ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC CỦA ĐẢNG
TỪ NĂM 1954 ĐẾN 1975
1954-1957 - Trong hơn 2 năm (1954 - 1956), qua 5 đợt cải cách ruộng đất (kể cả đợt 1 tiến hành trong kháng chiến), miền Bắc đã tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn hécta ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ chia cho 2 triệu hộ nông dân lao động. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. - khôi phục công nghiệp, nông nghiệp và các nghành thủ công nghiệp và đẩy mạnh văn hóa, giáo dục, kinh tế 1958 – 1960 - Trong ba năm (1958-1960), miền Bắc lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa làm trọng tâm: cải tạo đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ, công thương nghiệp tư bản tư doanh, khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp. - Thực hiện chủ trương trên, khắp nơi trên miền Bắc sôi nổi phong trào vận động xây dựng hợp tác xã. 1961-1965 Tổ chức đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) - Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất + Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp. + Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa. + Củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh. + Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. + Củng cố quôc phòng, tăng cường trật tự và an ninh xã hội. 1965-1968 Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại - Chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, quân sự hóa toàn dân, đắp công sự, đào hầm, sơ tán... để tránh thiệt hại về người và của, tiếp tục chiến đấu và sản xuất. Hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ sản xuất. - Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân dân miền Bắc thi đua chống Mỹ, đạt nhiều thành tích lớn trong chiến đấu và sản xuất. Miền Bắc vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương - Miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt, phấn đấu “mỗi người làm việc bằng hai”. Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. - Trong 4 năm (1965 - 1968) đưa hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội vào Nam chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng, cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men,… tăng gấp 10 lần so với trước. 1968 – 1973 - Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội - Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương 1973 – 1975 Sau Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam, Mĩ rút hết quân về nước. Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam.
CHƯƠNG 2 PHẦN II ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MĨ XÂM LƯỢC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 1954 1975
I.Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng hai miền Nam-Bắc (1954 - 1960) I. Tình hình nước ta sau Hiệp định Giơnevơ 1954: - 1.1 Sơ lược về hoàn cảnh lịch sử