Professional Documents
Culture Documents
- Khái niệm: ‘nhượng quyền thương mại’ là trao cho ai đó quyền tự do thực hiện việc gì đó
hoặc quyền sử dụng cái gì đó ở một địa điểm nhất định.
- Ý nghĩa: cách thức tổ chức kinh doanh đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực
phân phối hàng hóa và dịch vụ trong hầu hết các ngành kinh tế và làm thay đổi tình hình
kinh tế của hầu hết các nước.
- Nhượng quyền thương mại thường được chia thành ba loại: ‘Nhượng quyền thương mại
sản phẩm’ (the ‘product franchise’), ‘nhượng quyền thương mại sản xuất hoặc chế biến’
(the ‘processing or manufacturing franchise’), và ‘nhượng quyền công thức kinh doanh’
(the ‘business format franchise’). Trong ‘nhượng quyền thương mại sản phẩm’ (the
‘product franchise’)
- Trong ‘nhượng quyền thương mại sản phẩm’ (the ‘product franchise’), bên nhận quyền là nhà
phân phối, bán buôn hoặc bán lẻ, đối với một loại sản phẩm nhất định trong một phạm vi lãnh
thổ nào đó và gắn liền với nhãn hiệu của bên nhượng quyền.
- Đối với ‘nhượng quyền sản xuất hoặc chế biến’ (the ‘processing or manufacturing franchise’),
bên nhượng quyền chuyển giao bí quyết hoặc nguyên liệu thiết yếu cho bên nhận quyền và có
thể sử dụng dưới nhãn hiệu của bên nhượng quyền trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Cả
hai loại nhượng quyền này được gọi chung là ‘nhượng quyền sản phẩm và tên thương mại’
(the ‘product and trade name franchises’). Trong ‘nhượng quyền công thức kinh doanh’ (the
‘business format franchise’), bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền sử dụng một công
thức kinh doanh đặc biệt trong phạm vi lãnh thổ nào đó và dưới nhãn hiệu của bên nhượng
quyền.
- Quan hệ nhượng quyền thương mại bao gồm ‘thỏa thuận nhượng quyền đơn cơ sở’
(‘single-unit franchise arrangement’) và ‘thỏa thuận nhượng quyền đa cơ sở’ (‘multi-unit
franchise arrangement’). ‘Nhượng quyền đơn cơ sở’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng
quyền cho phép bên nhận quyền được mở một cơ sở nhượng quyền. ‘Nhượng quyền đa
cơ sở’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được mở từ hai
cơ sở nhượng quyền trở lên.
- ‘Nhượng quyền đa cơ sở’ có hai loại: ‘nhượng quyền phát triển khu vực’ (the ‘area
development franchise’) và ‘nhượng quyền thương mại tổng thể’ (the ‘master franchise’).
- ‘Nhượng quyền phát triển khu vực’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng quyền trao cho bên
nhận quyền (còn gọi là ‘nhà phát triển khu vực’) các quyền và nghĩa vụ để mở và vận
hành từ hai cơ sở nhượng quyền trở lên trong một khu vực địa lí nhất định. ‘Nhượng
quyền thương mại tổng thể’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng quyền trao cho bên nhận
quyền quyền khai thác một khu vực địa lí nhất định, thông qua việc cho phép bên nhận
quyền cấp lại quyền thương mại mà mình đã nhận từ bên nhượng quyền ban đầu cho bên
nhận quyền thứ cấp, và trong hầu hết trường hợp còn được phép mở và tự vận hành các
cơ sở nhượng quyền
2. Nhượng quyền thương mại quốc tế
- Nhượng quyền thương mại quốc tế là ‘phương thức xâm nhập thị trường nước ngoài liên
quan tới mối quan hệ giữa bên xâm nhập (bên nhượng quyền) với một pháp nhân thuộc
nước sở tại (bên nhận quyền), theo đó bên nhượng quyền thông qua hợp đồng chuyển
giao một gói kinh doanh (hoặc công thức kinh doanh) thuộc sở hữu và được phát triển
bởi bên nhượng quyền cho bên nhận quyền’.\
- Sự mở rộng ra quốc tế của nhượng quyền thương mại bắt đầu từ cuối thập niên thứ sáu và
đầu thập niên thứ bảy của thế kỉ XX bởi các nhà nhượng quyền tiên phong của Hoa Kỳ
như McDonald, KFC và Pizza Hut. Sự mở rộng ra quốc tế của những nhà nhượng quyền
này đã giới thiệu khái niệm nhượng quyền thương mại tới các nước khác và kích thích sự
phát triển của nhượng quyền thương mại ở nước sở tại. Quá trình xâm nhập nước ngoài
của các nhà nhượng quyền Hoa Kỳ đầu tiên là vào thị trường các nước phát triển như
Anh, Úc và Ca-na-đa, sau đó lan rộng tới các DCs. Các nhà nhượng quyền ở nước sở tại
đã không chỉ tiếp thu và áp dụng mô hình nhượng quyền thương mại, mà rốt cục còn triển
khai nhượng quyền ra nước ngoài.
- Có sáu cách thức xâm nhập thị trường nước ngoài của các nhà nhượng quyền thương
mại, bao gồm: ‘Nhượng quyền thương mại trực tiếp’ (‘direct franchising’), ‘nhượng
quyền thương mại tổng thể’ (‘master franchising’), ‘hợp đồng phát triển khu vực’ (‘area
development agreement’), ‘lập chi nhánh’ (‘branch’), ‘lập công ty con’ (‘subsidiary’), và
‘lập liên doanh’ (‘joint- venture’).
- Nhượng quyền thương mại trực tiếp’ là việc bên nhượng quyền trực tiếp ký hợp đồng nhượng
quyền với từng bên nhận quyền ở nước sở tại mà không hề qua bất kỳ bên trung gian nào. Đối
với việc xâm nhập thị trường nước ngoài bằng việc lập công ty con, bên nhượng quyền sẽ tiến
hành thành lập công ty con ở nước sở tại. Công ty con này là một pháp nhân có tư cách pháp
lý độc lập với bên nhượng quyền. Công ty con có thể mở cửa hàng thuộc sở hữu của mình
hoặc ký hợp đồng nhượng quyền với bên nhận quyền ở nước sở tại.
- Trong trường hợp thiết lập chi nhánh ở nước sở tại, chi nhánh đó không phải là pháp nhân
độc lập, vì thế bên nhượng quyền vẫn phải gánh chịu các trách nhiệm pháp lý đối với hoạt
động kinh doanh của chi nhánh ở nước sở tại. Nếu xâm nhập thị trường nước ngoài qua con
đường lập liên doanh, bên nhượng quyền sẽ ký hợp đồng liên doanh với đối tác - thường
mang quốc tịch nước sở tại, theo đó thông thường một công ty liên doanh sẽ được ra đời, tuy
nhiên cũng có trường hợp việc liên doanh chỉ đơn thuần là quan hệ hợp đồng. Bên nhượng
quyền khi đó sẽ có thể kí ‘hợp đồng phát triển khu vực’ hoặc ‘hợp đồng nhượng quyền tổng
thể’ với liên doanh, và kết quả là sự ra đời các cửa hàng nhượng quyền thuộc sở hữu của liên
doanh hoặc các cửa hàng được nhượng quyền bởi liên doanh.
II. Pháp luật về nhượng quyền thương mại quốc tế
- Với tư cách là hoạt động thương mại quốc tế, nhượng quyền thương mại quốc tế chịu sự
điều chỉnh của pháp luật nước sở tại cũng như các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Tính đến nay, chưa có bất kì điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế nào chuyên biệt về
nhượng quyền thương mại quốc tế. Nhượng quyền thương mại quốc tế có thể được điều
chỉnh bằng các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế áp dụng chung cho các giao dịch
quốc tế, như: CISG, PICC, các hiệp định tương trợ tư pháp giữa các nước, và
INCOTERMS.
- Ở các nước ban hành pháp luật về nhượng quyền thương mại, thường có bốn loại công cụ
được sử dụng để điều chỉnh nhượng quyền thương mại: Bản giới thiệu nhượng quyền
thương mại (disclosure), sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (alternative
dispute resolution), đăng ký nhượng quyền (registration), và hướng dẫn trách nhiệm thực
thi của bên nhượng quyền và bên nhận quyền (standards of conduct). Trên cơ sở sử dụng
đơn lẻ hoặc kết hợp các loại công cụ này, 33 nước nói trên đã quy định riêng về nhượng
quyền thương mại theo một trong 9 mô hình sau đây:
Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại Bỉ, Brazil, Pháp, Nhật Bản, Thụy Điển, Đài Loan
Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại, đăng ký nhượng quyền
và hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên nhượng quyền và bên Trung Quốc, Ma Cao, Ma-lai-xi-a, Môn- đô-va, Việt Nam
nhận quyền
Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại, hướng dẫn trách nhiệm
thực thi của bên nhượng quyền và bên nhận quyền và giải quyết Hàn Quốc, Úc
tranh chấp
Hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên nhượng quyền và bên
Ét-xtô-ni-a, Lít-va, Nga, U-cơ-rai-na, Vê- nê-du-ê-la
nhận quyền
đăng ký nhượng quyền và hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên
Bê-la-ru-xi-a, Ka-dắc-xtan, Kiếc-ghi-di, Ả rập Xê út
nhượng quyền và bên nhận quyền
Mô hình Hoa Kỳ - Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại: Áp dụng ở cấp
liên bang.
- Hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên nhượng quyền và
bên nhận quyền: cấp liên bang (ô-tô/xăng dầu) và hầu hết các
bang.
Nghĩa vụ của bên nhận quyền phải mua hoặc thuê những thiết bị để phù hợp với hệ thống kinh
doanh do bên nhượng quyền quy định; Nghĩa vụ của bên nhượng quyền;
Mô tả thị trường của hàng hóa/dịch vụ được kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương
mại;
Phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc tổ chức cần phải tham gia.
- Nghị định 35 còn yêu cầu bên nhượng quyền phải ‘thông báo ngay cho tất cả các bên
nhận quyền về mọi thay đổi quan trọng trong hệ thống nhượng quyền thương mại làm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại của
bên nhận quyền’ (khoản 2 Điều 8)
- Trong trường hợp nhượng quyền thương mại thứ cấp, bên nhượng quyền thứ cấp phải cung
cấp cho bên nhận quyền thứ cấp không chỉ bản giới thiệu nhượng quyền thương mại mà còn
là thông tin về bên nhượng quyền đã cấp quyền thương mại cho mình, nội dung của ‘hợp
đồng nhượng quyền thương mại tổng thể’ (‘master franchising agreement’), và cách thức xử
lý hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp, trong trường hợp chấm dứt ‘hợp đồng
nhượng quyền thương mại tổng thể’ (khoản 3 Điều 8).
- Nghị định 35 cũng yêu cầu việc tiết lộ thông tin của bên nhận quyền: Bên dự kiến nhận quyền
phải cung cấp cho bên nhượng quyền các thông tin mà bên nhượng quyền yêu cầu một cách
hợp lý để quyết định việc trao quyền thương mại cho bên dự kiến nhận quyền (Điều 9).
4. Hợp đồng nhượng quyền thương mại
- Luật thương mại chỉ quy định hợp đồng nhượng quyền thương mại ‘phải được lập thành
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương’ (Điều 285)
- Một hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế phải đạt được hai mục đích cơ bản:
(1) Các điều khoản của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác để ràng buộc các bên bằng
quan hệ hợp đồng và có thể giải quyết được các vướng mắc nảy sinh trong quá trình
thựchiệnhợpđồng;
(2) Bảo vệ được quyền lợi của các bên và đặc biệt là quyền sở hữu trí tuệ của bên giao quyền
kinh doanh
- Nghị định 35 cũng theo nguyên tắc của Bộ luật dân sự 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006)
(sau đây gọi tắt là Bộ luật dân sự) về quyền tự do thỏa thuận trong hợp đồng để thiết lập các
quyền và nghĩa vụ, với điều kiện là các cam kết đó không trái với pháp luật hoặc trật tự công
cộng. Nghị định 35 chỉ đơn thuần quy định tại Điều 11 rằng hợp đồng nhượng quyền thương
mại có thể có các nội dung chủ yếu sau đây, nếu các bên lựa chọn áp dụng pháp luật Việt
Nam:
Giá cả, phí nhượng quyền định kì và phương thức thanh toán;
- Thời hạn của hợp đồng nhượng quyền thương mại do các bên thỏa thuận (Điều 13 Nghị định
35) và hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
(Điều 14 Nghị định 35).
- Nếu bên nhượng quyền chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng IPs cùng với các nội dung
của quyền thương mại, thì việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng IPs đó có thể lập
thành một phần riêng trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Việc chuyển giao IPRs
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại phải phù hợp với pháp luật về IP của Việt Nam
(Điều 10 Nghị định 35).
5. Đăng kí nhượng quyền và báo cáo
- Theo Luật thương mại, trước khi nhượng quyền, ‘bên dự kiến nhượng quyền phải đăng ký với
Bộ thương mại’ (nay là Bộ công thương), và Chính phủ sẽ quy định chi tiết ‘điều kiện kinh
doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại và trình tự, thủ tục đăng ký nhượng
quyền thương mại’ (Điều 291). Việc đăng ký cũng được quy định tại Nghị định 35, theo đó
các hoạt động nhượng quyền thương mại - chứ không phải bên dự kiến nhượng quyền - phải
được đăng ký (Điều 17). Chi tiết về việc đăng ký nhượng quyền thương mại được quy định
tại Thông tư 09. Bên nhượng quyền chỉ phải đăng ký một lần thay vì từng lần một cho từng
hợp đồng nhượng quyền thương mại.
- Bộ thương mại (nay là Bộ công thương) chịu trách nhiệm thực hiện việc đăng ký hoạt động
nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài