Professional Documents
Culture Documents
-------***-------
Hình 1. Tốc độ tăng GDP và VA các khu vực các quý năm 2023 (%)
GDP năm 2023 ước tính tăng 5,05% so với năm trước. Trong mức tăng
tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 3,83%, đóng góp 8,84%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,74%,
đóng góp 28,87%; khu vực dịch vụ tăng 6,82%, đóng góp 62,29%.
STT Nguồn vốn đầu Tỷ lệ phần tram so với tổng nguồn vốn đầu tư kinh
tư tế, xã hội (%)
4 Tài chính vi mô 4
Về công tác quản lý, sử dụng đất đai, việc công khai thông tin về đất
đai được đẩy mạnh thông qua Cổng thông tin điện tử Quốc gia về đất đai và
các kênh thông tin chính thức của các cơ quan nhà nước. Các thủ tục hành
chính liên quan đến đất đai được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết,
tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Các hoạt động thanh tra, kiểm
tra về đất đai được tăng cường, góp phần xử lý vi phạm, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Về thị trường đất đai, thị trường đất đai đang dần ổn định sau giai đoạn
biến động do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Giá đất tại một số khu vực có
xu hướng tăng nhẹ, tuy nhiên vẫn được kiểm soát trong phạm vi hợp lý. Nhu
cầu về nhà ở, đất nền và các sản phẩm bất động sản khác vẫn ở mức cao, đặc
biệt là tại các khu vực đô thị lớn.
2.5. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ mới vào sản
xuất và chế biến sản phẩm
Trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, khoa học và công nghệ là một
trong những yếu tố quyết định tạo nên lợi thế cạnh tranh, đảm bảo sự tăng
trưởng cao, phát triển nhanh. Thời kỳ đổi mới, đặc biệt thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đã ngày
càng chú trọng đến phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ trên các lĩnh
vực vì đây là yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng.
Các thành tựu khoa học – công nghệ mới có tác động trực tiếp đến quá
trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cho phép tạo ra sự phân công lao
động mới. Những thành tựu mới của cách mạng sinh học và việc ứng dụng
các thành tựu đó vào sản xuất đã tạo ra nhiều giống cây trồng vật nuôi có
năng suất và chất lượng cao, khả năng thích nghi rộng đã góp phần quan
trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
Phát triển và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ mới tạo ra khả
năng nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, giải phóng một bộ phận lao
động ra khỏi nông nghiệp, là cơ sở quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn.
Việc áp dụng khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp được
Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm và áp dụng toàn diện các ngành nông
nghiệp như: chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, ngư nghiệp… Ngày 3/6/2020,
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030; trong đó, nêu rõ 8 lĩnh vực ưu tiên
chuyển đổi số, trong đó có ngành nông nghiệp. Cụ thể:
Trong ngành trồng trọt, công nghệ IOT, Big Data bắt đầu được ứng
dụng thông qua các sản phẩm công nghệ số như phần mềm cho phép phân
tích các dữ liệu về môi trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây,
người tiêu dùng có thể truy xuất và theo dõi các thông số này theo thời gian
thực…
Trong ngành chăn nuôi, công nghệ IOT, blockchain, công nghệ sinh
học được áp dụng rộng ở trang trại chăn nuôi quy mô lớn. Ngành chăn nuôi
bò sữa ứng dụng công nghệ số nhiều nhất, với mô hình nổi bật là các trang
trại hiện đại của Tập đoàn TH True Milk và Công ty Vinamilk.
Hơn 30 năm tính từ khi bắt tay vào phát triển chăn nuôi bò sữa, đến
nay, Vinamilk hiện đang sở hữu 12 trang trại quy mô, tổng đàn bò quản lý và
khai thác sữa đạt xấp xỉ 150.000 con, giúp cung ứng cho thị trường trên
1.000 tấn sữa tươi nguyên liệu/ngày. Tuy điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của
Việt Nam không thuận lợi cho chăn nuôi bò sữa, nhưng nhờ ứng dụng công
nghệ và đầu tư bài bản, hiện năng suất và chất lượng sữa của đàn bò sữa
Vinamilk đều tăng trưởng tốt, công nghệ chăn nuôi đã tiệm cận với các nước
phát triển trên thế giới.Với những kế hoạch này, dự kiến đến năm 2022-2023,
đàn bò tại các trang trại của Vinamilk sẽ tăng thêm 20.000 con, gia tăng
nguồn cung cấp sữa tươi nguyên liệu đáp ứng cho nhu cầu sản xuất sản phẩm
phục vụ người tiêu dùng trong và ngoài nước. Bên cạnh gia tăng về quy mô,
hệ thống trang trại của Vinamilk tiếp tục được đầu tư về công nghệ, kỹ thuật
chăn nuôi theo chuẩn quốc tế, đóng góp tích cực đưa ngành chăn nuôi bò sữa
công nghệ cao của Việt Nam tiệm cận với sự phát triển của thế giới.
Hình 4: Ứng dụng thành tựu của cách mạng 4.0 và công nghệ chăn
nuôi bò sữa tiên tiến để nâng cao năng suất và chất lượng sữa tươi nguyên
liệu
Trong lâm nghiệp, ứng dụng công nghệ DND mã mạch trong quản lý
giống lâm nghiệp và lâm sản; công nghệ GIS và ảnh viễn thám để xây dựng
các phần mềm phát hiện sớm và cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ tinh, phần
mềm giám sát và phát hiện sớm mất rừng, suy thoái rừng...
Trong thủy sản cũng chuyển đổi số mạnh mẽ như việc sử dụng thiết bị
dò cá sử dụng sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, điện thoại vệ tinh; máy thu
lưới vây (đứng); hệ thống thu-thả lưới chụp, công nghệ GIS và hệ thống định
vị toàn cầu (GPS) giúp quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ. Ngành nuôi
trồng thủy sản ứng dụng công nghệ sinh học chọn lọc, lai tạo các giống có
năng suất, chất lượng cao, có khả năng kháng bệnh, chịu đựng tốt với môi
trường, công nghệ nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc, công
nghệ nano, công nghệ nuôi lồng trên biển, công nghệ nuôi cá nước lạnh.
Nhờ áp dụng Khoa học – công nghệ mà từ 2015-2022: Sản lượng nuôi
trồng thủy sản của Việt Nam tăng từ 3,53 triệu tấn lên 5,19 triệu tấn, tăng
47%. Nuôi trồng thủy sản phục vụ cho xuất khẩu tập trung chủ yếu ở ĐBSCL
(chiếm 95% tổng sản lượng cá tra và 80% sản lượng tôm).
Nguồn: Tổng cục thống kê
Có thể nói, việc ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào công
nghiệp chế biến nông sản là yếu tố quan trọng thúc đẩy ngành này phát triển
và đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Theo Tổng cục Thống kê:
Tính theo giá hiện hành, NSLĐ của Việt Nam năm 2016 đạt 84,4 triệu
đồng/lao động (tương đương khoảng 7.398 USD) và đến năm 2021 đạt 171,3
triệu đồng/lao động, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2016. Năm 2019, năng
suất lao động Việt Nam đạt 110,5 triệu đồng/lao động (tương đương 4.792
USD). Lao động Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, góp phần vào gia tăng năng
suất lao động.
Mặc dù việc áp dụng khoa học và công nghệ vào nông nghiệp đem đến
nhiều hiệu quả, tuy nhiên cũng có một số hạn chế và thách thức:
Chi phí đầu tư cao: Việc phát triển và triển khai công nghệ trong nông
nghiệp đòi hỏi một số lượng lớn vốn đầu tư ban đầu, bao gồm cả việc mua
sắm thiết bị, phát triển phần mềm, và đào tạo nhân lực. Điều này có thể là
một rào cản đối với các nông dân hoặc doanh nghiệp nhỏ có nguồn lực hạn
chế.
Thiếu hạ tầng và khả năng tiếp cận công nghệ: Một số khu vực nông
thôn có hạ tầng kém, bao gồm cả kết nối internet và điện năng ổn định, làm
giảm khả năng tiếp cận và sử dụng các giải pháp công nghệ.
Khả năng đào tạo và sử dụng công nghệ: Đối với một số người nông
dân, đặc biệt là những người lớn tuổi hoặc không có trình độ học vấn cao,
việc học cách sử dụng và quản lý công nghệ mới có thể là một thách thức.
Tác động môi trường: Mặc dù công nghệ có thể giúp tăng năng suất và
giảm lãng phí trong sản xuất nông nghiệp, nhưng cũng có thể gây ra những
tác động tiêu cực đến môi trường, chẳng hạn như việc sử dụng phân bón và
hóa chất nông nghiệp.
Vấn đề an ninh thông tin: Với việc sử dụng công nghệ thông tin và trí
tuệ nhân tạo trong nông nghiệp, vấn đề bảo mật thông tin trở thành một vấn
đề quan trọng, đặc biệt là khi liên quan đến dữ liệu về môi trường và sản
xuất.
Vì thế, để phát triển và ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công
nghệ vào nông nghiệp - nông thôn, Nhà nước cần hỗ trợ việc ứng dụng các
thành tựu khoa học - công nghệ nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ
bảo quản, chế biến,... qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư và khuyến công. Khuyến khích và hỗ trợ về vốn, mặt bằng,… để
thúc đẩy xây dựng các cơ sở chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề dựa trên ứng dụng tiến bộ khoa
học – công nghệ ở nông thôn... Một vấn đề rất cần được quan tâm là tập
trung đầu tư nâng cao năng lực các viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển
giao khoa học - công nghệ cho nông nghiệp và nông thôn. Để nâng cao năng
lực của các viện, trung tâm này, một mặt cần đầu tư tăng cường cơ sở vật
chất, nhất là thiết bị kỹ thuật cho các viện, trung tâm; mặt khác, cần nâng cao
trình độ, năng lực nghiên cứu của các cán bộ, nhân viên ở các cơ sở khoa học
- công nghệ này thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng với các điều kiện thỏa
đáng. Đồng thời, cần có cơ chế để phát huy năng lực, vai trò của các cơ sở
khoa học - công nghệ này phục vụ phát triển kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn.
Nhà nước Việt Nam cũng đã tạo lập các điều kiện tiền đề cần thiết cho
phát triển nông nghiệp công nghệ cao bằng nhiều phương thức. Một trong số
đó là: Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước về khoa học - công nghệ theo
hướng thị trường, từng bước hình thành thị trường khoa học - công nghệ, tạo
động lực cho nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại trong nông nghiệp. Việc chuyển đổi các tổ chức khoa học - công
nghệ công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo
Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, ngày 5-9-2005, của Chính phủ, Quy định cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập,
hoặc doanh nghiệp khoa học - công nghệ theo Nghị định số 80/2007/NĐ-CP,
ngày 19-5-2007, của Chính phủ, Về doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đã
tạo cơ sở cho các tổ chức khoa học - công nghệ thay đổi cách thức hoạt động,
chú trọng tới thị trường và khách hàng nhiều hơn...
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng thực hiện các chính sách hỗ trợ bên có
nhu cầu sử dụng sản phẩm khoa học - công nghệ; ban hành các chính sách tín
dụng ưu đãi thông qua việc thành lập các loại quỹ: Quỹ Đổi mới công nghệ
quốc gia, Quỹ Phát triển khoa học - công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, tỉnh,thành phố trực thuộc Trung ương... Các cơ chế,
chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, đổi mới
công nghệ đã có những tác động tích cực, giúp các doanh nghiệp nâng cao
năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh để phát triển.
Nhiều viện nghiên cứu nông nghiệp chuyển đổi cơ chế hoạt động sang
cơ chế thị trường đã tạo ra nhiều công trình nghiên cứu có tính ứng dụng
thực tiễn, đem lại hiệu quả kinh tế cao; nhiều giống mới ra đời có năng suất
cao, chất lượng sản phẩm tốt. Thời gian qua, khoa học - công nghệ thúc đẩy
phát triển sản xuất trong nhiều lĩnh vực kinh tế, đóng góp trên 30% giá trị gia
tăng trong sản xuất nông nghiệp và 38% giá trị gia tăng trong sản xuất giống
cây trồng, vật nuôi. Nhiều trung tâm, phòng thí nghiệm công nghệ sinh học
hiện đại ra đời và hoạt động đã tạo điều kiện vật chất cao hơn cho việc
nghiên cứu.
2.6. Phát triển nguồnn nhân lực trong khu vực nông thôn
Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nguồn lực con người luôn là
yếu tố quyết định. Thực tiễn phát triển ở các quốc gia cho thấy chất lượng
nguồn nhân lực là cốt lõi và số lượng (quy mô) của nguồn nhân lực là quan
trọng. Phát triển nguồn nhân do vậy cần kết hợp giữa nâng cao chất lượng
với mở rộng đội ngũ người lao động. Hiện nay, đội ngũ lao động nông thôn
nước ta khá dồi dào về số lượng, song chất lượng thì chưa cao. Cụ thể, năm
2022 lượng lao động đạt 51,6 triệu người. Đáng chú ý, trong đó chỉ có 26,1%
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, với 5% lao động có thể dùng tiếng Anh giao
tiếp để làm việc. Còn lại, hơn 70% lao động không có trình độ lao động
chuyên môn. Ông Ngô Xuân Liễu, Giám đốc Trung tâm quốc gia về dịch vụ
việc làm, Cục Việc làm, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội nhận định:
‘’Đã đến lúc chúng ta cần phải tiến hành đánh giá toàn diện về thị trường lao
động.’’
Để nâng cao chất lượng lao động nông thôn theo các hướng cơ bản nêu
trên cần nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp mang tính cơ bản và lâu
dài sau:
Thứ nhất, về học vấn của người lao động, cần tiếp tục cải cách nội
dung giáo dục phổ thông theo hướng kết hợp nâng cao hợp lý kiến thức cơ
bản với kiến thức thực hành, ứng dụng của học sinh; đồng thời, nghiên cứu
áp dụng chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc đối với thanh niên phù hợp với
từng đối tượng, từng khu vực và hướng nghiệp của thanh niên.
Thứ hai, tăng cường đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà
nước, đồng thời có cơ chế khuyến khích phát triển các cơ sở, các hình thức
dạy nghề xã hội hóa. Mặt khác, coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên dạy nghề và cải tiến, nâng cao chất lượng nội dung, chương trình đào
tạo nghề cho người lao động.
Thứ ba, nghiên cứu thí điểm từng bước việc áp dụng chế độ hành nghề
theo giấy phép (do cơ quan quản lý lao động chức năng cấp) đối với người
lao động ở một số nhóm ngành nghề đòi hỏi người lao động phải có kiến
thức, kỹ năng lao động, có ý thức và kỷ luật lao động; từng bước mở rộng ra
các ngành nghề khác.
Thứ tư, nghiên cứu thực hiện các biện pháp nâng cao thể lực cho lao
động nông thôn bằng việc tạo điều kiện tập luyện nâng cao thể trạng, cải
thiện điều kiện dinh dưỡng, nhà ở, cải thiện môi trường, tuyên truyền lối
sống lành mạnh,… để nguồn nhân lực nông thôn, nhất là nguồn nhân lực trẻ,
có sức khỏe tốt đáp ứng được yêu cầu lao động sản xuất, góp phần phát triển
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Đảng và Nhà nước ta, trong các văn kiện chính thức, luôn khẳng định
“con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội đất
nước”, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển đất nước
nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng. Nhờ nhận thức
đúng đắn cùng việc nghiêm túc, sát sao trong việc thực hiện các giải pháp
trên mà chất lượng lao động của Việt Nam đạt được một số thành tựu:
Trình độ học vấn của nhân lực Việt Nam liên tục được cải thiện qua
từng năm. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đã tăng hơn gấp 2 lần sau khoảng 20
năm, từ 10,3% (năm 2000) lên 22,8% (năm 2019). Giai đoạn 2009 - 2019,
trình độ học vấn của nguồn nhân lực Việt Nam đã được nâng cao; phân bổ
lực lượng lao động theo trình độ học vấn tăng mạnh ở các nhóm trình độ cao
và giảm mạnh ở các nhóm trình độ thấp.
Không chỉ trình độ học vấn được nâng cao, trình độ chuyên môn kỹ
thuật của nguồn nhân lực Việt Nam cũng không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ
dân số có chuyên môn kỹ thuật đã tăng lên đáng kể so với năm 2007, tăng
6,3 điểm phần trăm, từ 17,7% (năm 2007) lên 24% (quý II/2020). Tỷ lệ dân
số có trình độ đại học trở lên tăng mạnh nhất, từ 4,9% (năm 2007) lên 11,1%
(quý II/2020). Điều này cho thấy trong những năm qua, giáo dục đại học và
trên đại học của Việt Nam đã có những thay đổi lớn, góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Đối với Đồng bằng Sông Cửu Long, đây là vùng sản xuất nông nghiệp
lớn nhất cả nước, hàng năm sản xuất trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng
nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây, 95% sản lượng gạo xuất khẩu.
Vùng đất này được ca ngợi là “vựa lúa”, “vựa trái cây” và “vựa tôm - cá” của
Việt Nam, với đóng góp trung bình 33,54% GDP nông nghiệp cả nước và
30% GDP chung của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP nông nghiệp
ĐBSCL giai đoạn 2004 - 2020 đạt 4,6% cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả
nước (3,76%). Trong thời gian qua, công tác đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực trong vùng đã đạt được những kết quả quan trọng. Nếu như năm
2011, vùng ĐBSCL chỉ có 13 cơ sở giáo dục đại học thì đến năm 2020 đã
tăng lên 21 cơ sở giáo dục đại học, với quy mô đào tạo gần 150.000 sinh
viên.
Ngoài ra, đã có nhiều địa phương cũng đã áp dụng mở các lớp dạy
nghề cho nông thôn, nâng cao trình độ để người nông dân kịp thời nắm bắt
những thay đổi của khoa học - công nghệ. Tỉnh Tuyên Quang là một trong
những địa phương đi đầu trong vịệc đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Đây là tiền đề quan trọng giúp người nông dân ở Tuyên Quang xây dựng và
phát triển các mô hình kinh tế mang lại hiệu quả cao. Giai đoạn 2016 - 2020,
tỉnh Tuyên Quang đã đào tạo nghề cho hơn 30.000 lao động, bình quân mỗi
năm đào tạo nghề hơn 6.000 lao động. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2023
đã tư vấn định hướng nghề nghiệp, việc làm cho 5.396 người lao động; tư
vấn giới thiệu việc làm cho 1.205 người lao động có nhu cầu tìm kiếm việc
làm, học nghề. Các lớp đào tạo nghề được mở dựa trên nhu cầu thực tế của
người lao động và người sử dụng lao động; gắn đào tạo nghề với tái cơ cấu
ngành nông nghiệp, quy hoạch sản xuất cây trồng, vật nuôi để phát huy thế
mạnh của địa phương. Từ các lớp đào tạo nghề, giúp người nông dân ở
Tuyên Quang tiếp cận nhanh hơn với tiến bộ khoa học công nghệ; sản xuất
kinh doanh các mặt hàng nông, lâm, thủy sản thích ứng tốt hơn với nhu cầu
thị trường. Nhiều sản phẩm nông sản chất lượng cao đã được hình thành và
có thương hiệu.
Trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tập
trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: tăng cường công tác
truyền thông để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và nhân dân về công tác đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp; sắp xếp,
kiện toàn hệ thống các trường, đổi mới nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành; triển khai thực hiện
cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng và phối hợp thực hiện các chương trình dự án
có liên quan của Bộ; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhà
nước và xã hội phục vụ việc đào tạo nhân lực chất lượng cao và xây dựng Đề
án thu hút nhân lực chất lượng cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và
phát triển nông thôn; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhà
nước và xã hội phục vụ việc đào tạo nhân lực chất lượng cao.
2.6. Nâng cao vai trò của các cơ quan chức năng Nhà nước đối với
sự phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Các cơ quan chức năng Nhà nước là hệ thống các cơ quan quản lý nhà
nước từ các bộ, ban, ngành ở cấp trung ương theo ngành dọc đến các cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện xã. Các cơ quan chức
năng Nhà nước thực hiện vai trò quản lý trong quá trình dịch chuyển cơ cấu
kinh tế nông thôn trước hết cần phải xóa bỏ các rào cản, khó khăn và tạo điệu
kiện cho thị trường phát triển, cụ thể thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, Nhà nước cần sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho thị
trường phát triển, xóa bỏ các luật lệ, quy định gây cản trợ hoạt động của thị
trường, đổi mới, bổ sung chính sách, điều luật phù hợp với quy luật của nền
kinh tế thị trường.
Hai là, Đổi mới, tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn then chốt, vướng
mắc về cơ chế chính sách, tạo động lực phát triển cho sản xuất như:
Chính sách về đất đai: Tạo thuận lợi cho tích tụ và tập trung ruộng đất
như tăng hạn điền, bỏ hạn chế đối tượng được nhận chuyển nhượng, điều
chỉnh lại chính sách thuế, phí,..
Chính sách thu hút đầu tư vào nông nghiệp bao gồm: Chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chính sách phát triển
hợp tác xã nông nghiệp, chính sách phát triển kinh tế trang trại và phát triển
kinh tế hộ.
Chính sách về hỗ trợ phát triển hợp tác, liên kết theo chuỗi trong sản
xuất nông nghiệp và hỗ trợ giảm tổn thất cơ giới hóa trong nông nghiệp.
Chính sách hỗ trợ tín dụng trong nông nghiệp: Hỗ trợ vốn đầu tư phục
vụ cho phát triển của khu vực.
Ba là, nhà nước cần tiến hành đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp
nhà nước, để hệ thống doanh nghiệp này hoạt động trong một sân chơi chung
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, các chủ thể kinh tế không thể đảm bảo có khả năng nắm bắt
và hành động theo các quy luật kinh tế thị trường trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Bởi vậy, cần có sự tham
gia của các cơ quan chức năng Nhà nước thực hiện vai trò định hướng, hỗ trợ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhà nước hỗ trợ các chủ thể kinh tế
trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu hướng, nhu cầu của thị trường về
vốn, dịch vụ khoa học, kĩ thuật, hỗ trợ các hoạt động xuất nhập khẩu, xúc
tiến thương mại. Các nhiệm vụ đề ra bao gồm:
Thứ nhất, Khuyến khích và hỗ trợ nông nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Với mục tiêu phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, nhà nước
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tư nhân trong nước và các nhà đầu tư
nước ngoài vào kinh doanh nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp phục vụ
nông nghiệp, chế biến nông sản và tìm thị trường tiêu thụ nông sản.
Thứ hai, quản lý chỉ đạo xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Đẩy
mạnh, phát triển những lợi thế phát triển của từng vùng kết hợp với những
chính sách hỗ trợ khó khăn. Cụ thể, tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long,
thực hiện những biện pháp cải thiện môi trường sống ở các vùng ngập lụt,
xây dựng quỹ dự phòng chống lụt, bão, thiên tai. Xây dựng đồng thời kết cấu
hạ tầng kinh tế kĩ thuật và kết cấu hạ tầng đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân
dân như đường xá, bệnh viện, trường học, giao thông, giải trí, dịch vụ,…
Ngoài ra, nhà nước cần cần kiểm soát chặt chẽ, hạn chế những mặt trái
của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong
lĩnh vực môi trường, các cơ quan chức năng nhà nước cần có những biện
pháp phù hợp để bảo vệ môi trường như đưa ra những luật lệ về tiêu chuẩn
môi trường, các chính sách thuế cho các hoạt động gây ô nhiễm. Thực hiện
các chính sách xã hội, phát triển kinh tế ở những vùng khó khăn, hạn chế sự
chênh lệch phát triển giữa các vùng. Nhà nước cần coi trọng công tác quy
hoạch và nâng cao chất lượng của công tác quy hoạch phát triển kinh tế nông
thôn, bao gồm quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành và quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trên từng địa bàn nông thôn (xã huyện) một cách hợp lý, khoa
học. Ngoài các công cụ chính sách hỗ trợ phát triển đầu tư, nhà nước bằng
thực lực kinh tế của mình tiến hành đầu tư, phát triển kinh tế xã hội ở những
vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
2.8. Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế trong nông thôn
Trong nền kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng, các thành
phần kinh tế đều có vai trò, vị trí riêng không thể thay thế. Để phát triển kinh
tế nông thôn và hình thành nên cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý phải phát huy
được vai trò, vị trí của mỗi thành phần kinh tế trong nông thôn và tạo mối
liên hệ gắn kết với nhau, hỗ trợ nhau cùng hoạt động một các hiệu quả và
cùng phát triển giữa các thành phần kinh tế. Trên thực tế, các chủ thể kinh tế
thuộc mỗi thành phần kinh tế đều hoạt động dưới một loại hình tổ chức kinh
tế tương ứng. Trong các ngành kinh tế nông thôn, các loại hình tổ chức kinh
tế chủ yếu bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các hợp tác xã, các hộ tiểu chủ ngành nghề,
các trang trại gia đình, các hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, ngành nghề.
Doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò then
chốt trong nền kinh tế. Trong phát triển kinh tế nông thôn, DNNN đảm nhận
vai trò chính trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn, bao gồm các
dự án như xây dựng đường giao thông, hệ thống nước sạch, hệ thống điện.
Dự án “Đưa điện về với buôn làng” của tập đoàn EVN đã thắp sáng hàng
nghìn cuộc sống của người dân vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh miền Trung và
Tây Nguyên. Tổng công ty điện lực miền Trung EVECPC đã triển khai dự án
“Năng lượng nông thôn” trên địa bàn 239 xã khu vực miền trung, chủ động
phối hợp cùng 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông đưa điện về hơn 73 thôn.
Chương trình đã thực hiện cấp điện cho hơn 62 nghìn hộ đồng bào và hoàn
thành vào năm 2010. Dự án đã nâng tỷ lệ hộ có điện tại khu vực Tây Nguyên
đạt gần 96%, góp phần thực hiện nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa,
để từ đó tạo tiền đề đưa Tây Nguyên từng bước phát triển theo kịp các khu
vực khác trong cả nước. Bên cạnh đó, các DNNN cung cấp các chính sách hỗ
trợ tài chính như vay vốn với lãi suất ưu đãi, hoặc các gói hỗ trợ nhằm thúc
đẩy phát triển các ngành nghề kinh doanh nông thôn, thực hiện các chính
sách hỗ trợ giá đối với các sản phầm quan trọng, giúp bảo vệ thu nhập của
người nông dân và ổn định giá thị trường. Về phương diện môi trường trong
kinh tế nông thôn, DNNN có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như
đất đai, nước, rừng, đảm bảo sự phát triển chuyển dịch kinh tế nông thôn
theo hướng phát triển bền vững.
Theo Diễn đàn kinh tế tư nhân lần thứ II (tổ chức ngày 02/4/2023 tại
Hà Nội), hiện cả nước có hơn 786 nghìn doanh nghiệp tư nhân, chiếm 98%
trong tổng số hơn 800 nghìn doanh nghiệp; đóng góp trung bình 46,4% GDP
mỗi năm trong giai đoạn 2016-2021, riêng năm 2021 đóng góp 18,5% tổng
thu ngân sách. Doanh nghiệp tư nhân đã chiếm lĩnh trong hầu hết các lĩnh
vực trọng yếu của nền kinh tế như công nghiệp chế tạo, xây dựng, sản xuất ô
tô, công nghệ thông tin, ngông nghiệp,… Khu vực kinh tế tư nhân đã có
những thương hiệu mạnh, những doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn cả về
vốn và công nghệ cao, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước như các tập đoàn Vingroup, Sun Group, Trường Hải Thaco, Vinamilk,
Vietjet, TH TrueMilk,… Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, doanh nghiệp tư nhân được coi là “hạt nhân” của sự phát triển nhờ tạo
ra hàng nghìn cơ hội việc làm cho người dân nông thôn trong đa dạng các
lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản, du lịch nông thôn và các ngành
nông nghiệp phù trợ. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ô tô, xe
đạp điện, điện thoại thông minh, xưởng sản xuất Vinfast đã tạo việc làm cho
hơn 12.400 lao động trên cả nước. Với các hệ thống nhà máy đầu tư của tập
đoàn TH được xây dựng và đi vào hoạt động tại huyện Nghĩa Đàn – tỉnh
Nghệ An đã mang lại một làn gió phát triển cho kinh tế vùng. Từ một khu
vực với tỷ lệ hộ nghèo lên tới 23% thì đến nay số hộ nghèo của huyện theo
chuẩn tiếp cận đa chiều chỉ còn 6,4%, tạo công ăn việc làm ổn định, thu nhập
ngày càng cao và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Bên
cạnh đó, Tập đoàn TH cũng đã góp phần tạo ra sự chuyển dịch lớn trong cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo nên bước đột phá trong phát triển kinh tế
của huyện Nghĩa Đàn.
Doanh nghiệp tư nhân đem lại sự sáng tạo và đổi mới trong việc áp
dụng các công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, quản lý nông trang và
phát triển các dịch vụ hỗ trợ. Mô hình “Kinh tế tuần hoàn” được TH
TrueMilk áp dụng phát triển trên địa bàn tỉnh Nghệ An thông qua các dự án
của mình không chỉ đem lại hiệu quả cho dự án mà còn có những tác động
tích cực đến môi trường. Năm 2020, Tập đoàn TH triển khai lắp đặt pin năng
lượng mặt trời trên các mái nhà chuồng trại và nhà máy, vừa sản xuất nguồn
điện xanh vừa góp phần hạn chế quá trình hấp thu nhiệt từ đó giảm nhiệt cho
chuồng nuôi. Bên cạnh đó, bà Thái Hương - Nhà Sáng lập, Chủ tịch Hội
đồng Chiến lược Tập đoàn TH - nhấn mạnh trong Báo cáo Phát triển Bền
vững của Tập đoàn chia sẻ: “Bằng việc tự động hóa, ứng dụng công nghệ
cao, công nghệ 4.0 một cách mẫu mực trong sản xuất nông nghiệp và chế
biến cùng khoa học quản trị theo chuỗi, Tập đoàn TH đã xây dựng một mô
hình nông nghiệp điển hình gắn với phát triển bền vững, kinh tế xanh, kinh tế
tuần hoàn, dẫn lối, định hình cho nền nông nghiệp công nghệ cao ở Nghệ An
và cả nước”.
Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân thường thực hiện các chương trình
xã hội hỗ trợ cộng đồng địa phương trong việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, cải thiện hạ tầng giao thông, hệ
thống thoát nước, cải thiện đời sống nhân dân và tạo môi trường làm việc
thuận lợi cho người lao động.
Bên cạnh DNNN và doanh nghiệp tư nhân, loại hình doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nhân tố quan trọng của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông thôn. Trong lĩnh vực
nông – lâm – ngư nghiệp, tốc độ tăng trưởng sản lượng của khu vực FDI luôn
cao hơn khu vực kinh tế trong nước đã góp phần nhất định vào việc chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa
nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống
con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, thời gian
vừa qua tỷ lệ dòng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp tại Việt
Nam còn hạn chế do sản phẩm nông nghiệp thường có tỷ suất lợi nhuận thấp,
việc triển khai các thủ tục hành chính còn nhiều khó khăn.
Tóm lại, vai trò của các thành phần kinh tế trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng là vô cùng quan
trong trọng. Doanh nghiệp kết hợp chặt chẽ với hợp tác xã trở thành hạt nhân
trụ cột chính trong liên kết với bà con nông dân vì vậy cần có những giải
pháp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Hiện nay nhà nước
ta đã và đang tích cực bổ sung và thực hiện các chính sách hỗ trợ khuyến
khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn như Doanh nghiệp có
dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư thuê, thuê lại đất, cá nhân đầu tư thì
được nhà nước hỗ trợ kinh phí. Ngoài ra, Nhà nước cần lắng nghe, nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh
doanh để từng bước giải quyết khó khăn, tạo niềm nin với doanh nghiệp để
từ đó phát huy tối đa vai trò của doanh nghiệp trong đầu tư, phát triển kinh
tế.
KẾT LUẬN