You are on page 1of 23

Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật

TPHCM


BÀI TIỂU LUẬN HK1 MÔN : PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Tên đề tài : Thực trạng vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông
đường bộ ở nước ta

Họ và tên học viên: Nguyễn Phạm Duy Thọ MSSV: 23149140

Lớp: CLC3B Khóa 2023-2027

Ngành: CNKT Công Trình Xây dựng

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN


TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ...........................................................................2

1.1. Khái niệm vi phạm an toàn giao thông................................................................2

1.2. Khái niệm vi phạm hình sự về bảo đảm trật tự an toàn giao thông..................3

1.3. Dấu hiệu vi phạm an toàn giao thông...................................................................5

1.3.1. Hành vi của con người gồm hành vi hành động và hành vi không hành động
.........................................................................................................................................5

1.3.2. Hành vi trái quy định của pháp luật giao thông...............................................5

1.3.3. Hành vi có chứa đựng lỗi của chủ thể...............................................................5

1.3.4. Là hành vi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.................5

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN


TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở VIỆT NAM.................................................6

2.1. Thực trạng vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt
Nam hiện nay.................................................................................................................6

2.1.1. Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao
thông đường bộ trên cả nước hiện nay........................................................................6

2.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao
thông đường bộ của người tham gia giao thông.........................................................7

2.2. Đánh giá..................................................................................................................8

2.2.1. Những kết quả đã đạt được................................................................................8

2.2.2. Khó khăn..............................................................................................................9

2.3. Nguyên nhân vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt
Nam...............................................................................................................................11

2.3.1. Nguyên nhân khách quan.................................................................................11

2.3.1.1. Về công trình giao thông................................................................................11

2.3.1.2.Về phương tiện giao thông..............................................................................12


2.3.2. Nguyên nhân chủ quan.....................................................................................12

2.3.2.1. Ý thức của người tham gia giao thông quá kém..........................................12

2.3.2.2. Quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm...................................13

2.4. Một số giải pháp nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay........................................................................13

2.4.1. Củng cố và nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp.........................13

2.4.2. Xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, phát triển
phương tiện giao thông vận tải...................................................................................14

2.4.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về trật tự an toàn giao thông.......................14

2.4.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về trật tự an toàn giao thông....14

2.4.5. Xử lí nghiêm minh các vi phạm về trật tự an toàn giao thông......................15

CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY..............................17

3.1. Thực trạng học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông.............................................................................................................................17

3.2. Trách nhiệm của học sinh, sinh viên trong phòng, chống vi phạm trật tự, an
toàn giao thông ở Việt Nam hiện nay........................................................................18

PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................................20

DANH MỤC THAM KHẢO......................................................................................21

PHẦN MỞ ĐẦU
Vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông
đường bộ nói riêng có tác hại rất lớn về nhiều mặt nên Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ cho thực hiện trật
tự an toàn giao thông đường bộ.
Ngày nay, tình hình vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
vẫn còn diễn ra khá phổ biển, ý thức của người tham gia giao thông chưa thực sự tự
giác, còn hiện tượng đối phó, thậm chí có hành vi chống đối người thi hành công vụ,
tình trạng vi phạm: Điều khiển phương tiện vi phạm tốc độ, tránh, vượt không đúng
quy định, phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật, lái xe sau khi sử dụng rượu bia
vẫn điêu khiển phương tiện; đi mô tô,...vẫn diễn ra ở nhiều nơi; kết quả kiềm chế và
làm giảm tai nạn giao thông chưa vững chắc, số người chết và bị thương do tai nạn
giao thông còn cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông.
Bên cạnh đó, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành
luật giao thông còn chậm. Một số quy định của Luật Giao thông đường bộ chưa phù
hợp; tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, công chức làm công tác phòng, chống vi phạm
pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ còn thiếu và yếu; công tác phổ biến
giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ còn hình thức, chưa thực sự
hiệu quả; công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chưa thực sự phòng, chống được vi
phạm; hạ tầng giao thông đường bộ và trang thiết bị giao thông đường bộ của tỉnh
chưa được quan tâm, đầu tư hiện đại, đồng bộ.
Từ những lý do trên, nhất là trong điều kiện phải bảo đảm tính mạng, sức khỏe
con người, bảo đảm kỷ cương nhằm phát triển kinh tế, ổn định xã hội thì cần thiết phải
có những nghiên cứu, đánh giá và giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi và phòng, chống vi
phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam. Đây cũng chính là
lý do khiến nhóm chúng tôi lựa chọn đề tài “Thực trạng vi phạm pháp luật về trật
tự an toàn giao thông đường bộ ở nước ta”.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN
TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái niệm vi phạm an toàn giao thông
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Vi phạm
pháp luật được cấu thành bởi mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể vi
phạm pháp luật.
"Giao thông" theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là “ việc đi lại từ nơi này đến nơi
khác của người và phương tiện chuyên chở”. Giao thông đường bộ là một loại hình
giao thông vận tải, “Đường bộ” gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà
đường bộ. Hạ tầng giao thông đường bộ là những công trình phục vụ cho việc đi lại
của người dân trên bộ, cũng như phục vụ cho việc giao lưu kinh tế. Có 2 loại hạ tầng
giao thông đường bộ:1
- Hạ tầng giao thông tĩnh: bến xe, nhà chờ xe bus, bãi đậu xe…
- Hạ tầng giao thông động: cầu, cầu vượt, nút giao thông..
Đường giao thông là công trình hạ tầng kỹ thuật có chức năng liên kết về mặt
giao thông giữa các địa điểm với nhau, phục vụ cho việc đi lại, vận chuyển, là huyết
mạch của ngành kinh tế.
Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ là những hành vi trái
pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện trong lĩnh vực
giao thông đường bộ.2
1.2. Khái niệm vi phạm hình sự về bảo đảm trật tự an toàn giao thông
Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 quy định về tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng
tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

1
Nguyễn Thủy Anh (2003), "Đổi mới quản lý nhà nước về giao thông công cộng trong đô thị lớn ở nước ta",
Quản lý nhà nước.
2
Hoàng Đình Ban (2004) "Luật Giao thông đường bộ sau hai năm nhìn lại", Giao thông vận tải”.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ
cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích
mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp
người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao
thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng
tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng
tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ
31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm.
5. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế
dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu
không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.3
1.3. Dấu hiệu vi phạm an toàn giao thông
1.3.1. Hành vi của con người gồm hành vi hành động và hành vi không hành
động
Tức là họ có thể thực hiện các hành vi pháp luật giao thông cấm.
Không thực hiện các yêu cầu, nghĩa vụ khi tham gia giao thông.
1.3.2. Hành vi trái quy định của pháp luật giao thông
Các hành vi này xâm phạm đến trật tự ổn định và an toàn giao thông của các
phương tiện, chủ thể khác.
Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ làm không đúng điều pháp luật
cho phép. Ngược lại không làm hoặc làm không đầy đủ điều pháp luật bắt buộc phải
làm hoặc làm điều mà pháp luật cấm; Qua đó không tuân thủ các quy định đặt ra trong
các văn bản pháp luật.
1.3.3. Hành vi có chứa đựng lỗi của chủ thể
Lỗi là trạng thái tâm lí thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi của
mình ở thời điểm chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật; Khi đó, chủ thể đang không
tuân thủ quy định, trách nhiệm cần có của người tham gia giao thông bằng phương tiện
tương ứng.
1.3.4. Là hành vi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện
Hành vi đó phải được thực hiện bởi chủ thể đủ độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí
theo luật định.
Các chủ thể này không mắc các bệnh tâm thần.
Họ hoàn toàn có khả năng nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và hậu quả pháp lí của nó.

3
Nguyễn Huy Bằng (2001), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước
ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Do đó họ phải chịu các trách nhiệm tương ứng với lỗi vi phạm của mình.4
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN
TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt
Nam hiện nay
2.1.1. Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao
thông đường bộ trên cả nước hiện nay
Thời gian qua, tất cả các địa phương ra quân triển khai mạnh mẽ an toàn giao
thông (ATGT) nhưng tình hình trật tự an toàn giao thông (TTATGT) trên địa bàn cả
nước vẫn diễn biến rất phức tạp.
Ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông tuy đã có chuyển
biến do tác động mạnh mẽ của các chiến dịch truyền thông và cưỡng chế nhưng còn
một bộ phận người tham gia giao thông chưa thực sự tự giác chấp hành pháp luật
ATGT. 85,5% số vụ TNGT do lỗi của người tham gia giao thông gây ra. Những lỗi vi
phạm chủ yếu như vi phạm tốc độ quy định, đi không đúng làn đường, phần đường,
chở quá số người quy định, điều khiển phương tiện khi đã sử dụng rượu bia, vượt qua
đường ngang đường sắt sai quy định.
Hạ tầng giao thông tuy đã được đầu tư cải tạo nâng cấp nhưng chưa tương xứng
với sự gia tăng nhanh của phương tiện giao thông, vi phạm hành lang an toàn đường
bộ và đường sắt vẫn diễn biến phức tạp ở một số tuyến đường bộ, các điểm giao cắt
đường bộ với đường sắt, số đường ngang dân sinh mở trái phép bị đóng lại ít hơn số vi
phạm mới.
Trong năm 2022, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về trật tự
ATGT ngày càng được chú trọng, quan tâm đúng mức. Thực hiện Luật GTĐB 2008,
theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT và Bộ Công an đã tích cực xây dựng văn bản
hướng dẫn thi hành Luật, đồng thời nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có nhiều đổi mới. Các cơ
quan truyền thông như phát thanh, truyền hình và các báo ở trung ương và địa phương

4
Bộ Giao thông Vận tải (1995), Cơ chế phát triển giao thông vận tải, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội
Bộ Giao thông Vận tải (1999), Đề án tăng cường bảo đảm trật an toàn giao thông giai đoạn 1999-2005, Hà Nội
đã tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trật tự ATGT, trọng tâm là Luật GTĐB
5
năm 2008 và "Văn hóa giao thông".
Đã kiểm tra xử lý 5,8 triệu trường hợp vi phạm Luật giao thông đường bộ
(GTĐB); thu nộp Kho bạc Nhà nước 1.342 tỷ đồng, số vi phạm bị xử lý tăng 158.444
trường hợp, số tiền phạt tăng 117 tỷ đồng so với năm 2008. Trong đó đã xử lý 185.586
xe ôtô khách vi phạm; xử lý 526.510 trường hợp không đội mũ bảo hiểm khi đi môtô,
xe gắn máy. Lực lượng Cảnh sát giao thông đường thủy mở 4 đợt cao điểm bảo đảm
TTATGT trên đường thủy, đã phát hiện xử lý 222.821 trường hợp vi phạm, nộp Kho
bạc Nhà nước 105,2 tỷ đồng, tước bằng 1.128 trường hợp, đình chỉ hoạt động 1.128
phương tiện.
2.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao
thông đường bộ của người tham gia giao thông
Người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới thường chạy quá tốc độ cho
phép, tránh, vượt, chuyển hướng không đúng quy định, đi chiếm phần đường, làn
đường; sử dụng rượu, bia, chất kích thích quá nồng độ; phương tiện không đảm bảo an
toàn chở quá số người quy định, đặc biệt là các tuyến xe khách chạy liên tỉnh, chở
hàng quá trọng tải; không chấp hành tín hiệu đèn, dừng đỗ không đúng nơi quy định
thường xuyên xảy ra; đi vào đường cấm, đường một chiều, người điều khiển và người
ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm là lỗi xảy ra chủ yếu của người
tham gia giao thông trong thời gian qua trên cả nước.
Đối với người đi bộ, người điều khiển xe thô sơ các lỗi vi phạm chủ yếu là đi
không đúng phần đường quy định, không chấp hành tín hiệu đèn, đi vào đường cấm,
chở hàng cồng kềnh, chuyển hướng không báo trước, chạy sang đường, trèo qua giải
phân cách, đi bộ dưới lòng đường… Lỗi vi phạm về chở hàng cồng kềnh chiếm đa số
thường xuyên xảy ra đối với người tham gia giao thông sử dụng các phương tiện, xích
lô, xe thồ, xe kéo làm phương tiện vận chuyển. Đối với lỗi không đi đúng phần đường
và đi vào phần đường cấm chủ yếu xảy ra đối với phương tiện thô sơ và xe đạp.
Những đối tượng vi phạm nhiều nhất đó là học sinh phổ thông, một số lao động tự do.

5
Dương Quốc Hoàng (2005), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực giao thông đường bộ ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật (2006), Tài liệu học tập và nghiên cứu
môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Nhân dân sinh sống dọc theo các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ tổ chức buôn bán kinh
doanh hai bên đường là chủ yếu. Phần lớn những đối tượng này ý thức chấp hành pháp
luật giao thông là kém, lỗi vi phạm chủ yếu là lấn chiếm hành lang ATGT làm nơi
kinh doanh buôn bán. Một số đối tượng dựng lều quán trái phép, dựng biển quảng cáo
lấn chiếm lòng đường hè đường, dựng mái che sai quy định che khuất tầm nhìn của
các phương tiện tham gia giao thông.
Những đối tượng này các hành vi vi phạm kéo dài thường xuyên gây khó khăn
cho lực lượng thanh tra kiểm tra làm nhiệm vụ, sau mỗi đợt kiểm tra họ lại tái phạm.
Tình hình trật tự ATGT đường bộ diễn biến phức tạp, trên địa bàn tỉnh số vụ TNGT
đường bộ không giảm, số người chết và bị thương vẫn tăng so với cùng kỳ năm 2021.
Cụ thể:
- Số vụ TNGT đường bộ: 204 vụ, tăng 05 vụ (2,5%) so với năm 2020.
- Số người chết: 217 người, tăng 20 người (10,15%) so với năm 2020.
- Số bị thương: 139 người, tăng 02 người (1,56%) so với năm 2020.
- Va chạm giao thông xảy ra 987 vụ, bị thương 1.324 người, làm hư hỏng 1.201
xe mô tô, 168 xe ô tô và 71 phương tiện khác.
Trên các tuyến quốc lộ: xảy ra 129 vụ, chiếm tỷ lệ 63,32% (riêng quốc lộ 3 xảy
ra 87 vụ chiếm tỷ lệ 42,64%). Như vậy số vụ vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ xảy ra chủ yếu trên các tuyến quốc lộ nơi có nhiều phương tiện tham
gia giao thông. 6
2.2. Đánh giá
2.2.1. Những kết quả đã đạt được
Thứ nhất, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB đã được
cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan, đơn vị, tổ chức,
đoàn thể trên địa bàn tỉnh quan tâm, chỉ đạo thực hiện.
Thứ hai, nội dung thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB
quan trọng là công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về GTĐB từng bước được đẩy
6
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật (2009), Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật, NXb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
Nguyễn Thị Hồi (2009) Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb tư pháp,
Hà Nội.
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội;
Trần Văn Luyện, Trần Sơn và Nguyễn Văn Chính (Đồng chủ biên), Trật tự an toàn giao thông đường bộ - Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
mạnh, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh
viên và các tầng lớp nhân dân về pháp luật GTĐB; vận động mọi người tích cực tham
gia nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về giao thông. Nâng cao ý thức
trách nhiệm của từng gia đình trong quản lý con, em, bạn bè, người thân không vi
phạm pháp luật GTĐB. Vì vậy đã góp phần làm giảm số người chết và bị thương vì
TNGT trên địa bàn qua từng năm; kiềm chế được sự gia tăng số vụ TNGT.
Thứ ba, Công an tỉnh và Ban ATGT tỉnh đã chủ động làm tốt công tác tham
mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp; các sở,
ban, ngành đoàn thể của tỉnh triển khai thực hiện có hiệu quả các Đề án về ATGT.
Thứ tư, thực hiện pháp luật trong công tác xử phạt hành chính trong lĩnh vực
GTĐB đã đạt được nhiều kết quả, các giải pháp giảm thiểu TNGT và hành vi vi phạm
GTĐB đã được triển khai thực hiện khá quyết liệt và đồng bộ. Lực lượng chuyên trách
về ATGT đã tập trung làm tốt công tác đảm bảo trật tự ATGT.
Thứ năm, bên cạnh việc tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân khi tham
gia giao thông thì thực hiện pháp luật về công tác tuần tra, kiểm soát, xử lí vi phạm về
trật tự ATGTĐB đã được các ngành chức năng của tỉnh quan tâm chỉ đạo.
Thứ sáu, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB trong
học sinh, sinh viên đã được quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, các trường học
và sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể, gia đình và toàn xã hội, vì vậy đến
nay tình trạng học sinh, sinh viên vi phạm giao thông đã giảm thiểu đáng kể
2.2.2. Khó khăn
Một là, nhiều quy định của Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chưa phù hợp
và còn bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện như thiếu các khái niệm liên quan đến
an toàn giao thông; Không quy định hoặc quy định không cụ thể, không đầy đủ về các
nội dung như độ tuổi người điều khiển xe đạp điện, xe máy điện; quy tắc ưu tiên “rẽ
phải - đi thẳng - rẽ trái”; dừng, đỗ xe; cấm lùi xe trên đường một chiều hoặc đường đặt
biển cấm đi ngược chiều; nhường đường cho các xe đi cùng chiều phía sau, khi chuyển
hướng… Đối với đường cao tốc, không có tốc độ giới hạn tối đa cho từng loại phương
tiện, nên nhiều xe trọng tải lớn chạy với tốc độ cao gây nguy cơ mất an toàn giao
thông.
Hai là, kết quả kiềm chế và làm giảm tai nạn giao thông chưa vững chắc, số
người chết và bị thương do tai nạn giao thông vẫn cao, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia
tăng tai nạn giao thông, trong đó có rất nhiều vụ tai nạn giao thông thảm khốc làm
thương vong nhiều người.
Ba là, các hành vi vi phạm về trật tự an toàn giao thông vẫn diễn ra phổ biến,
người tham gia giao thông chưa thực sự tự giác, còn hiện tượng đối phó, thậm chí
chống đối người thi hành công vụ...
Bốn là, công tác quản lý an toàn người điều khiển phương tiện chưa quy định
cụ thể và chặt chẽ về điều kiện sức khỏe, độ tuổi, loại giấy phép lái xe; về tổ chức đào
tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe; quản lý cấp mới, cấp lại, cấp đổi giấy phép lái xe…
Năm là, công tác quản lý về an toàn của phương tiện còn hạn chế. Cụ thể, Điều
54 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 giao nhiệm vụ cho Bộ Công an thực hiện cấp,
thu hồi đăng ký, biển số các loại xe cơ giới, Bộ Quốc phòng thực hiện cấp, thu hồi
đăng ký, biển số các loại xe cơ giới của quân đội sử dụng vào mục đích quốc phòng.
Tuy nhiên, Điều 55 và Điều 57 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 lại giao nhiệm vụ
cho Bộ Giao thông vận tải thực hiện công tác kiểm định an toàn kỹ thuật của các loại
phương tiện và thực hiện việc cấp, thu hồi đăng ký, biển số các loại xe máy chuyên
dùng.
Sáu là, các biện pháp tổ chức giao thông an toàn, giải quyết tai nạn giao thông,
thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm còn chung chung, sơ sài, phải ban
hành nhiều văn bản dưới luật để thực hiện.
Bảy là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn
giao thông tuy đã được quan tâm thực hiện, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thực tế; các
ngành, các cấp đã tham gia thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền nhưng chưa thường
xuyên, liên tục.
Tám là, việc ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại được trong công tác bảo
đảm trật tự an toàn giao thông còn hạn chế; thiếu các quy định cụ thể và chặt chẽ về
việc đầu tư, lắp đặt, quản lý, khai thác, vận hành, sử dụng hệ thống giám sát về trật tự
an toàn giao thông, ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác chỉ huy điều khiển giao
thông, phát hiện và xử lý các vi phạm về trật tự an toàn giao thông cũng như các vấn
đề về an ninh, trật tự diễn ra trên các tuyến giao thông đường bộ.
Chín là, ý thức tự giác chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông của
người tham gia giao thông chưa cao, vi phạm quy định, quy tắc giao thông còn nhiều,
phổ biến là các lỗi: chạy quá tốc độ quy định, chở quá số người cho phép đi sai làn
đường, lấn đường, uống rượu bia quá mức cho phép, vượt đèn đỏ… Đây là nguyên
nhân trực tiếp gây ra phần lớn các vụ trật tự an toàn giao thông đường bộ.
Mười là, sự bất cập, không hợp lý của bản thân các quy định pháp luật dẫn đến
khó thực hiện pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ. Hiện nay các
quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường bộ có khá nhiều các điều khoản
chưa hợp lý dẫn đến việc khó thực hiện trong thực tế.
2.3. Nguyên nhân vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt
Nam
Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ đang diễn ra phổ biến và
có xu hướng ngày càng tăng. Một số vi phạm phổ biến nhất là:
- Sử dụng lòng lề đường trái phép (vi phạm khoản 3, Điều 8 Luật Giao thông
đường bộ; Điều 20 Pháp lệnh Bảo vệ công trình giao thông) để họp chợ trái
phép, phơi rơm rạ…
- Điều khiển xe không giấy phép, đưa phương tiện không đủ điều kiện an toàn
vào hoạt động (vi phạm khoản 9, Điều 8 Luật Giao thông đường bộ).
- Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định, sử dụng rượu bia quá nồng độ cho
phép, đi vào đường ngược chiều, vượt đèn đỏ…( vi phạm khoản 8, khoản 10,
Điều 8 Luật Giao thông đường bộ; ).
- Sử dụng điện thoại trong khi điều khiển xe mô tô, gây tai nạn rồi bỏ trốn (vi
phạm khoản 17, Điều 8 Luật Giao thông đường bộ).
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
2.3.1.1. Về công trình giao thông
Một thực tế ở Việt Nam hiện nay là tình trạng quy hoạch giao thông chưa đồng
bộ, hệ thống đường bộ của chúng ta chưa đạt tiêu chuẩn kỹ thuật,như độ nghiêng, độ
bám dính mặt đường, độ phẳng, tầm nhìn….. chưa đảm bảo, đường của chúng ta do sử
dụng nhựa, đá dăm không đảm bảo tiêu chuẩn nên mặt đường luôn quá nhẵn, trơn
trượt do vậy phương tiện dễ bị trượt khi trời mưa hoặc không an toàn khi phanh, Hệ
thống đèn tín hiệu cảnh báo chỉ dẫn không được thiết kế thi công đồng bộ, nên hầu hết
các tuyến đường không có biển báo, đèn báo, đèn chỉ dẫn giao thông đây cũng là
nguyên nhân làm ùn tắc giao thông ở các chỗ đường giao nhau, gây ra vi phạm và gây
ra tai nạn giao thông.
Việc lấn chiếm vỉa hè, lòng đường để bán hàng của một số đông người bán lẻ,
chủ yếu là người bán hàng rong, hàng ăn uống, phụ huynh chờ đón con trước cổng các
trường học, xe ôm, bến trông giữ phương tiện giao thông tự phát.
2.3.1.2.Về phương tiện giao thông
Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ (gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và
các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) và phương tiện giao
thông thô sơ đường bộ (gồm các loại xe không di chuyển bằng sức động cơ như xe
đạp, xe xích lô, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự).; sử dụng phương tiện giao
thông không an toàn, xe hết niên hạn sử dụng…Các loại xe ba bánh tự chế thường
được "người nghèo và các đối tượng xã hội" sử dụng bừa bãi, bất chấp luật pháp và
gây hại cho cộng đồng, môi trường và xã hội.7
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
2.3.2.1. Ý thức của người tham gia giao thông quá kém
Ý thức pháp luật của người tham gia giao thông thể hiện ở cả nhận thức pháp
luật và tâm lí pháp luật, trong đó nổi lên rõ hơn cả là tâm lý, đó là thói quen lạc hậu
của số đông những người tham gia giao thông, thái độ coi thường pháp luật của họ.
Nhiều người tham gia giao thông vẫn chỉ quan tâm đến việc “đường này có đi
được không” chứ không hề quan tâm đến việc “đường này có được đi không”, thế nên
cứ thấy bất cứ chỗ trống nào là lại chen lên, cố đi vào bất kể phải trái, trên dưới. Tâm
lí thói quen lạc hậu biểu hiện chủ yếu ở người đi bộ và người điều khiển xe thô sơ.
Nhiều người đi bộ thản nhiên rẽ trái rẽ phải, sang đường tùy tiện, thản nhiên đi vào
đường cấm, vượt đèn đỏ… có một nghịch lí đang tồn tại là người đi xe đạp phải
nhường người đi bộ, người đi xe cơ giới phải nhường xe thô sơ…trái hẳn với nguyên
tắc đi đường theo luật giao thông.

7
Ngọc Diễm:” Thực trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông tại các chợ tự phát”, Công an tỉnh Tiền Giang,
https://congan.tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?/thuc-trang-vi-pham-trat-tu-an-toan-giao-thong-tai-cac-cho-tu-phat/
35225921
Đối với những người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, không ít người có thói
quen uống rượu bia ngay cả khi điều khiển xe, nồng độ cồn cao quá mức cho phép hết
sức nguy hiểm khi tham gia giao thông. Ở dịch vụ “xe ôm” còn xuất hiện hiện tượng
tranh giành khách, chở ba, thậm chí bốn hành khách, chở hàng cồng kềnh… Một bộ
phận thanh niên ý thức kém tuổi , mới lớn, thích thể hiện mình nên tham gia tổ chức
các vụ đua xe, lạng lách đánh võng ở các thành phố lớn. Một số người vì quyền lợi cá
nhân mà bất chấp tính mạng của người khác rải đinh trên đường gây những hậu quả
khôn lường. Hiện tượng mua bằng xảy ra phổ biến, nhiều chủ phương tiện không thực
hiện kiểm tra độ an toàn cho phương tiện của mình.
2.3.2.2. Quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm
Chiến lược quy hoạch phát triển giao thông còn chưa phù hợp, chậm đổi mới,
kết cấu vận tải giao thông đường bộ còn nhiều yếu kém, bất cập. Việc phát triển quá
nhanh các phương tiện giao thông cơ giới, đặc biệt là mô tô, xe máy, nhất là ở các đô
thị đã gây nên nhiều hậu quả phức tạp về trật tự an toàn giao thông.
Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giao thông đường bộ.
Trật tự kỉ cương giao thông bị buông lỏng quản lí trong lúc tai nạn giao thông
liên tục tăng và hiện tượng VPPL ngày càng phổ biến.
Chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm, chưa kiên quyết thực hiện các
biện pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Đội ngũ cán bộ công chức trong ngành còn nhiều tiêu cực, thiếu sót trong xử lí
sai phạm về trật tự an toàn giao thông, trong lĩnh vực sát hạch giấy phép lái xe, kiểm
định phương tiện cơ giới làm giảm sút uy tín trong nhân dân.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa tốt, chưa hiệu quả nên
chưa phát huy được sức mạnh của toàn xã hội trong đảm bảo an toàn giao thông.
2.4. Một số giải pháp nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay
2.4.1. Củng cố và nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp
Xây dựng chính sách phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, đánh giá đúng
vai trò của vấn đề phát triển giao thông và trật tự an toàn giao thông.
Tổ chức công tác đảm bảo an toàn giao thông một cách đồng bộ từ trên xuống,
từ Trung ương đến địa phương.
Quản lí tốt hoạt động của các trung tâm đào tạo lái xe, sát hạch bằng lái.
Tuyên truyền bằng nhiều hình thức, chú ý đến phương tiện truyền thông phát
thanh ở phường xã.
Quản lí tốt các đoạn đường, quốc lộ mà địa phương quản lí, cấm lấn chiếm
hành lang lề đường, bảo vệ công trình giao thông.
2.4.2. Xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, phát triển
phương tiện giao thông vận tải.
Quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông phải căn cứ vào chiến lược, uy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và phục vụ nhu cầu đi lại của người
dân. Đối với các đô thị cần quan tâm đồng bộ với quy hoạch các công trình kĩ thuật hạ
tầng khác. Quỹ đất dành cho xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông phải đảm bảo tỉ lệ
thích hợp, đáp ứng yêu cầu giao thông lâu dài.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án xây dựng hạ tầng giao thông, nâng cao
tỷ lệ diện tích dành cho giao thông. Huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, tận dụng
nguồn vốn nhàn rỗi của nhân dân bằng hình thức phát hành trái phiếu và cổ phiếu.
Tiến hành thu phí lưu thông, để đầu tư ngược lại cho hạ tầng giao thông. Áp dụng
nhiều phương thức thực hiện các dự án giao thông khác nhau. Hạn chế phương tiện
giao thông cá nhân, nâng cao chất lượng và tỷ lệ sử dụng giao thông công cộng.
Về phương tiện giao thông, phải nghiên cứu tổng thể xác định phương tiện giao
thông chủ lực ở từng vùng, miền, các đô thị theo hướng tăng phương tiện công cộng,
giảm phương tiện cá nhân, nhất là ở các thành phố lớn.
2.4.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về trật tự an toàn giao thông
Hiến pháp 1992 đã ghi rõ: “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Muốn quản lí bằng pháp luật thì trước hết phải
có luật pháp. Luật pháp phải đúng và đủ. Tuy vậy, hệ thống Luật pháp về đảm bảo trật
tự an toàn giao thông vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu phù hợp và tính pháp lí vẫn chưa
cao. Ví dụ: một số quy định cụ thể như quy định về xe đạp, xe máy; về việc đăng kí
mỗi người một xe, tạm giữ xe… cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần sớm được nghiên cứu
bổ sung hợp lí.
2.4.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về trật tự an toàn giao thông
Điều 7 Luật Giao thông đường bộ quy định về việc tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về giao thông đường bộ như sau:
1. Cơ quan thông tin, tuyên truyền có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về giao thông đường bộ thường xuyên, rộng rãi đến toàn dân.
2. Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ
tại địa phương, có hình thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp đến đồng bào các dân tộc
thiểu số.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa pháp
luật về giao thông đường bộ vào chương trình giảng dạy trong nhà trường và các cơ sở
giáo dục khác phù hợp với từng ngành học, cấp học.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện pháp luật về giao thông đường bộ.
5. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về giao thông đường bộ cho cán bộ, chiến sĩ, công chức, viên chức, người
lao động khác thuộc thẩm quyền quản lý.
Thành viên trong gia đình có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, nhắc nhở
thành viên khác chấp hành pháp luật về giao thông đường bộ.
2.4.5. Xử lí nghiêm minh các vi phạm về trật tự an toàn giao thông
Nâng cao ý thức tham gia giao thông của người dân bằng cách tích cực tuyên
truyền luật giao thông, xử phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm. Đưa việc dạy học
luật giao thông thành giáo trình bắt buộc cho học sinh sinh viên.
Trừng trị nghiêm khắc các chủ thể có hành vi vi phạm ( ví dụ tước một số
quyền tự do đối với người vi phạm trật tự an toàn giao thông mang tính hình sự hoặc
phạt tiền đối với vi phạm có tính hành chính)
Khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm gây ra (ví dụ giải tỏa
lề đường, vỉa hè, hành lang bảo vệ an toàn giao thông bị lấn chiếm).
Giáo dục trực tiếp đối với người vi phạm
Giáo dục chung: xử lí vi phạm trật tự an toàn giao thông thường xảy ra trước
mắt nhiều người. Nếu làm đúng sẽ có tác dụng giáo dục chung.
Đặc biệt, đối với đối tượng là học sinh, sinh viên, công tác giáo dục pháp luật
nhằm giảm thiểu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ là điều hết sức
quan trọng và cần thiết.8
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY
3.1. Thực trạng học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông
Tại nhiều trường phổ thông trên địa bàn thành phố, tình trạng học sinh vi phạm
Luật giao thông diễn ra khá phổ biến như không đội không đội mũ bảo hiểm, tụ tập đi
hàng hai, hàng ba, lạng lách đánh võng trên đường. Trong số đó có nhiều em đi xe
máy đến trường, hầu hết đều chưa có bằng lái xe, chưa đủ tuổi sử dụng phương tiện
tham gia giao thông. Thực trạng này rất đáng lo ngại, là một trong những nguyên nhân
chủ yếu khiến cho tai nạn giao thông trong học sinh tăng cao.
Việc vi phạm khi tham gia giao thông của học sinh trước hết do các em chưa có
ý thức tốt chấp hành pháp luật về giao thông, chưa nhận thức hết những nguy hiểm khi
tham gia giao thông. Trên thực tế, hiện nay rất nhiều trường hợp gia đình học sinh
không có người đưa đón, không thuận tiện trong việc sử dụng các phương tiện giao
thông công cộng. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế một số gia đình khá giả, nên họ chọn
phương án mua xe máy cho con đi học, đó là chưa kể đến việc nhiều học sinh muốn có
xe máy để “bằng anh, bằng em”.
Nhiều phụ huynh mua xe 50 phân khối cho con đi học vì cơ quan chức năng
cho phép, mặc dù là xe phân khối nhỏ, nhưng tốc độ cũng khá cao, trong khi đó, các
em thiếu kỹ năng lái xe, thiếu kinh nghiệm phán đoán và xử lý tình huống dẫn đến
những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Học sinh đi xe phân khối lớn do đặc điểm tâm
lý tuổi mới lớn, háo thắng, muốn chứng tỏ, một số học sinh còn đi độ xe, rồi đua xe,
mà không biết mình đang vi phạm pháp luật. Học sinh đi xe phân khối lớn gửi xe gắn
máy bên ngoài, nên nhà trường cũng không thể can thiệp được. Một số trường hợp,

8
Thu Trung:” Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Tri thức Xanh, https://trithucxanh.vn/post/vai-tro-cua-phap-luat-trong-viec-bao-dam-trat-tu-an-
toan-giao-thong-duong-bo-o-viet-nam-hien-nay
học sinh bị lực lượng cảnh sát giao thông lập biên bản xử lý, thì phụ huynh lại đến
đóng phạt ngay.
Theo quy định của Luật Giao thông đường bộ, người đủ từ 16 tuổi trở lên được
phép điều khiển xe gắn máy dưới 50cc (bao gồm xe máy điện) mà không cần có giấy
phép lái xe. Do đó, mấy năm gần đây, nhiều gia đình đã trang bị cho con, em mình
những chiếc xe máy phân khối nhỏ (dưới 50cc) làm phương tiện để tới trường. Tuy
phân khối nhỏ nhưng tốc độ có thể đạt tới tối đa 60km/h, mỗi khi xuất hiện trên đường
đều dễ khiến người dân bất an bởi đây là loại phương tiện không yêu cầu người điều
khiển phải có bằng lái, nên phần lớn người đi xe đều là các thiếu niên chưa hiểu hết
luật giao thông, ý thức tham gia giao thông chưa cao vì vậy nguy cơ tiềm ẩn mất an
toàn giao thông là rất lớn.
Được biết năm nào cũng vậy, cứ vào đầu năm học mới, các nhà trường đều tổ
chức thực hiện ký cam kết chấp hành luật giao thông đối với các bậc phụ huynh và học
sinh, trong đó có việc không giao xe máy cho học sinh đến trường khi không đủ tuổi.
Thực hiện lồng ghép kiến thức pháp luật an toàn giao thông vào các tiết học, các buổi
ngoại khóa để tổ chức tuyên truyền cho học sinh. Thế nhưng, ra khỏi cổng trường tình
trạng học sinh vi phạm vẫn diễn ra phổ biến. Đây cũng đang là bài toán khó cho các
nhà trường trong việc quản lý vấn đề an toàn giao thông cho các em học sinh.
Bên cạnh đó, việc xử lý học sinh vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông
lại rất đơn giản, hầu hết các trường hợp vi phạm mới chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở,
hoặc nếu có thông báo gửi về trường thì nặng nhất cũng chỉ bị phê bình trước lớp.
Thậm chí, khi bị bắt lỗi, chính các bậc phụ huynh lại gây khó dễ cho lực lượng chức
năng, khiến công tác xử lý học sinh vi phạm giao thông chưa đạt hiệu quả cao. Chính
vì vậy, công tác quản lý và nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo đảm an toàn giao thông
cho học sinh cần phải được các nhà trường, phụ huynh và cơ quan chức năng thực hiện
quyết liệt hơn.9

9
Nhã Mai – Mạnh Tuấn:” Thực trạng học sinh vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông”, Truyền hình
Thanh Hóa, https://truyenhinhthanhhoa.vn/thuc-trang-hoc-sinh-vi-pham-phap-luat-ve-trat-tu-an-toan-giao-thong-
180220923210028257.htm
3.2. Trách nhiệm của học sinh, sinh viên trong phòng, chống vi phạm trật tự, an
toàn giao thông ở Việt Nam hiện nay
Là một người tham gia giao thông các học sinh, sinh viên cần nhận thấy rằng
chúng ta cần phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo ATGT cho bản thân, gia đình và
xã hội. Chúng ta cần nêu cao ý thức chấp hành luật giao thông, tích cực tham gia xây
dựng văn hóa giao thông không chỉ bằng những lời nói mà cả bằng hành động cụ thể,
thiết thực để góp phần làm giảm thiểu những thiệt hại do tai nạn giao thông gây nên.
Chúng ta cần hiểu rõ trách nhiệm của mình khi tham gia giao thông, cụ thể như
sau :
Chấp hành đúng quy định của các biển hiệu khi đi đường.
Lái xe an toàn, phù hợp với lứa tuổi.
Đảm bảo đúng tốc độ.
Nêu cao ý thức nhường đường, rẽ trái, rẽ phải… đúng quy định.
Rèn luyện tính kiên nhẫn, chờ đợi khi gặp đèn tín hiệu giao thông hay tắc
đường.
Không gây mất trật tự khi tham gia giao thông.
Phải đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe gắn máy, mô tô,...
Biết nhường đường cho người khác, rẽ trái, rẽ phải - Chờ đợi khi gặp đường tín
hiệu giao thông
Giúp đỡ người khác khi họ bị nạn - Luôn luôn chấp hành đúng quy định giao
thông,..
Tuyên truyền vận động người thân và bạn bè thực hiện nghiêm chỉnh khi tham
gia giao thông
Liên tục học tập cách nghiêm túc để nâng cao kiến thức pháp luật, ý thức trách
nhiệm đối với chính bản thân và cộng đồng xung quanh thông qua việc tham gia các
cuộc thi dành cho học sinh, sinh viên.
Trang bị các kiến thức hữu ích về sơ cứu, kiến thức cơ bản về xe để có thể giúp
đỡ khi có người cần hay trong trường hợp gặp tai nạn giao thông,..
Tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về an toàn giao thông, xâydựng
những thói quen tốt trong khi tham gia giao thông như: chỉ bóp còi khi thực sự cần
thiết, không nên lạm dụng đèn pha khi lái xe,...
Trình báo cho cơ quan chức năng, các cấp có thẩm quyền khi phát hiện người
làm trái pháp luật, không bao che, thỏa hiệp.
Hăng hái tham gia các hoạt động phòng, chống vi phạm giao thông, các hoạt
động trợ giúp người tham gia giao thông của nhóm tình nguyện, Đoàn Thanh niên tổ
chức,.

PHẦN KẾT LUẬN


Hệ thống GTĐB khoa học, hiện đại; phương tiện giao thông đa dạng, ngày càng
có chất lượng tốt; cách quản lý, điều hành ngày càng chuyên nghiệp và ý thức của
người tham gia giao thông ngày càng được nâng cao… là tiền đề cho việc hình thành
một nền văn hóa giao thông tốt đẹp, tiến bộ.
Nắm rõ thực trạng văn hóa giao thông, nguyên nhân, điều kiện của thực trạng
văn hóa giao thông của người tham gia giao thông sẽ là cơ sở để các cơ quan chức
năng nghiên cứu, tìm ra các giải pháp nâng cao văn hóa giao thông cho người tham gia
giao thông, góp phần bảo đảm TTATGT, trật tự an toàn xã hội.
“An toàn giao thông là trách nhiệm của mọi người, mọi nhà và cả xã hội”, “Hãy
ứng xử văn hoá khi tham gia giao thông”…Đây là thông điệp trên những tấm panô
tuyên truyền trên các tuyến đường phố không chỉ ở tỉnh thành mà trong cả nước và đó
cũng là thông điệp mà Chính phủ, Uỷ Ban ATGT quốc gia thường xuyên chỉ đạo đến
các địa phương nhằm hạn chế TNGT.
Điều đó đòi hỏi tất cả chúng ta hãy nhận thức sâu sắc và đúng về vấn đề ATGT
và bằng việc làm của mình trong việc chấp hành Luật Giao thông đường bộ. Mỗi lời
nói gắn với việc làm của mỗi người, tuy rất nhỏ nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn đối với
bản thân, gia đình và xã hội. Chấp hành đúng pháp luật về ATGT để đem lại hạnh
phúc cho mình, cho mọi người, mọi nhà và cho toàn xã hội.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Ngọc Diễm:” Thực trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông tại các chợ tự phát”,
Công an tỉnh Tiền Giang, https://congan.tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?/thuc-
trang-vi-pham-trat-tu-an-toan-giao-thong-tai-cac-cho-tu-phat/35225921
2. Nhã Mai – Mạnh Tuấn:” Thực trạng học sinh vi phạm pháp luật về trật tự an
toàn giao thông”, Truyền hình Thanh Hóa, https://truyenhinhthanhhoa.vn/thuc-
trang-hoc-sinh-vi-pham-phap-luat-ve-trat-tu-an-toan-giao-thong-
180220923210028257.htm
3. Nguyễn Ngọc Linh:” Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở
Việt Nam: Nguyên nhân và giải pháp ?”, Luật Minh Khuê,
https://luatminhkhue.vn/vi-pham-phap-luat-trong-linh-vuc-giao-thong-duong-
bo-o-viet-nam-hien-nay.aspx
4. Thu Trung:” Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tri thức Xanh,
https://trithucxanh.vn/post/vai-tro-cua-phap-luat-trong-viec-bao-dam-trat-tu-an-
toan-giao-thong-duong-bo-o-viet-nam-hien-nay
5. Ngọc Gẩm:” Trật tự an toàn giao thông là gì? “, Tạp chí, https://luatsux.vn/trat-
tu-an-toan-giao-thong-la-gi/

23

You might also like