con người.

“Tâm” trước hết là trái tim, tấm lòng, sau hiểu rộng ra còn là đức độ, đạo đức.

Đây là những nét lý giải cơ bản về hai chữ “Tâm”–“Tài”. “Tâm” và “Tài” là hai chữ
dùng để đánh giá con người, mà như Nguyễn Tuân – nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp từng thể
hiện tư tưởng của mình qua tác phẩm “Chữ người tử tù” rằng cái đẹp, cái tài và cái thiên
lương trong sáng chính là ba thứ đáng quý nhất của con người, chúng ta hiểu cái “thiên lương
trong sáng” mà Nguyễn Tuân nói đến chính là cái “tâm”. Vậy giả sử tạm gác qua cái “đẹp”
thì hai yếu tố còn lại là “tâm” và “tài”, yếu tố nào sẽ vượt trội và được đánh giá cao hơn? Với
câu hỏi này, cụ Nguyễn Du đã trả lời giúp hậu thế qua hai câu thơ trong Truyện Kiều rằng:

“Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (3251 – 3252)

Nhận định trên cho thấy Nguyễn Du đã nâng niu và xem trọng chữ “tâm” như một viên
ngọc quý của thiên Truyện Kiều, vượt lên trên cả chữ “tài”, vượt lên cả những thói xấu xa,
ghen ghét, đố kỵ để tồn tại, giống như nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã từng nói cái tâm dịu
dàng, biết trọng người ngay thẳng của viên quản ngục “là một thanh âm trong trẻo chen vào
giữa một bản đàn và nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” (Sách Ngữ Văn 11, tập 1, tr. 110).

Vậy tại sao lại cho rằng sự đánh giá này của Nguyễn Du lại là một quan niệm tiến bộ
vượt thời đại? Và liệu quan niệm ấy có có còn đúng trong cuộc sống ngày nay không? Đó là
những vấn đề mà chúng ta sẽ cùng tìm hiểu và làm rõ.

Xuyên suốt thiên Truyện Kiều, chữ “tài” được nhắc đến rất nhiều trong tác phẩm, xuất
hiện trên 15 lần:

“Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” (1 – 2)

“Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân” (1264)

“Có tài mà cậy chi tài,

Chữ tài liền với chữ tai một vần” (2374 – 2375)

“Tài” trong Truyện Kiều không chỉ có mỗi ý nghĩa là tài năng, trí tuệ, mà còn thể hiện
cả cá tính của nhân vật trong tác phẩm. Nguyễn Du khi viết về chữ “tài”, đã xét chữ này dựa
trên thuyết “tài – mệnh tương đố”, mà theo Nguyễn Du chính cái tài “nghìn vàng chưa cân”
ấy đã gây ra biết bao tai ương, khổ hạnh trái ngang cho Thúy Kiều.

“Anh hoa phát tiết ra ngoài,

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” (355 – 356)

Trái với sự xuất hiện nhiều của chữ “tài”, chữ “tâm” lại không được nhắc đến trực tiếp
quá nhiều trong tác phẩm mà chủ yếu xuất hiện gián tiếp qua chữ “lòng” và chữ “tình”, thế
nhưng Nguyễn Du vẫn nhấn mạnh “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Chữ “tâm” trong Nho
giáo là lòng trắc ẩn, đồng cảm, thương xót con người, biết lễ nghĩa, biết khinh biết trọng, biết
hổ thẹn và phân biệt những điều thị phi phải trái. Còn chữ “tâm” trong Phật giáo lại là trong
suốt, sáng tỏ, từ bi hỉ xả, bác ái chúng sinh. Chữ “tâm” trong Truyện Kiều được nhận xét là
có sự giao thoa giữa chữ “tâm” trong Nho giáo và chữ “tâm” trong Phật giáo, vì thế nên lưu
ý rằng chữ “tâm” trong Truyện Kiều không đồng nhất hoàn toàn với chữ “tâm” trong Phật
giáo, vì Nguyễn Du không diệt dục như thuyết của nhà Phật, bởi nếu triệt tiêu đi tính “dục”
thì Nguyễn Du đã không thể viết nên Truyện Kiều.

Chữ “tâm” trong Truyện Kiều đã được Nguyễn Du thể hiện mở rộng qua rất nhiều khía
cạnh khác nhau, không còn là chữ “tâm” với mỗi ý nghĩa đơn giản là tấm lòng, chữ “tâm”
của Nguyễn Du đã hòa quyện rất nhiều khung bậc cảm xúc, sắc thái để tạo nên một chữ “tâm”
thật sự có chiều sâu và trở thành chìa khóa để độc giả bước vào thiên Truyện Kiều. Khi Thúy
Kiều cùng Kim Trọng thề nguyền kết duyên thì chữ “tâm” đã được thể hiện qua câu: “Đã
nguyền đôi chữ đồng tâm” (472), đây là “đồng tâm” của tình yêu đôi lứa, khi Thúy Kiều bán
mình chuộc cha, chữ “tâm” ấy còn là “hiếu tâm” của tình phụ tử, hay khi cái lòng ghen tuông
trỗi dậy của Hoạn Thư còn được thể hiện qua câu: “Lửa tâm càng dập, càng nồng” (1537)
hoặc ở khía cạnh khác nữa, khi Từ Hải và Thúy Kiều gặp nhau, chữ “tâm” lại hóa thành “tâm
phúc” tri kỷ qua câu: “Từ rằng:“tâm phúc tương cờ” (1793).

Chữ “tài” được Nguyễn Du đặt trong mối tương quan “tài – mệnh” tương đố nhau,
được cho là gốc rễ tạo nên sự bất hạnh và những sóng gió trong cuộc đời của Thúy Kiều, ở
đây ta không bàn về chữ “tài” trong mối tương quan “tài – mệnh” mà sẽ rẽ sang một góc nhìn
khác, xét chữ này trong mối quan hệ với chữ “tâm”, liệu chúng có ảnh hưởng gì đến nhau
hay không? Nhớ đến câu nói của Viên Mai: “Tài gia tình chi phát, tài thịnh tình tắc thâm”,
nghĩa là tài là ở tình mà ra, tài cao ắt tình sẽ sâu, tài của Thúy Kiều không có gì phải bàn cãi
nữa, đi liền với cái tài là cái tâm, cái tình của nàng, mà như nhân vật Tam Hợp đạo cô đã nói:

“Sư rằng: Phúc họa đạo trời,

Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.” (2104 – 2105)

“Lại mang lấy một chữ tình,

Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.

Vậy nên những chốn thong dòng,

Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.” (2109 – 2112)

Như vậy, chính cái tâm “không yên ổn” của Thúy Kiều cũng là một trong những nguyên
nhân khiến nàng phải đau khổ, lận đận, khổ thân lại còn thêm nỗi khổ tâm giày xéo lên nhau.
Đầu tiên, chúng ta có thể thấy cái tâm của Thúy Kiều khi gặp nấm mồ Đạm Tiên, chỉ với một
nấm mồ lạnh lẽo, người thác bên dưới chẳng rõ thân quen, Thúy Kiều vẫn tiếc thương, buồn
rầu, ủ dột đến nỗi chẳng kìm được lòng mà “Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài” (86), những
hành động của Thúy Kiếu khi ấy, đặc biệt là những giọt nước mắt, chính là cảm xúc xuất phát
từ tận đáy lòng hay chính cái tâm thương xót, đồng cảm sâu sắc của Thúy Kiều đối với Đạm
Tiên, mà không dễ ai cũng có tấm lòng như thế, những giọt nước mắt ấy của Thúy Kiều có
lẽ cũng chính là những giọt nước mắt mà Nguyễn Du đã mượn Thúy Kiều để hóa thân vào,
bởi trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký”, Nguyễn Du cũng đã có nỗi niềm đồng cảm và những
giọt nước mắt như thế dành cho nàng Tiểu Thanh “tài hoa bạc mệnh”, hay cũng là những giọt
nước mắt dành cho chính Nguyễn Du.

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Ngoài Thúy Kiều, chúng ta còn bắt gặp cái tâm của nhân vật Kim Trọng, với nhân vật
này, Nguyễn Du đã để cái tâm thấu hiểu và tấm lòng trân trọng vượt lên trên những định kiến
hà khắc, cổ hủ của xã hội đương thời, để hai chữ “hiếu tâm” của Thúy Kiều tỏa sáng và vượt
lên trên cả hai chữ “trinh tiết” trói buộc phẩm hạnh của nàng. Đây cũng chính là một trong
những điểm thể hiện sự tiến bộ vượt thời đại của đại thi hào Nguyễn Du. Thế nên, chữ “tâm”
chính là chìa khóa để người đọc bước vào thế giới của Truyện Kiều, bước vào để cảm nhận
và thấu hiểu sâu sắc những giá trị nhân đạo tốt đẹp, ý nghĩa mà Nguyễn Du đã gửi gắm vào.

“Như nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay?” (3119 –3120)

Hay cuộc gặp gỡ “trai anh hùng, gái thuyền quyên” giữa Từ Hải và Thúy Kiều vẫn tiếp
tục xuất hiện chữ “tâm”, nhưng là “tâm phúc tương cờ”, tức là cái tâm tri kỷ, tri ân, cái tâm
cảm ngộ giữa đấng anh tài và phận gái tài hoa, như Từ Hải đã thốt:

“Tri kỷ trước sau mấy người” (1808)

“Hai bên ý hợp tâm đầu,

Khi thân chẳng lựa là cầu mới thân!” (1811–1812)


Đấy chính là cái “tâm” của những kẻ tương giao tri kỷ. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của
nhân vật Hoạn Thư cũng thể hiện thêm một khía cạnh khác của chữ “tâm”, ấy là cái “tâm”
rất thế tục,“hỉ, nộ, ái, ố” của đời thường, như Nguyễn Du đã viết đó là “lửa tâm”, tức là lòng
hận thù, ghen ghét rực cháy của Hoạn Thư khi biết Thúc Sinh cưới Thúy Kiều làm vợ lẽ, kiếp
chồng chung chẳng ai mong muốn và Hoạn Thư cũng đã lý giải cái “tâm” ghen tuông ác độc
của mình một cách rất khôn khéo:

“Rằng: Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình” (1932 – 1933)

Từ đây, chúng ta có thể thấy, chữ “tâm” bao quát Truyện Kiều ở rất nhiều nhân vật chứ
không riêng mỗi nhân vật Thúy Kiều, điều đó cho thấy Nguyễn Du rất mực đề cao giá trị chữ
“tâm” và suy xét nó trong đời thường, chứ không ràng buộc trong lễ giáo phong kiến Nho gia
hay triết lý của nhà Phật. Nếu chữ “tài” khiến người đọc công nhận nhân vật, chú ý đến nhân
vật thì chữ “tâm” lại là điểm then chốt để người đọc bước vào thế giới nội tâm của nhân vật
và yêu mến nhân vật, quý vì “tài” nhưng yêu lại vì “tâm”. Có “tâm” ắt sẽ có “tầm”.

Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng nên một Thúy Kiều tài hoa lắm gian truân,
nhưng chính cái “tâm” sáng, trọng tình trọng nghĩa đã giải thoát sự bế tắc cho chính nàng ở
cuối thiên truyện. Giá trị tư tưởng tôn vinh chữ “tâm” ấy của Nguyễn Du hoàn toàn phù hớp
với giá trị tư tưởng của thời đại ngày nay, những câu châm ngôn bất hủ như “tiên học lễ, hậu
học văn” hay “hiền tài là nguyên khí quốc gia” chính là những câu nói thể hiện cho việc ngợi
ca, xem trọng chữ “tâm”, hay chính là đạo đức con người của dân tộc ta.

3.3. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về tình yêu (Trang)

Dưới thời phong kiến, tình yêu nam nữ bị cấm kỵ trong đời sống xã hội. Thế nhưng,
trong Truyện Kiều - Nguyễn Du đã diễn tả nó thật sự như trạng thái tâm sinh lý tự nhiên của
con người. Điều đó tất yếu đi ngược lại giáo điều bất di bất dịch tồn tại hàng nghìn năm. Có
thể nói quan niệm về tình yêu nam nữ trong Truyện Kiều đối lập với những quan niệm xưa.
Nói về tình yêu nam nữ, người xưa diễn tả thân phận bị động, phụ thuộc của người con gái
trong khi quyền chủ động thuộc về nam giới. Người xưa quan niệm trong tình yêu người con
gái phải chờ đợi từ người con trai mà không được mạnh mẽ thể hiện, chiếm lĩnh, chở che
trong tình yêu của mình. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy,
đàn bà là vật sở hữu của cha mẹ, của công xã. Thế nhưng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du lại
đề cao giá trị tự do yêu đương trai gái. Tất cả các quy tắc đương thời như “cha mẹ đặt đâu,
con ngồi đấy”, nếu có sự chủ động trong việc tìm kiếm bạn đời thì đó là nam, không phải nữ;
quan niệm “trâu đi tìm cọc”, chứ không có chuyện “cọc đi tìm trâu”, “lấy vợ kén tông, lấy
chồng kén giống”, “môn đương hộ đối”… thì các nhân vật yêu nhau trong tác phẩm bứt tung.
Có lẽ điều này sẽ gặp phải những sự pản đối của nhiều người lúc bấy giờ vì ông đi ngược lại
với cách nhìn của lễ giáo xưa, hôn nhân phải do cha mẹ sắp đặt.

Quan niệm tiến bộ đầu tiên ở Truyện Kiều chính là sự chủ động và tình yêu tự do của
đôi nam nữ. Đại thi hào đã táo bạo khi xây dựng mối tình Kim-Kiều đẹp đẽ, vượt qua lễ giáo
gia phong, vượt khỏi định kiến xã hội. Tình cảm yêu đương của đôi nam thanh nữ tú ấy đến
với nhau một cách tự nhiên, là sự rung động đến từ hai con tim, không có sự can thiệp của
một ai cũng như không có sự bó buộc hay gượng ép: “Người quốc sắc, kẻ thiên tài/Tình trong
như đã, mặt ngoài còn e”(163-164). Chắc hẳn ngay từ lần gặp nhau đầu tiên, giữa nàng Kiều
và chàng Kim Trọng đều đã mang tâm tư luyến ái, nhớ nhung dành cho đối phương. Trong
buổi chiều xuân của lễ hội đạp thanh, bóng hình yêu kiều thướt tha của nàng Kiều đã gieo
vào lòng chàng thư sinh Kim Trọng nỗi vấn vương ngọt ngào: “Dưới cầu nước chảy trong
veo / Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”(169-170). Và không chỉ mỗi chàng thư sinh Kim
Trọng mang nỗi tương tư ấy mà nàng Kiều cũng đã phải lòng chàng ngay từ lần gặp đầu tiên:
“Bóng tà như giục cơn buồn / Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo”(167-168). Trong quan
niệm truyền thống, tình yêu không phải là chuyện của hai người mà ngược lại cha mẹ áp đặt
chuyện tình cảm của con cái. Kết quả là hai người trong cuộc không thể nào chủ động, tự do
mà đến với nhau. Nguyễn Du đã đánh đổ điều này nhưng không phải là hoàn toàn. Là phận
khuê các mặc dù trước đó Kiều đã từng rung động trước hình ảnh một chàng trai: “Phong tư
tài mạo tốt vời/ Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”(151-152), với biết bao đêm thao thức
thầm kín: “Người đâu gặp gỡ làm chi?/ Trăm năm biết có duyên gì hay không?”(181-182).
Thế nhưng khi chỉ có hai người nơi vườn cây vắng vẻ, dù được Kim Trọng tỏ tình nhưng
nàng không vội nhận lời cầu hôn đó của chàng Kim: “Dù khi lá thắm chỉ hồng/ Nên chăng
thì cũng tại lòng mẹ cha” (333-334). Nàng phải hỏi ý kiến mẹ cha rồi mới trả lời, mặc dù đã
“Nặng lòng xót liễu vì hoa”(335) nhưng nàng lấy lí do “Trẻ thơ đã biết đâu mà dám
thưa”(336) chuyện tình yêu là do mẹ cha quyết, chứ đâu đến lượt Kiều. Tuy vậy rõ ràng Kiều
nói lí lẽ là vậy chứ không giữ lời nói đó. Và rồi khi Kim Trọng giãi bày tấm lòng mình thì
Thuý Kiều bắt đầu có những hành động vượt qua lễ giáo dù chưa hỏi ý kiến của cha mẹ, cũng
như chàng Kim đâu đã được cha mẹ chàng cho phép “Chày sương chưa nện cầu Lam”(457),
chàng viện lí do “Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang/ Đã lòng quân tử đa mang” (350-351).
Nàng Kiều đã nhận lời yêu chàng Kim “Một lời vâng tạc đá vàng thuỷ chung!” (352). Rõ
ràng cả hai yêu nhau một cách tự do nhất, chân thực nhất, là sự rung động từ hai con tim mà
không cần hỏi ý kiến hay sự đồng tình từ mẹ cha, đây là một quan điểm mới của tác giả về
tình yêu.

Như đã nói trong tư duy thời phong kiến, nếu có sự chủ động trong chuyện tìm kiếm
bạn đời thì đó phải là nam giới chứ không phải nữ giới. Ở Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn
Du đã để nhân vật nữ là Thuý Kiều chủ động, táo bạo trong việc tìm đến với người yêu. Quả
thật Nguyễn Du rất tinh tế khi miêu tả được những tâm trạng khi yêu của đôi nam nữ. Thuý
Kiều và Kim Trọng đã yêu nhau bằng một tình yêu tự do, trong sáng, tự do hò hẹn mà không
sợ bị can ngăn một điều gì, nàng Kiều chủ động đi tìm người mình thương ngay trong đêm
khuya: “Cửa ngoài vội rủ rèm the,/ Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.” Chỉ với hai
câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng có thể thấy được những bước chân nhanh nhẹn, đầy can đảm,
chủ động và táo bạo ấy như đang từng bước đạp đổ xiềng xích của lễ giáo phong kiến trói
buộc người phụ nữ bấy lâu nay của Kiều. Bởi lẽ trong xã hội phong kiến xưa, các hủ tục trói
buộc con người đã tạo nên một bức tường ngăn cách sự tự do, ngăn cách tình yêu đôi lứa.
Nhưng một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, đã
tự mình ước hẹn, thề nguyền mà không cần sự cho phép của cha mẹ. Kiều tự ý đi tìm chàng
Kim trong đêm khuya, bước chân “xăm xăm băng lối”, nàng lại mang thân phận khuê các,
hiểu rõ những điều đó hơn ai hết, nhưng sức mạnh tình yêu quá lớn khiến cô đã đạp phăng đi
những cản trở của lễ giáo đã áp đặt và trói buộc tình cảm con người. Điều đó chứng tỏ rằng
trong Kiều luôn hiện hữu khao khát về một tình yêu tự do, và nàng đang chủ động tìm kiếm
hạnh phúc cho riêng mình. Không những vậy, Nguyễn Du còn miêu tả thật chính xác cả cái
quá trình yêu đương theo tiếng gọi của dục vọng, dường như tình yêu ở Truyện Kiều gắn liền
với thể xác, nói đến cái rung cảm của xác thịt và ca ngợi cái rung cảm ấy. Đó là đoạn Kiều
sang nhà Kim Trọng (441-521) dài đến 83 câu. Ta thấy được hình ảnh một cô gái hết sức chủ
động, táo bạo đi ngược lại hoàn toàn với những quan niệm xưa về hình ảnh cô gái trong
chuyện tình cảm đôi lứa: “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”(442), tại cuộc gặp gỡ đêm
hôm đó“Tiên thề cùng thảo một chương/ Tóc mây một món, dao vàng chia hai”(447-448) cả
hai cắt tóc, thề nguyền trở thành vợ chồng dù không có sự xin phép hay sự chấp thuận từ mẹ
cha, chẳng đợi “Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”. Cũng chưa có lời dạm hỏi của cha mẹ,
hai người đã “Chén hà sánh giọng quỳnh tương”(453), cùng nhau uống rượu để rồi “Dải là
hương lộn, bình gương bóng lồng”(454). Kiều nói: “Đừng điều nguyệt nọ hoa kia/ Ngoài ra
ai lại tiếc gì với ai” (462-463) khẳng định nàng là của chàng Kim, điều này cho thấy đúng
với tâm trạng những cô gái ngây thơ, yêu lần đầu với sự say mê nhưng chứa đựng trong đó
là sự hi sinh cho người mình yêu. Cảnh gặp gỡ này xen vào vầng trăng, chén rượu, tiếng đàn,
ngọn đèn, hương bay tạo nên một không khí kì ảo nhưng rất thực. Trong cái nhìn tiến bộ về
tình yêu của Nguyễn Du, cho thấy rõ đây là một cô gái rất bản lĩnh, dám vượt mọi rào cản để
sống thật với lòng mình, để mình được là chính mình. Tính cách của Kiều, nhân vật chính
chủ động dứt khoát và chân thật đã phá vỡ tính thụ động của thanh nữ thời xưa về tình yêu
đôi lứa. Và từ đó, có thể khẳng định Kiều là một phụ nữ có ý thức rất rõ giá trị của bản thân
mà không phải người phụ nữ nào, đặc biệt là những phụ nữ sống trong sự hà khắc của xã hội
phong kiến có được điều này.

Bên cạnh đó chúng ta hãy đặt ra một giả định rằng: Nếu Nguyễn Du có ý muốn chê trách
sự chủ động, táo bạo của Thúy Kiều trong tình yêu, hay nói cách khác là có ý tôn trọng quan
niệm chính thống về tình yêu thì chắc có lẽ, cha mẹ Thúy Kiều sẽ phải phản ứng rất dữ dội
khi nghe Thúy Vân kể lại về lời đính ước, hẹn thề của Kiều và Kim Trọng. Trong thực tế
trong tác phẩm sau khi Kim Trọng quay trở về sau khi chịu tang chú nữa năm ở Liêu Dương,
cha mẹ Kiều cũng tỏ bày thái độ nuối tiếc khi hai người không thể đến được với nhau. Trong
nhà này bây giờ ai cũng đã biết tất cả những bí mật giữa Kim và Kiều rồi. Thấy Kim, Vương
Quan kéo ngay chàng vào trong nhà. Hai ông bà nghe nói có chàng Kim tới cũng ra hết. Vì
thương lắm, thương con bao nhiêu thì thương chàng bấy nhiêu.“Khóc than kể hết niềm tây /
Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?/ Kiều nhi phận mỏng như tờ, / Một lời đã lỗi tóc tơ với
chàng. / Gặp cơn gia biến lạ dường, / Bán mình, nó phải tìm đường cứu cha. / Dùng dằng khi
bước chân ra, / Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần” (2775-2782). Càng nghe nói chàng Kim
càng thấy gia đình này đã biết hết chuyện mình: “Trót lời nặng với lang quân/ Mượn con em
nó Thúy Vân thay lời”. Vết thương còn mới nên hai ông bà nhắc lại thì đau lòng, và khóc:
“Ông bà càng nói càng đau/ Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa”(2793-2794), rõ ràng ở
đây cha mẹ Kiều cũng tỏ bày thái độ nuối tiếc khi hai người không thể đến được với nhau,
đây cũng là một điểm khá mới mẻ và tiến bộ của đại thi hào Nguyễn Du mà khiến chúng ta
phải suy ngẫm.

Một quan điểm mới mẻ và tiến bộ về tình yêu trong Truyện Kiều là tình yêu hết sức đa
dạng và có sự bình đẳng trong mối quan hệ ái tình. Nhìn lại ba mối tình của Thúy Kiều với
ba người Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải thì nhận thấy mối quan hệ của họ đều bình đẳng
như nhau. Điều này thật khác với quan niệm truyền thống. Người phụ nữ xưa kia đều phải bị
ràng buộc bởi chữ “tòng” (đạo tam tòng). Từ đây, chúng ta nhận thấy người phụ nữ phải
“tòng”, phụ thuộc người đàn ông trong xã hội chứ nói chi là mối quan hệ yêu đương. Từ đó,
người phụ nữ bị chi phối bởi người đàn ông trong tình yêu. Thế nhưng Kiều không hề bị phụ
thuộc bởi ba người đàn ông trên. Bằng cớ là Kiều xem trọng cá nhân mình trong những mối
quan hệ ấy. Qua một quá trình khảo sát những diễn biến nội tâm phong phú và sâu sắc của
Kiều về vấn đề tình yêu, chúng ta sẽ thấy ba biểu hiện rất đỗi khác nhau. Với Kim Trọng, đó
là mối tình trong trắng, ngây thơ, hồn nhiên của một cô gái lần đầu biết yêu với sự rung động
đến từ con tim. Gắn với mối tình đầu của Kim Trọng và Thuý Kiều là một thế giới thiên nhiên
đất trời tươi đẹp. Họ gặp nhau trong cảnh mùa xuân kiều diễm “Một vùng như thể cây quỳnh
cành dao”(144). Họ trao vật làm tin, đính ước trong sáng tinh sương, dưới tán hoa đào. Họ
thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc giữa trời “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai
mặt một lời song song”(449-450). Trong mối tình đầu với chàng Kim, Kiều hiện thân như
một Juliet thứ hai vậy, nàng chỉ nghĩ đến việc hi sinh cho người mình yêu, trực tiếp thổ lộ
tình yêu của mình, không hề giấu giếm hay ngại ngùng. Nàng đủ can đảm để thuyết phục cha
mẹ cho nàng bán mình cứu cha, nhưng lại không đủ can tâm nhìn người mình yêu đau khổ.
Nàng tự trách mình, nghĩ đến việc “Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai” (746). Dù sống hay
chết, Kiều vẫn cố đền đáp tình cảm cho Kim Trọng. Khi còn ở trần gian không được ở bên
nhau thì nàng nguyện hướng tới chàng nơi địa phủ. Cho đến tận cùng đau thương và mất mát,
không gì có thể phá vỡ được tình yêu của Thúy Kiều. Kể cả cái chết “nát thân bồ liễu” cũng
không thể may mảy làm hư hại tấm lòng thủy chung son sắt của nàng. Mặc dù yêu Kim Trọng
nhiều đến như thế nhưng Kiều không hề bị phụ thuộc bởi Kim Trọng. Bằng cớ là Kiều xem
trọng cá nhân mình trong những mối quan hệ ấy. Ví dụ như khi Kim Trọng có ý muốn ăn
nằm với Thúy Kiều, “Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu”. Lí do từ chối không phải Kiều
sợ sẽ làm tổn hại đến danh dự của Trọng mà là trinh tiết của mình, và ăn nằm quá sớm tình
duyên sẽ hóa ra bẽ bàng mà người thẹn nhất chính là Kiều. “Đạo tòng phu, lấy chữ trinh làm
đầu”, trong truyền thống tốt đẹp của Nho gia, người con gái theo đạo tòng phu phải lấy chữ
trinh làm trọng. Kiều đưa ra lí lẽ “Ra tuồng trên Bộc trong dâu/ Thì con người ấy ai cầu làm
chi” bởi nếu cả hai cư xử với nhau theo thói tục trên sông Bộc hoặc trong Bãi Dâu mà làm
chuyện không đúng theo lễ giáo, chỉ biết thoả mãn những đòi hỏi nhất thời thì cả hai sẽ làm
tan nát hạnh phúc trăm năm trong giây lát. Những lời Kiều biểu lộ cho thấy cô không hề bị
phụ thuộc bởi người mình yêu, mà tình yêu giữa hai người thật sự bình đẳng. Không những
thế Kiều còn bộc lộ được thái độ đoan chính của mình để Kim Trọng vì thế càng nể nang và
kính trọng người yêu.

Thế nhưng với Thúc Sinh thì đó là tình yêu toan tính trông đợi một sự nương tựa. Sau
này khi bị Mã Giám Sinh lừa dối, lòng tin của nàng vào tình yêu cũng đã mất, nàng đã có sự
tính toán, cân nhắc, so sánh. Qua những cuộc trăng gió “sớm đào tối mận lân la” mà tình cảm
trai gái mới nảy nở và phát triển từ đấy. Chàng mới viết một bài thơ “Ngụ tình tay thảo một
thiên luật Đường”(1314), Thúc Sinh tâm sự, tán tỉnh, gửi gắm tình cảm với Thuý Kiều. Vốn
là người thông minh tinh tế nên nàng không trả lời trực tiếp mà chỉ khen thơ “Lời lời châu
ngọc hàng hàng gấm thêu”, lảng tránh câu trả lời “Hoạ vần xin hãy chịu chàng hôm nay”.
Khi Thúc Sinh có ý muốn đưa Kiều về làm vợ lẽ, nếu Kiều là người bị chi phối thì chắc có
lẽ cô đã quyết định liền lập tức. Nhưng thực ra trong khi đó Kiều bày tỏ ba khó khăn khi phải
vợ lẽ, bởi Kiều lo lắng về trách nhiệm của mình trong cuộc tình “Trăm điều ngang ngửa vì
tôi/ Thân sau ai chịu tội trời ấy cho”. Nàng nghĩ đến thân phận của mình, nghĩ đến việc Thúc
Sinh còn có cha (Thúc Ông), nếu bố chồng hiểu cho số phận của nàng thì tốt còn nếu không
hiểu mà bị trả về Lầu Xanh thì là xấu mặt, không chỉ xấu mặt nàng mà còn xấu mặt của cả
chàng nữa “Ở trên còn có nhà thông/ Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?”(1353-
1354). Hơn thế nữa Kiểu còn e ngại vì Thúc Sinh đã có vợ, lo đến thân phận lẻ mọn “Giấm
chua lại tội bằng ba lửa nồng”. Cuối cùng, cô kết luận bằng việc đòi hỏi Thúc Sinh phải “tính
sao cho trọn mọi đường”, Thúc sinh phải đáp ứng được thì Kiều mới chấp nhận, mặc cho hai
người đã yêu nhau. Qua đó cho thấy Thuý Kiều đã có vốn sống, hiểu và thấu cảnh ngang trái
của cuộc đời. Phải nói rằng, trong cuộc đời Kiều, mối tình với Thúc Sinh là mối tình thực tế
nhất trong đời.

Tình yêu với Từ Hải lại chứa đựng một điều gì đó tin cậy, tìm thấy ở Từ một chỗ dựa
vững chắc cho cuộc sống trôi nổi, bấp bênh của mình, dành một sự thán phục cho người bạn
tri kỷ. Chuyện tình Thuý Kiều – Từ Hải thật lý tưởng, mối tình đáp ứng ước mơ của muôn
người. Sự kết hợp lý tưởng giữa “trai anh hùng” với “gái thuyền quyên” – giữa tài và sắc.
Bên cạnh đó còn là tình tri kỷ và những chữ “trí”, “tín”, “nghĩa” trong quan hệ người – người
của bậc quân tử theo đạo Nho. Vừa bước vào lầu xanh, Từ đã hiểu rõ bản chất đích thực của
Kiều như một đoá hoa thơm ngát ở giữa chốn bùn lầy. Trong mối tình với Kiều chàng lại là
người quyết liệt, đáng mặt đàn ông nhất. Bởi lẽ lúc đầu Từ Hải cũng là khách làng chơi “Qua
chơi nghe tiếng nàng Kiều” (2175) nhưng lúc gặp nàng thì đã “Hai bên cùng liếc, hai lòng
cùng ưa” (2178) rồi chàng đi ngay vào vấn đề “Bấy lâu nghe tiếng má đào/ Mắt xanh chẳng
để ai vào, có không?”(2181-2182). Có lẽ Từ Hải chẳng giả vờ khiêm tốn mà nói thẳng, cùng
là lời hứa với Kiều nhưng không hứa hão như Thúc Sinh “Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung
nghìn tứ cũng là có nhau”(2203-2204). Từ Hải không chần chừ, bỏ ngay tiền ra để chuộc
Thuý Kiều, không bớt xén hay mặc cả, rồi tổ chức ngay đám cưới. Từ Hải và Thuý Kiều sống
hạnh phúc bên nhau: “Trai anh hùng gái thuyền quyên/ Phi nguyền sánh phượng, đẹp duyên
cưỡi rồng”(2211-2212). Như vậy, đời Kiều có nhiều mối tình nhưng với “mỗi người mỗi vẻ”
đổi thay theo năm tháng cuộc đời và hoàn cảnh cuộc sống mà cô phải trải qua. Khi gặp người
anh hùng Từ Hải, nàng nghĩ rằng đây có lẽ sẽ là người mình có thể nhờ cậy, gửi gắm thân
phận “Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” (2198), không mảy may ngờ vực, có lẽ tính
cách phi thường của Từ Hải đã chinh phục được trái tim của nàng. Đối với Từ Hải, Thúy
Kiều chắc chắn không phải là một người phụ nữ thấy anh hùng liền dựa dẫm. Tình yêu của
hai người xây dựng lòng tri kỷ. Tức là ở Kiều có cái Từ Hải quý trọng thậm chí là ngưỡng
mộ bởi lẽ nhận thấy đâu là anh hùng trong cõi đời này cũng không phải là một chuyện dễ
dàng.

Khi gặp lại chàng thư sinh Kim Trọng, nàng đã trở thành một người hoàn toàn khác.
Lúc này nàng lại muốn được Kim Trọng đối xử với mình như một người bạn “Duyên đôi lứa,
cũng là duyên bạn bầy” (3226), nàng không muốn mối tình trong trắng ngày trước bị hoen ố
“Còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi” (3156). Sau này khi Kiều gặp lại chàng Kim thì tình yêu
lúc này nặng về chữ nghĩa, không còn mang tính chất đắm say, si mê như lúc trước nữa mà
xen vào đó lại là sự tôn trọng lẫn nhau. Bên cạnh đó còn có một tình yêu si mê của Thúc Sinh,
tình yêu chân thành mà đắm say vô ngàn của chàng thư sinh Kim Trọng, một tình yêu bao la
rộng lượng của người tri kỷ Từ Hải. Điều đó có thể thấy rằng trong nền văn học Việt Nam
thì duy nhất có Nguyễn Du đã miêu tả cặn kẽ từng chi tiết về những mối tình hết sức phong
phú, đa dạng, cũng như sự bình đẳng trong mối quan hệ ái tình đã đi ngược lại với những lễ
giáo phong kiến mà trước đó ít có tác phẩm nào làm được điều này, và có thể đây chính là sự
tiến bộ vượt bậc của đại thi hào Nguyễn Du.

Một đặc điểm nữa về tình yêu được Nguyễn Du miêu tả trong Truyện Kiều đã đi ngược
lại lý luận của Khổng giáo, đi ngược lại với quan niệm xưa tình yêu, đó là cùng một lúc có
nhiều mối tình khác nhau về tính chất. Kiều yêu Từ Hải, nhưng vẫn có thiện cảm với Thúc
Sinh, và vẫn nhớ về chàng thư sinh Kim Trọng. Nguyễn Du khắc hoạ nỗi nhớ Kim Trọng của
Thuý Kiều khi nàng ở nhà chờ Từ Hải đi đánh trận. Lần này, trong nỗi nhớ thương của nàng
có cả hình ảnh của ba chàng lần lượt xuất hiện: “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,/ Dẫu lìa ngó
ý, còn vương tơ lòng./ Duyên em dù nối chỉ hồng,/ May ra khi đã tay bồng tay mang./ Tấc
lòng cố quốc tha hương,/ Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời./ Cánh hồng bay bổng tuyệt
vời,/ Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm!” (2241-2248). Ở hai câu thơ đầu Kiều đang nhớ
và nghĩ về Thúc Sinh, vì Kiều là một người nặng ơn nghĩa. Mặc dù đang sống với Từ Hải
nhưng nàng vẫn không quên “chút nghĩa cũ càng” với chàng Thúc. Nàng vẫn lấy làm tiếc với
chút “chút nghĩa cũ càng” ấy. Bởi lẽ, Thúc Sinh cứu Kiều ra khỏi lầu xanh là “nghĩa”. Thúc
Sinh bất chấp thân phận gái lầu xanh cưới Kiều làm vợ lẽ là “nghĩa”. “Còn vương tơ lòng”
cũng chính là chút tình “mỏng manh” còn sót lại với Thúc Sinh. Hai câu sau là nỗi nhớ về
chàng Kim Trọng, lần này có lẽ nàng đã yên lòng hơn ở chữ “nghĩa”, bởi đã “nối chỉ hồng”
nhờ cậy Thuý Vân lấy Kim Trọng thay cho Kiều, chữ “nghĩa” mà nàng đã cậy nhờ Thuý Vân
vun đắp, một chữ “nghĩa” đầy hứa hẹn với Kim Trọng về đường gia thất con cái sau này. Ở
những câu cuối lại suy nghĩ về Từ Hải. Khi chàng “quyết lời dứt áo ra đi” với ý chí cao xa,
thì bản thân Kiều đã được cổ vũ bởi ý chí và khí phách ngang tàng của chàng, cũng không
thể hiện một cảm giác nặng nề thông thường như trong các cuộc chia ly khác. Nguyễn Du tả
nỗi nhớ nhà của Kiều khi “tha hương” và sự ngóng đợi Từ Hải trong thời gian chàng đi xa.
Điều này trái lại hoàn toàn với quan niệm xưa rằng con gái theo một khuôn mẫu nhất định,
sâu xa hơn đó là đòi hỏi sự toàn tâm, toàn ý, sự hi sinh hết mình của người phụ nữ đối với
nam giới, tình yêu không được tự do thoải mái chọn lựa, bị cản trở bởi những khuôn mẫu,
giáo điều, không được tự do thể hiện tình cảm của bản thân, cũng như không được lựa chọn
người bạn đời của mình. Ấy vậy mà trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vượt qua những rào
cản của lễ nghi, giáo điều, định kiến và ông dám chấp nhận sự thực của tâm hồn người phụ
nữ khi yêu, không những vậy ông miêu tả một cách tỉ mẩn, chi tiết những mối tình của nàng
Kiều một cách tự do nhất, phóng khoáng nhất, bất chấp dư luận thời bấy giờ. Qua đó có thể
thấy được quan niệm tiến bộ vượt bậc, đi trước thời đại của đại thi hào Nguyễn Du về tình
yêu. Cùng thời với Nguyễn Du và cả sau này văn học Việt Nam khó tìm thấy sự “tự do” trong
tình yêu như ở Truyện Kiều.

Ở Thuý Kiều, Nguyễn Du đã cho thấy trong cuộc đời người ta có thể có rất nhiều mối
tình khác nhau bởi lẽ Thuý Kiều ít nhất có ba mối tình, với Kim Trọng, với Thúc Sinh, và
với Từ Hải. Ở mỗi mối tình mang một sắc thái khác nhau. Với Kim Trọng là tình yêu sôi nổi,
mãnh liệt, nồng cháy, lãng mạn, đẹp như một giấc mơ thủa đầu đời. Với Thúc Sinh, đây là
mối tình trọn vẹn nhất trong ba (chứ không trọn vẹn) mối tình, tình dục phải nhường chỗ cho
sự đồng cảm. Với Từ Hải là mối tình đẹp đẽ với một bậc anh hùng lý tưởng. Không những
thế, Nguyễn Du còn muốn nói lên một điều hết sức mới mẻ rằng người ta có thể cùng trong
một lúc có nhiều mối tình khác nhau về tính chất ví như: Thuý Kiều yêu Từ Hải nhưng vẫn
có thiện cảm với Thúc Sinh, vẫn nhớ Kim Trọng. Tất cả chứng tỏ Nguyễn Du là một nghệ sĩ
lớn của thời đại với những quan niệm hết sức mới mẻ và sâu sắc về tình yêu. Ông dám chấp
nhận sự thực của tâm hồn và miêu tả nó thật sự sâu sắc, tinh tế.

3.4. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về chữ “Trinh” (Trang)

Quan niệm “chữ trinh” của Nguyễn Du gắn với “bậc bố kinh”, “đạo tòng phu” của lễ
giáo phong kiến. Đây rõ ràng là một quan niệm truyền thống thấm đẫm tư tưởng Nho giáo,
người phụ nữ phải coi trọng tiết hạnh, trinh trắng và đó chính là thước đo về phẩm giá, đức
hạnh của người phụ nữ. Trong đạo vợ chồng theo Nho giáo, người phụ nữ phải giữ gìn được
sự trinh trắng, “con gái” của mình đến khi về nhà chồng. Nó là yếu tố tiên quyết đến đạo đức,
cuộc sống hôn nhân, đạo làm vợ của họ. Cả cuộc đời, người phụ nữ phải giữ lấy trinh tiết cho
duy nhất người chồng của mình. Nếu thất tiết thì bị đánh giá là không có đức, bị xem thường.
Ảnh hưởng của ý thức hệ, Nguyễn Du là một đại quý tộc, tư tưởng Nho gia. Do đó, quan
niệm về “chữ trinh” theo tư tưởng truyền thống ấy cũng là một điều dễ hiểu, dễ lí giải được.
Ấy vậy nhưng theo suốt Truyện Kiều và nỗi lòng nàng Kiều người đọc sẽ thấy quan niệm
này lại không nhất quán, đồng nhất như tư tưởng Nho gia trên. Nguyễn Du lại quan niệm chữ
“trinh” theo một “lối khác” của riêng ông.

Vậy chữ “trinh” là gì ? Theo Trần Cao Sơn, chữ “trinh” (trinh tiết, trinh bạch, trinh trắng)
là một vấn đề nhạy cảm, thu hút sự chú ý của biết bao người, bao nhiêu thế hệ, xưa và nay,
truyền thống và hiện đại. Trinh là một tiêu chí đánh giá con người trước sức cám dỗ, là cuộc
chiến giữa lý trí, tình cảm mang đặc trưng người. “Trinh” còn được hiểu rộng hơn, phong
phú hơn và đạt đến mức thăng hoa, vượt khỏi cái nội dung thông thường, bao hàm mọi sự
trong trắng, tinh khôi, đức hạnh và tiết tháo của người phụ nữ nói chung, kể cả khi cái trinh
vật thể ấy còn, cũng như khi nó đã bị mất. Quan niệm về chữ “trinh” trong quá khứ, những
nguyên tắc Khổng giáo như tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), tứ
đức (công, dung, ngôn, hạnh) đối với người phụ nữ là một trong những khuôn mẫu điển hình,
trở thành vòng cương toả lâu bền suốt cả chục thế kỷ.

Thông qua thân phận nàng Kiều trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã biểu đạt tài tình khái
niệm trinh với cả nghĩa cụ thể và nghĩa trừu tượng. Về cái kết của Truyện Kiều, Kim Trọng
gặp lại Kiều khi Kiều nương nhờ cửa Phật ở am Giác Duyên, nỗi sung sướng, vui mừng của
Kiều: “Tưởng bây giờ là bao giờ/ Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao” Cũng tưởng rằng sẽ
không còn gì ngăn cản Kiều trở về với chàng Kim, với gia đình. Thế nhưng Kiều lại chối từ,
phải có sự can thiệp của Vương Ông, Vương Ông phải viện chữ hiếu và chữ tình ra Kiều mới
chịu về. Về tới nhà, Kiều lại từ chối không chịu nối duyên xưa với Kim Trọng, khiến Trọng
phải viện lời thề ngày xưa “Hai thân thì cũng quyết theo một bài” (3128), Kiều mới chịu nghe
theo. Thế nhưng khi hai người đã làm lễ thành hôn với nhau, Kiều lại đề nghị rằng “Đem tình
cầm sắt, đổi ra cầm cờ”. Điều ấy không phải rằng Kiều đã thay lòng đổi dạ với chàng Kim,
nhưng sự thực rằng không phải thế khi cả hai gặp lại nhau không còn một lực lượng vật chất
nào có thể can ngăn được tình yêu của họ nữa, nhưng bản thân Kiều lại vấp phải cái lực lượng
tinh thần lúc bấy giờ có sức ảnh hưởng và chi phối đến suy nghĩ, tâm trí của con người ghê
gớm, đó là quan niệm về trinh tiết. Kiều thấy mình không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa.
Trôi theo dòng thời gian, thân Kiều qua tay bao kẻ đàn ông, có tên và không tên, đê tiện, độc
ác và cao quý, cao cả… Nhất là lũ làng chơi“Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa”. Sau 15 năm
tàn tạ của nàng, Kim Trọng “đáy bể mò kim” tìm lại được người tình xưa, Kiều không muốn
đem tấm thân tàn tạ (sinh lý) để đãi tình lang Kim Trọng. Khi được “danh chính ngôn thuận”
là vợ Kim Trọng thì Thúy Kiều lại đưa “chữ trinh” ra để từ chối tình cảm Kim Trọng:“Chữ
trinh còn một chút này/ Chẳng cầm cho vững, lại giày cho tan”.

Đọc đến đây, quan niệm về “chữ trinh” đã khác hẳn hoàn toàn quan niệm truyền thống.
Nói một cách khách quan thì dù biện minh như thế nào đi chăng nữa Kiều cũng từng là gái
lầu xanh, trải qua nhiều lần chồng, vậy mà lại “dám” đưa “chữ trinh” ra để nói cùng Kim
Trọng, thì quả là một điều rất táo bạo, mới mẻ của Nguyễn Du. Theo đó, “chữ trinh” với
người phụ nữ còn được hiểu là sự tôn trọng, tình cảm trong sáng, sự trinh bạch, tiết hạnh vẫn
còn nguyên sương như ngày nào. Để giải thích cho tấm lòng trinh bạch và tiết hạnh của Kiều,
Nguyễn Du đã để Kim Trọng thốt ra những lời cảm thông sâu sắc tận đáy lòng với người
mình yêu:“Xưa nay trong đạo đàn bà/ Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường/ Có khi biến, có
khi thường/ Có quyền, nào phải một đường chấp kinh.” Bởi lẽ, với Nguyễn Du khi đánh giá
sự trinh trắng của người phụ nữ cần nhìn thoáng rộng, nhiều chiều, phụ thuộc vào hoàn cảnh,
xem xét thái độ, lối sống của người đó trong những hoàn cảnh cụ thể. Có lẽ, đây chính là tấm
lòng bao dung, nhân đạo vô bờ của nhà thơ. Hơn thế nữa Nguyễn Du rất táo bạo khi đưa ra
quan niệm thật mới mẻ, tiến bộ thông qua lời nói của Kim Trọng:“Như nàng lấy hiếu làm
trinh/ Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”
Mặc dù trải qua mười lăm năm chìm nổi, những cảnh “lá gió cành chim”, “sớm đưa
Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”, để chuộc cha và em mà phải hi sinh “đời con gái”, rơi
vào chốn nhơ nhớp của đời bởi vì nàng đã đặt chữ hiếu lên trên hết. Do đó ở đây, “chữ trinh”
còn có thể hiểu là sự hi sinh, quên mình, là tấm lòng hiếu đạo của nàng. Có nghĩa là nếu cuộc
sống bình thường thì người phụ nữ sẽ hành xử theo “trinh” truyền thống, giữ trinh tiết, sống
gìn giữ. Nhưng khi gặp biến cố thì “trinh” sẽ được ứng xử theo cách khác. Ở trường hợp này,
Kim Trọng đã tạo nên một quan niệm mới ở chỗ chữ “trinh” ở đây chỉ còn là phương diện
nhân cách chứ không bao hàm phương diện thể xác. Khi nói câu “Như nàng lấy hiếu làm
trinh”, không có nghĩa là Trọng nói Kiều còn có thân thể trong trắng, mà ở đây Trọng muốn
nhấn mạnh Kiều vân còn “trinh” và nhân cách của nàng vẫn sáng rực, vẹn nguyên với hành
động bán mình chuộc cha. Như thế, “chữ trinh” ở đây dùng để chỉ đạo đức, phẩm giá của
người phụ nữ trong “đạo tòng phu” của quan niệm truyền thống, Nguyễn Du đã nâng lên
thành một quan niệm mới mẻ, hiện đại, thoáng rộng hơn nhiều. Có thể khẳng định một điều
rằng cái trinh vật thể đã bay biến tự bao giờ nhưng chữ “trinh” của tấm lòng thì vẫn vẹn
nguyên phẩm giá. Cái trinh vật thể tuy bị xâm hại, bị tước đoạt, bị mất đi thế nhưng trinh
bạch, sự tiết hạnh của Kiều thì vẫn nguyên sương như ngày nào.

Xin mượn lời nhà nghiên cứu Nhật Chiêu thay cho lời kết “Hơn 200 năm đã qua đi
nhưng Truyện Kiều luôn mới mẻ với người Việt. Mỗi lần đọc Truyện Kiều chúng ta lại tìm
thấy những suối nguồn tư tưởng độc đáo của đại thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm này”.
Thật vậy đọc truyện Kiều ta thấy được những quan điểm tiến bộ, vượt bậc của đại thi hào về
tình yêu, hôn nhân, và chữ trinh. Như thế, Truyện Kiều nói chung và xây dựng nhân vật Thuý
Kiều nói riêng, Nguyễn Du đã xuất phát từ một quan điểm đạo đức thẩm mỹ khá phức tạp
nhưng có nhiều quan điểm tiến bộ, vượt bậc so với thời đại lúc bấy giờ.

3.5. Quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du về tình dục (Trường)

Trước hết, chúng tôi muốn nhấn mạnh vấn đề được bàn luận ở đây là quan niệm tiến bộ
của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” về “tình dục” chứ không phải là “tính dục”. Chúng tôi
xác định vấn đề này như vậy với hai cơ sở. Cơ sở thứ nhất chính là cách hiểu khác nhau giữa
hai khái niệm này. “Sex” hay tình dục là hành vi của con người được thực hiện nhằm thỏa
mãn nhu cầu bản năng của mình. Nói bằng cách diễn đạt khác nhau, tình dục chính là chuyện
ăn nằm, sự hòa hợp về thể xác, hành vi tính giao. Mở rộng ra, nó còn bao gồm các biểu hiện
liên quan mà tiêu biểu là sự khỏa thân hay những ý niệm về “tình dục”. Còn tính dục hay
“sexuality” được WHO định nghĩa là “…a central aspect of being human throughout life
encompasses sex, gender identities and roles, sexual orientation, eroticism, pleasure, intimacy
and reproduction” [24] (Tạm dịch:...một phương diện trung tâm của việc trở thành con người
thông qua cuộc sống bao trùm tình dục, các bản dạng giới và các vai trò, xu hướng tính dục,
sự ham muốn tình dục, sự thỏa mãn, sự gần gũi và sinh sản). Nói một cách đơn giản, “tính
dục” là một tổng thể nằm trong nhân cách của con người và “tình dục” chỉ là một phần bên
trong “tính dục” bên cạnh bốn khía cạnh quan trọng nhất của tính dục: xu hướng tính dục,
bản dạng giới, thể hiện giới và giới tính sinh học. Từ cơ sở trên và việc khảo sát tác phẩm,
chúng tôi nhận thấy trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du chỉ trình hiện các yếu tố thuộc về “tình
dục” (sex) chứ không chạm đến khái niệm “tính dục” với các khía cạnh bộ phận trong tổng
thể như đã nêu ở trên.

Văn học trung đại Việt Nam, nhìn chung, bị chi phối bởi các quan niệm của Nho giáo.
Lí do giải thích cho điều này là Nho giáo đã chiếm một vị trí độc tôn với nhu cầu củng cố
quyền lực giai cấp thống trị và trật tự của xã hội phong kiến. Một trong những mục tiêu cao
cả nhất của Nho giáo là đào tạo ra những “quân tử” theo năm tiêu chí: nhân, lễ, nghĩa, trí và
tín. Văn chương được xem là một trong những phương tiện đắc lực được dùng để đạt được
mục đích đó. Vì thế mà tác giả Trần Đình Hượu (1999) trong Nho giáo và văn học Việt Nam
trung cận đại đã nêu: “Nho giáo xác định văn học nghệ thuật là phương tiện giáo hóa chính
tâm, chế dục...Vì lẽ đó Nho giáo chỉ chấp nhận một thứ văn học nghệ thuật chí thiện, hoàn
toàn đạo đức” [17,33]. Như vậy văn chương theo quan niệm Nho giáo không nên nếu như
không muốn nói là không được đề cập đến những yếu tố liên quan đến tình dục, nói chung là
“tà và dâm, tức là bất chính, bất chính vừa với ý nghĩa vô đạo vừa với ý nghĩa quá mức”
[17,52]. Đứng trên quan điểm này, các nhà nho chính thống đã phê phán “Truyện Kiều”, cho
nó là “dâm thư” và thậm chí còn răn dạy người đời rằng: “Đàn ông chớ kể Phan Lang – Đàn
bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Tiêu biểu cho xu hướng này chính là nhà nho Nguyễn
Công Trứ khi ông cho rằng cuộc đời cô Kiều xứng đáng vào kiếp đoạn trường: “Bạc mệnh
chẳng lầm người tiết nghĩa/ Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”.

Tuy vậy, “Truyện Kiều” có thực là “dâm thư” không? Một sự thật mà chúng ta không
thể phủ nhận là vấn đề “tình dục’ được Nguyễn Du thể hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm
“Truyện Kiều”. Tác giả Trần Đình Sử đã khẳng định trong bài viết Sex trong Truyện Kiều:
“Dù quan điểm đạo đức trong sáng, nhưng Nguyễn Du không hề vì đức hạnh giáo huấn khắt
khe mà bỏ quên yếu tố tình dục, nó là một đặc điểm của thân phận, thân thể nhân vật, đồng
thời cũng là một chất men say của cuộc đời” [25]. Nếu các yếu tố thuộc về “tình dục” khi
được đưa vào bất kì tác phẩm nào mà chúng chỉ có duy nhất ý nghĩa duy nhất là bàn về tình
dục thì đó đích thị là khiêu dâm. Trái lại, “tình dục” trong “Truyện Kiều” lại bộc lộ nhiều
quan niệm tích cực, tiến bộ và vượt thời đại (điều này sẽ được chứng minh ở dưới), khiến cho
“Đoạn trường tân thanh”, theo chúng tôi, không phải là “dâm thư”, thậm chí nó còn chống
lại quan niệm truyền thống cho rằng “sex” là cái bất chính, cần phải cấm kỵ và triệt tiêu.

Trên cơ sở này, chúng ta cần thấy được ý nghĩa của việc Nguyễn Du đã trình hiện “tình
dục” trong tác phẩm của mình, mặc cho những quan niệm Nho giáo về vấn đề “diệt dục”,
“tiết dục” mang tính chất chính thống chi phối văn chương thời bấy giờ. Kết quả là Nguyễn
Du như đã “chất vấn” lại quan niệm về “sex” trong văn chương. Sự chất vấn này vượt thoát
ra khỏi khuôn khổ quan niệm văn chương của Nho giáo. Tình dục không hoàn toàn là một
cái gì quá xấu xa để rồi chúng ta có thể liền quy chụp nó là bất chính, tiêu cực. Ngược lại, nó
có thể mang đến những giá trị phù hợp với thời đại và con người. Một thời đại mà ý thức hệ
Nho giáo vụn vỡ. Một thế hệ con người dần thức tỉnh ý thức về cá nhân mình. Đây chính là
khó khăn lớn nhất mà Nguyễn Du đã dũng cảm vượt qua mà tác giả Lê Đình Kỵ nêu ra trong
bài viết “Điều khó nói vẫn cứ phải nói ra”: “Khó khăn lớn nhất đối với tác giả Truyện Kiều
là phải nói ra cho được cái điều mà thẩm mỹ chính thống cũng như lễ giáo thời phong kiến
coi là cấm kỵ, không đáng, không nên đề cập, càng không nên đề cập, càng không nên đề
thành vấn đề: đó là quan hệ “xác thịt” đúng hơn, là những ý nghĩ, tình tự, nỗi niềm liên quan
đến “quan hệ xác thịt” [17,132]

Chúng ta cần khẳng định với nhau rằng Thúy Kiều đã trở thành một kĩ nữ và Kiều chính
là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Vì thế chúng ta nhận thấy một trong những đề tài được
Nguyễn Du đề cập chính là những người lao động tình dục và nơi mà họ hoạt động, cụ thể là
lầu xanh. Điều này khiến cho “tình dục” là vấn đề khó lòng mà tránh né. Từ đó quan niệm
tiến bộ đầu tiên về yếu tố “tình dục” trong “Truyện Kiều” chính là Nguyễn Du đã “bình
thường hóa tình dục” trong văn chương, xem nó là một yếu tố bắt buộc khi đề cập đến đề tài
lao động tình dục nhằm phát huy ý nghĩa: cho người đọc có một cái nhìn trực diện và thật
nhất đối với chốn lầu xanh. Nơi buông hương bán phấn đã mở ra với khung cảnh những kĩ
nữ đang tiếp khách: “Bên thì mấy ả mày ngài/ Bên thì ngồi bốn, năm người làng chơi”. Ngoài
ra, “tình dục” còn được thể hiện thông qua các ngòn nghề mà Tú bà truyền dạy cho Thúy
Kiều nhằm làm cho khách làng chơi mê mẩn: “Này con thuộc lấy làm lòng/ Vành ngoài bảy
chữ, vành trong tám nghề/ Chơi cho liễu chán hoa chê/ Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời/ Khi
khóe hạnh, khi nét ngài, khi ngâm gợi nguyệt, khi cười cợt hoa”. “Vành ngoài” được hiểu là
những cách thức để khêu gợi những vị khách. Còn “vành trong” chính là “nghệ thuật chăn
gối” bao gồm “những động tác, tư thế tạo khoái cảm nhục dục”. Biểu hiện cụ thể và rõ ràng
nhất chắc có lẽ chính là cuộc sống của Thúy Kiều nơi lầu xanh: “Biết bao bướm lả ong lơi/
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm/ Dập dìu lá gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc tối
tìm Tràng Khanh”.

Qua một số dẫn chứng trên chúng ta nhận thấy một số điều sau. Nguyễn Du đã không tô
hồng lầu xanh mà trái lại ông đã động chạm đến những mặt đen tối nhất của nó. Mang tiếng
là nơi các khách làng chơi tìm đến kĩ nữ để chiêm ngưỡng tài năng và nhan sắc nhưng thực
chất đó chỉ là trá hình. Tất cả đều xoay quanh những cuộc say và niềm thỏa mãn đầy tính
nhục dục. “Tình dục” hay trinh tiết của người phụ nữ ở đây chỉ là những món hàng hóa bị
cân đo đong đếm dựa trên thước đo của đồng tiền: “Lầu xanh mới rủ trướng đào/ Càng treo
giá ngọc cang cao phẩm người”. Kết quả là nhan sắc và tài năng- hai yếu tố tạo nên vẻ đẹp
cho người phụ nữ - không được trân trọng, bị xem như là “công cụ để thỏa mãn dục vọng”
(chữ dùng của Trần Nho Thìn) của những người đàn ông. Mặt đen tối nhất ở đây ắt hẳn là
nỗi tủi nhục của những cô kĩ nữ, những người bị xã hội ruồng bỏ được thể hiện sâu sắc hơn
bao giờ hết. Thúy Kiều từng là một cô gái thuộc về một gia đình bậc trung, giữ gìn lề thói
phong kiến: “Xuân xanh rất mực hồng quần”. Nhưng nay tất cả đều bị trút bỏ hết khi Kiều
chấp nhận làm kĩ nữ vì không còn cách nào khác, khi quyền sống chết của chính bản thân đã
hoàn toàn thuộc về tay của bọn buôn người. Một nỗi đau đớn cho danh dự và nhân phẩm mà
chắc có lẽ Thúy Kiều không ngờ đến được thể hiện qua cụm từ “xót mình” thật cảm động:
“Xót mình cửa các buồng khuê/ Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay”. Chúng ta nhớ lại
Thúy Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh để làm vợ lẽ của hắn. Nhưng ai ngờ hắn lại là tay
buôn người cùng với Tú bà, Kiều đã bị lừa. Chắc vì lẽ này mà việc trở thành kĩ nữ đối với
nàng vẫn là một chuyện quá đột ngột. Biểu hiện cho điều này chính là Thúy Kiều đã bị đặt
trong trạng thái căng thẳng giữa quá khứ với hiện tại, giữa êm đềm và sóng gió, giữa cuộc
đời “rất mực hồng quần” trước đó và cuộc đời đầy tủi nhục bây giờ khi phải tiếp khách mà
nói trắng ra là thỏa mãn nhu cầu tình dục của biết bao khách làng chơi. Đến tận bây giờ, Kiều
như vẫn chưa thể chấp nhận được hiện thực trong cái “giật mình” khi phải ý thức về thân
phận của một người phải lao động bằng tình dục: “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/ Giật mình,
mình lại thương mình xót xa:/ “Khi sao phong gấm rủ là?/ Giờ sao tan tác như hoa giữa
đường?” Những câu hỏi vang lên mà Kiều khó lòng hiểu thấu được, đánh phải chấp nhận dù
không muốn.

Quan niệm tiến bộ thứ hai về “tình dục” đó là “tình dục” cũng có thể trở thành một biểu
hiện góp phần thể hiện cái đẹp tuyệt đích của người phụ nữ về phương diện hình thể. Khi
Nguyễn Du miêu ta nhan sắc của Thúy Kiều, ông đã có dùng thành ngữ “nghiêng nước
nghiêng thành”. Thành ngữ có ý nghĩa nói vẻ đẹp phi thường của người phụ nữ có thể khiến
cho vua chúa có thể mất thành mất nước. Đây có thể là một cơ sở để chúng ta đưa ra nhận
định rằng người xưa có ác cảm với những người phụ nữ có nhan sắc. Thậm chí nó còn bị đẩy
lên mức cực đoan khi thước đo vẻ đẹp cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến chỉ còn có
đạo đức, phẩm hạnh như tiêu chí thẩm mĩ bắt buộc và gần như là duy nhất, và vì thế người
xưa ít xem trọng tài năng và đặc biệt hơn cả là nhan sắc của người phụ nữ. Nếu có miêu tả
nhan sắc của người phụ nữ thì thường các tác giả chủ yếu gợi tả dung nhan thông qua các
hình ảnh ước lệ, tượng trưng quen thuộc như: “làn thu thủy”, “nét xuân sơn”, “mây thua nước
tóc tuyết nhường màu da”... Tuy vậy, theo tác giả Trần Nho Thìn, Nguyễn Du đã “vượt qua
quan niệm truyền thống trọng đức hơn trọng sắc, trọng đức hơn trọng tài” [19,270]. Chúng
tôi đồng ý luận điểm này của ông bởi lẽ Nguyễn Du đã làm một việc “táo bạo”: miêu tả cảnh
Thúy Kiều khỏa thân khi đang tắm: “Buồng the phải buổi thong dong/ Thang lan rủ bước
trướng hồng tắm hoa/ Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đức một tòa thiên nhiên”.
Thân thể của Thúy Kiều không có tỳ vết, càng lộ vẻ trắng trong khi thân thể ấy được tô điểm
thông qua hình ảnh “ngọc”, “ngà”. Vẻ đẹp của Kiều đã vươn lên mức lý tưởng khi Nguyễn
Du so sánh nó với “tòa thiên nhiên”. “Tòa” ở đây là bức tượng. Bức tượng do con người tạc
nên thì chắc chắn không thể đẹp hoàn toàn được. Nhưng “tòa” do thiên nhiên tạo nên thì
khác. Nó đã vươn đến mức độ hoàn mỹ nhất mà trần gian này không thể có được. Việc miêu
tả Thúy Kiều ở đây chắc chắn không có mục đích khiêu dâm, gợi dục mà ngược lại, Nguyễn
Du thể hiện nó với những hình ảnh đẹp đẽ, không hề thô tục mà lại đầy gợi cảm, nhằm đạt
được mục đích: tôn vinh với mức độ cao nhất, đến mức tuyệt đối khía cạnh mà bấy lâu này
người ta thường xem nhẹ: nhan sắc của Kiều – một khía cạnh rất quan trọng để tạo nên giá
trị trọn vẹn của con người nói chung và người phụ nữ nói riêng dưới cái nhìn đấy tính nhân
bản, chứ không dưới quan niệm khắt khe, đầy định kiến của Nho gia.

Cuối cùng, Nguyễn Du đã chạm đến sự tiến bộ khi đưa ra quan niệm: “tình dục” là yếu
tố cần có của một tình yêu không có giới hạn. Ắt hẳn chúng ta khó có thể phủ nhận rằng: thể
hiện tình yêu trong văn chưởng cổ trung đại thực ra không phải là một điều cấm kỵ. Ngay cả
tác phẩm “Kinh thi” của Khổng Tử được xem là mẫu mực cho người đời sau học tập cũng đã
thể hiện tình yêu đôi lứa, tiêu biểu là bài thơ “Quan thư”. Tuy nhiên vấn đề “tình dục” hay
trong nhiều cách diễn đạt khác như là khát khao ân ái, quan hệ xác thịt... trong mối quan hệ
với tình yêu đôi lứa vẫn bị xem là một điều cấm kỵ. Tác giả Đoàn Thị Mai Sang trong luận
văn mang tên Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn hóa dân
gian có nêu rằng: “Dưới con mắt của chế độ phong kiến, quan hệ giới tính là một phạm trù
không được công khai, là điều đáng xấu hổ, phải che đậy” [26,58]. Theo chúng tôi, điều này
có hai nguyên nhân. Nguyên nhân chính là quan niệm của Nho giáo bao trùm, chi phối về
chức năng “giáo hóa” của văn. Điều này dẫn đến tác giả không được thể hiện “tình dục” vì
nó là bất chính, không thể khiến cho con người ta trở nên đúng đắn. Nguyên nhân thứ hai đó
là nếu“tình dục” được đưa vào trong tình yêu đôi lứa thì nó có thể khiến cho tình yêu ấy hóa
ra tầm thường và đầy nhục dục trong cái nhìn của ý thức hệ Tống Nho. Trái lại, đối với quan
niệm của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”, “tình dục” không nên bị cấm kỵ khi nó là một
yếu tố làm cho tình yêu “thăng hoa”, không còn một rào cản nào nữa. Điều này được thể hiện
rõ nhất thông qua mối tình giữa Thúy Kiều và Thúc Sinh.

Theo chúng tôi, điều cốt lõi gắn kết Thúc Sinh và Thúy Kiều trong mối tình này chính
là “thanh khí”, hiểu đơn giản là sự tương hợp, đồng cảm và giống nhau giữa hai người: “Lạ
gì thanh khí lẽ hằng/ Một dây một buộc ai giằng cho ra?”. Chúng ta nhận thấy điều trên khi
chứng kiến những thú chơi thanh tao hai nhân vật này làm cùng nhau: “Khi gió gác, khi trăng
sân/ Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ/ Khi hương sớm, khi trà trưa/ Bàn vây điểm nước,
đường tơ họa đàn”. Nhưng không vì “thanh khí” mà chúng ta phủ nhận đi hoàn toàn vai trò
của “tình dục” đối với tình yêu của Thúc Sinh với Thúy Kiều. Nếu như “thanh khí” là điều
cần đủ thì “tình dục” chình là điều kiện cần. Lúc đầu, Thúc Sinh tìm đến Thúy Kiều trên tư
cách là một khách làng chơi với lí do: “Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi”. Mặc vậy, phản ứng của
Kiều với Thúc Sinh hoàn toàn khác với các khácg làng chơi khác mà nàng đã tiếp. Biết bao
người đã quan hệ tình dục với Kiều nhưng tất cả chỉ để lại cho nàng cái cảm giác bẽ bàng, tủi
nhục, buồn rầu: “Mặc người mưa Sở mây Tần/ Những mình nào biết có xuân là gì!”. Ngược
lại, đối với Thúc Sinh, nàng đã “không cầm lòng nổi nữa; lòng nàng đã xiêu rồi, nàng đã coi
Thúc là tri âm” [3,341]:“Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng/ Đêm xuân ai dễ cầm lòng được
chăng?”. Chính những cuộc truy hoan và hơn hết là thông qua những lần hòa hợp thể xác với
nhau, khoảng cách giữa Thúc Sinh và Kiều gần như càng thu hẹp lại mà càng gắn kết, làm
cho ái tình thêm bền chặt: “Miệt mài trong cuộc truy hoan/ Càng quen thuộc nết, càng dan
díu tình”. Cuối cùng, chính tình dục cũng đã góp phần khiến cho tình cảm trở thành lời thề
non hẹn biển. Cụ thể là, sau khi nhìn thấy Thúy Kiều khỏa thân mà Thúc Sinh đã quyết định
muốn cưới Kiều làm vợ lẽ. Ở chi tiết này, có một điều chúng ta lần lưu ý. Đằng sau cái nhìn
thấy đó không phải là cái nhìn đầy nhục dục hay cái ham muốn chiếm lĩnh thân xác của Thúy
kiều, mà đó là lại sự ngưỡng vọng với thái độ đầy trân trọng của Thúc sinh với vẻ đẹp đầy lý
tưởng và hoàn mỹ của Kiều, mặc cho thực tế đó là thân xác đã trở nên nhơ nhuốc của một kĩ
nữ lầu xanh sau khi biết bao lần “Dập dìu lá gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm
Tràng Khanh”. Về điều này, chúng ta hãy tham khảo nhận định của tác giả Đỗ Minh Tuấn
trong bài viết Thúy Kiều và khát vọng giải sex: “Nếu như Thúc Sinh, với tấm lòng nhân hậu
và tình yêu chiêm ngưỡng chân thực của mình đã nâng thể xác của Kiều - cái món hàng mà
mình mua được dễ dàng - lên tầm cao của cái Đẹp, không tách cái Đẹp, cái Tài, cái trong
trắng, cái lộng lẫy của Kiều ra khỏi tấm thân của một cô gái điếm...” [27]. Phải chẳng đây
chính là một trong những lí do Kiều quyết định yêu Thúc Sinh? Bởi lẽ “với người phụ nữ,
còn gì hạnh phúc hơn khi tất cả cuộc sống trần gian của mình được thăng hoa thành cái đẹp
trong cái nhìn chiêm ngưỡng của tình yêu” [27]. Như vậy “tình dục” đã tham gia vào sự gắn
kết ái tình của Thúc Sinh và Thúy Kiều. Nó phá vỡ mọi rào cản của đức hạnh phong kiến
khiến cho hai người được hòa họp trong sự tự do. Nó mang đến cho Kiều, với tư cách là một
người lao động tình dục luôn ám ảnh về sự trong sách của mình, một sự trân trọng và yêu
thương.

Với hai quan niệm tiến bộ trên, “tình dục” được đưa vào “Truyện Kiều” đã góp phần
thể hiện những giá trị về thuộc “chủ nghĩa nhân bản” – đối tượng của nó chính là “con người
‘tự nó’, con người nhìn từ bản thể luận” [19,265]. Tác giả Trần Nho Thìn trong chương sách
mang tên Trường hợp Nguyễn Du: Văn học trung đại từ chủ nghĩa dân bản đến chủ nghĩa
nhân bản đã khẳng định: “Nguyễn Du là trường hợp điển hình nhất cho chặng cuối, là người
đánh dấu sự hoàn thiện của ý thức về con người nhân bản” [19,265]. Nói một cách đơn giản,
Nguyễn Du đã quan tâm và tập trung thể hiện các giá trị thuộc về con người với một thái độ
tôn trọng và thậm chí là nâng con người lên đến vị trí bản vị, mặc cho những điều này có thể
trái với quan điểm chính thống của xã hội phong kiến – Nho giáo. Đồng thời, hai quan niệm
trên cùng nhau góp phần chứng tỏ Nguyễn Du đã có một bước chuyển trong tư tưởng và quan
niệm của mình. Ông chuyển hướng quan tâm đến con người với tư cách là cá nhân hơn là bảo
thủ trong ý thức hệ Nho giáo chính thống chi phối cái nhìn về con người: con người của cộng
đồng và đạo đức phong kiến. Tác giả Lê Định Kỵ cũng đã nhận xét: “Như thế từ đầu đến cuối
truyện vấn đề “xác thịt” [yếu tố “tình dục” – người viết chú thích] luôn đặt ra trong Truyện
Kiều, ấu đó cũng là thêm một bằng chứng Nguyễn Du không vì đạo mà bỏ rơi đời” [18,137].
Bên cạnh đó, các quan niệm tiến bộ trên còn cho thấy một nỗ lực vượt thoát của Nguyễn Du
khỏi bầu văn hóa chính thống bị thống trị chủ yếu bởi Nho giáo để quay trở về với nền văn
hóa truyền thống của Việt Nam với tư cách là một quốc gia có loại hình văn hóa nông nghiệp
lúa nước. Chúng tôi rút ra nhận định này từ ý kiến sau của tác giả Bùi Trần Phượng trong bài
tiểu luận Đọc lại “Truyện Kiều” từ truyền thống văn hóa Việt Nam: “... một nguyên nhân
quan trọng là tư tưởng nhân bản của Nguyễn Du là sự kết tinh và thăng hoa của văn hóa
truyền thống Việt Nam từ cội nguồn nhất...” [28]. Việc Nguyễn Du đưa yếu tố “tình dục” vào
trong “Truyện Kiều” kèm theo là những quan niệm tiến bộ về nó có thể đó là vì ông muốn
“chất vấn” hay thậm chí chống lại cái khuôn khổ cùng với những lề thói chật hẹp đang áp chế
con người. Ngoài ra những suy nghĩ tiến bộ và thái độ cởi mở với “tình dục” của Nguyễn Du
cũng có thể đến từ việc tiếp thu sự ảnh hưởng truyền thống văn hóa Việt mà cụ thể là tập
quán “phóng khoáng trong tình yêu nam nữ và sinh hoạt tình dục, khác hẳn và bất chấp thái
độ dè dặt, tiết giảm, kiếm soát, “diệt dục” rất thanh giáo của đạo lý Nho, Phật”. [28]

Trên đây chắc chắn chưa thể bao quát hết được toàn bộ các biểu hiện quan niệm tiến bộ
của Nguyễn Du về “tình dục”. Tuy vậy tinh thần cốt lõi ở đây là chúng ta nhận ra Nguyễn Du
đã động chạm đến một vấn đề mà văn học chính thống theo quan niệm của Nho giáo cấm kỵ.
Nó cho thấy một thực tế ý thức hệ chính thống vụn vỡ trong xã hội luc đương thời. Đồng
thời, nó cũng cho thấy Nguyễn Du đã tự thay đổi mình, xa rời cái chật hẹp mà vươn đến cái
rộng mở. Cuối cùng, chính quan niệm tiến bộ về tình dục của Nguyễn Du cũng đã góp phần
tạo nên các giá trị mang tính hiện đại, vẫn còn được bàn luận và tiếp nhận đến tận bây giờ.

C. KẾT LUẬN CHUNG


Thông qua bài tiểu luận này, chúng tôi đã giải quyết đề tài “Quan niệm tiến bộ, vượt thời
đại của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” ở các điểm chính sau:

1. Về phần giới thiệu sơ lược về tác giả và tác phẩm, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến các
yếu tố đã tác động đến tư tưởng của Nguyễn Du, để rồi từ đó ông tạo những quan niệm tiến
bộ trong “Truyện Kiều”.

2. Chúng tôi cũng tiến hành khảo sat một số quan điểm trước đây đã đánh giá “Truyện
Kiều”. Từ đây, chúng tôi nhận thấy “Truyện Kiều” đã được nhìn nhận theo nhiều quan điểm
khác nhau. Ở đây chúng tôi không ý chỉ trích các quan điểm phê phán hay ca ngợi các quan
điểm ủng hộ “Truyện Kiều”. Điều quan tròn ở đây là sự khác biệt về điểm nhìn, cở sở lý
thuyết và tư tưởng của thời đại cũng như là của người đã đánh giá tác phẩm. Ngoài ra chúng
tôi, thông qua việc tìm hiểu các quan niệm tiến bộ của Nguyễn Du, cũng muốn đóng góp
thêm tiếng nói trong xu hướng ủng hộ các giá trị tích cực của “Đoạn trường tân thanh”.

3. Chương 3 là phần trọng tâm của bài tiểu luận này. Ở đây chúng tôi chỉ rút ra một vài
nhận xét. Thứ nhất, các quan niệm tiến bộ này cho thấy sự chuyển hướng của tác giả trong
cách nhìn nhận con người vượt thoát ra khỏi ý thức hệ chính thống. Nguyễn Du đã nhìn nhận
con người đầy tính nhân bản, quan tâm đến các giá trị đã tạo nên con người đúng nghĩa. Bên
cạnh đó chúng tôi còn nhận thấy chúng còn thể hiện một điều là Nguyễn Du đã quay trở về
với nền văn hóa truyền thống Việt Nam. Nhưng điều quan trọng nhất ở đây chúng ta đã nhận
ra được tấm lòng cao cả của Nguyễn Du trước vấn đề của con người cũng như thời đại. Chắc
có lẽ vì điều đó mà “Truyện Kiều” vẫn tiếp tục đời sống của nó trong xã hội, thậm chí là nó
đã vươn tầm ra phạm vi của nền văn học Việt Nam mà vươn đến nền văn học thế giới.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Đào Duy Anh (2018), Truyện Kiều, NXB Văn học

[2] Đào Duy Anh (2007), Từ điển Truyện Kiều, NXB Phụ Nữ

[3] Lê Văn Hòe (1953), Truyện Kiều chú giải, Quốc học thư xã, Hà Nội

[4] Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp trong Văn học Trung Đại, NXB Giáo Dục

[5] Nguyễn Hữu Sơn (2016), Truyện Kiều so sánh và bình luận, Nhà xuất bản Văn học

[6] Nguyễn Thạch Giang, Đoạn Trường Tân Thanh dưới cái nhìn Nho gia - Thiền gia,
NXB Văn hóa Sài Gòn

[7] Trần Ngọc Hương (2000), Luận đề về Nguyễn Du và Truyện Kiều, NXB Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh

[8] Lê Nguyên Cẩm (2021), Chương 2: Truyện Kiều qua cách tiếp cận, Tiếp cận Truyện
Kiều từ góc nhìn văn hóa, NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

[9] GS. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Lao
động.
[10] Thích Nhất Hạnh (2009), Thả một bè lau truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, NXB
Văn hóa Sài Gòn

[11] Trần Ngọc Hương, Luận đề về Nguyễn Du và Truyện Kiều. NXB Văn nghệ thành phố
Hồ Chí Minh.

[12] Khoa Văn học và Ngôn ngữ (2015), Đại thi hào dân tộc Danh nhân văn hóa Nguyễn Du
– Kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du. NXB Đại học Quốc gia TPHCM

[13] Đoàn Thị Thu Vân (Chủ biên), Văn học Trung đại Việt Nam (Thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX),
NXB Giáo dục Việt Nam

[14] Lã Nhâm Thìn (2016), Giáo trình văn học Trung đại Việt Nam, NXB Giáo Dục

[15] Tuấn Thành & Anh Vũ. (2002), Truyện Kiều tác phẩm & dư luận. NXB Văn học

[16] Phan Ngọc (2007). Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện kiều, NXB Thanh
niên.

[17] Trần Đình Hượu (1999). Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Giáo Dục.

[18] Lê Đình Kỵ (1994), Điều khó nói vẫn cứ phải nói ra, in trong, Nguyễn Du - Đoạn trường
tân thanh, Nguyễn Duy Thiệu (Sưu tầm), NXB Văn học

[19] Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo
Dục

[20] Nguyễn Thị Lành, (2013). Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Slideshare. Truy xuất ngày 10/03/2023 từ https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-van-
net-dep-nhan-van-trong-tho-nguyen-du-hay-9d

[21] Diệu Uyển, (2021), Nguyễn Du: Một đời thơ huy hoàng ghi tạc vào lòng thế kỷ văn
chương. Revelogue. Truy xuất ngày 12/03/2023 từ https://revelogue.com/tac-gia-nguyen-
du/#Muoi_nam_gio_bui_da_tac_nen_mot_doi_van_vi_dai

[22] Trần Đình Sử (2020), Đọc lại “Truyện Kiều”. Truy xuất ngày 17/03/2023 từ
https://zzzreview.com/2020/05/15/doc-lai-truyen-kieu/

[23] Trần Đình Sử (2015), Chữ Tâm trong Truyện Kiều. Truy xuất ngày 10/03/2023 từ
https://phebinhvanhoc.com.vn/chu-tam-trong-truyen-kieu/
[24] WHO, Sexual health, Truy xuất ngày 27/03/2023 từ https://www.who.int/health-
topics/sexual-health#tab=tab_2.

[25] Trần Đình Sử (2016), Sex trong Truyện Kiều. Truy xuất ngày 27/03/2023 từ
https://cand.com.vn/Ly-luan/Sex-trong-Truyen-Kieu-i378812/

[26] Đoàn Thị Mai Sang (2016), Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc
nhìn văn hóa dân gian, luận văn thạc sĩ, Đại học Huế - Trường Đại học Sư phạm, Huế. Truy
xuất ngày 25/03/2023 từ https://www.slideshare.net/Sangtran2010/luan-van-tinh-yeu-trong-
tho-nom-the-ki-xv-den-the-ki-xix

[27] Đỗ Minh Tuần, Thúy Kiều và khát vọng giải sex. Truy xuất ngày 28/03/2023 từ
https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId
=283

[28] Bùi Trân Phượng, Đọc lại “Truyện Kiều” từ truyền thống văn hóa Việt Nam. Truy xuất
ngày 28/03/2023 từ https://zzzreview.com/2020/05/15/doc-lai-truyen-kieu-tu-truyen-thong-
van-hoa-viet-nam

You might also like