Professional Documents
Culture Documents
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.”
Ta có thể hiểu, văn hóa là một phạm trù chỉ các giá trị, tín ngưỡng, luật lệ và thể chế do
một nhóm người xác lập nên.
Ví dụ: Ở châu Á, giày dép phải để bên ngoài không được mang vào trong nhà; Người
Ấn Độ gật đầu khi họ muốn nói từ chối, và lắc đầu khi muốn nói đồng ý/có; việc mặc
quần áo ở các nước Ả rập.
Môi trường chính trị của các quốc gia phản ánh khả năng phát triển của quốc gia đó cả
đối nội và đối ngoại.
Đường lối, định hướng của Đảng cầm quyền ảnh hưởng quyết định đến xu hướng đối
nội, đối ngoại và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Sự tác động của môi trường chính trị ảnh hưởng vĩ mô đến môi trường hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Tính ổn định về chính trị là nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi
trường nước ngoài.
Có sự ổn định về chính trị sẽ có điều kiện để ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh hoá
xã hội
2.2.1.4 Rủi ro chính trị
Tất cả các công ty thực hiện kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia đều phải
đối mặt với rủi ro chính trị - cụ thể sự thay đổi về chính trị có ảnh hưởng xấu đến công
việc kinh doanh. Rủi ro chính trị có thể đe dọa đến thị trường xuất khẩu, điều kiện sản
xuất, hoặc gây khó khăn cho nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về trong nước.
Rủi ro chính trị phát sinh là do nhiều nguyên nhân. Bao gồm những nguyên nhân sau:
Sự lãnh đạo chính trị yếu kém;
Chính quyền bị thay đổi thường xuyên;
Sự dính lúi đến chính trị của các nhà lãnh đạo tôn giáo và quân đội;
Hệ thống chính trị không ổn định;
Những vụ xung đột về chủng tộc, tôn giáo và các dân tộc thiểu số
Sự liên kết kém chặt chẽ giữa các quốc gia.
2.2.1.4 Rủi ro chính trị
Rủi ro chính trị có thể được phân thành nhiều loại dưới các góc độ tiếp cận
khác nhau Nếu căn cứ vào phạm vi tác động có thể phân rủi ro chính trị
thành 2 loại cơ bản sau
Rủi ro vĩ mô: đe dọa đến tất cả các doanh nghiệp không trừ một ngành
nào. Rủi ro vĩ mô ảnh hưởng đến hầu hết các doanh nghiệp cả doanh
nghiệp trong và ngoài nước;
Rủi ro vi mô: là loại hình rủi ro chính trị chỉ tác động đến những công
ty trong một ngành nào đó
2.2.2 Yếu tố pháp luật
2.2.2.1 Các hệ thống luật pháp trên thế giới.
a) Thông luật (Common Law)
Thông luật: Tòa án giải quyết một trường hợp nào đó thông qua việc làm sáng tỏ các
yếu tố lịch sử, tiền lệ và cách sử dụng. Tuy nhiên, mỗi bộ luật được vận dụng khác
nhau một chút trong mỗi tình huống.
Luật phổ thông bắt nguồn từ Anh quốc vào thế kỷ thức XVII và nó được công nhận ở
nhiều quốc gia trên thế giới như Anh, Canada, New Zealand, Mỹ...
Hệ thống luật pháp dựa trên những yếu tố lịch sử của luật pháp, dựa vào đó mà toàn án
tiến hành xử lý những tình huống cụ thể.
Một hệ thống thông luật phản ánh 3 nhân tố:
Nhân tố truyền thống: là lịch sử pháp luật của một quốc gia;
Các tiền lệ: Các quy ước có tính chất bắt buộc xuất hiện trước khi có tòa án;
Cách sử dụng: Là những cách mà theo đó luật pháp được áp dụng cho một tình
huống cụ thể.
2.2.2.1 Các hệ thống luật pháp trên thế giới.
b) Luật Dân sự (Civil Law)
Dựa trên các quy định chuẩn tắc bằng văn bản
Nó không cần giải thích các điều luật theo lịch sử hình thành, tiền lệ và cách
sử dụng.
Tất cả quyền lợi và trách nhiệm đều trực tiếp thể hiện trong hợp đồng
Chi phí về thời gian và tiền bạc ít tốn kém hơn, nhưng luật dân sự có xu
hướng bỏ qua những tình huống đơn lẻ
Luật được áp dụng tại Cuba, Puerto Rico, Quebec và tất cả các nước Trung
và Nam Phi.
2.2.2.1 Các hệ thống luật pháp trên thế giới.
c) Luật tôn giáo (religious law)
Luật Tôn giáo là một hệ thống pháp lí bị ảnh hưởng rõ rệt của tôn giáo,
nguyên tắc đạo lí và các giá trị đạo đức được xem như là một hiện thân tối cao.
Hệ thống luật Tôn giáo quan trọng nhất được dựa trên các đạo luật của Ấn Độ
giáo, Do Thái và Hồi giáo. Trong số đó, phổ biến nhất là luật Hồi giáo,
Luật hồi giáo được dựa trên Shari’ah, luật thực hiện từ kinh Koran Qur’an, là
các văn bản thiêng liêng của Hồi giáo. Thể hiện đạo đức hồi giáo và các nhiệm
vụ đạo đức trong cuộc sống. Tuy nhiên nó cũng chưa quy tắc áp dụng để tiến
hành kinh doanh, chẳng hạn như hướng dẫn chung về cần phải tôn trọng hợp
đồng và hành vi phù hợp trong các giao dịch thương mại
2.2.2.2 Các vấn đề pháp luật toàn cầu
a)Tiêu chuẩn hóa
Bởi vì hệ thống pháp luật khác nhau ở mỗi nước, cho nên các công ty thường thuê
các chuyên gia pháp luật ở những nơi mà họ kinh doanh. Điều này có thể làm tăng
chi phí..
Mặc dù, hệ thống pháp luật quốc tế không được rõ ràng, nhưng bước đầu đã có
những điểm chung. Luật quốc tế ảnh hưởng đến nhiều khu vực, bao gồm quyền sở
hữu trí tuệ, luật chống độc quyền, thuế, luật phân xử tranh chấp hợp đồng và
những vấn đề thương mại nói chung.
Bên cạnh đó, nhiều tổ chức quốc tế khuyến khích việc áp dụng các chuẩn mực.
Trong số các tổ chức có Liên Hợp Quốc (UN), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD), Tổ chức về thống nhất của các luật tư nhân ở Rome đã đưa ra các quy
định cho kinh doanh quốc tế. Để tháo gỡ các rào chắn cho các công ty hoạt động
trên thị trường Tây Âu, Liên hiệp Châu Âu cũng tiêu chuẩn hóa hệ thống pháp luật
của các nước trong hiệp hội.
2.2.2.2 Các vấn đề pháp luật toàn cầu
b) Sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ đề cập đến tài sản là sản phẩm của hoạt động trí tuệ, chẳng hạn như
phần mềm máy tính, kịch bản phim, bản nhạc,...
Trong nền kinh tế “tri thức” công nghệ cao của thế kỉ 21, sở hữu trí tuệ ngày càng
trở nên khó khăn
Hiện có 188 nước thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới, mặc dù đã kí
kết các hiệp ước quốc tế về bảo vệ sở hữu trí tuệ nhưng vẫn còn một số quốc gia
vi phạm.
2.2.2.2 Các vấn đề pháp luật toàn cầu
c) Sự đảm bảo và trách nhiệm đối với sản phẩm
Trách nhiệm sản phẩm (product liability) là trách nhiệm của người sản xuất
hoặc người bán hàng trong việc bồi thường các thiệt hại gây ra bởi khuyết tật
của hàng hóa mà họ đã cung cấp cho người tiêu dùng trong quá trình kinh
doanh
MÔI TRƯỜNG KINH KẾ
1. Khái niệm.
Môi trường kinh tế trong tiếng Anh là Economic Environment. Đó là một tập hợp nhiều yếu tố có ảnh
hưởng sâu rộng và theo những chiều hướng khác nhau đến hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Các yếu tố kinh tế chủ yếu bao gồm: Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế (GDP), kim ngạch xuất nhập khẩu,
tình trạng lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá, lãi suất ngân hàng, tốc độ đầu tư, thu nhập bình quân đầu người và
cơ cấu chi tiêu, sự phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, thu chi ngân sách nhà nước.
*Tầm quan trọng của việc phân tích môi trường kinh tế
Để đánh giá một cách đúng đắn mức độ thu hút kinh doanh nước ngoài của một quốc gia để đưa ra quyết
định kinh doanh tại quốc gia đó phụ thuộc nhiều vào khả năng của nhà quản lý trong việc nhận biết được
bản chất của một nền kinh tế và triển vọng kinh doanh tại đó
2. Phân tích môi trường kinh tế
• Việc phân tích môi trường kinh tế chi phối quyết định lựa chọn quốc gia kinh doanh của nhà đầu
tư.
• Chưa có tổ chức nào đánh giá toàn bộ môi trường kinh doanh của các nước.
• Việc đánh giá môi trường kinh tế tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể của mỗi nhà đầu tư.
• Khó có thể đưa ra tập hợp những chỉ số kinh tế chung để đánh giá chính xác nền kinh tế hay dự
đoán tiềm năng của một quốc gia.
• Khó xác định được mối quan hệ giữa các chỉ số này với những yếu tố khác
3. Chỉ số đánh giá môi trường kinh tế
• Ví dụ, giá trị của xe thể thao Ford (SUV) làm ở Hoa Kỳ và phần giá trị của Ford SUB làm ở
Mehicô sử dụng vốn và quản lý của Hoa Kỳ, tất cả đều được tính trong GNI của Hoa Kỳ. Ngược
lại, phần giá trị của xe Toyota Nhật. SUV sản xuất ở Hoa Kỳ, nhưng sử dụng vốn và quản lý của
Nhật lại tính vào GNI của Nhật chứ không phải Hoa Kỳ. Bảng 4.1 cho thấy 10 nền kinh tế lớn
nhất thế giới tính theo GNI.
*Tổng sản phẩm nội địa
• Tổng sản phẩm nội địa: GNI là thước đo bao quát nhất của các hoạt động kinh tế trong một nước. Một
phần cơ bản cấu thành GNI là tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product – GDP) – là tổng giá trị
của mọi hàng hóa dịch vụ được sản xuất trong biên giới của một quốc gia trong vòng 1 năm, không phân
biệt các chủ thể kinh tế nội địa hay nước ngoài. Do đó, GDP đặc biệt có ích khi kinh doanh quốc tế đóng
góp đáng kể trong nền kinh tế của các nước được đánh giá; ví dụ, gần 90% hàng xuất khẩu của Ireland là
từ doanh nghiệp nước ngoài.
• GNI là thước đo trực tiếp về quy mô tuyệt đối của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng GNI, các nhà
kinh doanh có thể lầm lẫn trong việc lựa chọn quốc gia để kinh doanh.
Ví dụ, các cường quốc kinh tế như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Đức đều đứng ở đầu bảng xếp hạng về GNI, gây
ấn tượng là các quốc gia này giàu có hơn nhiều các nước như Ireland hoặc Luxembourg.
->Vì vậy, các nhà quản lý nên sử dụng GNI bằng cách kết hợp chỉ tiêu này với dân số, tốc độ phát triển,
chi phí sinh hoạt địa phương và sự bền vững của nền kinh tế.
*Tính toán các chỉ số trên đầu người
• Cách phổ biến nhất là chia GNI cũng như nhiều chỉ báo kinh tế khác theo số người sống trong một quốc
gia để tìm ra chỉ số GNI/GDP... dựa trên đầu người.Những chỉ số này có thể cho biết GNI/GDP tương
đối của quốc gia. Một cách kỹ thuật, ta tính GNI trên đầu người bằng cách chia giá trị của GNI đã được
chuyển đổi sang một đồng tiền tiêu chuẩn, ví dụ như đồng USD, theo tỷ giá hối đoái phổ biến, rồi chia
cho dân số.
*Mức độ phát triển con người:
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các chỉ số như GNI, PPP... quá tập trung vào tăng trưởng chỉ dựa
trên các chỉ báo về tiền tệ mà bỏ qua tầm vóc và phạm vi của mức độ phát triển. Các nhà quản lý
có thể giải quyết các quan ngại trên bằng cách xem xét mức độ phát triển con người của quốc gia
(Human development Index - HDI) – dựa trên các nhân tố xã hội và kinh tế - để ước lượng các
hoạt động kinh tế hiện tại và tương lai.
*Mức độ phát triển con người
-Chỉ số Phát triển Con người của Liên Hiệp Quốc: từ cách nhìn nhận trên, Liên Hiệp Quốc đã đưa
ra Báo cáo Phát triển Con người dựa trên Chỉ số Phát triển Con người (Human Development
Index –HDI). Cụ thể hơn, chỉ số HDI đo lường thành tựu trung bình của một nước ở 3 phương
diện:
• Kiến thức, tính theo tỉ lệ người trưởng thành biết chữ và được giáo dục cơ bản, cấp 2, và tổng tỉ
lệ giáo dục cấp cao hơn.
• Mức sống, đo lường bằng GNI đầu người theo PPP bằng USD.
*MỘT SỐ CHỈ TIÊU KHÁC
Liên Hiệp Quốc đã bổ sung thêm một số chỉ số khác để đánh giá tốt hơn về giới và nghèo đói trong phát
triển như:
• Chỉ số phát triển giới (Gender – Related Development): điều chỉnh bất bình đẳng giới, đo lường mức
bất bình đẳng giữa nam và nữ về tuổi đời, sức khỏe, học thức và mức sống
• Chỉ số bình đẳng giới (Gender Empowerment): đánh giá cơ hội của phụ nữ ở một nước bằng cách xem
xét sự bất bình đẳng trong việc tham gia chính trị và ra quyết định, tham gia kinh tế và quyền kiểm soát
đối với các tài nguyên kinh tế
• Chỉ số nghèo đói (Human Poverty): ước lượng mức sống của một nước bằng cách đo lường sự nghèo
đói và rào cản cho việc lựa chọn, cơ hội để sống như người ta muốn
*Chỉ số đo lường Xanh (Green Measures) của GNP:
• Trước sự quan tâm ngày một lớn đến môi trường, nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra một số chỉ số
Xanh của GNP. Các chỉ số Xanh của nền kinh tế quốc dân nhằm đo lường kết quả của nền kinh tế
dựa trên phát triển bền vững. Các nhà kinh tế học xanh tuyên bố rằng kinh tế thế giới là một bộ
phận cấu thành và phụ thuộc vào thế giới tự nhiên. Do đó, sẽ là sai lầm nếu chỉ quan tâm đến các
chỉ số như GNI và GNP.
-THẤT NGHIỆP
• Thất nghiệp là số nhân công muốn làm việc những không tìm được việc. Tỉ lệ thất nghiệp là lượng
nhân công thất nghiệp đang tìm kiếm việc làm có trả lương chia cho tổng lực lượng lao động.
Nhưng quốc gia không thể tạo được việc làm cho công dân sẽ tạo ra môi trường kinh doanh rủi ro.
Thất nghiệp sẽ làm suy giảm tăng trưởng kinh tế, tạo áp lực xã hội cũng như bất ổn chính trị. Do
đó, tỷ lệ thất nghiệp sẽ cho thấy đất nước đó có sử dụng nhân lực hiệu quả hay không.
• Ngoài ra, một số nhà kinh tế còn đề ra chỉ số nghèo khổ (misery index), là tổng của tỉ lệ lạm phát
và tỉ lệ thất nghiệp. Tổng này càng cao thì mức độ tồi tệ của nền kinh tế càng lớn, người tiêu dùng
và doanh nghiệp càng ngại tiêu dùng và đầu tư.
*Các chỉ số đo lường kinh tế khác
-NỢ
Nợ là tổng lượng cam kết tài chính của chính phủ, bao gồm lượng tiền nhà nước mượn từ dân chúng,
từ các tổ chức nước ngoài, các chính phủ khác, hoặc từ các định chế quốc tế. Tổng nợ càng lớn thì
nền kinh tế đất nước càng bất ổn. Trong hiện tại, nợ làm phát sinh chi phí trả lãi, làm ảnh hưởng đến
việc đầu tư cho sản xuất. và trong tương lai, do dân chúng lo lắng về khả năng thanh toán nợ của
chính phủ.
-PHÂN PHỐI THU NHẬP
Ngay cả khi được tính trên quy mô dân số và PPP thì GNI hay GDP vẫn chưa phản ánh chính xác thu
nhập của công dân một nước vì các báo cáo chỉ cho biết mức GNI và GDP bình quân. Vì không phải ai
cũng có mức thu nhập trung bình nên cả 2 chỉ số này đều không thể cho chúng ta biết thu nhập được
phân phối cho các khu vực dân cư như thế nào. Ví dụ GNI của Brazil là 1.4 nghìn tỉ USD, một thứ
hạng tương đối cao trên thế giới, và GNI bình quân đầu người của quốc gia này đạt mức gần 3.500
USD – mức khá cao trong khu vực