You are on page 1of 13

BÀI 2: MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC GIA

Chào các Anh/Chị đến với bài học tiếp theo của môn Quản trị Kinh doanh quốc tế. Bài học thứ 2 này bao gồm các nội dung sau:

1. Môi trường văn hóa

2. Môi trường chính trị

3. Môi trường luật pháp

4. Môi trường kinh tế

GIỚI THIỆU

Bài 2 là phần giới thiệu các vấn đề thuộc môi trường kinh doanh quốc gia. Sau khi học xong bài này các Anh/Chị sẽ hiểu được sự khác biệt giữa các quốc
gia về các khía cạnh chính trị, luật pháp, kinh tế và văn hoá có ảnh hưởng như thế nào đến các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Đối với các doanh
nghiệp kinh doanh quốc tế việc nghiên cứu, tìm hiểu các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh ở từng quốc gia là hết sức quan trọng trong v iệc đưa ra các
quyết định đúng đắn khi lựa chọn thị trường nước ngoài để thâm nhập và tổ chức thực hiện các giao dịch kinh doanh quốc tế.

NỘI DUNG HỌC TẬP:

2.1. Môi trường văn hóa

2.1.1. Văn hóa là gì

Văn hoá là bức chân dung rất phức tạp của một dân tộc. Khi đi đến những nước khác, chúng ta thường nhận thấy có nhiều sự khác lạ về cách thức sinh
hoạt, làm việc của người dân các nước đó. ở Mỹ, bữa ăn tối thường diễn ra vào lúc 6 giờ, trong khi ở Tây Ban Nha người ta không ăn tối trước 8 giờ hoặc
9 giờ. Dân Mỹ mua đồ cho cả tuần lễ trong một lần ở siêu thị, trong khi người Italia đi mua sắm hàng ngày ở các cửa hàng tạp hoá địa
phương nhỏ. Đó là những khác biệt về văn hoá.

Văn hoá là một phạm trù dùng để chỉ các giá trị, tín ngưỡng, luật lệ, và thể chế do một nhóm người xác lập nên. Văn hoá là bức chân dung rất phức
tạp của một dân tộc, phản ánh những yếu tố như thẩm mỹ, giá trị và thái độ, phong tục và tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo dục,
môi trường vật chất và môi trường tự nhiên.

Một quốc gia sẽ bao gồm nhiều nền văn hoá khác nhau do sự chung sống của nhiều dân tộc khác nhau, mỗi một dân tộc có một nền văn hoá riêng.
Trong số các nền văn hoá dân tộc đó sẽ có một nền văn hoá nổi lên thống trị trên toàn xã hội, với tư cách là nền văn hoá đại diện cho quốc gia hay người ta
còn gọi là văn hoá quốc gia. Các nền văn hoá còn lại trong quốc gia đó được coi là các nền văn hoá thiểu số. Điều này không có nghĩa là các nền văn hoá
thiểu số không có ảnh hưởng gì đối với nền văn hóa quốc gia, trái lại, trong quá trình cùng tồn tại sẽ có sự truyền bá qua lại giữa các nền văn hoá trong
một quốc gia và như vậy nền văn hoá quốc gia sẽ là sự hoà quyện giữa các nền văn hoá dân tộc khác nhau chỉ có điều là nội dung văn hoá của một dân tộc
nào đó sẽ chiếm ưu thế hơn cả.

Một nền văn hoá có thể dễ dàng tiếp nhận các đặc trưng của các nền văn hoá khác. Ngược lại cũng có những nền văn hoá trong đó việc thừa nhận
các đặc trưng của một nền văn hoá khác là rất khó khăn. Nguyên nhân của sự chống đối này là do chủ nghĩa vị chủng. Những người theo chủ nghĩa này
cho rằng dân tộc họ hoặc văn hoá dân tộc họ là siêu đẳng hơn các dân tộc khác hoặc văn hoá dân tộc khác. Chính vì vậy họ luôn xem xét các nền văn hoá
khác theo những khía cạnh như trong nền văn hoá của họ. Kết quả là họ đã xem thường sự khác nhau về môi trường và con người giữa các nền văn hoá.

Trên thế giới có thể phân biệt văn hóa tàng ẩn và văn hóa tường minh. Văn hóa tàng ẩn phổ biến ở những nước như Nhật Bản, Arập Xeut. Đặc trưng
của văn hóa tàng ẩn là bối cảnh cũng quan trọng tương tự như lời nói; người nói và người nghe dựa trên sự hiểu biết chung về bối cảnh; văn bản, lời nói,
chữ viết và các con số chỉ chứa đựng một phần thông tin. Người Nhật Bản thường cố gắng nhận biết đối tác là người thế nào trước khi đi đến quyết định
có hợp tác hay không.

Văn hóa tường minh - phần lớn thông tin được chứa đựng trong lời nói, văn bản. Nếu không nắm bắt được những sự khác biệt cơ bản này thì có thể
nảy sinh những sự hiểu lầm về thông tin hay ý định của nhau. Ví dụ ở Mỹ việc đánh giá các nhà quản trị thường nhấn mạnh vào hoạt động của cá nhân,
việc phê phán mang tính trực tiếp và chính thức bằng văn bản, trong khi Nhật Bản nhấn mạnh đến vai trò của tập thể - nhóm, và việc phê phán thường
mang tính tế nhị, dừng lại ở lời nói để tránh làm mất thể diện cá nhân nào đó.

1
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
Văn hóa quốc gia và văn hóa nhóm - Văn hóa nhóm có thể khác với văn hóa quốc gia về ngôn ngữ, chủng tộc, lối sống, giá trị, thái độ… Văn hóa
nhóm có thể vượt qua biên giới quốc gia. Các nền văn hoá có thể xích lại gần nhau nhờ tác động của hiện tượng vay mượn và tương tác văn hóa. Các
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có thể đóng vai trò là tác nhân thay đổi văn hóa thông qua việc đưa ra các sản phẩm, ý tưởng hoặc công nghệ sản xuất
mới - McDonal’s và các hãng kinh doanh đồ ăn nhanh khác ở Đài Loan đã làm thay đổi sâu sắc thới quen ăn uống của người dân, đặc biệt là giới thanh
niên. Khi mở các cửa hàng ăn nhanh ở hai thành phố tiềm năng ở Ấn Độ là New Deli và Bangalore, KFC đã gặp phải sự chống đối nên buộc phải thích
ứng với điều kiện địa phương. Cụ thể KFC phải chọn liên kết với các đối tác địa phương để nhận được sự cố vấn và hỗ trợ, đồng thời phải thay thế phương
thức quảng cáo mang nét văn hóa phương Tây bằng phương thức quảng cáo mang bản sắc Ấn Độ.

2.1.2. Sự cần thiết phải am hiểu văn hoá đối với các nhà quản trị

Quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi mọi người tham gia vào kinh doanh phải có một mức độ am hiểu nhất định về văn hoá, đó là sự hiểu biết về một nền văn
hoá cho phép con người sống và làm việc trong đó. Am hiểu văn hoá sẽ giúp cho việc nâng cao khả năng quản lý nhân công, tiếp thị sản phẩm, và đàm
phán ở các nước khác. Cho dù tạo ra một nhãn hiệu toàn cầu như MTV hay Mc Donald là đem lại lợi thế cạnh tranh rất lớn, nhưng sự khác biệt văn hoá
vẫn buộc các doanh nghiệp phải có những thích ứng với các thị trường địa phương. Một sản phẩm cần phải phù hợp với sở thích của người tiêu dùng địa
phương. Muốn đạt được điều này không còn cách nào khác là phải tìm hiểu văn hoá địa phương. Am hiểu văn hoá địa phương giúp công ty gần gũi hơn
với nhu cầu và mong muốn của khách hàng, và do đó sẽ nâng cao sức cạnh tranh của công ty.

Từ những khách hàng đơn lẻ và những doanh nhân cho đến các tập đoàn kinh doanh toàn cầu, hạt nhân của các hoạt động kinh doanh đều là con
người. Khi người mua và người bán ở khắp nơi trên thế giới gặp gỡ nhau, họ mang theo các nền tảng giá trị, kỳ vọng, và các cách thức giao tiếp khác
nhau. Sự khác nhau này sẽ dẫn đến các xung đột về văn hoá và do đó gây ra những cú sốc trước khi có thể thích nghi được với một nền văn hoá mới. Hiểu
nền văn hoá là quan trọng khi công ty kinh doanh trong nền văn hoá đó.

Điều đó càng trở nên quan trọng hơn khi công ty hoạt động ở nhiều nền văn hoá khác nhau.

2.1.3. Các thành tố văn hóa

Có sự khác biệt lớn giữa các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, có thể tổng kết một số yếu tố chung cho tất cả các nền văn hóa, và sự đặc trưng của các
yếu tố đó quy định hành vi ứng xử và lối sống của mỗi một nhóm người nhất định.

Giao tiếp cá nhân

Con người trong mỗi nền văn hóa có một hệ thống giao tiếp để truyền đạt ý nghĩ, tình cảm, kiến thức, thông tin qua lời nói, hành động và chữ viết. Giao
tiếp các nhân được thực hiện thông qua ngôn ngữ thành lời và ngôn ngữ không lời. Ngôn ngữ thành lời bao gồm lời nói, từ ngữ, chữ viết, được sử dụng,
âm lượng giọng nói. Vai trò của ngôn ngữ thành lời:

• Giúp thu thập và đánh giá thông tin: thay vì hoàn toàn dựa vào thông tin do người khác cung cấp, nhà quản trị cần tự mình nghe thấy những điều
cần thiết. Con người có xu hướng thoải mái nhất khi sử dụng ngôn ngữ của mình. Thông tin tốt nhất chỉ có thể có được thông qua việc tự mình trở
thành một bộ phận của thị trường thay vì đứng ngoài thị trường đó. Ví dụ một nhà quản trị địa phương có thể được coi là nguồn cung cấp thông
tin chủ yếu của doanh nghiệp để đánh giá và ngăn ngừa rủi ro chính trị.

• Ngôn ngữ giúp cho việc tiếp cận, hòa nhập vào cộng đồng địa phương. Mặc dầu tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, nhưng việc nói được ngôn ngữ
địa phương có thể mang lại ưu thế rất lớn.

• Ngôn ngữ là cong cụ đặc biệt quan trọng trong giao tiếp công ty, cả trong nội bộ công ty hoặc giữa công ty với các đối tác khác.

• Cuối cùng, ngôn ngữ không chỉ dừng lại phục vụ cho việc giao tiếp, mà còn giúp giải thích được bối cảnh giao tiếp (thông tin không nằm trong từ
ngữ lời nói, mà nằm trong cách nói, giọng nói, âm lượng).

Khả năng về ngôn ngữ không chỉ đơn thuần dừng lại ở sự nhận biết ý nghĩa của từ ngữ một cách đơn giản, mà cần tìm hiểu những ý nghĩa khác nhau
của chúng. Ví dụ: cụm từ “tabling a proposal” ở Mỹ có nghĩa là muốn trì hoãn một quyết định nào đó, còn ở Anh lại có nghĩa là cần quyết định ngay lập
tức. Nếu người Anh hứa hẹn điều gì đó “vào cuối ngày” (at the end of the day), thì không có nghĩ là vào 12 giờ đêm, mà là vào cuối ngày làm việc. Tiếng
Arập viết từ trái sang phải nên việc quảng cáo bằng hình vẽ phải cẩn thận. Vì vậy, để tránh những rắc rối về ngôn ngữ, các nhà quản trị kinh doanh quốc tế
cần dựa vào sự giúp đỡ của các đối tác địa phương như các công ty quảng cáo, công ty nghiên cứu thị trường, và cần lựa chọn người phiên dịch tốt.

Ngôn ngữ không lời thể hiện qua các cử chỉ như cách chào hỏi, tư thế đứng, điệu bộ tay chân, nét mặt, ánh mắt). Có sự khác biệt rất lớn giữa các nền
văn hóa, thậm chí cùng một cử chỉ nhưng có ý trái ngược nhau ở các nước khác nhau. Người Italia, Pháp, ARập và Venezuala có xu hướng kết hợp điệu bộ
và các cử chỉ của cơ thể để truyền đạt trong giao tiếp. Ánh mắt của người Hàn Quốc và Nhật Bản có thể mang nhiều ý nghĩa không kém gì điệu bộ vung
mạnh hai tay; ở những nước này những người cùng vai vế cúi chào nhau 15 0, với người nhiều tuổi hơn cúi chào khoảng 30 0, cúi chào 450 biểu thị sự ăn
2
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
năn, xin lỗi. Dùng ngón cái và ngón trỏ làm thành vòng tròn có nghĩa “mọi thứ được đấy” hoặc “tuyệt vời” ở Mỹ, nhưng điều đó lại là cử chỉ biểu thị sự
thô bỉ ở Italia và Hy Lạp. Đối với người Anh và Scotlen - chỉ ngón trỏ vào mũi có nghĩa là “bạn và tôi cùng giữ bí mật”, nhưng ở xứ Wales điều đó có
nghĩa trách móc rằng “bạn là người tò mò”. Ở Anh việc chỉ tay trỏ vào thái dương ám chỉ một ai đó “thần kinh có vấn đề” thì ở Hà Lan cử chỉ đó biểu thị
sự tán dương một ai đó rất thông minh. Xoa đầu ở Châu Âu là cử chỉ tỏ ý khen ngợi, nhưng ở châu Á có thể là bị coi là thái độ kẻ cả, bề trên, xúc phạm,
chê người khác trẻ con hoặc ngây thơ.

Giá trị và thái độ

Giá trị là những tín ngưỡng hay niềm tin được chia sẻ, những chuẩn mực chi phối hành vi cư xử của các cá nhân trong xã hội. Ví dụ: sự tận tụy trong công
việc và thành công về mặt vật chất (Singapor), nghỉ ngơi giải trí và lối sống khiêm tốn (Hy Lạp), tự do cá nhân (Anh, Mỹ), sự đồng thuận nhóm (Nhật
Bản, Hàn Quốc), lòng trung thành, sự chung thủy trong hôn nhân, tinh thần trách nhiệm, sự hợp tác (Trung Quốc: cần xây dựng quan hệ trước, nếu thành
công có thể bắt tay nhau trong kinh doanh).

Ở Mỹ cá nhân có thể tác động đến tương lai (hành vi của con người do chúa trời quyết định) - tác động đến lĩnh vực lập kế hoạch, chiến lược và thời
gian biểu; cá nhân phải làm việc tích cực để hoàn thành các mục tiêu đặt ra (làm việc tích cực không phải là điều kiện duy nhất đạt tới thành công, cần tới
sự từng trải, hiểu biết, hạnh phúc, thời gian) - động cơ và chế độ khen thưởng; cần tôn trọng các cam kết (có thể không cần thực hiện cam kết nếu không
đóng góp gì hoặc khi đối tác vi phạm) - đàm phán và mặc cả; cần sử dụng thời gian có hiệu quả (việc lên thời gian biểu là cần thiết nhưng phải được gắn
với những ưu tiên khác) - kế hoạch dài và ngắn hạn; những người có trình độ cần được giữ những trọng trách thích hợp (cần tính đến quan hệ gia đình, bạn
bè…) - chế độ thuê nhân công, thăng chức, tuyển chọn, khen thưởng. Những sự khác biệt về giá trị tác động đến cách thức điều hành kế hoạch, quá trình
ra quyết định, quá trình thực hiện chiến lược, và cách đánh giá cá nhân.

Thái độ là sự đánh giá (tích cực hoặc tiêu cực), hoặc cảm nghĩ mà cá nhân dành cho các đối tượng hoặc khái niệm nào đó. Thái độ thường bắt nguồn
từ giá trị. Thái độ về thời gian (Nhật Bản: thời gian là cần thiết để xây dựng lòng tin; Mỹ: thời gian là tiền bạc). Thái độ về công việc (Pháp: làm việc để
sống: Mỹ: sống để làm việc). Thái độ đối với sự thay đổi văn hóa: Một người Mỹ biểu thị thái độ khi nói rằng không muốn là việc cho các công ty Nhật
Bản vì không được đưa ra các quyết định một cách độc lập (phản ánh giá trị đề cao tự do cá nhân. Một người châu Á có thể nói rằng không muốn kết hôn
với người châu Âu vì cho rằng người châu Âu thiếu sự chung thủy trong hôn nhân. Một nhà quản trị Mỹ không muốn nhận nhiệm vụ ở Mỹ La tinh vì cảm
thấy rất khó chịu đối với việc người bản xứ không làm việc theo đúng giờ giấc (giá trị: thời gian cần được sử dụng một cách hiệu quả).

Phong tục và tập quán

Tập quán: cách cư xử, nói năng và ăn mặc được coi là thích hợp trong một nền văn hóa. Người Arập và Mỹ La tinh thích đứng gần nhau khi nói chuyện.
Khi bắt tay người Arập phải dùng tay phải (tay trái là tay “bẩn”), và chỉ được bắt tay người lớn tuổi khi người đó chìa tay ra trước. Mời cà phê ở những
nước theo đạo Hồi biểu thị sự thân thiện, tạo sự gần gũi. Phụ nữ ở các nước đạo Hồi không được tham gia công việc kinh doanh, không được lái ô tô, ra
đường phải che mặt. Ở các nước Mỹ la tinh có thể đến họp, liên hoan muộn, nhưng ở Anh, Mỹ đến đúng giờ được đánh giá cao. Châu Âu: tặng quà mở
ngay ra xem, ở Nhật Bản không mở ngay để giữ thể diện cho người tặng (nếu quà không có giá trị). Ông chủ ở Mỹ có thể tặng hoa hồng cho cô thư ký để
biểu thị sự đánh giá cao công việc của cô ta, nhưng ở châu Á đó có thể được coi là sự thể hiện tình cảm lãng mạn. Người Nga khi đàm phán ban đầu
thường đòi hỏi rất nhiều, nhưng sau đó lại nhượng bộ, ngược lại người Mỹ tỏ vẻ nhượng bộ ban đầu những sau đó buộc đối phương cũng phải nhượng bộ.
Việt Nam: con dâu ngồi cạnh nồi cơm để xới cơm cho cả nhà; người già, bậc cha chú bác ngồi mâm trên. Trong đàm phán: người Mỹ coi sự im lặng của
đối phương là biểu thị không chấp nhận điều kiện, vì vậy người Nhật có xu hướng sử dụng sự im lặng để buộc người Mỹ hạ giá hoặc có những nhượng bộ
khác. Một thỏa thuận đơn giản ở Trung Đông có thể đòi hỏi thời gian mấy ngày đàm phán vì người Arập hay bàn tới những vấn đề không liên quan hoặc
thực hiện những việc khác trong khi đàm phán.

Tặng quà là một phần quan trọng trong việc tạo lập quan hệ khi viếng thăm hoặc công nhận đối tác vào các ngày lễ. Cần lưu cách gói quà, màu sắc
giấy gói, cách đưa quà (Trung Quốc: đưa bằng 2 tay). Năm mới ở Trung Quốc (tháng 1 hoặc tháng 2): nên tặng các món quà tặng nhỏ như sách, cà vạt, bút
viết, tránh tặng đồng hồ và bất kỳ thứ gì liên quan đến Đài Loan; Ở Ấn Độ vào dịp lễ hội Hindu (tháng 10 hoặc 11): tặng kẹo, đèn nến, hoa quả, tránh đồ
vật bằng da; Nhật Bản (1/1): rượu uýtky hoặc brandy, hoa quả hình tròn như dưa, tránh tặng quà gồm 4 hoặc 9 đơn vị. Mexico (giáng sinh/năm mới): tặng
đồng hồ bàn, bút đầu nhỏ, bật lửa mạ vàng, tránh tặng các vật bằng bạc, túi thực phẩm. Arập Xêút (tháng 12 hoặc tháng 1): Khăn san, la bàn nhỏ dùng đế
xác định hướng cho những mgười cầu nguyện, tránh tặng thịt lợn và đố dùng bằng da lợn, đồ uống có cồn.

Phong tục: những thói quen hay cách ứng xử trong những tình huống cụ thể được truyền bá qua nhiều thế hệ. Phong tục khác với tập quán ở chỗ nó
xác định thói quen hoặc hành vi cư xử trong những tình huống cụ thể. Chia suất ăn trong suốt tháng ăn chay Ramadan của người Đạo Hồi, tổ chức những
bữa tiệc cho thanh niên nam nữ đến tuổi 20 ở Nhật là những phong tục.

Khi kinh doanh ở một nền văn hóa khác, điều quan trọng là hiểu phong tục, tập quán của người dân nơi đó. Ở mức độ tối thiểu, hiểu tập quán và
phong tục sẽ giúp nhà quản lý tránh được các sai lầm ngớ ngẩn hoặc gây nên sự chống đối từ những người khác. Nếu có hiểu biết sâu hơn thì sẽ có cơ hội
nâng cao khả năng giao tiếp trong các nền văn hóa khác, bán hàng hiệu quả hơn, và quản lý thuận lợi các hoạt động quốc tế.
3
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
Thẩm mỹ

Thẩm mỹ là sự cảm nhận về giá trị, cái hay cái đẹp của nghệ thuật (như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, kịch) và biểu tượng của màu sắc, hình dáng, âm thanh.
Vấn đề thẩm mỹ là quan trọng khi một hãng có ý định kinh doanh ở một nền văn hóa khác. Nhiều sai lầm có thể xảy ra do việc chọn các màu sắc không
phù hợp với quảng cáo, bao bì sản phẩm và thậm chí các bộ quần áo đồng phục làm việc. Ví dụ, màu xanh lá cây là màu được ưa chuộng của đạo Hồi, do
đó bao bì sản phẩm ở đây thường dùng là màu xanh lá cây. Trong khi đó, đối với nhiều nước châu Á, màu xanh lá cây tượng trưng cho sự ốm yếu. Ở châu
Âu, Mexico và Mỹ màu tang tóc là màu đen, nhưng ở Nhật và phần nhiều nước châu Á đó lại là màu trắng. Chính vì vậy, các công ty cần phải thận trọng
trong việc lựa chọn hình dáng, bao bì, màu sắc của sản phẩm, trang trí văn phòng, nhà xưởng…

Giáo dục

Giáo dục (chính thức và không chính thức) đóng vai trò then chốt trong việc truyền bá và chia sẻ văn hóa, là phương tiên để con người tiếp nhận ngôn ngữ
và các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống và công việc.

Các quốc gia có hệ thống giáo dục cơ bản tốt thường là nơi hấp dẫn đối với các doanh nghiệp. Các quốc gia đầu tư nhiều vào đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao thường thu lại được sự gia tăng năng suất và thu nhập. Quốc gia nào có lực lượng lao động được giáo dục tốt, có kỹ năng sẽ thu hút các
công việc có thu nhập cao, còn các quốc gia có chất lượng giáo dục thấp thường là nơi tập trung các việc làm có thu nhập thấp. Qua việc đầu tư vào giáo
dục, một quốc gia có thể thu hút những loại ngành công nghiệp có thu nhập cao thường gọi là các ngành công nghiệp có “nhiều chất xám”.

Các doanh nghiệp cần nắm được chất lượng giáo dục ở những nước có hoạt động kinh doanh. Nhật Bản và Hàn Quốc thường chú trọng nhiều hơn về
khoa học tự nhiên, đặc biệt là ngành kỹ thuật, so với các nước phương Tây. Tỷ lệ mù chữ cao ở một nước buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hình vẽ hơn
là các bản in bằng chữ trong quảng cáo và hướng dẫn sử dụng. Việc tuyển chọn nhân viên bán hàng sở tại tùy thuộc vào sự sẵn có của những người được
đào tạo. Các doanh nghiệp nhiều khi phải gửi những nhân viên người sở tại về trụ sở chính để đào tạo. Các công ty phương Tây phải khắc phục những khó
khăn trong việc tuyển chọn nhân viên ở những nước như Nhật Bản - nơi sự trung thành được đề cao, và những người làm công tự coi mình là thành viên
của gia đình công ty. Nếu công ty nước ngoài rời bỏ Nhật Bản, những người làm công cảm thấy bị bỏ rơi và rát khó tìm được việc làm mới trong hệ thống
kinh doanh của Nhật Bản. Vì vậy, những sinh viên tốt nghiệp đại học thường lưỡng lự trong việc làm việc cho các công ty nước ngoài, trừ những công ty
lớn và có tiếng. Trong việc tạo lập công nghệ, tính chất phức tạp của sản phẩm sẽ phụ thuộc vào trình độ giáo dục của những người sử dụng tương lai. Các
quyết định về thích ứng sản phẩm thường bị ảnh hưởng bởi việc những khách hàng mục tiêu có khả năng sử dụng các hàng hóa và dịch vụ phù hợp đến
mức độ nào.

Cấu trúc xã hội

Bao gồm các nhóm, thể chế, hệ thống địa vị xã hội và tương quan giữa chúng. Cấu trúc xã hội có ảnh hưởng đến quan hệ giữa người với người trong xã
hội, đến các quyết định kinh doanh từ việc lựa chọn mặt bằng sản xuất đến việc chọn các phương thức quảng cáo và chi phí kinh doanh ở một nước. Ba
yếu tố quan trọng của cấu trúc xã hội dùng để phân biệt các nền văn hoá là: nhóm xã hội, địa vị xã hội và tính linh hoạt của xã hội.

Các nhóm xã hội: - Gia đình hạt nhân: hình thành trên cơ sở các mối quan hệ gần gũi nhất của một con người gồm cha mẹ, anh chị em (Australia,
Canada, Mỹ, Châu Âu). Gia đình mở rộng: gia đình hạt nhân cộng thêm ông bà và những người thân thích khác (Châu á, Trung Đông, Bắc Phi, và Mỹ
Latinh). Giới tính: nam nữ.

Địa vị xã hội: Quá trình xếp thứ tự con người theo các tầng lớp xã hội và giai cấp được gọi là phân cấp xã hội. Địa vị xã hội được xác định bởi tính
kế thừa gia đình, thu nhập, và nghề nghiệp. Những tầng lớp xã hội cao nhất thường do những người có uy thế, quan chức chính phủ và doanh nhân kinh
doanh hàng đầu nắm giữ. Các nhà khoa học, bác sĩ và nhiều giới khác có trình độ đại học chiếm thứ bậc trung bình trong xã hội. Dưới các tầng lớp đó là
lao động trình độ trung học và lao động chân tay và văn phòng. Địa vị xã hội là ổn định, nhưng mỗi người có thể phấn đấu để cải thiện địa vị của mình.

Tnh linh hoạt của xã hội: các cá nhân có thể chuyển lên hay xuống trong thứ bậc xã hội. Hệ thống đẳng cấp: hệ thống về phân tầng xã hội trong đó
con người được sinh ra ở một thứ bậc xã hội, hay đẳng cấp xã hội, không có cơ hội di chuyển sang một đẳng cấp khác (Ấn Độ). Hạn chế quan hệ giữa
những người khác đẳng cấp. Nhiều cơ hội về việc làm và thăng tiến, nhiều nghề nghiệp bị hạn chế đối với thành viên trong mỗi đẳng cấp. Vì thế có luôn
có khuynh hướng xung đột cá nhân: một thành viên đẳng cấp thấp không thể giám sát một ai đó ở đẳng cấp cao hơn. Hệ thống đẳng cấp này buộc các công
ty phương Tây ra những quyết định đạo lý nghiêm ngặt khi tham gia hoạt động ở thị trường Ấn Độ. Ví dụ, nên điều chỉnh chính sách nguồn nhân lực địa
phương hay nhập khẩu lao động sở tại? Hiện nay, hệ thống đẳng cấp đang có sự thay đổi mạnh mẽ trong bối cảnh mới.

Hệ thống giai cấp: hệ thống phân tầng xã hội trong đó khả năng cá nhân và hành động cá nhân quyết định địa vị xã hội và tính linh hoạt của xã hội. ý
thức giai cấp có ảnh mạnh đến tính linh hoạt của xã hội. Các nền văn hóa có ý thức phân tầng cao thường ít linh hoạt hơn, và thường trải qua mâu thuẫn
giai cấp cao hơn. Ví dụ, ở các nước Tây Âu các gia đình giàu có duy trì quyền lực trong nhiều thế hệ bằng việc hạn chế tính linh hoạt của xã hội. Kết quả
là, họ phải đối mặt với mâu thuẫn giai cấp mà thường xuyên thể hiện trong mâu thuẫn quản lý-lao động và do đó tăng chi phí cho hoạt động kinh

4
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
doanhNgược lại, ý thức giai cấp thấp hơn sẽ khuyến khích tính linh hoạt xã hội và ít có mâu thuẫn. Phần lớn các công dân Mỹ cùng chung niềm tin rằng
làm việc tích cực có thể cải thiện các tiêu chuẩn sống và địa vị xã hội của họ. Họ cho rằng các địa vị xã hội cao hơn gắn với thu nhập cao hơn và sung túc
hơn, ít xem xét đến nguồn gốc gia đình. Giàu có về mặt vật chất là quan trọng vì nó khẳng định hay cải thiện địa vị xã hội. Khi mọi người cảm thấy vị trí
xã hội cao hơn trong tầm tay họ, họ sẽ có xu hướng bộc lộ sự hợp tác nhiều hơn ở nơi làm việc.

Tôn giáo

Tôn giáo có thể được định nghĩa như là một hệ thống các tín ngưỡng và nghi thức liên quan tới yếu tố tinh thần của con người. Tôn giáo không giới hạn
theo biên giới quốc gia và nó có thể tồn tại ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới đồng thời cùng một lúc. Các tôn giáo khác nhau có thể thống trị trong
nhiều vùng khác nhau ở một quốc gia đơn lẻ. Quan hệ giữa tôn giáo và xã hội là phức tạp, nhạy cảm và sâu sắc. Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Hinđu giáo,
Phật giáo, Khổng giáo, Do Thái giáo, Shinto giáo là là những tôn giáo chính trên thế giới hiện nay.

Tác động của tôn giáo đến kinh doanh thể hiện ở chỗ nó tạo ra những giá trị và thái độ đối với hoạt động kinh doanh, tiêu dùng, và tổ chức xã hội.
Tác động có thể mang tính trực tiếp như (đạo Tin lành ở châu Âu) hoặc gián tiếp (đạo Hồi). Trong từng tôn giáo cũng có sự khác biệt dẫn đến sự phân
nhánh (Tin lành và Cơ Đốc giáo thuộc Thiên chúa giáo). Các tôn giáo khác nhau có quan điểm khác nhau về việc làm, tiết kiệm và hàng hóa. Tìm hiểu vấn
đề này sẽ giúp chúng ta biết được tại sao các công ty ở một số nền văn hóa này có tính cạnh tranh hơn các công ty ở những nền văn hóa khác. Nó cũng
giúp chúng ta biết được tại sao một số nước phát triển chậm hơn các nước khác. Hiểu tôn giáo ảnh hưởng như thế nào đến tập quán kinh doanh là đặc biệt
quan trọng ở các nước có chính phủ phụ thuộc tôn giáo.

Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới với hơn 2 tỷ tín đồ. Sự khác biệt chủ yếu giữa hai nhánh Tin lành và Cơ đốc giáo là ở thái độ đối với với
việc kiếm tiền: Tin lành đề cao tầm quan trọng của công việc và tích lũy của cải, con người phải làm việc chăm chỉ và tiết kiệm (nguyên nhân dẫn đến sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây); còn Cơ đốc giáo không đề cao điều đó.

Đạo hồi: 1,2 tỷ tín đồ. Vai trò hạn chế của phụ nữ: có thể làm việc ở vị trí bán hàng, marketing, không được tham gia quản lý kinh doanh (quản trị
nhân lực). Tác động đến sản phẩm: không dùng đồ uống có cồn - kinh doanh đồ uống không cồn (nước giải khát thay thế Coca Cola), bò nhập khẩu vào
phải được diết thịt theo luật hồi giáo. Tác động đến phát minh khoa học: Công ty Thụy điển xây dựng hệ thống giao thông đến thánh địa Meca, những
người không theo đạo Hồi không được phép vào thành phố - giải pháp sư rdụng hệ thống Video để giám sát công việc từ xa. Luật Hồi giáo cấm việc thanh
toán lãi suất nên hệ thống ngân hàng phi lãi suất được thành lập trên cơ sở các thỏa thuận cho thuê, quỹ tương hỗ, và những phương pháp khác để tránh
việc thanh toán lãi suất.

Đạo Hindu: 860 triệu tín đồ. Nhấn mạnh hệ thống đẳng cấp và giai cấp (mỗi người sinh ra phải thuộc về một đẳng cấp nào đó). Tuy có tác động ổn
định xã hội, nhưng chế độ đẳng cấp tác động tiêu cực đến kinh doanh. Ví dụ: việc phối hợp lao động, nhân sự rất khó khăn, động cơ kinh doanh có thể
nhằm tới những thành quả về mặt tinh thần hơn là vật chất; nỗ lực của tứng cá nhân là vô ích một khi không thể vươn lên đẳng cấp cao hơn. Một nhà quản
trị tiềm năng có thể không thể trở thành nhà quản trị trên thực tế nếu thuộc đẳng cấp thấp. Gia đình mở rộng là yếu tố quan trọng, tác động đến sức mua và
tiêu dùng. Nhữngngwời nghiên cứu thị trường cần nắm bắt điều này khi đánh giá tiềm năng thị trường và đặc điểm tiêu dùng.

Đạo Phật: 360 tr. tín đồ. Không phân biệt đẳng cấp. Cuộc sống là chuỗi khổ ải, con người tìm đến cõi niết bàn bằng sự vị tha thương người. Nhấn
mạnh thành quả tinh thần hơn là vật chất.

Đạo Khổng: 150 tr. tín đồ. giáo huấn nhấn mạnh lòng trung thành và quan hệ tốt.

2.2. Môi trường chính trị

2.2.1. Rủi ro chính trị

Tất cả các công ty thực hiện kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia đều phải đối mặt với rủi ro chính trị, cụ thể là khả năng những sự kiện chính trị
có ảnh hưởng tiêu cực đến công việc kinh doanh. Rủi ro chính trị ảnh hưởng đến nhiều nước khác nhau theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể đe doạ đến
thị trường xuất khẩu, điều kiện sản xuất, hoặc gây khó khăn cho nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về trong nước.

Rủi ro chính trị phát sinh là do nhiều nguyên nhân. bao gồm những nguyên nhân:

 Sự lãnh đạo chính trị yếu kém

 Chính quyền bị thay đổi thường xuyên

 Sự dính líu đến chính trị của các nhà lãnh đạo tôn giáo và quân đội

 Hệ thống chính trị không ổn định


5
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
 Những vụ xung đột về chủng tộc, tôn giáo, và các dân tộc thiểu số

 Sự liên kết kém chặt chẽ giữa các quốc gia

2.2.2. Hình thức rủi ro chính trị

Xét theo phạm vi có thể phân biệt rủi ro vĩ mô và rủi ro vi mô. Rủi ro vĩ mô đe doạ đến tất cả các doanh nghiệp không trừ một ngành nào. Rủi ro vĩ mô ảnh
hưởng đến hầu hết các công ty – cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Rủi ro chính trị vĩ mô xẩy ra trên diện rộng, nó tác động và ảnh hưởng lâu dài,
thậm chí làm thay đổi cục diện và phương thức kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.

Rủi ro vi mô tác động đến những công ty đơn lẻ, hoặc công ty thuộc một ngành nào đó (ví dụ khi một ngành nào đó bị chính phủ quốc hữu hóa).

Xét theo bản chất thì rủi ro chính trị có các biểu hiện sau đây:

Xung đột và bạo lực: Xung đột và bạo lực có thể xảy ra ở nhiều cấp độ có thể là xung đột giữa người dân và chính phủ, giữa các chính phủ ở các
quốc gia hay giữa các dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Xung đột và bạo lực có thể gây cản trở mạnh mẽ đến đầu tư của các công ty quốc tế. Bạo lực làm suy
yếu khả năng sản xuất và phân phối sản phẩm, gây khó khăn cho việc nhận nguyên liệu và thiết bị, gây cản trở việc tuyển dụng những nhân công giỏi.
Xung đột cũng đe doạ cả tài sản (văn phòng, nhà máy và thiết bị sản xuất) và cuộc sống của nhân công.

Xung đột xảy ra do nhiều nguyên nhân. Trước hết nó có thể bắt nguồn từ sự oán giận và bất đồng với chính phủ. Khi mà những giải pháp hoà bình
giữa người dân và chính phủ thất bại, xung đột có thể xảy ra để dẫn tới thay đổi người lãnh đạo. Thứ hai, xung đột diễn ra do tranh chấp lãnh thổ giữa các
quốc gia. Chẳng hạn như Ấn Độ và Pakitxtan tiếp tục tranh chấp vùng lãnh thổ Kashmir. Hai quốc gia này đã trải qua 3 cuộc chiến nhằm giành quyền
kiểm soát khu vực này. Một cuộc tranh chấp biên giới khác giữa Ecuador và Peru. Hai nước vùng Nam Mỹ này đã xung đột 3 lần, vào thời gian gần nhất
là vào 1995.

Cuối cùng, chiến tranh xảy ra giữa các dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Ngoài sự tranh chấp ở Pakitxtan, xung đột còn thường xuyên xảy ra giữa đạo
Hồi và đạo Hindu ở ngay tại Ấn Độ. Các công ty hoạt động ở Ấn Độ chịu những rủi ro tôn giáo có thể bị gián đoạn công việc kinh doanh.

Khủng bố và bắt cóc: Bắt cóc và các cuộc khủng bố là phương tiện để các thế lực khẳng định vị thế chính trị. Khủng bố có mục đích tạo ra sự lo sợ
và ép buộc sự thay đổi thông qua việc gây ra những cái chết và tàn phá tài sản một cách bất ngờ và không lường trước được. Bắt cóc thường được sử dụng
nhằm tài trợ tài chính cho các hoạt động khủng bố. Những nhà quản trị làm việc cho các công ty nước ngoài lớn thường là mục tiêu hấp dẫn đối với những
kẻ bắt cóc với hy vọng có thể được trả những khoản tiền chuộc hậu hĩnh.

Chiếm đoạt tài sản: Đôi khi một số chính phủ có thể chiếm đoạt tài sản của các công ty trên lãnh thổ của họ. Sự chiếm đoạt diễn ra dưới 3 hình thức:
Tịch thu - chuyển tài sản của công ty vào tay chính phủ mà không có sự đền bù nào. Thông thường không có cơ sở pháp lý nào cho việc đền bù hoặc hoàn
trả lại tài sản; Sung công - chuyển tài sản của tư nhân cho chính phủ nhưng được đền bù. Ngày nay, các chính phủ ít sử dụng đến biện pháp tịch thu hoặc
xung công, vì điều này có thể ảnh hưởng đến đầu tư trong tương lai. Các công ty đã đầu tư thì lo sợ mất tài sản, còn các công ty dự định đầu tư vào địa
phương có thể từ bỏ ý định này do lo ngại việc tịch thu hay sung công tài sản có thể xảy ra; Quốc hữu hoá – Chính phủ đứng ra nắm quyền kiểm soát cả
một ngành nào đó.

Quốc hữu hoá phổ biến hơn xung công và tịch thu. Trong khi sung công áp dụng đối với một hoặc một số công ty nhỏ trong một ngành, thì quốc hữu
hoá diễn ra đối với toàn bộ ngành. Những ngành được chọn để quốc hữu hoá là những ngành liên quan đến an ninh quốc gia và những ngành tạo ra nhiều
của cải. Ví dụ vào những năm 1970, Chile đã quốc hữu hoá ngành công nghiệp khai thác đồng. Quốc hữu hóa được các chính phủ áp dụng vì 4 lý do sau:

 Chính phủ phải quốc hữu hoá những ngành mà họ cho rằng các công ty nước ngoài chuyển lợi nhuận tới đầu tư ở những nước khác có mức
thuế thấp. Quốc hữu hoá trao cho chính phủ quyền kiểm soát luồng tiền tạo ra bởi ngành này.

 Chính phủ tiến hành quốc hữu hoá một ngành bởi vì tư tưởng lãnh đạo. Ví dụ một đảng lãnh đạo cho rằng có thể bảo vệ được một ngành thông
qua trợ giúp của chính phủ. Đó là quan điểm của đảng Lao động ở Anh quốc phổ biến trong suốt chiến tranh thế giới thứ II.

 Quốc hữu hoá đôi khi là công cụ chính trị. Nhà nước hứa là sẽ đảm bảo việc làm nếu được quốc hữu hoá.

 Quốc hữu hoá có thể là giải pháp trợ giúp những ngành mà các công ty tư nhân không muốn hoặc không có khả năng đầu tư, chẳng hạn như
đầu tư vào những ngành công cộng. Chính phủ thường kiểm soát ngành công cộng và tài trợ hoạt động cho các ngành này từ thuế.

Thay đổi chính sách: Chính phủ có thể đưa ra những chính sách có tác động đến những doanh nghiệp nào đó. Sự thay đổi chính sách của chính phủ
có thể xuất phát từ nguyên nhân mất ổn định xã hội hoặc là do có sự tham gia của các chính đảng mới.

6
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
Yêu cầu địa phương: Các công ty nước ngoài có thể được yêu cầu: i) Phải tuyển dụng những nhân công địa phương; ii) Sử dụng toàn bộ hoặc một
phần nguyên, nhiên vật liệu của địa phương. Những yêu cầu của địa phương có thể gây bất lợi đến hoạt động của các công ty nước ngoài trong dài hạn
do dẫn đến chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm giảm sút hoặc cả hai.

2.2.3. Phòng ngừa rủi ro chính trị

Bên cạnh kiểm soát và dự đoán những khả năng thay đổi chính trị, các công ty quốc tế phải cố gắng quản lý được rủi ro chính trị có thể đe dọa hoạt động
hiện tại cũng như trong tương lai. Có năm công cụ ngăn ngừa và hạn chế rủi ro chính trị đó là: né tránh, thích nghi, phụ thuộc, thu thập thông tin, và những
chính sách của địa phương.

Né tránh: Né tránh đơn giản là hạn chế đầu tư vào những khu vực có nguy cơ cao về biến động chính trị. Các công ty thường không đầu tư hoặc rút
vốn khỏi những nước có sự bất ổn cao về chính trị.

Thích nghi: Thích nghi có nghĩa là kết hợp chặt chẽ rủi ro với chiến lược kinh doanh, Các doanh nghiệp thường lựa chọn giải pháp thích nghi với
những khu vực có rủi ro chính trị cao bằng một trong những phương thức sau:

Vốn nợ và vốn cổ phần ở địa phương: Thực chất đây là việc chia sẻ rủi ro với các đối tác địa phương thông qua việc tham gia cấp tín dụng hoặc góp
vốn cổ phần để cùng chia sẻ lợi nhuận và rủi ro với công ty. Vốn tín dụng và vốn cổ phần trong đó phải kể đến tài trợ cho các hoạt động kinh doanh ở địa
phương bằng sự trợ giúp của các hãng địa phương, công đoàn, các định chế tài chính và chính phủ. Sự trợ giúp của các tổ chức được thực hiện thuận lợi
với điều kiện phải đảm bảo là các thế lực chính trị không làm gián đoạn các hoạt động trên. Nếu là hoạt động góp vốn, các đối tác chấp nhận cắt giảm lợi
nhuận. Nếu là những khoản cho vay, họ nhận được lãi suất. Rủi ro được giảm xuống bởi vì các đối tác ở địa phương nhận được lợi ích.

Trợ giúp phát triển. Trợ giúp phát triển cho phép các công ty nước ngoài trợ giúp các công ty trong nước hoặc khu vực trong phát triển mạng lưới
thông tin và giao thông, cải thiện chất lượng cuộc sống ở địa phương. Khi đó các công ty và quốc gia đó trở thành đối tác của nhau và cả hai bên cùng có
lợi.

Bảo hiểm các công ty mua bảo hiểm để chống lại rủi ro chính trị tiềm ẩn. Có một số chính sách bảo vệ các công ty khi mà chính quyền địa phương
hạn chế việc chuyển tiền từ trong nước ra ngoài nước. Có những hình thức bảo hiểm khác hướng tới việc hạn chế những thiệt hại do bạo lực, chiến tranh,
khủng bố gây ra.

Duy trì mức độ phụ thuộc: Thông thường, một công ty duy trì sự phụ thuộc nước sở tại vào hoạt động của nó. Công ty nước ngoài có thể theo ba
hướng tiếp cận sau đây: i) Giải thích cho người dân và các quan chức địa phương tầm quan trọng của họ đối với phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Nói cách khác, họ minh chứng được địa phương nhận được lợi ích qua hoạt động của công ty nước ngoài; ii) Sử dụng nguyên vật liệu, công
nghệ và các nguồn lực sẵn có khác của địa phương; iii) Cố gắng giành toàn bộ quyền kiểm soát kênh phân phối ở địa phương để nếu bị đe dọa thì công ty
có thể từ chối cung cấp cho các khách hàng là người tiêu dùng và các công ty địa phương.

Thu thập thông tin: Công ty có thể dựa vào hai nguồn dữ liệu cần thiết cho việc dự báo chính xác rủi ro chính trị: i) Đánh giá của bản thân người lao
động về mức độ rủi ro chính trị. Những công nhân có thời gian làm việc ở một nước đủ dài để hiểu được văn hoá và chính trị ở đây, cũng chính vì vậy, đây
là nguồn thông tin đáng tin cậy; (ii) Thông tin từ những hãng chuyên cung cấp dịch vụ dự báo rủi ro chính trị. Đó là các ngân hàng, chuyên gia phân tích
chính trị, các ấn phẩm mới xuất bản, và các dịch vụ đánh giá rủi ro.
Tất cả những dự đoán rủi ro này đều sử dụng các tiêu chí và phương pháp khác nhau. Nhiều hãng đưa ra các báo cáo rủi ro chính trị chi tiết kể cả mức độ
và nguồn gốc rủi ro cho mỗi quốc gia. Bởi vì dịch vụ này khá đắt đỏ, cho nên các doanh nghiệp và công ty nhỏ thường quan tâm những nguồn thông tin
miễn phí sẵn có.

Tác động đến đời sống chính trị địa phương: Công ty có thể tìm cách tác động đến chính trị địa phương thông qua hình thức vận động hành lang -
tiếp cận các nhà làm luật và các chính trị gia một cách trực tiếp hoặc thông qua những người trung gian để tuyên truyền về những lợi ích mà công ty có thể
mang lại cho địa phương. Mục đích cuối cùng là nhằm nhận được sự ủng hộ của luật pháp – các quy định luật pháp thuận lợi được thông qua, hoặc các
quy định không thuận lợi bị bác bỏ.

2.3. Môi trường luật pháp

2.3.1. Hệ thống luật pháp

Hệ thống pháp luật của một nước bao gồm các quy tắc và điều luật, nó bao gồm cả quá trình ban hành và thực thi pháp luật, và những cách mà theo đó toà
án chịu trách nhiệm về việc thực thi pháp luật của họ. Hệ thống pháp luật của một quốc gia chịu sự chi phối, ảnh hưởng tương tác lẫn nhau của các yếu tố
về văn hoá, chính trị,… Văn hoá của một đất nước ảnh hưởng đến sự hình thành và thực thi pháp luật. Yếu tố văn hoá ở đây bao gồm rào chắn của các
tầng lớp trong xã hội, niềm tin vào tôn giáo và người ta cũng nhấn mạnh đến tập quán và các dân tộc khác nhau. Nhiều bộ luật, quy tắc và nguyên tắc

7
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
thường được sử dụng để bảo vệ nền văn hoá và tôn giáo. Hệ thống pháp luật của một nước cũng ảnh hưởng bởi hệ thống chính trị. Các chế độ chuyên chế
thường nghiêng về sở hữu công cộng và việc ban hành pháp luật hạn chế hoạt động mang tính chất cá nhân.
Ngược lại, chế độ cộng hoà có xu hướng khuyến khích hoạt động của tư nhân, và bảo vệ các doanh nghiệp nhỏ thông qua luật quyền tài sản khá chặt chẽ.

Quyền và trách nhiệm của các đảng đối với hoạt động kinh doanh ở các dân tộc khác nhau thì khác nhau. Hơn nữa, chiến lược kinh doanh phải linh
hoạt mới thích nghi được hệ thống pháp luật khác nhau. Ví dụ luật bảo vệ tài sản trí tuệ khá quan trọng đối với các công ty quốc tế.

2.3.2. Các hệ thống luật pháp trên thế giới

Có ba hệ thống pháp luật chính được áp dụng trên thế giới: thông luật, dân luật và thần luật (luật mang màu sắc tôn giáo).

Thông luật - Hệ thống pháp luật dựa trên những yếu tố lỉch sử của luật pháp, dựa vào đó mà toà án xử lý những tình huống cụ thể. Thông luật bắt nguồn
từ Anh quốc vào thế kỷ thứ 17 và nó được công nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Một hệ thống thường luật phản ánh 3 nhân tố:

 Nhân tố truyền thống: là lịch sử pháp luật của quốc gia.

 Các tiền lệ: các quy ước có tính chất bắt buộc xuất hiện trước khi có toà án.

 Cách sử dụng: là những cách thức mà theo đó luật pháp được áp dụng cho một tình huống cụ thể.
Đối với thường luật, toà án giải quyết một trường hợp nào đó thông qua việc làm sáng tỏ các yếu tố lịch sử, tiền lệ, và cách sử dụng. Tuy nhiên mỗi bộ
luật được vận dụng khác nhau đôi chút trong mỗi tình huống cụ thể. Trong giao dịch kinh doanh tại các nước áp dụng hệ thống thông luật, hợp đồng kinh
doanh – là thoả thuận mang tính chất pháp lý giữa hai bên – có xu hướng có nội dài và phức tạp nhằm loại trừ nguy cơ tranh chấp giữa các bên bắt nguồn
từ sự diễn giải khác nhau. Các công ty phải xác định thời gian rõ ràng trong hợp đồng, và phải cam kết trả một khoản tiền lớn để nhận được sự tư vấn pháp
luật. Xét về mặt tích cực, thông luật khá linh hoạt. Thay vì áp dụng cứng nhắc trong mọi tình huống, hệ thống luật này có thể được sử dụng để xử lý những
trường hợp và tình huống cụ thể. Thông luật được áp dụng ở Australia, Anh, Canada, New Zealand, Mỹ và nhiều nước khác ở châu Á và châu Âu.

Dân luật (luật dân sự) - Luật dựa trên các quy định, quy tắc bằng văn bản. Luật dân sự là bộ luật lâu đời và thông dụng nhất trên thế giới, xuất hiện ở
Rome vào thế kỷ 15 trước công nguyên. Luật dân sự ít có sự đối lập như thông luật bởi vì nó không cần giải thích các điều luật theo lịch sử hình thành,
tiền lệ và cách sử dụng. Hợp đồng kinh doanh dựa trên luật dân sự thường có có nội dung ngắn gọn, việc soạn thảo đơn giản hơn, ít tốn kém thời gian và
chi phí hơn. Tất cả những quyền lợi và trách nhiệm đều trực tiếp thể hiện trong hợp đồng. Tuy nhiên, nhược điểm có bản của luật dân sự là tính cứng nhắc,
có xu hướng bỏ qua những tình huống đơn lẻ. Luật dân sự được áp dụng ở hầu hết các nước châu Âu lục địa, Cuba, Puerto Rico, Quebec và tất cả các
nước ở Trung và Nam Châu Phi.

Thần luật (luật thần quyền) - Luật dựa trên các nền tảng tôn giáo. Có ba luật thần quyền điển hình là luật đạo Hồi, luật Hindu và luật Do thái. Mặc
dù luật đạo Hin Đu được hạn chế tại Ấn Độ, nhưng nó vẫn ảnh hưởng lớn tới văn hoá và tâm linh của người dân nước này. Tương tự, luật Do Thái cũng
còn những ảnh hưởng nhất định. Luật Đạo Hồi có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất trong các luật thần quyền. Luật đạo Hồi là bộ luật đầu tiên bao trùm
yếu tố đạo đức và luân thường đạo lý, có ảnh hưởng đến đến các giao dịch thương mại. Luật này hạn chế những hình thức đầu tư được coi là xâm phạm
đến đạo đức trong kinh doanh. Ví dụ theo luật đạo Hồi, các ngân hàng không được tính lãi các khoản vay và lãi suất các chứng chỉ tiền gửi. Thay vì đó các
khoản đi vay này giúp ngân hàng có được lợi nhuận thông qua đầu tư, và những người cho vay có được thu nhập thông qua đầu tư của ngân hàng. Tương
tự những sản phẩm vi phạm đến đạo Hồi như rượu và thuốc lá đều bị cấm.

Các công ty hoạt động ở những nước tồn tại luật thần quyền phải hết sức lưu ý đến các yếu tố như tín ngưỡng, niềm tin và văn hoá địa phương. Họ
nên xem xét tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm những thông lệ và chính sách đầu tư sao cho đảm bảo phù hợp với không chỉ pháp luật mà
cả tôn giáo và văn hoá địa phương.

Nhìn chung, luật pháp liên quan đến chất lượng sản phẩm, trách nhiệm với sản phẩm, ô nhiễm môi trường, đối xử với công nhân được áp dụng rộng
rãi ở những nước Châu Âu và châu Mỹ hơn là ở những nước Châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh. Một số công ty quốc tế có thể khai thác những chuẩn mực
khác nhau ở những nước khác nhau. Ví dụ một công ty có thể sản xuất sản phẩm bị cấm ở một nước để bán sản phẩm đó sang nước khác. Vì vậy, sự khác
nhau của luật pháp làm nảy sinh vấn đề đạo đức trong hoạt động kinh doanh quốc tế.

2.3.3. Các vấn đề luật pháp quan trọng đối với doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Luật quốc tế

Hiện nay mặc dầu còn chưa được rõ ràng, nhưng hệ thống luật pháp quốc tế đã có những điểm chung nhất định. Luật quốc tế ảnh hưởng đến nhiều khu
vực, bao gồm quyền sở hữu trí tuệ, luật chống độc quyền, thuế, luật phân xử tranh chấp hợp đồng và những vấn đề thương mại nói chung. Bên cạnh đó,
nhiều tổ chức quốc tế khuyến khích việc áp dụng các chuẩn mực thống nhất. Trong số các tổ chức có Liên Hiệp Quốc, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD), Tổ chức về sự thống nhất của các luật tư nhân ở Rome đã đề ra các quy định cho kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên do hệ thống pháp luật ở các

8
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
nước còn có sự khác biệt đáng kể nên các công ty thường thuê các chuyên gia pháp luật ở những nước mà họ kinh doanh. Điều này có thể làm tăng chi
phí. Nhưng một điều thuận lợi, hệ thống pháp luật giữa các nước đều có chuẩn mực chung. Tuy nhiên, chuẩn mực đó không hoàn toàn đồng nhất trong hệ
thống pháp luật ở các nước.

Quyền sở hữu trí tuệ

Tài sản là kết quả do hoạt động trí tuệ của con người và những nguồn lực đó gọi là tài sản trí tuệ, ví dụ như tiểu thuyết, phần mềm máy tính, thiết kế, bí
quyết, phát minh, sáng chế, công thức chế tạo… Ví dụ như công thức làm nước giải khát của hãng Coca Cola. Xét về mặt kỹ thuật, nó là kết quả của sản
phẩm công nghiệp (hoặc là phát minh sáng chế hoặc nhãn hiệu đăng ký) hoặc bản quyền và vấn đề hạn chế độc quyền. Nhiều đạo luật bảo về quyền tài
sản được xây dựng – chứng nhận về nguồn gốc và bất kỳ thu nhập nào được tạo ra. Giống như các tài sản khác, tài sản trí tuệ cũng được mua bán, cấp giấy
phép nhằm thu được phí và các quyền lợi khác. Luật quyền tài sản được hình thành để bảo vệ và bồi thường trong trường hợp bị xâm phạm. Ở Mỹ và châu
Âu, các công ty luôn vận động chính phủ gây áp lực các nước khác thực thi mạnh mẽ các đạo luật bảo vệ tài sản. Cho đến nay, những nỗ lực đó đã được
đền đáp. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã áp dụng luật bảo vệ trí tuệ.

Quyền sở hữu trí tuệ có thể được chia thành quyền sở hữu công nghiệp và bản quyền tác giả.

Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm bằng sáng chế và nhãn hiệu đăng ký – thường là tài sản có giá trị nhất của công ty. Luật bảo vệ quyền sở hữu
công nghiệp được xây dựng nhằm bảo vệ những hoạt động sáng tạo và phát minh. Ở Mỹ Đạo luật bằng sáng chế Liên bang Mỹ được ban hành nhằm
khuyến khích mọi người đưa ra các phát minh sáng chế và áp dụng vào cuộc sống. Tương tự, luật nhãn hiệu đăng ký khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư
vào những sản phẩm mới và đảm bảo với người tiêu dùng rằng họ nhận được những sản phẩm giống nhau từ cùng một nhà sản xuất.

Bằng phát minh sáng chế: giấy cấp cho người phát minh hoặc là quá trình ngăn chặn những người khác làm, sử dụng và bán những phát minh đã được
đăng ký này. Bằng phát minh sáng chế yêu cầu những phát minh phải đảm bảo các yếu tố là mới và khả dụng.

Nhãn hiệu đăng ký: nhãn hiệu đăng ký là những từ hoặc các biểu tượng phân biệt sản phẩm và nhà sản xuất ra nó. Lợi ích của khách hàng là họ hiểu
được chất lượng sản phẩm mà họ mua sản phẩm của các hãng nổi tiếng. Nhãn hiệu được đăng ký bao gồm những từ ngữ và biểu tượng để phân biệt các
sản phẩm. Việc thực thi các chính sách có sự khác nhau ở các nước. Thế nhưng có một số chuẩn mực chung được áp dụng. Chẳng hạn như ở Liên minh
Châu Âu, các văn phòng bảo vệ quyền nhãn hiệu được mở để giúp cảnh sát điều tra những vi phạm ở bất cứ nước nào trong liên minh.

Bản quyền tác giả trao cho người sở hữu có quyền tự do xuất bản hoặc quyền quyết định về sản phẩm của mình. Bản quyền tác giả còn cho biết rõ
thời gian và tên người sở hữu. Một người sở hữu có những quyền sau:

 Quyền được tái xuất bản

 Quyền được nhận sản phẩm mới từ bản quyền

 Quyền được bán và phân phối các bản sao chép

 Quyền định đoạt sản phẩm từ bản quyền

 Quyền công bố bản quyền ra công chúng

Người sở hữu bản quyền gồm tác giả và nhà xuất bản như ở trong văn học, âm nhạc, chương trình phần mềm máy tính, nghệ sĩ, những bức tranh và hoạ sĩ.
Một bản quyền tác giả cấp cho sự biểu hiện cụ thể của ý tưởng, chứ không phải bản thân ý tưởng.

An toàn và trách nhiệm đối với sản phẩm

Hầu hết các nước đều có đạo luật bảo vệ sản phẩm, đưa ra các tiêu chuẩn áp dụng cho các nhà sản xuất. Trách nhiệm đối với sản phẩm yêu cầu các nhà
sản xuất, người bán và các đối tượng khác, gồm cả các nhân viên công ty phải có trách nhiệm đối với những thiệt hại, thương tích hoặc chết chóc do các
sản phẩm khuyết tật gây ra. Tổn thất có thể phải được bồi thường cả bằng tiền thông qua bộ luật dân sự và tiền phạt, hoặc có thể bị phạt tù theo luật hình
sự. Hoà giải phải được thực hiện thường xuyên trước khi vụ việc được đưa ra toà án. Nước Mỹ có bộ luật quy định về trách nhiệm sản phẩm khắt khe nhất
trên thế giới, tiếp theo là châu Âu. Các nước kém phát triển và các nước mới phát triển là kém nhất trong lĩnh vực này. Bởi vì lẽ đó, phí bảo hiểm và chi
phí pháp lý là cao hơn ở những nước có bộ luật quy định trách nhiệm đối với sản phẩm. Bồi thường cho những sản phẩm khuyết tật ở Mỹ cao hơn nhiều
lần ở những nước phát triển khác. Để thích nghi với những bộ luật quốc tế khác nhau có thể là quá trình phức tạp. Việc thực thi luật bảo đảm an toàn sản
phẩm có sự khác nhau giữa các nước.

9
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
Thuế

Chính phủ các nước dùng thu nhập từ thuế doanh thu cho nhiều mục đích. Tiền thuế được dùng để trả lương, xây dựng quân đội, điều hoà thu nhập từ
người giàu sang người nghèo. Chính phủ cũng đánh thuế trực thu, còn gọi là thuế tiêu dùng, nó phục vụ cho hai mục đích: i) khắc phục hậu quả của việc
tiêu dùng một sản phẩm nào đó; ii) làm cho hàng hoá nhập khẩu đắt hơn để bảo vệ sản xuất trong nước.

Thuế tiêu dùng được đánh trên những sản phẩm như rượu và thuốc lá để điều trị bệnh tật sinh ra từ việc tiêu dùng những sản phẩm này. Tương tự,
thuế đánh trên sản phẩm xăng dầu để xây dựng và sửa chữa cầu cống và đường xá. Thuế đánh trên những sản phẩm nhập khẩu giúp cho những sản phẩm
địa phương có lợi thế hơn về mặt giá cả.

Luật chống độc quyền

Các đạo luật chống độc quyền được xây dựng nhằm chống các công ty ấn định giá cả, chiếm lĩnh thị trường, và tận dụng những lợi thế độc quyền trên thị
trường. Những đạo luật như vậy sẽ đảm bảo cho khách hàng được tiếp cận những sản phẩm đa dạng với mức giá hợp lý. Mỹ là nước có đạo luật chống
độc quyền khắt khe nhất trên thế giới. Luật chống độc quyền ở Đức cũng tương tự.

Các công ty bị chế tài bởi luật chống độc quyền cho rằng họ bị mất lợi thế do phải chia sẻ thị phần với các đối thủ cạnh tranh trong nước. Vì vậy,
những công ty hoạt động ở những nước có đạo luật chống độc quyền thường được miễn thuế trong một số giao dịch quốc tế. Một số công ty nhỏ cho rằng
họ có thể có điều kiện cạnh tranh tốt hơn đối với các công ty quốc tế lớn nếu không vi phạm luật chống độc quyền. Trong khi thiếu vắng một tổ chức thực
thi đạo luật chống độc quyền, những mặt trái của đạo luật chống độc quyền phát sinh trong quá trình bảo vệ thị trường địa phương, chứ không phải là từ sự
cạnh tranh không công bằng nào.

2.4. Môi trường kinh tế

Hệ thống kinh tế của một quốc gia bao gồm cơ cấu và quá trình mà quốc gia dựa vào đó đó phân bổ các nguồn lực và thực hiện các hoạt động thương mại
của mình. Thông
thường người ta thường phân chia hệ thống kinh tế làm ba loại: tư bản chủ nghĩa (kinh tế thị trường - văn hoá định hướng cá nhân), xã hội chủ nghĩa (kinh
tế kế hoạch hoá tập trung - văn hoá định hướng tập thể) và kinh tế hỗn hợp. Thực tế không có một quốc gia nào thuần tuý theo hai thái cực: hoặc là kế
hoạch hóa tập trung hoặc là kinh tế thị trường, mà thươnhf có sự pha trộn nhất định. Tuy nhiên, mỗi quốc gia sẽ có thiên hướng về một trong hai loại hệ
thống kinh tế trên. Việc phân loại hệ thống kinh tế thường dựa trên hai tiêu chí sau đây:

• Cách thức sở hữu: công cộng hay tư nhân

• Cách thức phân bổ và kiểm soát các nguồn lực: Kinh tế thị trường hay kinh tế chỉ huy (nơi các nguồn lực được phân bổ và quản lý bởi Chính
phủ).

2.4.1. Các hệ thống kinh tế trên thế giới

Hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung

Một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là một hệ thống kinh tế trong đó đất đai, nhà xưởng và những nguồn lực kinh tế khác của quốc gia là thuộc sở hữu
Nhà nước. Chính phủ thực hiện gần như tất cả các quyết định liên quan tới kinh tế bao gồm: sản xuất như thế nào, sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, giá cả
của sản phẩm, của lao động và của vốn là như thế nào. Các cơ quan Nhà nước lập kế hoạch một cách tập trung nhằm xác định chỉ tiêu sản xuất cho các
đơn vị. Chẳng hạn ở Liên Xô cũ, chính phủ đã thiết lập và ấn định mức giá cho những mặt hàng thiết yếu như sữa, bánh mỳ và các hàng hoá khác. Trong
một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung Chính phủ được coi là người ra quyết định cao nhất và tốt hơn bất kỳ một nhà kinh doanh hay người tiêu dùng nào
trong việc phân bổ các nguồn lực. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bắt nguồn từ quan niệm cho rằng: phúc lợi của tập thể quan trọng hơn lợi ích của cá
nhân và hướng tới công bằng trên toàn xã hội.

Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX sự suy thoái của hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung bắt đầu xuất hiện. Các quốc gia bắt đầu thay thế nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung bằng nền kinh tế dựa vào thị trường. Sự suy thoái của hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung được coi là kết quả kết hợp
của bốn nguyên nhân chính sau đây:

Không tạo lập được giá trị kinh tế

Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ít quan tâm tới việc sản xuất những hàng hoá và dịch vụ có chất lượng ở mức chi phí tối thiểu. Các nhà lập kế hoạch
không nhận thấy rằng việc tạo ra giá trị kinh tế cho khách hàng và thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng là cở sở của sự thành công trong các hoạt động kinh
tế và kinh doanh. Chính vì vậy mà trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung các nguồn lực quốc gia đã không được phân bổ và sử dụng một cách hợp lý.

10
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
Không tạo ra động lực để thúc đẩy sự phát triển

Việc chính phủ sở hữu hầu hết các nguồn lực kinh tế làm suy giảm động lực tối đa hoá lợi ích thu được. Có rất ít động lực để tạo ra công nghệ mới, sản
phẩm mới, phương thức sản xuất mới…Kết quả là rất ít hoặc không có tăng trưởng kinh tế và mức sống người lao động luôn bị duy trì trong tình trạng
thấp.

Không đạt được mức độ phát triển như mong muốn

Sự phát triển kinh tế với tốc độ cao của bốn "con rồng" Châu Á (Hồng Kông, Singapo,

Hàn Quốc và Đài Loan) đã thức tỉnh các nước theo đuổi kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Các nước này nhận ra rằng một hệ thống kinh tế dựa trên sở hữu
tư nhân có khả năng thúc đẩy sự tăng trưởng tốt hơn là dựa vào nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.

Không thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng

Ở nhiều nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, mức sống của người dân thấp hơn nhiều so với các quốc gia theo đuổi kinh tế thị trường. Mặc dù về mặt
nguyên lý, kinh tế kế hoạch hoá tập trung với mục tiêu là tạo ra một hệ thống công bằng hơn đối với quá trình phân bổ lợi ích, nhưng hệ thống kinh tế này
đã không cung cấp đủ ngay cả những sản phẩm thiết yếu như thực phẩm, các dịch vụ công công, nhà ở hoặc những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống hàng ngày của người dân. Trong hệ thống kinh tế này, sự bất hợp lý trong việc phân bổ các nguồn lực cũng như cơ chế quản lý và điều tiết đã tạo
điêù kiện cho nền kinh tế ngầm của đủ loại hàng hoá và dịch vụ phát triển, mặt khác trong một vài trường hợp nền kinh tế này còn phát triển tràn lan vượt
trội so với nền kinh tế chính thức.
Thị trường “chợ đen” dường như đáp ứng tốt hơn nhiều nhu cầu của người tiêu dùng, tuy nhiên mức giá trên thị trường đen thường cao hơn nhiều so với
giá cả chính thức của Chính phủ.

Hệ thống kinh tế hỗn hợp

Nền kinh tế hỗn hợp là một hệ thống kinh tế trong đó đất đai nhà xưởng và những nguồn lực kinh tế khác được phân chia ngang bằng hơn giữa Chính phủ
và tư nhân. Các nền kinh tế hỗn hợp được đặc trưng bởi kết hợp khác nhau giữa thị trường và quản lý kế hoạch tập trung, giữa sở hữu tư nhân hay công
cộng các nguồn lực của quốc gia.

Trên thực tế, không có nền kinh tế thuần nhất thị trường hoặc hoàn toàn kế hoạch tập trung. Trong nền kinh tế hỗn hợp, chính phủ sở hữu các nguồn
lực kinh tế ít hơn là trong nền kinh tế kế hoạch tập trung và có xu hướng kiểm soát những lĩnh vực kinh tế được coi là quan trọng đối với sự phát triển bền
vững và an ninh quốc gia. Rất nhiều nền kinh tế hỗn hợp duy trì hệ thống phúc lợi để hỗ trợ cho những người thất nghiệp hay cung cấp dịch vụ y tế cho
toàn cộng đồng. Những nền kinh tế hỗn hợp trên thế giới được biết tới đó là: ở Tây Âu có Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Na Uy, Đan Mạch, Thuỵ Điển, ở Mỹ
Latinh có Braxin. Mặc dù chính phủ ở các quốc gia này không quản lý kinh tế bằng kế hoạch tập trung, nhưng đều can thiệp vào những hoạt động kinh tế
thông qua những công cụ khuyến khích, đặc biệt là việc trợ cấp cho những ngành mũi nhọn phát triển.

Những thành phần của nền kinh tế hỗn hợp cho thấy rằng một hệ thống kinh tế thành công không những chỉ quan tâm tới tính hiệu quả và sự cải tổ
mà còn phải tránh cho không rơi vào tình trạng chủ nghĩa cá nhân thái quá không có kiểm soát. Mục tiêu của nền kinh tế hỗn hợp là nhằm đạt được mức
thất nghiệp thấp, ít nghèo đói, tăng trưởng kinh tế vững chắc và phân phối công bằng thông qua những công cụ và chính sách hiệu quả nhất. Những người
ủng hộ nền kinh tế hỗn hợp đã chỉ ra rằng trong suốt những năm 1990 tốc độ tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế của Châu Âu và Hoa Kỳ là
gần như ngang nhau. Mặc dù Mỹ đã tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn nhưng bất công bằng trong xã hội cũng tăng thêm. Họ đã cho rằng những nền kinh
tế hỗn hợp không nên xoá bỏ những trung tâm phúc lợi xã hội mà nên hiện đại hoá chúng sao cho chúng góp phần làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Chẳng hạn, tại Hà Lan, tổ chức công đoàn đã thống nhất trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tiền lương, giảm giờ làm, công khai ngân sách, qui
định mới về làm việc bán thời gian hay tạm thời, các vấn đề liên quan tới lợi ích xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp của Hà Lan chỉ có 6,6%, thấp hơn bất
kỳ quốc gia Châu Âu nào trong thời gian nói trên.

Hệ thống kinh tế thị trường

Trong nền kinh tế thị trường phần lớn các nguồn lực của quốc gia như đất đai, nhà xưởng là thuộc sở hữu tư nhân, đó là các cá nhân hay doanh nghiệp.
Hầu hết các quyết định của nền kinh tế bao gồm sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, cho ai, giá cả ra sao được quyết định bởi sự tương tác giữa cung -
lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người sản xuất sẵn sàng cung cấp tại một mức giá nhất định, và cầu - lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua sẵn sàng
mua tại một mức giá nhất định. Khi cung và cầu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi về giá của hàng hoá hay dịch vụ. Giá cả và nhu cầu tương tác với nhau
theo mối quan hệ tỷ lệ nghịch có nghĩa là khi giá giảm thì nhu cầu sẽ có xu hướng tăng và ngược lại.

Nền kinh tế thị trường được bắt nguồn từ quan niệm cho rằng những mối quan tâm của cá nhân được đặt lên trên những mối quan tâm của tập thể.
Theo quan điểm này, tập thể sẽ thu được lợi ích khi cá nhân được khuyến khích và thưởng để hành động theo những cách khác nhau. Chẳng hạn nếu mọi
người được phép sở hữu nhà cửa thì họ sẽ quan tâm nhiều hơn tới tài sản đó của họ. Ngược lại, dưới một hệ thống sở hữu công cộng, các cá nhân sẽ ít có
động lực trong việc chăm lo cho tài sản mà họ không được sở hữu.

11
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
Đặc điểm của hệ thống kinh tế thị trường - Để hoạt động một cách trơn tru và hoàn hảo, một nền kinh tế thị trường cần 3 điều kiện: tự do lựa chọn,
tự do kinh doanh và giá cả linh hoạt.

 Tự do lựa chọn cho phép các cá nhân tiếp cận với những lựa chọn mua tuỳ ý. Trong một nền kinh tế thị trường, Chính phủ rất ít hạn chế và áp đặt
lên khả năng tự quyết định mua của người tiêu dùng và họ được tự do chọn lựa.

 Tự do kinh doanh cho phép các công ty tự quyết định sẽ sản xuất loại hàng hoá và dịch vụ nào, cạnh tranh trên thị trường nào. Họ được tự do gia
nhập vào những ngành nghề kinh doanh khác nhau, lựa chọn những đoạn thị trường và khách hàng mục tiêu, thuê nhân công và quảng cáo sản
phẩm của họ.

 Giá cả linh hoạt: Trong nền kinh tế thị trường sự thay đổi của giá cả đều phản ánh sự thay đổi trong tương quan giữa hai thế lực cung và cầu.
Trong khi đó ở những nền kinh tế phi thị trường Chính phủ thường áp đặt một mức giá nhất định (chẳng hạn việc Trung Quốc qui định giá sản
phẩm thuốc lá do doanh nghiệp Nhà nước sản xuất). Can thiệp vào cơ chế định giá là vi phạm vào nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường.

Vai trò của chính phủ trong một nền kinh tế thị trường - Trong một nền kinh tế thị trường, chính phủ rất ít khi can thiệp trực tiếp tới các hoạt động
kinh doanh. Tuy vậy, vai trò quan trọng của chính phủ được thể hiện ở bốn vấn đề sau đây:

• Thực hiện luật chống độc quyền: Khi một công ty có khả năng thống trị về cung một sản phẩm nào đó và chi phối giá sản phẩm đó trên thị trường
thì được coi là độc quyền. Mục tiêu của chống độc quyền là khuyến khích sự phát triển của các ngành với nhiều doanh nghiệp cạnh tranh nhất tới
mức mà thị trường có thể duy trì. Do tác động của cạnh tranh, giá sản phẩm sẽ được giữ ở mức thấp. Thông qua các điều luật chống độc quyền
Chính phủ ngăn chặn việc các doanh nghiệp gây áp lực đối với người tiêu dùng thông qua định giá sản phẩm cao đồng thời tạo môi trường cạnh
tranh tự do cho các doanh nghiệp.

• Bảo vệ quyền sở hữu tài sản: Một nền kinh tế thị trường hoạt động trơn tru đều phải dựa trên một hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo quyền tài sản
cá nhân. Bằng cách này chính phủ có thể khuyến khích các cá nhân và công ty chấp nhận rủi ro chẳng hạn như đầu tư vào công nghệ, sáng tạo sản
phẩm mới, và khởi xướng các lĩnh vực kinh doanh mới. Một khi quyền sở hữu tài sản được bảo đảm chắc chắn, các chủ doanh nghiệp tin tưởng
rằng những tài sản và lợi nhuận tiềm năng của họ sẽ được pháp luật bảo hộ.

• Thực thi một chính sách tài khoá và tiền tệ ổn định: Tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao là những yếu tố dẫn tới bất ổn chung cho sự phát triển bền
vững của quốc gia cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ có thể điều tiết lạm phát thông qua các chính sách tài khoá (tác
động tới thuế và chi tiêu) hay các chính sách tiền tệ (kiểm soát lượng cung tiền và lãi suất). Một môi trường kinh tế ổn định có thể giúp các công
ty dự đoán trước chi phí, doanh thu và tương lai của hoạt động kinh doanh nói chung. Nó cũng làm giảm những rủi ro liên quan tới các khoản đầu
tư trong tương lai , chẳng hạn như phát triển sản phẩm hay mở rộng kinh doanh.

• Bảo đảm sự ổn định về chính trị: Một chính phủ ổn định trong một nền kinh tế thị trường là điều kiện để các hoạt động kinh tế diễn ra suôn sẻ và
hiệu quả. Chính trị ổn định đảm bảo cho các doanh nghiệp không còn phải lo ngại trước những rủi ro chính trị có thể đe dọa hoạt động kinh doanh
của họ.

2.4.2. Đánh giá trình độ phát triển của các quốc gia

Trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia được xác định trên cơ sở so sánh phúc lợi kinh tế mà người dân dược hưởng thụ giữa các quốc gia. Trình độ
phát triển kinh tế được thể hiện qua các chỉ số liên quan tới phát triển kinh tế và con người như: sản lượng kinh tế của quốc gia (sản lượng nông nghiệp và
công nghiệp), cơ sở hạ tầng (năng lượng và phương tiện giao thông vận tải), tình trạng sức khoẻ và trình độ giáo dục của dân cư. Sự khác biệt về văn hoá,
chính trị pháp luật và kinh tế có thể gây ra sự khác biệt lớn về phát triển kinh tế giữa các quốc gia.

Chỉ tiêu thu nhập

GNP (Tổng sản phẩm quốc dân)- Là một chỉ tiêu quan trọng và mang tính tổng thể. Nó được coi như là cách để đo lường "giá trị thị trường của hàng hoá
và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi các yếu tố sản xuất trong nước". GNP bao gồm tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cộng với thu nhập ròng từ nước
ngoài. Thông thường, GNP được hiểu là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ do một quốc gia tạo ra trong thời kỳ một năm.

GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) - GDP là giá trị hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong thời kỳ một năm.

Thu nhập bình quân đầu người: GNP người hoặc GDP/người – Đối với các công ty thì chỉ tiêu này cho thấy liệu người dân của quốc gia nào đó có
khả năng mua sản phẩm của công ty hay không. Các công ty thường dùng chỉ tiêu này để xác định xem liệu người dân của quốc gia nào đó có khả năng
mua sản phẩm của mình hay không. Chẳng hạn một quốc gia như Myanmar với GDP/người là khoảng 120$/năm thì không thể đánh giá là thị trường cho

12
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2
tiêu thụ loại quần Jean đắt tiền hay các sản phẩm máy vi tính, nhưng lại là thị trường phù hợp với những sản phẩm vệ sinh cá nhân như kem đánh răng,
dầu gội đầu, các chất tẩy rửa…

Chỉ số phát triển con người - HDI

Thu nhập là chỉ số giúp phản ánh sự chênh lệch về mức độ phát triển giữa các quốc gia tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở việc cho thấy tổng phúc lợi dân cư của
một quốc gia nào đó. Liên Hợp Quốc đã đưa ra một chỉ số phát triển con người viết tắt là HDI - Human
Development Index. Đây là một chỉ tiêu tổng hợp dùng để xác định mức độ mà cá chính phủ đáp ứng cho nhu cầu của dân chúng dựa trên ba khía cạnh
chủ yếu:

 Sức khỏe (Tuổi thọ trung bình)

 Tri thức (Giáo dục)

 Thu nhập bình quân

Không giống như các chỉ tiêu khác, HDI không nhấn mạnh vào vấn đề tài chính mà nhấn mạnh vào khía cạnh con người của phát triển kinh tế. HDI
chứng tỏ rằng: chỉ tiêu thu nhập quốc dân cao không hoàn toàn nói lên mức cải thiện con người mặc dù GNP là một chỉ tiêu rất quan trọng. Điều này có
nghĩa là một quốc gia có thể có GNP bình quân đầu người cao nhưng chưa chắc đã chiếm ví trị cao trong xếp hạng theo HDI.

Phân loại các quốc gia theo cấp độ phát triển

Thông thường các quốc gia được phân thành ba loại: các nước phát triển, các nước mới công nghiệp hoá và các nước đang phát triển. Sự phân loại này dựa
trên một số chỉ tiêu như GNP/ người, tỷ lệ dân cư làm nông nghiệp, tỷ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu trong tổng sản phẩm xuất khẩu, cơ cấu kinh
tế… Các quốc gia phát triển - Developed countries

Những quốc gia phát triển là những quốc gia đã công nghiệp hoá ở mức độ cao và đạt hiệu quả cao đồng thời người dân có chất lượng cuộc sống cao.
Những quốc gia này thường có hệ thống giáo dục và y tế tốt nhất trên thế giới. Những quốc gia được xếp vào nhóm phát triển này bao gồm Mỹ, Nhật Bản,
Canada, Australia, New Zealand, các nước
Tây Âu, Bắc Âu.

Các quốc gia đang phát triển - Developing countries

Những quốc gia có cơ sở hạ tầng lạc hậu, có mức thu nhập thấp nhất trên thế giới được liệt vào diện các quốc gia đang phát triển. Phần lớn các quốc gia
thuộc nhóm này thường dựa vào một hoặc một vài ngành nghề sản xuất chẳng hạn như nông nghiệp, khai khoáng hay khai thác dầu mỏ. Những quốc gia
thuộc nhóm này hầu hết là ở Châu Phi, Trung Đông và những quốc gia nghèo nhất ở Châu Âu và Châu Á.

Những nước công nghiệp mới - Newly Industrialized Countries - NICs

Những quốc gia thuộc nhóm này là những quốc gia gần đây đã đạt tốc độ tăng trưởng cao trong tỷ trọng của sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp. Những quốc gia này chủ yếu nằm ở Châu Á và Mỹ Latinh. Mặc dù khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á đã làm giảm tốc độ tăng trưởng của
các quốc gia này từ năm 1997, nhưng danh sách các quốc gia thuộc nhóm này vẫn bao gồm 4 "con hổ" Châu Á là Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và
Đài Loan. Ngoài ra, một số nước khác cũng được xếp trong danh sách này là Nam Phi, Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Mehico và Thái Lan.
Những quốc gia đang tiến tới để đạt được những chỉ tiêu cho nhóm này là Achentina, Chi Lê, Indonexia, Philipin, Brunei, Cộng hoà Séc, Hungary, Phần
Lan, Nga, Slovakia, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.

13
Quản trị Kinh doanh Quốc tế – Bài 2

You might also like