You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÁO CÁO BÀI TẬP NHÓM


MÔN: KINH TẾ NÔNG THÔN
ĐỀ TÀI: Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và giải
pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hiện nay ở Việt
Nam.

Giảng viên : Đỗ Xuân Luận


Môn học : Kinh tế nông thôn
Lớp học phần: 02
Nhóm : 05

Hà Nội, tháng 11 năm 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế hiện nay, việc chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn trở thành một yêu cầu cấp bách đối với nhiều quốc
gia, đặc biệt là những đất nước đang phát triển. Nông thôn không chỉ là nơi sinh
sống của đa số dân số mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn
lực sản xuất nông nghiệp, bảo dưỡng môi trường sống và duy trì văn hóa dân
tộc.
Tuy nhiên, sự phát triển không đồng đều giữa nông thôn và thành thị,
cùng với những thách thức từ biến đổi khí hậu, sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị
trường quốc tế và sự khan hiếm nguồn lực đã đặt ra nhiều vấn đề đáng quan ngại
về cơ cấu kinh tế nông thôn. Để đối mặt với những thách thức này, việc xác định
và thực hiện các phương hướng chuyển dịch cơ cấu trở nên cấp bách hơn bao
giờ hết. Việc xác định và thúc đẩy các phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Từ việc thúc đẩy nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp đến việc đa dạng hóa nguồn thu nhập
cho cộng đồng nông dân, các biện pháp phát triển kinh tế nông thôn cần được
định hình một cách toàn diện và bền vững.
Trong bài viết này , chúng em sẽ đi sâu vào khám phá các phương hướng
cụ thể để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, từ những giải pháp ngắn hạn
đến những chiến lược dài hạn, nhằm tạo ra một môi trường phát triển bền vững
và hòa nhập với xu thế toàn cầu, đồng thời thúc đẩy sự phát triển toàn diện cho
cả nông thôn và thành thị.
Do vốn kiến thức còn hạn hẹp và còn nhiều thiếu xót, em mong thầy xem
xét và góp ý để bài làm của chúng em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn !
NỘI DUNG
I. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở Việt Nam
1.1. Thực trạng
Trong hoàn cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, nhiều cuộc xung
đột diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến
kinh tế - xã hội. Kinh tế nước ta không tránh khỏi những tác động tiêu cực.
Tuy vậy, kinh tế Việt Nam năm 2023 vẫn có những bước tiến nhất định.

Hình 1. Tốc độ tăng GDP và VA các khu vực các quý năm 2023 (%)

GDP năm 2023 ước tính tăng 5,05% so với năm trước. Trong mức tăng
tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 3,83%, đóng góp 8,84%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,74%,
đóng góp 28,87%; khu vực dịch vụ tăng 6,82%, đóng góp 62,29%.

Hình 2. Cơ cấu kinh tế năm 2023 của Việt Nam


Về cơ cấu nền kinh tế năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản chiếm tỷ trọng 11,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm
37,12%; khu vực dịch vụ chiếm 42,54%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm
chiếm 8,38%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng tích cực,
trong đó kim ngạch xuất khẩu một số nông sản tăng cao, chăn nuôi phát triển
ổn định, ứng dụng mô hình công nghệ cao trong nuôi tôm thẻ chân trắng đã
đem lại hiệu quả kinh tế. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp năm 2023 tăng
3,88% so với năm trước, đóng góp 0,34 điểm phần trăm vào mức tăng tổng
giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,74% nhưng
chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản
tăng 3,71%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành
ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng
274 USD so với năm 2022); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 3,65%
do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có
bằng, chứng chỉ năm 2023 ước đạt 27%, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với
năm 2022) (Theo báo cáo và dữ liệu của Tổng cục Thống kê năm 2023).
1.2. Cơ cấu kinh tế nông thôn
Nông thôn là khái niệm chỉ một khu vực xã hội đặc thù với đặc trưng:
là khu vực cư trú của nông dân; sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế chủ
yếu, bao trùm, làm thành nền tảng kinh tế, có tổ chức và thiết chế xã hội đặc
thù là thôn làng; văn hóa đặc thù là văn hóa dân gian. Dưới sự thúc đẩy của
quá trình thị trường hóa, công nghiệp hóa và đô thị hóa, nông thôn biến đổi
không ngừng: phạm vi nông thôn bị thu hẹp dần; đô thị phân bố xen kẽ với
nông thôn; nông thôn được đặt vào quá trình đô thị hóa. Như vật, nông thôn
truyền thống thuần phác dần biến đổi và chuyển thành nông thôn thị trường
hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa.
Kinh tế nông thôn là toàn bộ hoạt động kinh tế của vùng hay địa bàn
nông thôn. Cơ cấu kinh tế nông thôn là kinh tế xét kinh tế ở khía cạnh cấu
trúc, tức xét theo lát cắt cơ cấu ngành, cơ cấu chủ thể và cơ cấu của các yếu
tố hợp thành quá trình tái sản xuất như ruộng đất, lao động, vốn... Ở một ý
nghĩa nhất định, cơ cấu kinh tế nông thôn là cơ cấu của một khu vực, một
vùng, tức cơ cấu theo lãnh thổ.
1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là khái niệm chỉ quá trình vận
động và cấu trúc lại kinh tế nông thôn, làm thay đổi bản chất, vị trí, vai trò,
chức năng và tỷ trọng cũng như quan hệ giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu
kinh tế nông thôn nhằm khai thác lợi thế tĩnh và thúc đẩy lợi thế động trong
quan hệ với việc tăng sức sản xuất, tăng hiệu quả của kinh tế nông thôn, đồng
thời chuyển dần kinh tế nông thôn từ nông thôn truyền thống với kinh tế tiểu
nông, tự nhiên, tự cấp, tự túc thành nông thôn thị trường hóa, công nghiệp
hóa.
Có thể nói, đó là sự chuyển dịch theo những phương hướng và mục
tiêu nhất định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn được xem xét trên các
phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, và cơ cấu thành phần
kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông thôn là sự thay đổi mối quan hệ tương
quan của mỗi ngành so với tổng thể các ngành trong nông thôn, sự thay đối
này do 2 yếu tố là: số lượng các tiểu ngành thay đổi và mối tương quan tốc
độ phát triển giữa các ngành có sự thay đổi hoặc thay đổi đồng thời cả 2 yếu
tố.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng nông thôn là sự chuyển dịch của
các ngành kinh tế xét theo từng vùng. Về thực chất, cũng là sự chuyển dịch
của ngành, hình thành sản xuất chuyên môn hoá, nhưng được xét ở phạm vi
hẹp hơn theo từng vùng lãnh thổ.
Chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế là sự thay đổi tỷ lệ về sản
xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế trong nông thôn. Cơ sở của sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần là sự tồn tại khách quan, vai trò,
vị trí của từng thành phần kinh tế trong kinh tế nông thôn và sự vận động
khách quan của nó trong nền kinh tế. Đối với cơ cấu thành phần kinh tế, bên
cạnh sự vận động khách quan thì sự định hướng về mặt chính trị - xã hội theo
các cơ sở khách quan có sự tác động rất lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu thành
phần kinh tế trong nền kinh tế nói chung, trong nông thôn nói riêng.
1.4. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Phương hướng tổng quát trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn là thay kết cấu nông nghiệp bằng kết cấu công nghiệp, biến các
ngành, các lĩnh vực kinh tế thành những ngành công nghiệp đặc thù. Theo
đó, từng bước xác lập công nghiệp thành nền tảng kinh tế và trở thành yếu tố
quyết định chi phối quá trình phát triển kinh tế, tăng trưởng công nghiệp và
dịch vụ tăng dần và chiếm phần lớn trong cơ cấu kinh tế. Nông nghiệp đang
mất dần vị trí nền tảng, tuy nhiên nhờ chuyển thành nông nghiệp thương
phẩm, thành lĩnh vực kinh doanh khiến cho năng suất và hiệu quả tăng lên
mạnh mẽ. Vì thế, nông nghiệp ngày càng phát triển và đáp ứng yêu cầu về
lương thực, thực phẩm ngày một tăng cả về lượng và chất của xã hội. Tỷ
trọng của nông nghiệp giảm dần, chiếm một tỷ trong rất nhỏ trong cơ cấu
kinh tế. Các cây trồng ngoài lúa và lĩnh vực chăn nuôi sẽ trở thành ngành
chính chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là xu hướng vận động có tính
khách quan, dưới sự tác động nhiều nhân tố. Trên thực tế, cùng với quá tình
hình thành và phát triển phong phú, đa dạng các ngành kinh tế theo hướng
sản xuất hàng hoá, thì cơ cấu giữa các ngành cũng ngày càng phức tạp và
luôn biến đổi theo nhu cầu của xã hội, theo đà phát triển của thị trường và
theo khả năng của sản xuất để khai thác các nguồn lực để không chỉ đáp ứng
nhu cầu thị trường mà còn nâng cao hiệu quả sản xuất. Quá trình chuyển dịch
của cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm những xu hướng cơ bản sau:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nhiệp, nông thôn sang nền sản xuất
hàng hoá. Trong nền nông nghiệp độc canh, ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng
lớn. Sự mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi bắt nguồn từ tính chất của
sản xuất và khả năng giải quyết các nhu cầu về lương thực trong điều kiện
trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp. Từ đó mọi yếu tố về nguồn
lực tự nhiên và lao động đều phải tập trung vào sản xuất trồng trọt. Sự biến
đổi của khoa học và công nghệ đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động
và năng suất đất đai. Do đó đã cho phép chuyển bớt các yếu tố nguồn lực cho
sự phát triển của các ngành khác, trong đó có các ngành trồng trọt, ngành
chăn nuôi, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có nghĩa là
sản xuất sản phẩm để bán chứ không phải chỉ để tiêu dùng cá nhân. Vậy nên,
những câu hỏi như: Sản xuất hàng hoá gì? Số lượng bao nhiêu? Cơ cấu
chủng loại thế nào? không phụ thuộc vào người sản xuất mà chủ yếu phụ
thuộc vào thị trường, bị thị trường chi phối. Đó là mối quan hệ: thị trường -
sản xuất hàng hoá - thị trường. Như vậy, xác lập và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trước hết phải từ thị trường và vì
thị trường, lấy thị trường làm căn cứ và xuất phát điểm. Xem đây là giải pháp
quan trọng nhất để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ nông nghiệp thuần tuý sang
phát triển cả lâm nghiệp và chăn nuôi, hay chính là chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn từ thuần nông sang phát triển nông thôn tổng hợp. Các nhân tố
tác động lớn đến chuyển dịch bao gồm các ngành nông nghiệp, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Sự phát triển của trồng trọt, lâm
nghiệp và chăn nuôi một mặt đã cho phép chuyển một số nguồn lực của các
ngành này cho việc phát triển công nghiệp và dịch vụ, mặt khác tạo ra những
yếu tố về thị trường đòi hỏi phải có sự phát triển của công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Sự phát triển này làm cho cơ cấu kinh tế
có sự thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng dần tỷ
trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Trên cơ sở đó,
lao động cũng sẽ chuyển dịch từ trồng trọt sang chăn nuôi, từ sản xuất nông
nghiệp sang làm dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và
chuyển lao động thủ công sang lao động cơ khí trên đồng ruộng, trong
chuồng trại và các xí nghiệp chế biến nông sản.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hướng đến phát triển bền vững,
thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận kinh tế cấu thành trong khu
vực kinh tế nông thôn, gắn bó với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt
lượng (quy mô, tỷ trọng) và có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau cả
về định lượng và định tính trong quá trình phát triển, đảm bảo sự phát triển
hài hòa với môi trường xã hội. Theo đó, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn được thực hiện theo hướng xanh hóa hoạt động sản xuất nhờ dụng
công nghệ cao, hạn chế tác động đến môi trường xã hội đối với tất cả các
ngành kinh tế khu vực nông thôn từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ.
Trong quá trình này, ta cần quan tâm đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa
ngành, bền vững có giá trị gia tăng cao và năng lực cạnh tranh cao, trong đó
trọng tâm là phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh
trong điều kiện biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, cùng với các ngành, địa phương định hướng nhân dân trong
việc chuyển đổi cây trồng, vật nuôi ở từng vùng phù hợp với biến đổi khí
hậu, kiểm soát dịch bệnh, hạn chế rủi ro, nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống người nông dân.
Thứ ba, duy trì và phát triển vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng
cao, quy mô lớn, đạt tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc;
kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến.
Thứ tư, tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại theo hướng chủ
động, thông minh, thích ứng biển đổi khí hậu, xâm nhập mặn, giảm nhẹ thiệt
hại khi có thiên tai.
Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hiện nay
ở Việt Nam
2.1. Giải pháp về vốn
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một quá trình. Quá trình này
diễn ra nhanh hay chậm tùy thuộc vào một phần không nhỏ về mức độ đầu tư
vật chất, tài chính. Trong đó, vốn đầu tư là tiền đề rất cần thiết trong quá
trình chuyển dịch này.
Bất cứ một sự thay đổi nào về quy mô hay công nghệ sản xuất đều đỏi
hỏi phải có vốn đầu tư. Các chính sách, đặc biệt là chính sách tài chính, cần
phải phát huy được nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển các ngành
nghề, các vùng kinh tế hàng hóa, cho sự hình thành và phát triển của các loại
hình tổ chức kinh tế trong nông thôn, qua đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn. Để đạt được mục tiêu, các chính sách tài chính và
chính sách kinh tế khác cần hướng vào huy động các nguồn vốn chủ yếu sau:
Thứ nhất, nguồn vốn Ngân sách
Việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trong
nông thôn những năm qua chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước với những
hình thức thức khác nhau. Để đẩy mạnh xây dựng hạ tầng cũng như các đầu
tư phát triển khác nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,
những năm tới cần tăng đầu tư từ ngân sách cho xây dựng hạ tầng và đầu tư
phát triển khác cho nông thôn qua các hình thức ngoài hình thức chi trục tiếp
từ Ngân sách. Tùy điều kiện từng nơi có thể nghiên cứu hình thức đầu tư cho
nông thôn phù hợp với quy định của pháp luật và điện kiện cụ thể của địa
phương.
Thứ hai, nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tín dụng khác
Trong phát triển sản xuất kinh doanh, nhiều chủ thể kinh tế trong nông
thôn, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chủ trang trại và các hộ
nông dân, rất cần vay vốn vì các chủ thể kinh tế này thường gặp khó khăn về
vốn, nhất là vốn đầu tư ban đầu. Nhà nước đã có chính sách tín dụng ưu đãi
đối với các đối tượng trên, các ngân hàng cần vận dụng linh hoạt, tạo điều
kiện thuận lợi các chủ thể kinh tế vay vốn với thủ tục đơn giản, thuận tiện,
thời gian vay và lãi suất vay hợp lý.
Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước), đến cuối
tháng 7/2016, dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của
các tổ chức tín dụng dành cho nông nghiệp, nông thôn có khoảng hơn 1 triệu
tỷ đồng. Đây cũng là tỷ lệ vốn khá cao, chiếm khoảng 17% tổng dư nợ của
nền kinh tế. Dù lĩnh vực nông nghiệp đang tiếp nhận nguồn vốn đầu tư đa
dạng, nhưng trên thực tế nhu cầu vốn đầu tư nông nghiệp vẫn chưa được đáp
ứng đầy đủ, nhiều đối tượng vẫn cần vốn vay. Ngành nông nghiệp chỉ đóng
góp khoảng 18% GDP cả nước, nhưng có vai trò hết sức quan trọng vì đây là
khu vực tập trung gần 70% dân số nước ta và thu hút gần 50% lực lượng lao
động cả nước.
Thứ ba, nguồn vốn từ các doanh nghiệp trong và ngoài nông thôn
Nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế-xã hội
nông thôn có ảnh hưởng nhiều đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn như
công trình giao thông, thủy lợi, các cơ sở chế biên nông lâm sản,... Một số
doanh nghiệp có thể đầu tư vào các công trình này nếu điều kiện đầu tư phù
hợp và lợi ích hợp lý. Đây là nguồn vốn đầu tư tiềm năng và hiệu quả nếu có
chính sách huy động phù hợp với quy định phát luật, với điều kiện cụ thể
từng địa phương và mục đích kinh doanh, lợi ích của doanh nghiệp.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước hiện chỉ có hơn 49.600 doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chiếm 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động, chủ yếu là vừa và nhỏ, thậm chí rất nhỏ, với mức vốn đầu tư thấp.
Chính vì thế sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này còn yếu. Chính vì vậy,
các doanh nghiệp này đang thiếu vốn nghiêm trọng. Vì thiếu vốn nên việc
đầu tư cho công nghệ còn rất ít, nên sản phẩm làm ra khó có thể cạnh tranh
trên thị trường. Cùng với đó, chất lượng nguồn lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp còn thấp. Đa số các lao động làm thời vụ. Vì vậy, họ không thể đầu tư
để nâng cao trình độ, không có ý thức phấn đấu để tăng năng suất và hiệu
quả sản xuất.
Hiện tại Việt Nam có các nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn gồm: Vốn đầu tư từ ngân sách, hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tài chính vi mô, tín dụng ngân
hàng và vốn đầu tư từ các doanh nghiệp, hộ gia đình. Tỷ lệ nguồn vốn đầu tư
cho lĩnh vực nông nghiệp trong tổng nguồn vốn đầu tư vào các ngành kinh tế
ở Việt Nam thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1. Tỷ lệ vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp

STT Nguồn vốn đầu Tỷ lệ phần tram so với tổng nguồn vốn đầu tư kinh
tư tế, xã hội (%)

1 Ngân sách nhà 6


nước
2 Vốn ODA 7

3 Vốn FDI 1,5

4 Tài chính vi mô 4

5 Tín dụng ngân 17


hàng
Nguồn: Thu hút vốn đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn ở
Việt Nam hiện nay
Đối với nguồn từ ngân sách nhà nước, theo Báo cáo việc thực hiện
Nghị quyết số 26/2012/QH13 của Quốc hội, giai đoạn 2011 - 2015, tổng vốn
đầu tư từ NSNN đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên 610.959 tỷ
đồng, tăng 1,83 lần so với giai đoạn trước. Từ năm 2012 - 2015 chiếm tới
hơn 509.500 tỷ đồng (chiếm 52,9% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
và Trái phiếu Chính phủ cả nước). Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư cho nông
nghiệp từ ngân sách còn ít, chỉ chiếm khoảng 6% trong tổng vốn đầu tư kinh
tế, xã hội
Vốn ODA, lũy kế đến nay là 5,5 tỷ USD, chiếm 7% trong tổng vốn
ODA vào Việt Nam. Nhìn chung, đầu tư của các doanh nghiệp nói chung vào
lĩnh vực nông nghiệp nông thôn là ít, nhưng vốn ODA dành cho nông nghiệp
so với các ngành khác là tương đối nhiều.
Nguồn vốn tiếp theo là vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp, tích lũy đến
hết năm 2017 là gần 3,4 tỷ USD, chỉ chiếm 1,5% tổng vốn FDI vào Việt
Nam; Cụ thể nếu như năm 2001, vốn FDI vào nông nghiệp còn chiếm tới 8%
tổng vốn FDI của cả nước, thì đến năm 2015 vốn đầu tư vào ngành nông
nghiệp chỉ còn khoảng 1,46% tổng vốn FDI vào Việt Nam, đến năm 2017 là
1,5% (theo báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài). Nguồn vốn FDI vào ngành
nông nghiệp tăng trưởng không ổn định.
Hình 3: Cơ cấu hình thức đầu tư FDI vào nông, lâm nghiệp và thủy
sản Việt Nam
Trong các hình thức đầu tư, hình thức đầu tư 10% vốn từ nước ngoài
chiếm 80,52%, hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm 0,15%.
Trong các đối tác đầu tư trực tiếp vào nông, lâm nghiệp và thủy sản nước ta,
đến hết năm 2017 là từ 34 quốc gia.
2.2. Giải pháp về thị trường
Chuyển dịch kinh tế nói chung nhằm mục đích sử dụng đầy đủ, hợp lý
mọi nguồn lực để sản xuất ra nhiều hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị
trường. Hiện nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành kinh tế nông
thôn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là thị trường tiêu thụ thụ nông,
lâm, thủy sản và sản phẩm tiểu thủ công nghiệp. Giải pháp về thị trường cần
tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hình thành hệ thống thị trường đồng bộ và đảm bảo sự ổn
định của thị trường. Đây là điều kiện cơ bản để cơ cấu kinh tế nông thôn hình
thành hợp lý và phát triển bền vững. Các thị trường quan trọng hàng đầu cần
tập trung xây dựng thị trường đất đai, thị trường tài chính, thị trường lao
động, vật tư-kỹ thuật, thị trường khoa học-công nghệ, đặc biệt là thị trường
tiêu thụ sản phẩm của các ngành kinh tế nông thôn.
Thứ hai, các cơ quan chức năng tổ chức tốt công tác nghiên cứu, dự
báo thị trường và tổ chức tốt các hoạt động thông tin thị trường, giúp các chủ
thể kinh tế chủ động trong lựa chọn các cơ hội kinh doanh, quyết định những
vấn đề gắn với sản xuất và tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra.
Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm các ngành kinh tế trong
nông thôn thông qua thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
theo các tiêu chuẩn thị trường, nâng cao năng suất lao động giảm giá thành
sản phẩm , hoàn thiện quy cách mẫu mã sản phẩm, nâng cao trình độ chuyên
môn hóa và tập trung hóa sản xuất để tạo khối lượng sản phẩm hàng hóa tập
trung.
Thứ tư, xây dựng hệ thống trung tâm thương mại và dịch vụ tiêu thụ
nông sản và sản phẩm các ngành kinh tế trong nông thôn tại các vị trí đầu
mối giao thông, các thị trấn, … có điều kiện giao thông và hạ tầng kỹ thuật
thuận lợi
Thứ năm, coi trọng thị trường trong nước và nước ngoài, xúc tiến
thương mại trên cả hai khu vực thị trường trong và ngoài nước. Nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, áp dụng
chính sách kinh tế phù hợp,....
2.3. Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn
Việc chuyển dịch cơ cấu nhanh và có hiệu quả phụ thuộc nhiều vào
trình độ phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn. Xây dựng và phát
triển kết cấu hạ tầng nông thôn là nhân tố hết sức quan trọng góp phần hình
thành các trung tâm, các tụ điểm giao lưu kinh tế và mở rộng sự trao đổi
buôn bán, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp
và kinh tế nông thôn sang sản xuất hàng hoá. Đây cũng là điều kiện quan
trọng để nắm bắt được cơ hội của thị trường, để tiến hành tổ chức sản xuất,
cung ứng các loại sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường. Kết cấu
hạ tầng trong nông thôn phát triển sẽ góp phần tạo ra một cuộc cách mạng
mới về sản xuất, về cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng sản xuất hàng
hoá, khai thác lợi thế từng vùng, từng địa phương, hình thành sự phân công
lao động mới, góp phần cải thiện bộ mặt kinh tế và đời sống của dân cư nông
thôn.
Hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được xác định là chìa khóa cho sản
xuất kinh tế, thương mại và cải thiện cuộc sống hàng ngày của người dân khu
vực nông thôn, tuy nhiên đây lại là khu vực dễ bị tổn thương nhất trong bối
cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tăng cả về quy mô cũng như chu kỳ lặp lại ở
Việt Nam. Theo Ngân hàng Thế giới (2020), Việt Nam có thể phải chịu tổn
thất lên đến 30,2 nghìn tỷ VND (1,4 tỷ USD) mỗi năm do lũ, bão và động
đất. Tài sản của dân cư và khu vực công lần lượt chiếm 65% và 11% tổng
thiệt hại. Thiệt hại do thiên tai gây ra trên phạm vi cả nước chiếm từ 0,14-2%
GDP/năm và dự kiến năm 2050 tăng lên trên 6,5% GDP.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, cùng với quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế đất nước, nông thôn Việt Nam đã có nhiều biến đổi, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn được tăng cường; kinh tế nông
thôn có sự chuyển dịch và phát triển; đời sống vật chất và tinh thần của dân
cư nông thôn ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, môi trường nông thôn ở
Việt Nam cũng ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, ứng phó với thiên tai,
biến đổi khí hậu còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người
dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc,
vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị còn
lớn, bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi bão, lũ, hạn hán… Cùng với đó, chính
sách tài chính huy động nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp
nông thôn còn chưa hấp dẫn và phát huy tính hiệu quả trong việc thu hút
nguồn lực từ khu vực công, khu vực tư nhân và khu vực nước ngoài.
Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung
ương khoá X về nông nghiệp nông dân nông thôn đã nhấn mạnh mục tiêu:
“Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng
được tăng cường”. Quyết định 368/QĐ-TTg ngày 21/03/2022 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030 cũng đã đưa
ra 3 đột phá chiến lược, trong đó có nội dung khơi thông và phát huy tiềm lực
tài chính cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; ưu tiên
nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ về phục hồi và phát triển kinh tế.
Xuất phát từ chủ trương của Đảng, Chính phủ và nhu cầu huy động
nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn
trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, khó lường, việc triển
khai đề tài “Chính sách tài chính huy động nguồn lực phát triển kết cấu hạ
tầng nông nghiệp nông thôn thích ứng với biến đổi khí hậu” là cần thiết, có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn đang ngày càng được hoàn thiện,
cụ thể đã hoàn thành và đưa vào sử dụng các công trình thủy lợi lớn; các dự
án cấp bách, hệ thống đường giao thông nông thôn quan trọng, nhà chống
lũ.... Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách tài
chính huy động nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý đồng bộ,
thống nhất cho việc thực hiện các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu.
2.4. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đất đai
Đất đai là yếu tố quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế nông
thôn, là tư liệu sản xuất chủ yếu trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp và là điều kiện không thể thiếu của các hoạt động kinh tế khác. Việc
đổi mới và hoàn thiện chính sách đất đai cần tập trung vào một sống vấn đề
cấp thiết sau.
Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân theo luật định để người sử
dụng đất có và thực hiện được đầy đủ các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
thừa kế, thế chấp, cho thuê lại, cho tặng và góp vốn trong kinh doanh bằng
quyền sử dụng đất.
Thứ hai, từng bước xác lập và hình thành hệ thống thị trường đất đai,
tạo điều kiện cho quá trình tập trung ruộng đất - tiền đề quan trọng để nông
nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hoá, tạo thế phân công lao động mới trong
nông thôn và đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Thứ ba, các địa phương cần có các chính sách và biện pháp cụ thể
khuyến khích và tạo điều kiện cho nông dân “dồn điền, đổi thửa” để tập
trung ruộng đất dưới nhiều hình thức khác nhau phù hợp với luật pháp và
chính sách của Nhà nước để phát triển sản xuất hàng hoá, mở rộng ngành
nghề.
Thứ tư, nhà nước giao đất có thu hoặc không thu tiền và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hợp tác xã xây dựng trụ sở, làm cơ sở
sản xuất kinh doanh…
Thứ năm, nâng cao hiệu lực của quản lý nhà nước về đất đai. Quản lý
đất đai phải tuân thủ theo Luật Đất đai và tập trung vào quản lý theo quy
hoạch chung đảm bảo đất đai phải được sử dụng đúng mục đích, đúng quy
hoạch; Đất đai phải được bảo vệ, cải tạo và không ngừng nâng cao chất
lượng phù hợp với mục đích sử dụng và quy hoạch được phê duyệt bởi cấp
có thẩm quyền; khắc phục các tình trạng tranh chấp về đất đai.
Năm 2023 đánh dấu nhiều bước tiến quan trọng trong đổi mới và hoàn
thiện chính sách đất đai tại Việt Nam. Nổi bật là sự kiện Luật Đất đai (sửa
đổi) được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2023, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2024. Luật mới có nhiều điểm đổi mới, được kỳ vọng sẽ góp phần thúc
đẩy thị trường đất đai phát triển minh bạch, hiệu quả và bền vững.
Về hệ thống pháp luật đất đai, Luật Đất đai (sửa đổi) đã được ban
hành, bổ sung và hoàn thiện nhiều quy định, hướng đến sự minh bạch, công
khai và hiệu quả trong quản lý, sử dụng đất đai. Các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Đất đai (sửa đổi) cũng đang được hoàn thiện để đảm bảo tính đồng
bộ và khả thi trong thực thi. Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã chính
thức thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) sau 4 lần thảo luận và đưa ra 6 điểm
mới của Luật Đất đai.
Thứ nhất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ hai, thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Thứ ba, giao đất, cho thuê đất chuyển mục đích sử dụng.
Thứ tư, phân cấp, phân quyền.
Thứ năm, đất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ sáu, điều tra cơ bản.

Về công tác quản lý, sử dụng đất đai, việc công khai thông tin về đất
đai được đẩy mạnh thông qua Cổng thông tin điện tử Quốc gia về đất đai và
các kênh thông tin chính thức của các cơ quan nhà nước. Các thủ tục hành
chính liên quan đến đất đai được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết,
tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Các hoạt động thanh tra, kiểm
tra về đất đai được tăng cường, góp phần xử lý vi phạm, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Về thị trường đất đai, thị trường đất đai đang dần ổn định sau giai đoạn
biến động do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Giá đất tại một số khu vực có
xu hướng tăng nhẹ, tuy nhiên vẫn được kiểm soát trong phạm vi hợp lý. Nhu
cầu về nhà ở, đất nền và các sản phẩm bất động sản khác vẫn ở mức cao, đặc
biệt là tại các khu vực đô thị lớn.
2.5. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ mới vào sản
xuất và chế biến sản phẩm
Trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, khoa học và công nghệ là một
trong những yếu tố quyết định tạo nên lợi thế cạnh tranh, đảm bảo sự tăng
trưởng cao, phát triển nhanh. Thời kỳ đổi mới, đặc biệt thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đã ngày
càng chú trọng đến phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ trên các lĩnh
vực vì đây là yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng.
Các thành tựu khoa học – công nghệ mới có tác động trực tiếp đến quá
trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cho phép tạo ra sự phân công lao
động mới. Những thành tựu mới của cách mạng sinh học và việc ứng dụng
các thành tựu đó vào sản xuất đã tạo ra nhiều giống cây trồng vật nuôi có
năng suất và chất lượng cao, khả năng thích nghi rộng đã góp phần quan
trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
Phát triển và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ mới tạo ra khả
năng nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, giải phóng một bộ phận lao
động ra khỏi nông nghiệp, là cơ sở quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn.
Việc áp dụng khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp được
Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm và áp dụng toàn diện các ngành nông
nghiệp như: chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, ngư nghiệp… Ngày 3/6/2020,
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030; trong đó, nêu rõ 8 lĩnh vực ưu tiên
chuyển đổi số, trong đó có ngành nông nghiệp. Cụ thể:
Trong ngành trồng trọt, công nghệ IOT, Big Data bắt đầu được ứng
dụng thông qua các sản phẩm công nghệ số như phần mềm cho phép phân
tích các dữ liệu về môi trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây,
người tiêu dùng có thể truy xuất và theo dõi các thông số này theo thời gian
thực…
Trong ngành chăn nuôi, công nghệ IOT, blockchain, công nghệ sinh
học được áp dụng rộng ở trang trại chăn nuôi quy mô lớn. Ngành chăn nuôi
bò sữa ứng dụng công nghệ số nhiều nhất, với mô hình nổi bật là các trang
trại hiện đại của Tập đoàn TH True Milk và Công ty Vinamilk.
Hơn 30 năm tính từ khi bắt tay vào phát triển chăn nuôi bò sữa, đến
nay, Vinamilk hiện đang sở hữu 12 trang trại quy mô, tổng đàn bò quản lý và
khai thác sữa đạt xấp xỉ 150.000 con, giúp cung ứng cho thị trường trên
1.000 tấn sữa tươi nguyên liệu/ngày. Tuy điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của
Việt Nam không thuận lợi cho chăn nuôi bò sữa, nhưng nhờ ứng dụng công
nghệ và đầu tư bài bản, hiện năng suất và chất lượng sữa của đàn bò sữa
Vinamilk đều tăng trưởng tốt, công nghệ chăn nuôi đã tiệm cận với các nước
phát triển trên thế giới.Với những kế hoạch này, dự kiến đến năm 2022-2023,
đàn bò tại các trang trại của Vinamilk sẽ tăng thêm 20.000 con, gia tăng
nguồn cung cấp sữa tươi nguyên liệu đáp ứng cho nhu cầu sản xuất sản phẩm
phục vụ người tiêu dùng trong và ngoài nước. Bên cạnh gia tăng về quy mô,
hệ thống trang trại của Vinamilk tiếp tục được đầu tư về công nghệ, kỹ thuật
chăn nuôi theo chuẩn quốc tế, đóng góp tích cực đưa ngành chăn nuôi bò sữa
công nghệ cao của Việt Nam tiệm cận với sự phát triển của thế giới.
Hình 4: Ứng dụng thành tựu của cách mạng 4.0 và công nghệ chăn
nuôi bò sữa tiên tiến để nâng cao năng suất và chất lượng sữa tươi nguyên
liệu
Trong lâm nghiệp, ứng dụng công nghệ DND mã mạch trong quản lý
giống lâm nghiệp và lâm sản; công nghệ GIS và ảnh viễn thám để xây dựng
các phần mềm phát hiện sớm và cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ tinh, phần
mềm giám sát và phát hiện sớm mất rừng, suy thoái rừng...
Trong thủy sản cũng chuyển đổi số mạnh mẽ như việc sử dụng thiết bị
dò cá sử dụng sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, điện thoại vệ tinh; máy thu
lưới vây (đứng); hệ thống thu-thả lưới chụp, công nghệ GIS và hệ thống định
vị toàn cầu (GPS) giúp quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ. Ngành nuôi
trồng thủy sản ứng dụng công nghệ sinh học chọn lọc, lai tạo các giống có
năng suất, chất lượng cao, có khả năng kháng bệnh, chịu đựng tốt với môi
trường, công nghệ nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc, công
nghệ nano, công nghệ nuôi lồng trên biển, công nghệ nuôi cá nước lạnh.
Nhờ áp dụng Khoa học – công nghệ mà từ 2015-2022: Sản lượng nuôi
trồng thủy sản của Việt Nam tăng từ 3,53 triệu tấn lên 5,19 triệu tấn, tăng
47%. Nuôi trồng thủy sản phục vụ cho xuất khẩu tập trung chủ yếu ở ĐBSCL
(chiếm 95% tổng sản lượng cá tra và 80% sản lượng tôm).
Nguồn: Tổng cục thống kê

Có thể nói, việc ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào công
nghiệp chế biến nông sản là yếu tố quan trọng thúc đẩy ngành này phát triển
và đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Theo Tổng cục Thống kê:
Tính theo giá hiện hành, NSLĐ của Việt Nam năm 2016 đạt 84,4 triệu
đồng/lao động (tương đương khoảng 7.398 USD) và đến năm 2021 đạt 171,3
triệu đồng/lao động, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2016. Năm 2019, năng
suất lao động Việt Nam đạt 110,5 triệu đồng/lao động (tương đương 4.792
USD). Lao động Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, góp phần vào gia tăng năng
suất lao động.
Mặc dù việc áp dụng khoa học và công nghệ vào nông nghiệp đem đến
nhiều hiệu quả, tuy nhiên cũng có một số hạn chế và thách thức:
Chi phí đầu tư cao: Việc phát triển và triển khai công nghệ trong nông
nghiệp đòi hỏi một số lượng lớn vốn đầu tư ban đầu, bao gồm cả việc mua
sắm thiết bị, phát triển phần mềm, và đào tạo nhân lực. Điều này có thể là
một rào cản đối với các nông dân hoặc doanh nghiệp nhỏ có nguồn lực hạn
chế.
Thiếu hạ tầng và khả năng tiếp cận công nghệ: Một số khu vực nông
thôn có hạ tầng kém, bao gồm cả kết nối internet và điện năng ổn định, làm
giảm khả năng tiếp cận và sử dụng các giải pháp công nghệ.
Khả năng đào tạo và sử dụng công nghệ: Đối với một số người nông
dân, đặc biệt là những người lớn tuổi hoặc không có trình độ học vấn cao,
việc học cách sử dụng và quản lý công nghệ mới có thể là một thách thức.
Tác động môi trường: Mặc dù công nghệ có thể giúp tăng năng suất và
giảm lãng phí trong sản xuất nông nghiệp, nhưng cũng có thể gây ra những
tác động tiêu cực đến môi trường, chẳng hạn như việc sử dụng phân bón và
hóa chất nông nghiệp.
Vấn đề an ninh thông tin: Với việc sử dụng công nghệ thông tin và trí
tuệ nhân tạo trong nông nghiệp, vấn đề bảo mật thông tin trở thành một vấn
đề quan trọng, đặc biệt là khi liên quan đến dữ liệu về môi trường và sản
xuất.
Vì thế, để phát triển và ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công
nghệ vào nông nghiệp - nông thôn, Nhà nước cần hỗ trợ việc ứng dụng các
thành tựu khoa học - công nghệ nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ
bảo quản, chế biến,... qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư và khuyến công. Khuyến khích và hỗ trợ về vốn, mặt bằng,… để
thúc đẩy xây dựng các cơ sở chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề dựa trên ứng dụng tiến bộ khoa
học – công nghệ ở nông thôn... Một vấn đề rất cần được quan tâm là tập
trung đầu tư nâng cao năng lực các viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển
giao khoa học - công nghệ cho nông nghiệp và nông thôn. Để nâng cao năng
lực của các viện, trung tâm này, một mặt cần đầu tư tăng cường cơ sở vật
chất, nhất là thiết bị kỹ thuật cho các viện, trung tâm; mặt khác, cần nâng cao
trình độ, năng lực nghiên cứu của các cán bộ, nhân viên ở các cơ sở khoa học
- công nghệ này thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng với các điều kiện thỏa
đáng. Đồng thời, cần có cơ chế để phát huy năng lực, vai trò của các cơ sở
khoa học - công nghệ này phục vụ phát triển kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn.
Nhà nước Việt Nam cũng đã tạo lập các điều kiện tiền đề cần thiết cho
phát triển nông nghiệp công nghệ cao bằng nhiều phương thức. Một trong số
đó là: Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước về khoa học - công nghệ theo
hướng thị trường, từng bước hình thành thị trường khoa học - công nghệ, tạo
động lực cho nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại trong nông nghiệp. Việc chuyển đổi các tổ chức khoa học - công
nghệ công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo
Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, ngày 5-9-2005, của Chính phủ, Quy định cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập,
hoặc doanh nghiệp khoa học - công nghệ theo Nghị định số 80/2007/NĐ-CP,
ngày 19-5-2007, của Chính phủ, Về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đã
tạo cơ sở cho các tổ chức khoa học - công nghệ thay đổi cách thức hoạt động,
chú trọng tới thị trường và khách hàng nhiều hơn...
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng thực hiện các chính sách hỗ trợ bên có
nhu cầu sử dụng sản phẩm khoa học - công nghệ; ban hành các chính sách tín
dụng ưu đãi thông qua việc thành lập các loại quỹ: Quỹ Đổi mới công nghệ
quốc gia, Quỹ Phát triển khoa học - công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, tỉnh,thành phố trực thuộc Trung ương... Các cơ chế,
chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, đổi mới
công nghệ đã có những tác động tích cực, giúp các doanh nghiệp nâng cao
năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh để phát triển.
Nhiều viện nghiên cứu nông nghiệp chuyển đổi cơ chế hoạt động sang
cơ chế thị trường đã tạo ra nhiều công trình nghiên cứu có tính ứng dụng
thực tiễn, đem lại hiệu quả kinh tế cao; nhiều giống mới ra đời có năng suất
cao, chất lượng sản phẩm tốt. Thời gian qua, khoa học - công nghệ thúc đẩy
phát triển sản xuất trong nhiều lĩnh vực kinh tế, đóng góp trên 30% giá trị gia
tăng trong sản xuất nông nghiệp và 38% giá trị gia tăng trong sản xuất giống
cây trồng, vật nuôi. Nhiều trung tâm, phòng thí nghiệm công nghệ sinh học
hiện đại ra đời và hoạt động đã tạo điều kiện vật chất cao hơn cho việc
nghiên cứu.
2.6. Phát triển nguồnn nhân lực trong khu vực nông thôn
Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nguồn lực con người luôn là
yếu tố quyết định. Thực tiễn phát triển ở các quốc gia cho thấy chất lượng
nguồn nhân lực là cốt lõi và số lượng (quy mô) của nguồn nhân lực là quan
trọng. Phát triển nguồn nhân do vậy cần kết hợp giữa nâng cao chất lượng
với mở rộng đội ngũ người lao động. Hiện nay, đội ngũ lao động nông thôn
nước ta khá dồi dào về số lượng, song chất lượng thì chưa cao. Cụ thể, năm
2022 lượng lao động đạt 51,6 triệu người. Đáng chú ý, trong đó chỉ có 26,1%
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, với 5% lao động có thể dùng tiếng Anh giao
tiếp để làm việc. Còn lại, hơn 70% lao động không có trình độ lao động
chuyên môn. Ông Ngô Xuân Liễu, Giám đốc Trung tâm quốc gia về dịch vụ
việc làm, Cục Việc làm, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội nhận định:
‘’Đã đến lúc chúng ta cần phải tiến hành đánh giá toàn diện về thị trường lao
động.’’
Để nâng cao chất lượng lao động nông thôn theo các hướng cơ bản nêu
trên cần nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp mang tính cơ bản và lâu
dài sau:
Thứ nhất, về học vấn của người lao động, cần tiếp tục cải cách nội
dung giáo dục phổ thông theo hướng kết hợp nâng cao hợp lý kiến thức cơ
bản với kiến thức thực hành, ứng dụng của học sinh; đồng thời, nghiên cứu
áp dụng chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc đối với thanh niên phù hợp với
từng đối tượng, từng khu vực và hướng nghiệp của thanh niên.
Thứ hai, tăng cường đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà
nước, đồng thời có cơ chế khuyến khích phát triển các cơ sở, các hình thức
dạy nghề xã hội hóa. Mặt khác, coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên dạy nghề và cải tiến, nâng cao chất lượng nội dung, chương trình đào
tạo nghề cho người lao động.
Thứ ba, nghiên cứu thí điểm từng bước việc áp dụng chế độ hành nghề
theo giấy phép (do cơ quan quản lý lao động chức năng cấp) đối với người
lao động ở một số nhóm ngành nghề đòi hỏi người lao động phải có kiến
thức, kỹ năng lao động, có ý thức và kỷ luật lao động; từng bước mở rộng ra
các ngành nghề khác.
Thứ tư, nghiên cứu thực hiện các biện pháp nâng cao thể lực cho lao
động nông thôn bằng việc tạo điều kiện tập luyện nâng cao thể trạng, cải
thiện điều kiện dinh dưỡng, nhà ở, cải thiện môi trường, tuyên truyền lối
sống lành mạnh,… để nguồn nhân lực nông thôn, nhất là nguồn nhân lực trẻ,
có sức khỏe tốt đáp ứng được yêu cầu lao động sản xuất, góp phần phát triển
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Đảng và Nhà nước ta, trong các văn kiện chính thức, luôn khẳng định
“con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội đất
nước”, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển đất nước
nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng. Nhờ nhận thức
đúng đắn cùng việc nghiêm túc, sát sao trong việc thực hiện các giải pháp
trên mà chất lượng lao động của Việt Nam đạt được một số thành tựu:
Trình độ học vấn của nhân lực Việt Nam liên tục được cải thiện qua
từng năm. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đã tăng hơn gấp 2 lần sau khoảng 20
năm, từ 10,3% (năm 2000) lên 22,8% (năm 2019). Giai đoạn 2009 - 2019,
trình độ học vấn của nguồn nhân lực Việt Nam đã được nâng cao; phân bổ
lực lượng lao động theo trình độ học vấn tăng mạnh ở các nhóm trình độ cao
và giảm mạnh ở các nhóm trình độ thấp.
Không chỉ trình độ học vấn được nâng cao, trình độ chuyên môn kỹ
thuật của nguồn nhân lực Việt Nam cũng không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ
dân số có chuyên môn kỹ thuật đã tăng lên đáng kể so với năm 2007, tăng
6,3 điểm phần trăm, từ 17,7% (năm 2007) lên 24% (quý II/2020). Tỷ lệ dân
số có trình độ đại học trở lên tăng mạnh nhất, từ 4,9% (năm 2007) lên 11,1%
(quý II/2020). Điều này cho thấy trong những năm qua, giáo dục đại học và
trên đại học của Việt Nam đã có những thay đổi lớn, góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Đối với Đồng bằng Sông Cửu Long, đây là vùng sản xuất nông nghiệp
lớn nhất cả nước, hàng năm sản xuất trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng
nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây, 95% sản lượng gạo xuất khẩu.
Vùng đất này được ca ngợi là “vựa lúa”, “vựa trái cây” và “vựa tôm - cá” của
Việt Nam, với đóng góp trung bình 33,54% GDP nông nghiệp cả nước và
30% GDP chung của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP nông nghiệp
ĐBSCL giai đoạn 2004 - 2020 đạt 4,6% cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả
nước (3,76%). Trong thời gian qua, công tác đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực trong vùng đã đạt được những kết quả quan trọng. Nếu như năm
2011, vùng ĐBSCL chỉ có 13 cơ sở giáo dục đại học thì đến năm 2020 đã
tăng lên 21 cơ sở giáo dục đại học, với quy mô đào tạo gần 150.000 sinh
viên.
Ngoài ra, đã có nhiều địa phương cũng đã áp dụng mở các lớp dạy
nghề cho nông thôn, nâng cao trình độ để người nông dân kịp thời nắm bắt
những thay đổi của khoa học - công nghệ. Tỉnh Tuyên Quang là một trong
những địa phương đi đầu trong vịệc đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Đây là tiền đề quan trọng giúp người nông dân ở Tuyên Quang xây dựng và
phát triển các mô hình kinh tế mang lại hiệu quả cao. Giai đoạn 2016 - 2020,
tỉnh Tuyên Quang đã đào tạo nghề cho hơn 30.000 lao động, bình quân mỗi
năm đào tạo nghề hơn 6.000 lao động. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2023
đã tư vấn định hướng nghề nghiệp, việc làm cho 5.396 người lao động; tư
vấn giới thiệu việc làm cho 1.205 người lao động có nhu cầu tìm kiếm việc
làm, học nghề. Các lớp đào tạo nghề được mở dựa trên nhu cầu thực tế của
người lao động và người sử dụng lao động; gắn đào tạo nghề với tái cơ cấu
ngành nông nghiệp, quy hoạch sản xuất cây trồng, vật nuôi để phát huy thế
mạnh của địa phương. Từ các lớp đào tạo nghề, giúp người nông dân ở
Tuyên Quang tiếp cận nhanh hơn với tiến bộ khoa học công nghệ; sản xuất
kinh doanh các mặt hàng nông, lâm, thủy sản thích ứng tốt hơn với nhu cầu
thị trường. Nhiều sản phẩm nông sản chất lượng cao đã được hình thành và
có thương hiệu.
Trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tập
trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: tăng cường công tác
truyền thông để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và nhân dân về công tác đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp; sắp xếp,
kiện toàn hệ thống các trường, đổi mới nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành; triển khai thực hiện
cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng và phối hợp thực hiện các chương trình dự án
có liên quan của Bộ; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhà
nước và xã hội phục vụ việc đào tạo nhân lực chất lượng cao và xây dựng Đề
án thu hút nhân lực chất lượng cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và
phát triển nông thôn; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhà
nước và xã hội phục vụ việc đào tạo nhân lực chất lượng cao.
2.6. Nâng cao vai trò của các cơ quan chức năng Nhà nước đối với
sự phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Các cơ quan chức năng Nhà nước là hệ thống các cơ quan quản lý nhà
nước từ các bộ, ban, ngành ở cấp trung ương theo ngành dọc đến các cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện xã. Các cơ quan chức
năng Nhà nước thực hiện vai trò quản lý trong quá trình dịch chuyển cơ cấu
kinh tế nông thôn trước hết cần phải xóa bỏ các rào cản, khó khăn và tạo điệu
kiện cho thị trường phát triển, cụ thể thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, Nhà nước cần sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho thị
trường phát triển, xóa bỏ các luật lệ, quy định gây cản trợ hoạt động của thị
trường, đổi mới, bổ sung chính sách, điều luật phù hợp với quy luật của nền
kinh tế thị trường.
Hai là, Đổi mới, tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn then chốt, vướng
mắc về cơ chế chính sách, tạo động lực phát triển cho sản xuất như:
Chính sách về đất đai: Tạo thuận lợi cho tích tụ và tập trung ruộng đất
như tăng hạn điền, bỏ hạn chế đối tượng được nhận chuyển nhượng, điều
chỉnh lại chính sách thuế, phí,..
Chính sách thu hút đầu tư vào nông nghiệp bao gồm: Chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chính sách phát triển
hợp tác xã nông nghiệp, chính sách phát triển kinh tế trang trại và phát triển
kinh tế hộ.
Chính sách về hỗ trợ phát triển hợp tác, liên kết theo chuỗi trong sản
xuất nông nghiệp và hỗ trợ giảm tổn thất cơ giới hóa trong nông nghiệp.
Chính sách hỗ trợ tín dụng trong nông nghiệp: Hỗ trợ vốn đầu tư phục
vụ cho phát triển của khu vực.
Ba là, nhà nước cần tiến hành đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp
nhà nước, để hệ thống doanh nghiệp này hoạt động trong một sân chơi chung
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, các chủ thể kinh tế không thể đảm bảo có khả năng nắm bắt
và hành động theo các quy luật kinh tế thị trường trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Bởi vậy, cần có sự tham
gia của các cơ quan chức năng Nhà nước thực hiện vai trò định hướng, hỗ trợ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhà nước hỗ trợ các chủ thể kinh tế
trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu hướng, nhu cầu của thị trường về
vốn, dịch vụ khoa học, kĩ thuật, hỗ trợ các hoạt động xuất nhập khẩu, xúc
tiến thương mại. Các nhiệm vụ đề ra bao gồm:
Thứ nhất, Khuyến khích và hỗ trợ nông nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Với mục tiêu phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, nhà nước
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tư nhân trong nước và các nhà đầu tư
nước ngoài vào kinh doanh nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp phục vụ
nông nghiệp, chế biến nông sản và tìm thị trường tiêu thụ nông sản.
Thứ hai, quản lý chỉ đạo xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Đẩy
mạnh, phát triển những lợi thế phát triển của từng vùng kết hợp với những
chính sách hỗ trợ khó khăn. Cụ thể, tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long,
thực hiện những biện pháp cải thiện môi trường sống ở các vùng ngập lụt,
xây dựng quỹ dự phòng chống lụt, bão, thiên tai. Xây dựng đồng thời kết cấu
hạ tầng kinh tế kĩ thuật và kết cấu hạ tầng đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân
dân như đường xá, bệnh viện, trường học, giao thông, giải trí, dịch vụ,…
Ngoài ra, nhà nước cần cần kiểm soát chặt chẽ, hạn chế những mặt trái
của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong
lĩnh vực môi trường, các cơ quan chức năng nhà nước cần có những biện
pháp phù hợp để bảo vệ môi trường như đưa ra những luật lệ về tiêu chuẩn
môi trường, các chính sách thuế cho các hoạt động gây ô nhiễm. Thực hiện
các chính sách xã hội, phát triển kinh tế ở những vùng khó khăn, hạn chế sự
chênh lệch phát triển giữa các vùng. Nhà nước cần coi trọng công tác quy
hoạch và nâng cao chất lượng của công tác quy hoạch phát triển kinh tế nông
thôn, bao gồm quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành và quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trên từng địa bàn nông thôn (xã huyện) một cách hợp lý, khoa
học. Ngoài các công cụ chính sách hỗ trợ phát triển đầu tư, nhà nước bằng
thực lực kinh tế của mình tiến hành đầu tư, phát triển kinh tế xã hội ở những
vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
2.8. Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế trong nông thôn
Trong nền kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng, các thành
phần kinh tế đều có vai trò, vị trí riêng không thể thay thế. Để phát triển kinh
tế nông thôn và hình thành nên cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý phải phát huy
được vai trò, vị trí của mỗi thành phần kinh tế trong nông thôn và tạo mối
liên hệ gắn kết với nhau, hỗ trợ nhau cùng hoạt động một các hiệu quả và
cùng phát triển giữa các thành phần kinh tế. Trên thực tế, các chủ thể kinh tế
thuộc mỗi thành phần kinh tế đều hoạt động dưới một loại hình tổ chức kinh
tế tương ứng. Trong các ngành kinh tế nông thôn, các loại hình tổ chức kinh
tế chủ yếu bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các hợp tác xã, các hộ tiểu chủ ngành nghề,
các trang trại gia đình, các hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, ngành nghề.
Doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò then
chốt trong nền kinh tế. Trong phát triển kinh tế nông thôn, DNNN đảm nhận
vai trò chính trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn, bao gồm các
dự án như xây dựng đường giao thông, hệ thống nước sạch, hệ thống điện.
Dự án “Đưa điện về với buôn làng” của tập đoàn EVN đã thắp sáng hàng
nghìn cuộc sống của người dân vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh miền Trung và
Tây Nguyên. Tổng công ty điện lực miền Trung EVECPC đã triển khai dự án
“Năng lượng nông thôn” trên địa bàn 239 xã khu vực miền trung, chủ động
phối hợp cùng 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông đưa điện về hơn 73 thôn.
Chương trình đã thực hiện cấp điện cho hơn 62 nghìn hộ đồng bào và hoàn
thành vào năm 2010. Dự án đã nâng tỷ lệ hộ có điện tại khu vực Tây Nguyên
đạt gần 96%, góp phần thực hiện nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa,
để từ đó tạo tiền đề đưa Tây Nguyên từng bước phát triển theo kịp các khu
vực khác trong cả nước. Bên cạnh đó, các DNNN cung cấp các chính sách hỗ
trợ tài chính như vay vốn với lãi suất ưu đãi, hoặc các gói hỗ trợ nhằm thúc
đẩy phát triển các ngành nghề kinh doanh nông thôn, thực hiện các chính
sách hỗ trợ giá đối với các sản phầm quan trọng, giúp bảo vệ thu nhập của
người nông dân và ổn định giá thị trường. Về phương diện môi trường trong
kinh tế nông thôn, DNNN có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như
đất đai, nước, rừng, đảm bảo sự phát triển chuyển dịch kinh tế nông thôn
theo hướng phát triển bền vững.
Theo Diễn đàn kinh tế tư nhân lần thứ II (tổ chức ngày 02/4/2023 tại
Hà Nội), hiện cả nước có hơn 786 nghìn doanh nghiệp tư nhân, chiếm 98%
trong tổng số hơn 800 nghìn doanh nghiệp; đóng góp trung bình 46,4% GDP
mỗi năm trong giai đoạn 2016-2021, riêng năm 2021 đóng góp 18,5% tổng
thu ngân sách. Doanh nghiệp tư nhân đã chiếm lĩnh trong hầu hết các lĩnh
vực trọng yếu của nền kinh tế như công nghiệp chế tạo, xây dựng, sản xuất ô
tô, công nghệ thông tin, ngông nghiệp,… Khu vực kinh tế tư nhân đã có
những thương hiệu mạnh, những doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn cả về
vốn và công nghệ cao, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước như các tập đoàn Vingroup, Sun Group, Trường Hải Thaco, Vinamilk,
Vietjet, TH TrueMilk,… Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, doanh nghiệp tư nhân được coi là “hạt nhân” của sự phát triển nhờ tạo
ra hàng nghìn cơ hội việc làm cho người dân nông thôn trong đa dạng các
lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản, du lịch nông thôn và các ngành
nông nghiệp phù trợ. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ô tô, xe
đạp điện, điện thoại thông minh, xưởng sản xuất Vinfast đã tạo việc làm cho
hơn 12.400 lao động trên cả nước. Với các hệ thống nhà máy đầu tư của tập
đoàn TH được xây dựng và đi vào hoạt động tại huyện Nghĩa Đàn – tỉnh
Nghệ An đã mang lại một làn gió phát triển cho kinh tế vùng. Từ một khu
vực với tỷ lệ hộ nghèo lên tới 23% thì đến nay số hộ nghèo của huyện theo
chuẩn tiếp cận đa chiều chỉ còn 6,4%, tạo công ăn việc làm ổn định, thu nhập
ngày càng cao và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Bên
cạnh đó, Tập đoàn TH cũng đã góp phần tạo ra sự chuyển dịch lớn trong cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo nên bước đột phá trong phát triển kinh tế
của huyện Nghĩa Đàn.
Doanh nghiệp tư nhân đem lại sự sáng tạo và đổi mới trong việc áp
dụng các công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, quản lý nông trang và
phát triển các dịch vụ hỗ trợ. Mô hình “Kinh tế tuần hoàn” được TH
TrueMilk áp dụng phát triển trên địa bàn tỉnh Nghệ An thông qua các dự án
của mình không chỉ đem lại hiệu quả cho dự án mà còn có những tác động
tích cực đến môi trường. Năm 2020, Tập đoàn TH triển khai lắp đặt pin năng
lượng mặt trời trên các mái nhà chuồng trại và nhà máy, vừa sản xuất nguồn
điện xanh vừa góp phần hạn chế quá trình hấp thu nhiệt từ đó giảm nhiệt cho
chuồng nuôi. Bên cạnh đó, bà Thái Hương - Nhà Sáng lập, Chủ tịch Hội
đồng Chiến lược Tập đoàn TH - nhấn mạnh trong Báo cáo Phát triển Bền
vững của Tập đoàn chia sẻ: “Bằng việc tự động hóa, ứng dụng công nghệ
cao, công nghệ 4.0 một cách mẫu mực trong sản xuất nông nghiệp và chế
biến cùng khoa học quản trị theo chuỗi, Tập đoàn TH đã xây dựng một mô
hình nông nghiệp điển hình gắn với phát triển bền vững, kinh tế xanh, kinh tế
tuần hoàn, dẫn lối, định hình cho nền nông nghiệp công nghệ cao ở Nghệ An
và cả nước”.
Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân thường thực hiện các chương trình
xã hội hỗ trợ cộng đồng địa phương trong việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, cải thiện hạ tầng giao thông, hệ
thống thoát nước, cải thiện đời sống nhân dân và tạo môi trường làm việc
thuận lợi cho người lao động.
Bên cạnh DNNN và doanh nghiệp tư nhân, loại hình doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nhân tố quan trọng của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông thôn. Trong lĩnh vực
nông – lâm – ngư nghiệp, tốc độ tăng trưởng sản lượng của khu vực FDI luôn
cao hơn khu vực kinh tế trong nước đã góp phần nhất định vào việc chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa
nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống
con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, thời gian
vừa qua tỷ lệ dòng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp tại Việt
Nam còn hạn chế do sản phẩm nông nghiệp thường có tỷ suất lợi nhuận thấp,
việc triển khai các thủ tục hành chính còn nhiều khó khăn.
Tóm lại, vai trò của các thành phần kinh tế trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng là vô cùng quan
trong trọng. Doanh nghiệp kết hợp chặt chẽ với hợp tác xã trở thành hạt nhân
trụ cột chính trong liên kết với bà con nông dân vì vậy cần có những giải
pháp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Hiện nay nhà nước
ta đã và đang tích cực bổ sung và thực hiện các chính sách hỗ trợ khuyến
khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn như Doanh nghiệp có
dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư thuê, thuê lại đất, cá nhân đầu tư thì
được nhà nước hỗ trợ kinh phí. Ngoài ra, Nhà nước cần lắng nghe, nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh
doanh để từng bước giải quyết khó khăn, tạo niềm nin với doanh nghiệp để
từ đó phát huy tối đa vai trò của doanh nghiệp trong đầu tư, phát triển kinh
tế.
KẾT LUẬN

You might also like