You are on page 1of 9

I.

Nhượng quyền thương mại quốc tế


1. Nhượng quyền thương mại

- Khái niệm: ‘nhượng quyền thương mại’ là trao cho ai đó quyền tự do thực hiện việc gì đó
hoặc quyền sử dụng cái gì đó ở một địa điểm nhất định.
- Ý nghĩa: cách thức tổ chức kinh doanh đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực
phân phối hàng hóa và dịch vụ trong hầu hết các ngành kinh tế và làm thay đổi tình hình
kinh tế của hầu hết các nước.
- Nhượng quyền thương mại thường được chia thành ba loại: ‘Nhượng quyền thương mại
sản phẩm’ (the ‘product franchise’), ‘nhượng quyền thương mại sản xuất hoặc chế biến’
(the ‘processing or manufacturing franchise’), và ‘nhượng quyền công thức kinh doanh’
(the ‘business format franchise’). Trong ‘nhượng quyền thương mại sản phẩm’ (the
‘product franchise’)
- Trong ‘nhượng quyền thương mại sản phẩm’ (the ‘product franchise’), bên nhận quyền là nhà
phân phối, bán buôn hoặc bán lẻ, đối với một loại sản phẩm nhất định trong một phạm vi lãnh
thổ nào đó và gắn liền với nhãn hiệu của bên nhượng quyền.
- Đối với ‘nhượng quyền sản xuất hoặc chế biến’ (the ‘processing or manufacturing franchise’),
bên nhượng quyền chuyển giao bí quyết hoặc nguyên liệu thiết yếu cho bên nhận quyền và có
thể sử dụng dưới nhãn hiệu của bên nhượng quyền trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Cả
hai loại nhượng quyền này được gọi chung là ‘nhượng quyền sản phẩm và tên thương mại’
(the ‘product and trade name franchises’). Trong ‘nhượng quyền công thức kinh doanh’ (the
‘business format franchise’), bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền sử dụng một công
thức kinh doanh đặc biệt trong phạm vi lãnh thổ nào đó và dưới nhãn hiệu của bên nhượng
quyền.
- Quan hệ nhượng quyền thương mại bao gồm ‘thỏa thuận nhượng quyền đơn cơ sở’
(‘single-unit franchise arrangement’) và ‘thỏa thuận nhượng quyền đa cơ sở’ (‘multi-unit
franchise arrangement’). ‘Nhượng quyền đơn cơ sở’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng
quyền cho phép bên nhận quyền được mở một cơ sở nhượng quyền. ‘Nhượng quyền đa
cơ sở’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được mở từ hai
cơ sở nhượng quyền trở lên.
- ‘Nhượng quyền đa cơ sở’ có hai loại: ‘nhượng quyền phát triển khu vực’ (the ‘area
development franchise’) và ‘nhượng quyền thương mại tổng thể’ (the ‘master franchise’).
- ‘Nhượng quyền phát triển khu vực’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng quyền trao cho bên
nhận quyền (còn gọi là ‘nhà phát triển khu vực’) các quyền và nghĩa vụ để mở và vận
hành từ hai cơ sở nhượng quyền trở lên trong một khu vực địa lí nhất định. ‘Nhượng
quyền thương mại tổng thể’ là thỏa thuận theo đó bên nhượng quyền trao cho bên nhận
quyền quyền khai thác một khu vực địa lí nhất định, thông qua việc cho phép bên nhận
quyền cấp lại quyền thương mại mà mình đã nhận từ bên nhượng quyền ban đầu cho bên
nhận quyền thứ cấp, và trong hầu hết trường hợp còn được phép mở và tự vận hành các
cơ sở nhượng quyền
2. Nhượng quyền thương mại quốc tế
- Nhượng quyền thương mại quốc tế là ‘phương thức xâm nhập thị trường nước ngoài liên
quan tới mối quan hệ giữa bên xâm nhập (bên nhượng quyền) với một pháp nhân thuộc
nước sở tại (bên nhận quyền), theo đó bên nhượng quyền thông qua hợp đồng chuyển
giao một gói kinh doanh (hoặc công thức kinh doanh) thuộc sở hữu và được phát triển
bởi bên nhượng quyền cho bên nhận quyền’.\
- Sự mở rộng ra quốc tế của nhượng quyền thương mại bắt đầu từ cuối thập niên thứ sáu và
đầu thập niên thứ bảy của thế kỉ XX bởi các nhà nhượng quyền tiên phong của Hoa Kỳ
như McDonald, KFC và Pizza Hut. Sự mở rộng ra quốc tế của những nhà nhượng quyền
này đã giới thiệu khái niệm nhượng quyền thương mại tới các nước khác và kích thích sự
phát triển của nhượng quyền thương mại ở nước sở tại. Quá trình xâm nhập nước ngoài
của các nhà nhượng quyền Hoa Kỳ đầu tiên là vào thị trường các nước phát triển như
Anh, Úc và Ca-na-đa, sau đó lan rộng tới các DCs. Các nhà nhượng quyền ở nước sở tại
đã không chỉ tiếp thu và áp dụng mô hình nhượng quyền thương mại, mà rốt cục còn triển
khai nhượng quyền ra nước ngoài.
- Có sáu cách thức xâm nhập thị trường nước ngoài của các nhà nhượng quyền thương
mại, bao gồm: ‘Nhượng quyền thương mại trực tiếp’ (‘direct franchising’), ‘nhượng
quyền thương mại tổng thể’ (‘master franchising’), ‘hợp đồng phát triển khu vực’ (‘area
development agreement’), ‘lập chi nhánh’ (‘branch’), ‘lập công ty con’ (‘subsidiary’), và
‘lập liên doanh’ (‘joint- venture’).
- Nhượng quyền thương mại trực tiếp’ là việc bên nhượng quyền trực tiếp ký hợp đồng nhượng
quyền với từng bên nhận quyền ở nước sở tại mà không hề qua bất kỳ bên trung gian nào. Đối
với việc xâm nhập thị trường nước ngoài bằng việc lập công ty con, bên nhượng quyền sẽ tiến
hành thành lập công ty con ở nước sở tại. Công ty con này là một pháp nhân có tư cách pháp
lý độc lập với bên nhượng quyền. Công ty con có thể mở cửa hàng thuộc sở hữu của mình
hoặc ký hợp đồng nhượng quyền với bên nhận quyền ở nước sở tại.
- Trong trường hợp thiết lập chi nhánh ở nước sở tại, chi nhánh đó không phải là pháp nhân
độc lập, vì thế bên nhượng quyền vẫn phải gánh chịu các trách nhiệm pháp lý đối với hoạt
động kinh doanh của chi nhánh ở nước sở tại. Nếu xâm nhập thị trường nước ngoài qua con
đường lập liên doanh, bên nhượng quyền sẽ ký hợp đồng liên doanh với đối tác - thường
mang quốc tịch nước sở tại, theo đó thông thường một công ty liên doanh sẽ được ra đời, tuy
nhiên cũng có trường hợp việc liên doanh chỉ đơn thuần là quan hệ hợp đồng. Bên nhượng
quyền khi đó sẽ có thể kí ‘hợp đồng phát triển khu vực’ hoặc ‘hợp đồng nhượng quyền tổng
thể’ với liên doanh, và kết quả là sự ra đời các cửa hàng nhượng quyền thuộc sở hữu của liên
doanh hoặc các cửa hàng được nhượng quyền bởi liên doanh.
II. Pháp luật về nhượng quyền thương mại quốc tế
- Với tư cách là hoạt động thương mại quốc tế, nhượng quyền thương mại quốc tế chịu sự
điều chỉnh của pháp luật nước sở tại cũng như các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Tính đến nay, chưa có bất kì điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế nào chuyên biệt về
nhượng quyền thương mại quốc tế. Nhượng quyền thương mại quốc tế có thể được điều
chỉnh bằng các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế áp dụng chung cho các giao dịch
quốc tế, như: CISG, PICC, các hiệp định tương trợ tư pháp giữa các nước, và
INCOTERMS.
- Ở các nước ban hành pháp luật về nhượng quyền thương mại, thường có bốn loại công cụ
được sử dụng để điều chỉnh nhượng quyền thương mại: Bản giới thiệu nhượng quyền
thương mại (disclosure), sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (alternative
dispute resolution), đăng ký nhượng quyền (registration), và hướng dẫn trách nhiệm thực
thi của bên nhượng quyền và bên nhận quyền (standards of conduct). Trên cơ sở sử dụng
đơn lẻ hoặc kết hợp các loại công cụ này, 33 nước nói trên đã quy định riêng về nhượng
quyền thương mại theo một trong 9 mô hình sau đây:

Các mô hình pháp luật Các nước áp dụng

Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại Bỉ, Brazil, Pháp, Nhật Bản, Thụy Điển, Đài Loan

An-ba-ni, Ca-na-đa (bang An-bơ-ta, bang Niu Brun-x-uých,


Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại và hướng dẫn trách
bang Ôn-ta-ri-o, Đảo Prin-xơ Ét-uốt, tỉnh Kê-bếc), Georgia, Ý,
nhiệm thực thi của bên nhượng quyền và bên nhận quyền
Ru-ma-ni

Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại và đăng ký nhượng


In-đô-nê-xi-a, Mê-hi-cô, Tây Ban Nha
quyền

Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại, đăng ký nhượng quyền
và hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên nhượng quyền và bên Trung Quốc, Ma Cao, Ma-lai-xi-a, Môn- đô-va, Việt Nam
nhận quyền

Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại, hướng dẫn trách nhiệm
thực thi của bên nhượng quyền và bên nhận quyền và giải quyết Hàn Quốc, Úc
tranh chấp

đăng ký nhượng quyền Crô-a-ti-a, Bác-ba-đô-xơ

Hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên nhượng quyền và bên
Ét-xtô-ni-a, Lít-va, Nga, U-cơ-rai-na, Vê- nê-du-ê-la
nhận quyền

đăng ký nhượng quyền và hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên
Bê-la-ru-xi-a, Ka-dắc-xtan, Kiếc-ghi-di, Ả rập Xê út
nhượng quyền và bên nhận quyền

Mô hình Hoa Kỳ - Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại: Áp dụng ở cấp
liên bang.

- Hướng dẫn trách nhiệm thực thi của bên nhượng quyền và
bên nhận quyền: cấp liên bang (ô-tô/xăng dầu) và hầu hết các
bang.

- đăng ký nhượng quyền: Áp dụng ở cấp bang (14 bang).

1. Đăng ký nhượng quyền và báo cáo


- Cơ chế đăng ký nhượng quyền được áp dụng ở Hoa Kỳ từ rất sớm theo quy định của pháp
luật bang Ca-li-phoóc-ni-a và được tiếp tục áp dụng ở 13 bang khác, nhưng đã không nhận
được nhiều sự ủng hộ của các nước khác. Chỉ có 14 bang của Hoa Kỳ và 14 nước khác áp đặt
nghĩa vụ đăng ký nhượng quyền, và nghĩa vụ này cũng rất đa dạng, từ việc yêu cầu nộp một
báo cáo kiểm toán đầy đủ cho tới đơn giản chỉ là việc lưu trữ thông tin.
- 14 bang của Hoa Kỳ giới thiệu cơ chế kiểm toán và đăng ký nhượng quyền nặng nề nhất, cho
dù có sự khác biệt nhất định về mức độ kiểm soát giữa các bang cũng như đối với từng nhà
nhượng quyền thương mại. Các bang của Hoa Kỳ và 5 nước khác có áp dụng cơ chế đăng ký
nhượng quyền (Trung Quốc, In- đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Tây Ban Nha và Việt Nam) cũng
yêu cầu nghĩa vụ thông báo thường niên đối với các nhà nhượng quyền thương mại.
2. Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại
- Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại là nhân tố then chốt trong pháp luật về nhượng
quyền. Nó được chấp nhận rộng rãi như công cụ để xử lý sự bất cân xứng thông tin cố
hữu trong các quan hệ nhượng quyền. Công cụ này góp phần làm thuận lợi hoá việc tiếp
cận các thông tin tin cậy và đầy đủ về hệ thống nhượng quyền, điều này hết sức hữu ích
và cần thiết cho các bên dự kiến nhận quyền trong việc đưa ra quyết định nhận quyền
thương mại một cách sáng suốt.
- Nghĩa vụ cung cấp bản giới thiệu nhượng quyền là yếu tố thống nhất trong pháp luật
nhượng quyền của các nước trên thế giới, trừ Ka- dắc-xtan, Lít-va và Nga. Ấn phẩm
‘Luật mẫu về bản giới thiệu nhượng quyền thương mại’ (Model Franchise Disclosure
Law) của UNIDROIT, với sự gợi ý về nội dung tối thiểu của bản giới thiệu nhượng
quyền, được mong đợi sẽ ảnh hưởng tới việc đẩy mạnh sự chấp thuận luật về bản giới
thiệu nhượng quyền thương mại cũng như định hướng nội dung của nó.
3. Hợp đồng nhượng quyền thương mại
- Hợp đồng nhượng quyền là điểm tham chiếu cốt lõi trong việc làm rõ mối quan hệ giữa
bên nhượng quyền và bên nhận quyền.
- Không phải tất cả các nước đều đòi hỏi hợp đồng nhượng quyền phải bằng văn bản. Hơn
nữa, chỉ có một số nước quy định nội dung bắt buộc của hợp đồng nhượng quyền thương
mại
- Đối với các nước không yêu cầu nội dung bắt buộc của hợp đồng nhượng quyền thương
mại, thì phần lớn bắt buộc bản giới thiệu nhượng quyền thương mại phải có ít nhất một
vài điều khoản hợp đồng then chốt.
- Chỉ có pháp luật Úc yêu cầu một điều khoản hợp lí rằng trước khi ký hợp đồng, bên dự
kiến nhận quyền phải xác nhận rằng đã nhận được sự tư vấn từ nhà tư vấn kinh doanh
hoặc nhà tư vấn pháp luật độc lập, hoặc kế toán viên độc lập hoặc đã được khuyên cần có
sự tư vấn như thế nhưng chưa tiến hành tìm kiếm. Pháp luật Úc và Ma-lai-xi-a còn cho
phép bên nhận quyền một giai đoạn ‘cân nhắc’ (‘cooling off’), theo đó bên nhận quyền có
thể rút lại đề nghị ký kết hợp đồng và được bồi hoàn các khoản phí, sau khi đã trừ đi các
chi phí hợp lý mà bên nhượng quyền phải gánh chịu, với điều kiện là điều này được ghi
rõ trong hợp đồng
4. Các vấn đề về tiêu chuẩn thực thi, hay quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền
- Hầu hết các nước có luật về nhượng quyền thương mại đều quy định về các vấn đề cụ thể
trong quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền
- Đa phần các nước (trừ Nhật Bản) ấn định các hạn chế đối với việc đơn phương chấm dứt
hợp đồng bởi bên nhượng quyền, với công thức phổ biến nhất là đưa ra các sự kiện được
phép chấm dứt hợp đồng, và/hoặc thông báo về vi phạm và cơ hội khắc phục.
- Thay vì quy định một thời hạn cố định cho mối quan hệ nhượng quyền,pháp luật nhượng
quyền của hầu hết nước chỉ đơn thuần yêu cầu một thời hạn đủ dài cho bên nhận quyền
thu hồi khoản đầu tư ban đầu
- Hầu hết các nước sử dụng cơ chế điều chỉnh bằng bản giới thiệu nhượng quyền thương
mại đều yêu cầu thông báo về việc chuyển giao hợp đồng, nhưng chỉ một vài nước trong
đó quy định quyền được chuyển giao hợp đồng
- Rất nhiều vấn đề khác về quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền cũng được
điều chỉnh một cách đặc thù như vấn đề vi phạm hợp đồng, thay đổi đơn phương, miễn
trách nhiệm, quyền liên kết, bảo mật, không cạnh tranh. Tuy nhiên, không có ‘một cách
tiếp cận chung trên phạm vi toàn thế giới về pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa bên
nhượng quyền và bên nhận quyền’.
- Các chuẩn mực thực thi chung đối với bên nhượng quyền và bên nhận quyền được ấn
định bởi pháp luật một vài nước (bang) như các bang của Ca-na-đa, Trung Quốc, Ý, Hàn
Quốc, và Ma-lai-xi-a, bao gồm yêu cầu về ‘buôn bán ngay thẳng’ (Ca-na-đa), ‘buôn bán
ngay thẳng và trung thực’ (Trung Quốc), ‘thiện chí’ (Ý và Hàn Quốc), và ‘kinh doanh
nhượng quyền tốt nhất theo thời gian và khu vực’ (Ma-lai-xi-a). . Ở các nước khác, các
vấn đề này được quy định bởi luật chung
5. Giải quyết tranh chấp
- Rất nhiều nước quy định rằng quy trình giải quyết tranh chấp phải được nêu rõ trong hợp
đồng hoặc bản giới thiệu nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, chỉ một số nước (bang)
như Úc, An-bơ-ta (Ca-na-đa) và Hàn Quốc ấn định thủ tục hòa giải như là yêu cầu tiên
quyết trước khi đưa ra kiện tụng.
- Úc đã rất thành công trong việc sử dụng hoà giải như là một giai đoạn không thể thiếu
của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Hơn 75% tranh chấp được gửi tới Văn phòng cố vấn hoà
giải nhượng quyền thương mại (Văn phòng này thành lập theo Bộ luật thực thi nhượng
quyền thương mại ở Úc (Franchising Code of Conduct in Australia) - được Chính phủ
bảo trợ - để hoà giải và được giải quyết chỉ trong vòng 1 ngày với chi phí rất thấp trong
tương quan so sánh với giải quyết tranh chấp theo kiểu truyền thống.
III. Pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại quốc tế
- Ngày 12/7/1999, Bộ khoa học, công nghệ và môi trường (nay là Bộ khoa học và công
nghệ) của Việt Nam đã ban hành Thông tư số 1254/1999/TT- BKCNMT hướng dẫn Nghị
định của Chính phủ số 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ, trong đó thuật ngữ
‘cấp phép đặc quyền kinh doanh’, nghĩa là ‘nhượng quyền thương mại’ (‘franchise’), , lần
đầu tiên được đề cập trong một văn bản quy phạm pháp luật.
- Tại Thông tư này, mặc dù chưa có định nghĩa nào về nhượng quyền thương mại, nhưng
qua nội dung của mục 4.1.1.a, nhượng quyền thương mại có thể được hiểu là một hợp
đồng chứa đựng các điều khoản liên quan tới việc cấp quyền sử dụng nhãn hiệu gắn liền
với sản phẩm hoặc bí quyết kinh doanh.
- Luật riêng về nhượng quyền thương mại bao gồm Mục 8 Chương VI Luật thương mại
2005 (sau đây gọi tắt là Luật Thương mại), Nghị định của Chính phủ số 35/2006/NĐ- CP
ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương
mại (sau đây gọi tắt là Nghị định 35), Thông tư của Bộ thương mại số 09/2006/TT-BTM
ngày 25/5/2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại (sau đây gọi tắt
là Thông tư 09) và Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính số 106/2008/QĐ-BTC ngày
17/11/2008 về việc quy định mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký hoạt động
nhượng quyền thương mại.
1. Định nghĩa nhượng quyền thương mại
- Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền
cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
i. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
ii. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong
việc điều hành công việc kinh doanh.
(trích trong mục 8, điều 284 luật thương mại)
2. Điều kiện với bên nhượng quyền và bên nhận quyền
Đối với bên nhượng quyền, theo Điều 5 Nghị định 35:
i. Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 01 năm.
Trường hợp thương nhân Việt Nam là Bên nhận quyền sơ cấp từ Bên nhượng quyền nước ngoài,
thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01
năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại
ii. Đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền theo quy định
tại Điều 18 của Nghị định này.
iii. Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại không vi phạm quy định
tại Điều 7 của Nghị định này.

Điều kiện đối với Bên nhận quyền, theo Điều 6


- Thương nhân được phép nhận quyền thương mại khi có đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối
tượng của quyền thương mại.
- Tuy nhiên, căn cứ vào Nghị định 08/2018/NĐ-CP sửa đổi một số nghị định liên quan đến
điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương thì
quy định về điều kiện trên đã bị bãi bỏ
3. Bản giới thiệu thương mại
- Bên nhượng quyền phải cung cấp bản sao hợp đồng nhượng quyền và bản giới thiệu
nhượng quyền thương mại ít nhất 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng nhượng
quyền thương mại, ‘nếu các bên không có thỏa thuận khác’ (khoản 1 Điều 8 Nghị định
35)
- Nghị định 35 quy định Bộ thương mại (nay là Bộ công thương) có trách nhiệm quy định
và công bố các nội dung bắt buộc của bản giới thiệu nhượng quyền thương mại, và các
nội dung này đã được ban hành tại Phụ lục III - Bản giới thiệu về nhượng quyền thương
mại của Thông tư 09.
- Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại phải bao gồm một ‘cảnh báo’ cho bên dự kiến
nhận quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Bên dự kiến nhận quyền đòi hỏi phải có một loạt các
thông tin cụ thể về các chủ đề sau đây:

 Thông tin chung về bên nhượng quyền;

 Nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ và IPRs;

 Chi phí ban đầu mà bên nhận quyền phải trả;

 Các nghĩa vụ tài chính khác của bên nhận quyền;

 Đầu tư ban đầu của bên nhận quyền;

 Nghĩa vụ của bên nhận quyền phải mua hoặc thuê những thiết bị để phù hợp với hệ thống kinh
doanh do bên nhượng quyền quy định; Nghĩa vụ của bên nhượng quyền;

 Mô tả thị trường của hàng hóa/dịch vụ được kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương
mại;

 Hợp đồng nhượng quyền thương mại mẫu;

 Thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại;

 Báo cáo tài chính của bên nhượng quyền;

 Phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc tổ chức cần phải tham gia.

- Nghị định 35 còn yêu cầu bên nhượng quyền phải ‘thông báo ngay cho tất cả các bên
nhận quyền về mọi thay đổi quan trọng trong hệ thống nhượng quyền thương mại làm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại của
bên nhận quyền’ (khoản 2 Điều 8)
- Trong trường hợp nhượng quyền thương mại thứ cấp, bên nhượng quyền thứ cấp phải cung
cấp cho bên nhận quyền thứ cấp không chỉ bản giới thiệu nhượng quyền thương mại mà còn
là thông tin về bên nhượng quyền đã cấp quyền thương mại cho mình, nội dung của ‘hợp
đồng nhượng quyền thương mại tổng thể’ (‘master franchising agreement’), và cách thức xử
lý hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp, trong trường hợp chấm dứt ‘hợp đồng
nhượng quyền thương mại tổng thể’ (khoản 3 Điều 8).
- Nghị định 35 cũng yêu cầu việc tiết lộ thông tin của bên nhận quyền: Bên dự kiến nhận quyền
phải cung cấp cho bên nhượng quyền các thông tin mà bên nhượng quyền yêu cầu một cách
hợp lý để quyết định việc trao quyền thương mại cho bên dự kiến nhận quyền (Điều 9).
4. Hợp đồng nhượng quyền thương mại
- Luật thương mại chỉ quy định hợp đồng nhượng quyền thương mại ‘phải được lập thành
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương’ (Điều 285)
- Một hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế phải đạt được hai mục đích cơ bản:
(1) Các điều khoản của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác để ràng buộc các bên bằng
quan hệ hợp đồng và có thể giải quyết được các vướng mắc nảy sinh trong quá trình
thựchiệnhợpđồng;
(2) Bảo vệ được quyền lợi của các bên và đặc biệt là quyền sở hữu trí tuệ của bên giao quyền
kinh doanh
- Nghị định 35 cũng theo nguyên tắc của Bộ luật dân sự 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006)
(sau đây gọi tắt là Bộ luật dân sự) về quyền tự do thỏa thuận trong hợp đồng để thiết lập các
quyền và nghĩa vụ, với điều kiện là các cam kết đó không trái với pháp luật hoặc trật tự công
cộng. Nghị định 35 chỉ đơn thuần quy định tại Điều 11 rằng hợp đồng nhượng quyền thương
mại có thể có các nội dung chủ yếu sau đây, nếu các bên lựa chọn áp dụng pháp luật Việt
Nam:

 Nội dung của quyền thương mại;

 Quyền, nghĩa vụ của bên nhượng quyền;

 Quyền, nghĩa vụ của bên nhận quyền;

 Giá cả, phí nhượng quyền định kì và phương thức thanh toán;

 Thời hạn hiệu lực của hợp đồng;

 Gia hạn, chấm dứt hợp đồng;

 Giải quyết tranh chấp.

- Thời hạn của hợp đồng nhượng quyền thương mại do các bên thỏa thuận (Điều 13 Nghị định
35) và hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
(Điều 14 Nghị định 35).
- Nếu bên nhượng quyền chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng IPs cùng với các nội dung
của quyền thương mại, thì việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng IPs đó có thể lập
thành một phần riêng trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Việc chuyển giao IPRs
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại phải phù hợp với pháp luật về IP của Việt Nam
(Điều 10 Nghị định 35).
5. Đăng kí nhượng quyền và báo cáo
- Theo Luật thương mại, trước khi nhượng quyền, ‘bên dự kiến nhượng quyền phải đăng ký với
Bộ thương mại’ (nay là Bộ công thương), và Chính phủ sẽ quy định chi tiết ‘điều kiện kinh
doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại và trình tự, thủ tục đăng ký nhượng
quyền thương mại’ (Điều 291). Việc đăng ký cũng được quy định tại Nghị định 35, theo đó
các hoạt động nhượng quyền thương mại - chứ không phải bên dự kiến nhượng quyền - phải
được đăng ký (Điều 17). Chi tiết về việc đăng ký nhượng quyền thương mại được quy định
tại Thông tư 09. Bên nhượng quyền chỉ phải đăng ký một lần thay vì từng lần một cho từng
hợp đồng nhượng quyền thương mại.
- Bộ thương mại (nay là Bộ công thương) chịu trách nhiệm thực hiện việc đăng ký hoạt động
nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài

You might also like