You are on page 1of 10

MB:

Có những “bài ca không bao giờ quên”, cũng có những năm tháng chiến tranh không phai mờ trong ký ức. Cùng với khí thế
sôi sục của những năm mưa bom bão đạn, văn học, với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách sống động tượng
đài của những chiến sĩ anh hùng kiên trung. Để ngày hôm nay lòng ta không khỏi bùi ngùi xúc động khi đọc lên những câu
thơ bất hủ trong áng thơ “Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng”.
KB:
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học
với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh
hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Trong thơ Quang Dũng, ông đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp xâm lược nước ta, và “Tây Tiến” chính là bức tượng đài đặc biệt ấy, mãi sáng ngời trong lòng dân tộc Việt Nam”!
Đánh giá chung:
- Đoạn thơ chỉ là khúc nhạc dạo đầu của nỗi nhớ chảy dọc mạch thơ Tây Tiến song cũng đã ghi lại những vẻ đẹp riêng của
thiên nhiên, cuộc sống, nhất là vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
- Nỗi nhớ mà Quang Dũng gửi trong đoạn thơ, bài thơ cũng là nỗi nhớ chung của những ai từng đi qua vùng đất miền Tây,
từng trải qua những năm tháng chiến đấu đầy gian lao của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên
nhiên, con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp
trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
- Nghệ thuật: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa ở cách xây dựng hình ảnh, bút pháp
hiện thực kết hợp với lãng mạn, nghệ thuật tương phản, nhân hóa, cách sử dụng từ ngữ, thể thơ thất ngôn trường thiên...
- Nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa một cách sống động về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh
người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng.
=> Đoạn thơ xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về hình ảnh người lính trong những ngày đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
III. Từ đó, nhận xét về vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng được thể hiện trong đoạn thơ.
* Vẻ đẹp lãng mạn:
- Vẻ đẹp lãng mạn cách mạng trong văn học kháng chiến nói chung và trong Tây Tiến nói riêng là con người dù phải đối
mặt với chồng chất khó khăn và hi sinh nhưng họ vượt lên mọi thử thách bằng bản linh và niềm tin kiên định, họ luôn giữ
được tinh thần lạc quan, yêu đời và vẻ đẹp lí tưởng hào hùng.
- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến được thể hiện trong đoạn thơ qua bút pháp tương phản giữa điều kiện chiến đấu
gian khổ, bị hanh hạ bởi căn bệnh sốt rét rừng “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” thế nhưng kề sát hình ảnh này, lại là
những âm điệu khỏe khoắn đầy kiêu hanh “Tây Tiến đoàn binh” là “dữ oai hùm” Những ngôn từ đã cộng hưởng tô đậm
sức mạnh uy hùng chứa đựng thần thái oai phong, lẫm liệt của những chàng chiến binh Tây Tiến.
- Cảm hứng lãng mạn trong đoạn trích và toan tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, của những chàng lính Hà
Thành, tạo nên một giai điệu riêng của Quang Dũng trong một giai đoạn văn học.
* Tinh thần bi tráng.
- Vẻ đẹp bi tráng của một hình tượng nghệ thuật nói chung được hiểu là vẻ đẹp vừa có tính chất bi ai - buồn thảm làm não
lòng người, vừa có tính chất hùng tráng - mạnh mẽ và gây được ấn tượng.
- Trong bài thơ Tây Tiến, có thể hiểu chất bi tráng được tỏa sáng khi người lính đối mặt với cái chết - thử thách nghiệt ngã
nhất thế nhưng vẻ đẹp lý tưởng của họ đã được tô đậm qua những triết lý sống cao đẹp tựa như lời thề khắc vào sông núi, là
sự ra đi thanh thản nhẹ tựa hồng mao, là không khí thiêng liêng trang trọng của sắc áo bào và tiếng gầm của sông Mã khiến
cảm xúc đọng lại là lòng tự hào, kiêu hãnh.
- Vẻ đẹp bi tráng đã góp phần tạo nên vẻ đẹp của bức tượng đài người anh hùng bất tử, tạo nên nét độc đáo của phong cách
thơ Quang Dũng: lãng mạn, hào hoa.
Với bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp lãng mạn, thể thơ thất ngôn trường thiên, sử dụng hình ảnh cổ kính gợi sự
sang trọng, ngôn ngữ tài hoa, sử dụng từ Hán - Việt kết hợp với từ thuần Việt. - Đoạn thơ đã khắc họa rõ nét chân dung
người lính Tây Tiến như một bức tượng đài bất tử về người lính vô danh một thời đánh giặc không thể nào quên, đó là vẻ
đẹp lẫm liệt, hào hùng và sang trọng, đầy chất lãng mạn và bi tráng.
1. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TÂY TIẾN
- Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng của núi rừng Tây Bắc.
Qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian
khổ , thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng…
- Khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền
Tây tổ quốc.
-> ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó máu thịt với đoàn binh Tây Tiến của tác giả Quang Dũng => Chất lãng mạn bi
tráng là vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ Quang Dũng
2. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TÂY TIẾN
- Những sáng tạo nghệ thuật của Quang Dũng với bút pháp tạo hình đa dạng đã dựng nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc
hùng vĩ, thơ mộng và hình ảnh của người lính Tây Tiến với những đường nét khỏe khoắn, mạnh mẽ.
- Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng tạo nên giọng điệu riêng cho thơ Quang Dũng với nhiều sáng tạo
về hình ảnh, ngôn ngữ độc đáo, vừa có nét cổ kính, vừa mới lạ
+ Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú
+ Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo
(nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…), tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm.
+ Giọng điệu: Khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng…
=> Được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ thuật.

1
Khổ 1:
Có những “bài ca không bao giờ quên”, cũng có những năm tháng chiến tranh không phai mờ trong ký ức. Cùng với khí thế
sôi sục của những năm mưa bom bão đạn, văn học, với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách sống động tượng
đài của những chiến sĩ anh hùng kiên trung. Để ngày hôm nay lòng ta không khỏi bùi ngùi xúc động khi đọc lên những câu
thơ bất hủ trong áng thơ “Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng”.Cái can đảm, hào hùng của người lính chống Pháp sáng ngời
lên giữa âm u, khắc nghiệt của núi rừng Tây Băc, đặc biệt là trong khổ thơ đầu.
. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu
của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, hồn thơ Quang Dũng phóng
khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, tha thiết với quê hương, đất nước mình. Thơ ông có cái tôi hào hoa, thanh lịch, giàu
chất lãng mạn, nhạy cảm với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người.
Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã chuyển về đơn vị. Nhớ về một thời oanh liệt
đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây Tiến cháy lên trong lòng tác giả. Đó là cảm hứng của những chàng trai Hà
Nội từ giã quê hương lên đường đi kháng chiến, đó là kí ức của một đất nước những năm đầu Cách mạng, đất nước với
cảnh núi non hùng vĩ nơi biên cương Tây Bắc. Bài thơ ban đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được bỏ
đi, có lẽ cũng bởi bao trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng.

Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến bằng những vẫn thơ tươi thắm nhất của lòng mình. Hình ảnh người lính hiện
về trong hồi ức nhà thơ như một biểu tượng xa vời trong không gian và thời gian. Kỉ niệm về người lính Tây Tiến đã xa mà
lại rất gần, để khi nhìn lại, nỗi nhớ bỗng bật ra thành lời:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Sông mã trong ký ức Quang Dũng và những người đồng đội là nơi xuất phát kỉ niệm, khởi đầu của một chặng đường gian
khổ, là cái gốc nỗi nhớ trong miền ký ức rất riêng của cuộc hành quân chiến đấu những người lính năm xưa. Dòng sông Mã
ấy như một nhân chứng lịch sử đứng đó chở che, dõi theo từng bước chân của người lính; “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng kí
ức vẫn còn rõ rệt lắm! Bao tình cảm được dồn nén vào từ “ơi” dâng lên một dấu chấm than để mở ra bao nhiêu dạt dào của
cảm xúc nỗi nhớ. Nỗi nhớ vang vọng lên, khắc sau tình cảm nhớ thương của người chiến sĩ năm nào. Điệp từ “nhớ” đi liền
với tính từ “chơi vơi” xoáy sâu vào tâm hồn độc giả, ào ạt như một cái thác lũ trong ký ức Quang Dũng. Nỗi nhứo cuồn
trào trong tâm hồn nahf thơ, đẩy ông vào trạng thái hư ảo, triền miên của ký ức, cuốn trôi ông vào núi rừng, hai trận chiến
ngày xưa để rồi khiến ông khắc khoải trong nỗi nhớ chơi vơi. Chơi vơi! Một nỗi nhớ thật lạ lùng! Xuân Diệu hình như cũng
từng chơi vơi trong nỗi nhớ như thế:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
“Nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ nhẹ tênh mà nặng vô cùng, lơ lửng, vương vấn trong tâm hồn, bao la bát ngát lại có chiều sâu.
Nếu nỗi nhớ trong thơ Xuân Diệu là tình cảm lứa đôi thì điểm đến của nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng là tình cảm thiêng
liêng, dữ dội dành cho mảnh đất Tây Bắc nhớ thương. Âm hưởng của câu thơ trong cách sử dụng vần giữa “chơi vơi” và
“ơi” tạo lên một hiệu quả ngữ âm trọn vẹn. Nó lan tỏa, ngân dài từng tiếng vọng vào vách đá để rồi vang lại vào tâm hồn
người đọc xúc cảm thiêng liêng mà Quang Dũng dành trọn cho Tây Tiến. Cũng bằng tình cảm thiêng liêng ấy, Quang Dùng
đưa người đọc đến với những kỉ niệm đã lùi vào quá vãng, đến với âm u khăc nghiệt của núi rừng, đến với cái can đảm, hào
hùng của người chiến sĩ.
Là người từng trải qua những ngày tháng khốc liệt chiến tranh, hơn ai hết, Quang Dũng hiểu rõ về khó khăn, gian khổ nơi
biên cương:
“Sài Khao sượng lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Cái khắc nghiệt đầu tiên mà đoàn quân nếm trải là màn sương dày đặc ở bản làng Sài Khao. Nó bao phủ, che mờ của đoàn
quân, nó thấm vào từng thớ thịt lạnh buột. Sượng giá khiến đoàn quân lãnh lẽo, thấm mệt. Những khắc nghiệt của tự nhiên
không làm tinh thần người chiến sĩ nao núng. Tình yêu nước đã khiến những chàng trai Hà thành thêm quật cường, bất
khuất, xua tan mọi giá rét, cực khổ, đẩy lùi tất thảy mệt mỏi gian lao. Trên chặng đường hành quân xưa của Chế Lan Viên
sương giá cũng là một kí ức thấm đượm nỗi nhớ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
Chế Lan Viên với Quang Dũng đã gặp nhau ở một ý thơ, một nỗi nhớ gọi lên trong ta cảm tưởng họ đang cùng hành quân
trên một chặng đường. Nhưng người lính đó dẫu có là ai, chiến đấu ở đâu thì họ đều vượt qua khắc nghiệt tự nhiên rồi bừng
sáng lên vẻ đẹp hùng dũng, kiên cường. Quang Dũng là một cây bút lãng mạn, hào hoa, cách sử dụng từ ngữ của ông mang
nhiều lớp nghĩa. Chi tiết “hoa về trong đêm hơi” tùy theo cách hiểu của mỗi người lại mang một sắc thái độc đáo. Đó có thể
là hình ảnh người con gái Tây Bắc, cũng có thể là sự mỏi mệt trên đường hành quân khiến người chiến sĩ hoa mắt. Hoặc,
“hoa về” là ánh sáng lấp lánh của ngọn đuốc trong cảnh chập tối mờ hơi sương. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh thưo
Quang Dũng vẫn thật đẹp đẽ, thi vị, sáng ngời. Câu thơ xóa tan mỏi mệt để đoàn quân tiếp bước. Khó khăn này chưa qua
thì khó khăn khác đã đến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Ta cảm nhận được cái thô ráp, gồ ghề trong câu thưo như chính hình thể gập ghènh, cheo leo của dốc núi. Một hiện thực
khăc nghiệt của vùng cao Tây Bắc. Bức tranh hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút được lột tả thành công dưới ngòi bút
tài hoa của Quang Dũng. Đó là con dốc khúc khuỷu, gập ghềnh, hiểm nguy mà đoàn quân phải đối mặt, con dốc thăm thẳm
không có điểm dừng, triền miên kéo dài như cuộc kháng chiến chống Pháp bấy giờ. Nó cũng xa xôi như ngày đất nước độc
lập, song gian khổ không làm khó được người chiến sĩ, họ vẫn lạc quan, quật cường vững bước. “Heo hút cồn mây” sao mà

2
lại lắng lặng, hoang sơ thế! Ấy vậy mà Quang Dũng vẫn lột tả rõ nét sự tinh nghich, trử trung qua cách sử dụng nghệ thuật
nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời”. Đó là cách sử dụng từ táo bạo, sôi nổi, lạc quan đậm chất người lính. Thử hỏi trong cảnh
gian nan, mệt mỏi ấy mấy ai còn giữ được phong thái tự tin, yêu đời như vậy?
Bên cạnh hiểm nguy, người lính với tư thế oai phong vẫn dũng cảm chinh phục, để đến khi đứng trên đỉnh núi cao họ nhìn
lại chặng đường gian khổ mình từng trải qua:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Một sự đối lập kín đáo trong câu thơ cũng như trong tâm hồn người chiến sĩ. Trải qua bao thăng trầm hiểm trở anh vệ quốc
quân đã đặt chân lên đỉnh dốc. Điệp từ “ngàn dốc” mở ra một khoảng không gian đa chiều, vừa gợi lên cái hoang sơ, vừa
đặc tả vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng Tây Bắc. Sau tất cả những dồn dập, va vấp người chiến sĩ lắng lại một miền đất lãng
mạn “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Thanh bằng trong từng từ trải dài làm cả câu thơ mênh mang lắng đọng tạo nên một
bức tranh núi rừng phủ mưa trắng xóa. Vượt qua mọi gập ghênh trước mắt, người lính bắt gặp những ngôi nhà ở Pha
Luông, được chứng kiến cuộc sống con người đang hiện hữu. Lẫn trong màn mưa rừng bản làng hiện lên trầm mặc, lấp ló.
Nếu ở Mường Lát người lính bị sương giá làm cho lãnh lẽo thì ở đây, đối mặt với cơn mưa rừng cái giá rét ấy còn tăng lên
gấp bội. Trên con đường hành quân khắc nghiệt, nhiều chiến sĩ đã mãi mãi nằm lại những mảnh đất xa lạ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Những con người này đẹp lắm, dũng cảm lắm bởi họ đã làm nên lịch sử, góp phần vào sự trưởng thành của đất nước, họ
cũng chính là những con người “sinh ra trong thời đại của anh hùng”. Tất cả thương mến, tự hào dành cho đồng đội dường
như đã được Quang Dũng gửi gắm trọn vẹn trong từ “anh bạn”. Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc nghiệt của thiên nhiên
núi rừng người chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng không vì thế mà bài thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người lính ra đi trong một
tư thế rất đỗi hào hùng:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Bút pháp lãng mạn “bỏ quên đời” phần nào làm cho cái chết không còn nặng nề, giảm nhẹ đau thương và mất mát. Quang
Dũng viết về anh như viết về một đất nước dẫu có mưa bom bão đạn cũn không chịu cúi đầu: “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Họ là những chàng trai còn mang trong mình ước mơ và hoài bão tuổi trẻ. Vậy mà giờ đây, họ hy sinh vì lý tưởng
chung của dân tộc. Nó lớn lao hơn tất cả mơ mộng thường tình của chàng trai trẻ. Người lính xé toạc thanh xuân, xé toạc
cuộc đời mình để ghép vào bức tranh hòa bình đất nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả”
Họ ra đi sôi sục, ngạo nghễ, họ chiến đấu vì quê hương nên cái chết cũng nhẹ nhàng như về với đất mẹ. Bao nhiêu sự hi
sinh là bấy nhiêu sự hào hùng, can đảm ta được chứng kiến:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Họ đã sống, đã chiến đấu xứng đáng với quê hương, đất nước. Họ hiên ngang, đường hoàng khi ra trận và cũng hào hùng
khi ngã xuống cũng bởi:
“Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu”.
Họ vì ai mà ngã xuống? Vì giang sơn, vì đọc lập, vì tự do của nhân dân Việt Nam anh nguyện hiến dâng tính mạng thực
hiện lý tưởng cao đẹp ấy. Người chiến sĩ nằm lại nhưng đồng đội anh vẫn tiếp bước. Khó khăn gian khổ vẫn còn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mương Hịch cọp trêu người”.
Cảnh chiều tà luôn khiến lòng người chứa than nỗi niềm tâm sự. Giữa núi rừng hoang sơ cạnh anh là những người đồng đội
xa quê chất chứa nỗi nhớ quê hương. Khó khăn vất vả cộng hưởng nỗi nhớ nhà để khiến người ta nhụt chí nhưng với anh
lính Tây Tiến nó không những không ngăn được lý tưởng cách mạng, ngược lại còn là động lực thôi thúc anh mạnh mẽ
hơn, can đảm hơn. Hai câu thơ gieo vào lòng người đọc tất cả khắc nghiệt và dữ dội về một miềm đất âm u, khắc khổ. Địa
danh “Mường Hịch” được sử dụng rất khéo, rất tài tình, nó nghe nặng nề đáng sợ như bước chân thú dữ khiến cảnh sắc núi
rừng trở nên thật hoang sơ lạnh lẽo. Rừng núi trùng diệp nhưng cũng khắc nghiệt biết bao!
Tưởng rằng những khó khăn, gian khổ kia sẽ làm mờ đi trong tâm hồn những chàng trai trẻ Hà Nội nét hào hoa, lãng mạn
vốn có. Nhưng không, nét hào hoa, lãng mạn vẫn chẳng hề mất đi dọc cuộc hành trình:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Cụm từ cảm thán “Nhớ ôi” không đi vào lối mòn của diễn tả cảm xúc, bởi ta nghe cứ da diết, nghèn nghẹn làm sao! Nỗi
nhớ bật thốt lên thành lời đầy tràn trong từng ý thơ, không phải “nhớ ơi” như tiếng gọi hướng ra ngoài, mà là “nhớ ôi” gọi
hướng về mình. Đến đây, có lẽ Quang Dũng đã không cầm lòng được nữa, mà vỡ oà bật ra tiếng kêu tự nhiên từ tận con
tim mình. Bức tranh cuộc sống và con người miền Tây hiện lên yên bình và ấm áp trong nỗi nhớ về bản làng Mai Châu, về
những bữa cơm nghi ngút khói và những vắt xôi nếp đủ sắc màu đã khảm sâu vào trong tâm trí người lính. “Mùa em” chính
là kết tinh những nét tài hoa của Quang Dũng, là nhãn tự ghi dấu giá trị của toàn bài thơ. Lạ thay ngôn từ thơ! Mùa em, một
mùa hư ảo, một “mùa” quyện nồng hương sắc của “em” gợi cảm giác đằm thắm ân tình và tràn đầy ấm áp. “Mùa em”
dường như đã bật ra khỏi câu thơ là bừng lên “nốt nhấn tươi sáng cho cả bài thơ”. Quang Dũng đã kết lại đoạn thơ với
hương vị dẻo thơm, ngọt bùi như là để xoa dịu, vỗ về những xúc cảm mãnh liệt mệt nhoài trước đó, đồng thời cũng để lại
một dư vị không thể nào tan đi trong từng nhịp thổn thức.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua
hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây
Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng lãng
mạn, tài hoa ở cách xây dựng hình ảnh, bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, nghệ thuật tương phản, nhân hóa, cách sử

3
dụng từ ngữ, thể thơ thất ngôn trường thiên..., đồng thời khắc họa một cách sống động về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa
hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng,
xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về hình ảnh người lính trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính
đánh Pháp trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta. Nỗi nhớ mà Quang Dũng gửi trong
đoạn thơ, bài thơ cũng là nỗi nhớ chung của những ai từng đi qua vùng đất miền Tây, từng trải qua những năm tháng chiến
đấu đầy gian lao của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên, con người nơi ấy là biểu hiện
của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp trong thơ ca cách mạng Việt Nam.

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học
với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh
hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Trong thơ Quang Dũng, ông đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp xâm lược nước ta, và “Tây Tiến” chính là bức tượng đài đặc biệt ấy, mãi sáng ngời trong lòng dân tộc Việt Nam”!

4
Khổ 3:
Có những “bài ca không bao giờ quên”, cũng có những năm tháng chiến tranh không phai mờ trong ký ức. Cùng với khí thế
sôi sục của những năm mưa bom bão đạn, văn học, với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách sống động tượng
đài của những chiến sĩ anh hùng kiên trung. Để ngày hôm nay lòng ta không khỏi bùi ngùi xúc động khi đọc lên những câu
thơ bất hủ trong áng thơ “Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng”.Cái can đảm, hào hùng của người lính chống Pháp sáng ngời
lên giữa âm u, khắc nghiệt của núi rừng Tây Băc, đặc biệt là trong khổ thơ đầu.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của
nền thơ ca hiện đại Việt Nam, là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, hồn thơ Quang Dũng phóng
khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, tha thiết với quê hương, đất nước mình. Thơ ông có cái tôi hào hoa, thanh lịch, giàu
chất lãng mạn, nhạy cảm với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người.
Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã chuyển về đơn vị. Nhớ về một thời oanh liệt
đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây Tiến cháy lên trong lòng tác giả. Đó là cảm hứng của những chàng trai Hà
Nội từ giã quê hương lên đường đi kháng chiến, đó là kí ức của một đất nước những năm đầu Cách mạng, đất nước với
cảnh núi non hùng vĩ nơi biên cương Tây Bắc. Bài thơ ban đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được bỏ
đi, có lẽ cũng bởi bao trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng.
Nếu như ở khổ thơ đầu, những người lính Tây Tiến xuất hiện gián tiếp giữa núi rừng miền Tây với những bước chân hành
quân ra trận thì ở khổ thơ thứ ba, hình ảnh của họ được khắc họa trực diện với vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng nhưng cũng đậm
chất trữ tình. Nổi bật lên trên những vần thơ ấy chính là vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa, đậm chất bi tráng của hình tượng người
lính Tây Tiến trong khổ thơ thứ ba, từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về bút pháp hiện thực và lãng mạn trong thơ của thi sĩ
“xứ Đoài mây trắng”:
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên khi nhận xét về tài năng của Quang Dũng từng khẳng định: “Quang Dũng là một nhà thơ
của Hà Nội, một nhà thơ của Việt Nam, một nhà thơ của thời đại”. Quả thực, Phạm Xuân Nguyên khẳng định như vậy là vô
cùng đúng đắn. Có thể nói Quang Dũng như nhà quay phim tài năng còn thi phẩm “Tây Tiến” chính là những thước phim
kiệt tác mang đậm dấu ấn, tinh thần thời đại của thơ ca từ năm 1945-1954 luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết, phản ánh chân
thật về hiện thực chiến tranh tàn khốc, hiện thực kháng chiến bi tráng và hào hùng. Vậy nên khi lướt dọc từng trang thơ ta
như được trở về với lịch sử, một thời kỳ hào hùng đã qua, bước vào một thế giới không chỉ có nỗi mất mát, đau thương mà
ta còn bắt gặp hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu mặc cho trên người đầy thương tích; đồng
thời còn được thưởng thức thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân đầy gian lao, vất vả. Ở bốn câu thơ
đầu của khổ thơ thứ ba, nhà thơ đã khắc họa rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của đoàn binh Tây
Tiến. Đó chính là vẻ đẹp lý tưởng, ý chí nơi người chiến sĩ trong chặng đường hành quân vất vả, hiểm nguy rình rập qua
hai câu thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
Chất họa trong tài năng thi ca của Quang Dũng hiện diện trên từng hình ảnh thơ cùng nhịp thơ 4/3 độc đáo. Người nghệ sĩ
xứ Đoài mây trắng đã chạm khắc nên dáng vẻ ngoại hình đậm chất hiện thực về người lính Tây Tiến qua cụm từ “không
mọc tóc” - một hình ảnh thơ đa nghĩa. Đó có thể là hình ảnh bộ đội ta cạo trọc đầu để thuận tiện trong sinh hoạt và đánh
giáp lá và với địch hay đó cũng chính là hậu quả của những căn bệnh sốt rét rừng khủng khiếp đã hành hạ các anh đến rụng
tóc, trọc đầu. Nhưng nổi bật lên qua hình ảnh “không mọc tóc” ta còn cảm động trước tình đồng chí đồng đội của những
người chiến sĩ trong đoàn binh Tây Tiến nói riêng và trong các cuộc kháng chiến khác nói chung là sự tự nguyện cạo trọc
đầu của những người lính vì muốn sẻ chia, đồng cảm và tiếp thêm sức mạnh cho những người đồng đội đang phải chiến
đấu với bạo bệnh. Cụm từ ấy còn là cách nói chủ động, tự nguyện, bộc lộ tinh thần quả cảm, kiên cường của những người
lính “chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng hy sinh”. Dù hiểu theo cách hiểu nào thì câu thơ vẫn sáng bừng lên vẻ đẹp hào hùng
của người chiến sĩ, họ sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để đem lại độc lập, hòa bình cho dân tộc; không những vậy,
qua câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” người đọc còn thấy được những nỗi vất vả, gian khổ mà người lính phải
trải qua trong công cuộc bảo vệ đất nước để nay càng thêm trân trọng, thêm yêu và biết giữ gìn, phát huy những gì mình
đang có. Đồng thời cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh” thay cho “đoàn quân” còn gợi âm hưởng khí thế chiến đấu hào
hùng của cả một đoàn binh “vệ trọc” mang dáng dấp anh hùng, khí thế ngút trời sẵn sàng ra trận.
Cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu họa”, tức “Trong thơ có cảnh”, tất cả như một bức tranh thuỷ mặc hiện diện trong bút
pháp của thi nhân qua “Tây Tiến”. Quang Dũng đã vô cùng tinh tế gửi gắm nhiều ý nghĩa trong hình ảnh “quân xanh màu
lá” - một màu xanh của lá ngụy trang hay màu áo lính, một màu xanh của nước da xanh xao do những cơn sốt rét rừng
hoành hành, do những thiếu thốn về lương thực, thuốc men ở chốn rừng thiêng nước độc mà những người lính phải trải
qua. Đồng thời, qua sự tương phản mới lạ giữa “quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm” đã thể hiện được ý chí kiên cường của
đoàn binh Tây Tiến dẫu cho cuộc sống chiến đấu đầy thiếu thốn, khó khăn, hiểm nguy thì luôn rình rập nhằm cướp đi mạng
sống của các anh nhưng vượt lên trên tất cả những người lính vẫn luôn sáng lên vẻ kiêu hùng, luôn đặt Tổ quốc lên hàng
đầu. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, hình ảnh “cọp trêu người” từng để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc về một hành
trình hành quân gian khổ của người lính thì tư thế “dữ oai hùm” đã khẳng định, nâng tầm dáng vóc của con người sánh
ngang với thiên nhiên vũ trụ rộng lớn, không chịu khuất phục, nhất định không đầu hàng nơi đoàn binh anh hùng. Họ đã
cùng vượt lên tất cả bom đạn của kẻ thù, vượt qua mọi khó khăn để chiến đấu anh dũng đến cùng, thể hiện bản lĩnh phi
thường và sức mạnh tinh thần mạnh mẽ trong hoàn cảnh khốc liệt ấy.
Nếu như hai câu thơ đầu của khổ ba Quang Dũng đã tái hiện lại bức tranh chiến đấu đầy gian khổ của những người chiến sĩ
trong đoàn binh Tây Tiến cùng với những vẻ đẹp anh dũng, chiến đấu kiên cường của họ thì đến với hai câu thơ tiếp của
khổ thơ thứ nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa trong tâm hồn các chàng lính trẻ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

5
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Người đại đội trưởng Quang Dũng đã đặc biệt vẽ nên hai đường nét tưởng chừng như đối lập nhưng lại vô cùng cân đối,
hài hòa trong tâm hồn các chàng lính mười tám đôi mươi qua hai từ “mộng” và “mơ” - giữa chung và riêng, giữa sự can
trường bản lĩnh với sự đắm say gửi về hai phương trời: “mộng” gửi biên cương đầy bóng giặc và “mơ” là gửi về Hà Nội -
mảnh đất thân yêu của các người lính. Trong “Ngày về” của Chính Hữu có viết: “Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu/
Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội/ Bao giờ trở lại?”, lời thơ của Chính Hữu có lẽ cũng chính là tiếng lòng chung của các
người lính, họ mong ngày khải hoàn sớm đến để có thể trở về Hà Nội, gặp lại những người thân xa cách đã lâu không gặp
và thăm lại những phố phường thân thuộc đã lâu chưa quay lại. Cũng chính nỗi nhớ quê nhà là sự an ủi, vỗ về những gian
khổ mà họ đang bước tiếp và là niềm động lực to lớn giúp những người lính quyết tâm chiến đấu để sớm có thể về nhà. Bên
cạnh đó, hình ảnh “dáng kiều thơm” là vầng sáng lung linh trong ký ức, bởi ngoài ước muốn non sông Việt Nam hòa bình
trong người của các ảnh còn chảy một dòng máu của nỗi nhớ quê hương, nhớ cũng người thân yêu đang chờ mình trở về;
bóng dáng “kiều thơm” là nơi phố phường Hà Nội thân yêu, ruột thịt. Động từ “trừng” xuất hiện trong câu thơ giúp độc giả
liên tưởng đến những ánh mắt mạnh mẽ, rực lửa, chất chứa đầy sự căm phẫn, dồn nén hướng về quân thù với sự oai phong
lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong vòng vây khói lửa ác liệt. Đại tá - nhà văn Chu Lai từng bộc
bạch: “Chiến tranh đối với tôi là nhân danh một người lính, là tận cùng của sự trần trụi nhưng bên cạnh đấy là sự lãng
mạn”, bên cạnh bức tranh hiện thực chiến đấu đầy khắc nghiệt, gian khổ của người lính thì bút pháp lãng mạn vẫn bay lên,
tỏa sáng lung linh đã xác quyết rằng bút pháp nghệ thuật không phải thê lương, yếu mềm lòng người mà đó chính là nguồn
động lực, niềm tin để người lính vững bước nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Có thể nói, hai câu thơ đã thể hiện rõ nét tài
hoa của thi nhân khi diễn tả một cách tinh tế, khéo léo về thế giới nội tâm đầy mộng mơ của các chàng lính trẻ trong đoàn
binh Tây Tiến - những con người luôn chảy trong mình hai dòng máu, dòng máu về sự quyết tâm chiến đấu vì Tổ quốc và
dòng máu lãng mạn, hào hoa của tuổi trẻ cháy bừng trong lý tưởng.
Tác giả Trần Lê Văn từng nhận xét: “Tây Tiến phảng phất những nét buồn, những nét đau nhưng đó là cái đau bi tráng chứ
không phải cái buồn đau bi lụy. Nhà thơ đã biến “những nét đau” thành “cái đau bi tráng” để từ đó thổi hồn vào bốn câu
thơ cuối là sự hy sinh cao cả của những người lính Tây Tiến, trong đó nổi bật lên cả là vẻ đẹp lý tưởng sống cao đẹp:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”
Chiến tranh đã đi qua, nhưng tiếng rì rầm tàn phá của nó vẫn ám ảnh con người một cách dai dẳng, những cuộc chia ly
không hẹn ngày tái ngộ, những người con, người chồng, người cha mãi mãi đi xa. Từ “rải rác” được nhà thơ đặt lên đầu câu
gợi lên khoảng cách giữa các nấm mồ của người chiến sĩ đã nằm lại nơi biên cương xa xôi, trên con đường hành quân xa
thẳm, hun hút. Dường như, Quang Dũng đã cùng độc giả dành phút giây trang nghiêm tưởng nhớ về người lính đã gửi cuộc
đời nằm lại nơi chiến trường năm ấy để đổi lấy hòa bình cho non sông Việt Nam hôm nay. Dẫu năm tháng chiến tranh đã
lùi lại kí ức, nhưng những nỗi đau trong tim người ở lại vẫn luôn khắc cứa vào ta những xót xa; đã có bao tiếng khóc,
những giọt nước mắt thay cho lời hỏi han; làn khói hương thay cho những cái ôm của người ở lại dành cho những người đi
nhưng mãi mãi sẽ không trở về. Ngoài ra, nhịp ngắt 4/3 trải dài xuyên suốt cả bài thơ, đặc biệt trong câu thơ “Rải rác biên
cương mồ viễn xứ” đã khiến cho trọng âm của câu thơ rơi vào chữ “mồ” - một từ ngữ rất giản đơn nhưng khi thốt lên lại
chứa đựng biết bao sự tiếc nuối, xót xa của Quang Dũng khi nghĩ về những anh em đồng đội của mình đã ngã xuống nơi
chiến trường. Chính vì thế, nhà thơ bày tỏ sự trang nghiêm, thành kính của mình qua việc sử dụng hàng loạt các từ Hán
Việt trong cùng một câu thơ như từ láy “rải rác” kết hợp cùng các từ “biên cương”, “viễn xứ” mang không khí trang
nghiêm, cổ kính để gợi lên khoảng cách giữa các nấm mồ của những người lính đã nằm lại nơi rừng hoang biên giới, trên
con đường hành quân xa xôi. Trong “Những nấm mồ liệt sĩ nơi biên cương” Nguyễn Trọng Luân từng viết: “Làm gì có
những cây vô danh/ Dọc cánh rừng biên giới” bởi mỗi tấc đất mà chúng ta đang được sống hàng ngày chính là xương máu
của những người chiến sĩ năm xưa đã ngã xuống. Không có loài cỏ cây nào vô danh dọc những cánh rừng biên giới, bởi
mỗi loài cỏ cây ấy đều mang theo dáng hình tuổi trẻ, hoài bão thanh xuân của những người nằm lại, những nấm mồ viễn xứ
cùng nhau bảo vệ non sông. Nối tiếp nhịp thơ là hình ảnh ẩn dụ “đời xanh” với lối nói phủ định “chẳng tiếc” để thể hiện
tuổi trẻ, những tháng năm thanh xuân đầy nhiệt huyết, mang trong mình đầy hoài bão của mỗi người lính nhưng khi sự an
nguy của đất nước đang đứng trên bờ vực thẳm, nền độc lập của cả dân tộc đang nằm trong tay của “bọn giặc cướp nước,
bè lũ bán nước”, nhân dân khốn khổ, lầm than thì họ phải tạm gác lại những mục tiêu riêng để cùng nhau chiến đấu vì mục
tiêu chung của cả dân tộc là mang lại nền độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Đối mặt với vấn đề đó, tất cả những người lính
đều có thái độ sẵn sàng, không chút do dự, họ nhận thức được về trách nhiệm, sứ mệnh của mình trong hành trình bảo vệ
non sông, họ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng của những người lính mười tám đôi mươi năm ấy. Nhưng cái chết đáng sợ
như thế, liệu người lính đã có phút giây nào nghĩ về cái chết và cảm thấy sợ chưa? Trong tác phẩm “Bến không chồng” của
nhà văn Dương Hướng có nhân vật tâm sự: “Triệu triệu con người ra trận đều không ai muốn chết. Cái quý nhất ở họ là biết
chết mà vẫn xông vào chỗ chết”, quả thực là như vậy, có lẽ ở phút giây ngắn ngủi nào đó những người lính ở chiến trường
nơi thần chết luôn rình rập, sẵn sàng để cướp đi mạng sống của họ bất cứ lúc nào thì người lính cũng từng cảm thấy sợ
nhưng vượt lên nỗi sợ tầm thường ấy những người lính ấy “chẳng tiếc đời xanh” mà quyết tâm dâng trọn “bầu máu nóng”,
dâng trọn cả mạng sống của mình cho dân tộc, cho đất nước. Đây không chỉ dừng lại là lối nói của thi mà mà thực sự đây
chính là phẩm chất tốt đẹp, dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ Việt Nam trong những năm tháng kháng
chiến. Họ không một chút run sợ trước cái chết, trước mắt họ là bom đạn, kẻ địch tàn ác nhưng sau lưng họ lại là đất nước,
là người mẹ già, người vợ trẻ hay đứa con thơ cũng đang phải sống trong lầm than, khổ cực của chiến tranh gây ra từng
ngày mong ngóng ngày khải hoàn để có thể đoàn tụ.
Liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thùy Trâm từng viết trong nhật ký của mình: “Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con
đâu. Con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc”, những người chiến sĩ khi ra trận dường như đều biết trước rằng
ngày mai khi nước nhà độc lập, cờ đỏ sao vàng phấp phới tự do bay trong gió còn họ thì đã về với đất mẹ, được đất mẹ che
chở, bao bọc, vỗ về sau những khó khăn mà họ đã phải trải qua trong một thời chinh chiến. Chính vì lẽ đó, hai câu thơ cuối
của khổ ba đã thành công khắc họa trọn vẹn vẻ đẹp đầy lãng nhưng cũng đầy hào hùng, bi tráng:
“Áo bào thay chiếu, anh về đất,

6
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hai chữ “áo bào” làm cho câu thơ thêm phần cổ kính, lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp một tráng sĩ được Quang Dũng tráng
lệ hóa làm mờ đi cái chết của những người lính, vơi đi cảm giác đau thương, đồng thời còn gợi được cái hào khí của chí
làm trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây”. “Áo bào” vốn dĩ thường gắn với các vị vua chúa mà
giờ đây được Quang Dũng nhắc đến khi nói về cái chết của những người lính, qua cách nói tráng lệ hóa ấy thể hiện được sự
biết ơn, tấm lòng thành kính của thi sĩ dành cho sự hy sinh anh dũng của những người chiến sĩ năm xưa. Sự ra đi của họ là
nỗi đau chung của toàn dân tộc, từng ấy năm kể từ ngày đất nước hòa bình vậy mà những nỗi niềm đau xót trong những
nếp nhà có người thân ra đi mãi mãi không trở về hay những cuộc hành hương đi tìm lại quá khứ với hy vọng dù là mong
manh nhưng vẫn âm thầm lặng lẽ đi tìm. Cách nói giảm nói tránh “anh về đất” góp phần làm dịu đi nỗi đau chia cắt, phân
li, bi thương nhưng không hề bi lụy. Những người đồng đội của cựu chiến binh Tây Tiến đã hóa hương hồn trở về với đất
mẹ yêu thương, hóa thành hồn thiêng sông núi và bất tử trong lời thơ của Quang Dũng. Sức mạnh trong ngôn từ của thi
nhân còn được thể hiện qua động từ “về”, gợi những bước chân hiên ngang, kiên cường, ngạo nghễ với một tâm thế thản
nhiên, nhẹ nhàng của những người lính khi đón nhận cái chết.
Nếu như hình ảnh “sông Mã” xuất hiện ở khổ thơ đầu với khởi nguồn, khởi thủy của nỗi nhớ, là chứng nhân lịch sử thì đến
với khổ thơ thứ ba, dòng sông thân thương ấy một lần nữa xuất hiện để tiễn đưa những người lính về với đất mẹ “Sông Mã
gầm lên khúc độc hành”. Nghệ thuật nhân hóa sông Mã “gầm lên” chính là âm thanh đau xót của núi rừng, của quê hương,
đất nước đang quặn lòng, nghiêm mình kính cẩn tiễn đưa các anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Con đường hành quân giờ đây
đã kết thúc, người ra đi thì mãi mãi không về còn người ở lại tiếp tục phải sống, phải tiến lên nên hãy sống sao cho đáng,
hãy là những bông hoa lặng lẽ tỏa hương cho đời.
Bằng việc sử dụng thể thơ thất ngôn kết hợp với nhịp ngắt 4/3 quen thuộc đan xen các từ Hán Việt “đoàn binh”, “biên
cương”, “viễn xứ”; các biện pháp tu từ nhân hóa cùng các hình ảnh ẩn dụ, tương phản đối lập được sử dụng linh hoạt trong
tứ thơ đã giúp người đọc thấy được tấm lòng chân thành của người cầm bút vẫn neo đậu trong những vần thơ theo tháng
năm. Thứ tình cảm dạt dào ấy đã bộc lộ từ những nỗi nhớ, tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của mình
trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ thứ ba đã khái quát được vẻ đẹp lẫm liệt, hào hùng - cảm hứng bi tráng, sự kế
thừa, phát huy những truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc và vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa, tâm hồn mộng mơ của
những người lính trẻ.
Nhìn chung, hai vẻ đẹp hai cảm hứng tưởng chừng như đối lập lại bổ sung, hòa quyện vào nhau một cách hài hòa giúp
Quang Dũng thành công tạc vào lịch sử nước nhà bức tượng đài bất tử về người chiến sĩ Tây Tiến vừa bi tráng vừa lãng
mạn. Nhà thơ Vân Long từng xác quyết: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như
chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn
lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận
một gian nan lớn”, đó cũng chính là nét độc đáo của Quang Dũng khi sáng tạo hình tượng này. Thi phẩm “Tây Tiến” như
một bức tranh đa chiều lý tưởng - lòng quả cảm và cả những mộng mơ tươi đẹp của tuổi trẻ gửi lại nơi quê hương Hà Nội.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học
với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh
hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Trong thơ Quang Dũng, ông đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp xâm lược nước ta, và “Tây Tiến” chính là bức tượng đài đặc biệt ấy, mãi sáng ngời trong lòng dân tộc Việt Nam”!

7
Khổ 2:
“Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
“Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau…”
(“Cuộc chia ly màu đỏ” – Nguyễn Mỹ)
Chiến tranh đi qua để lại cho chúng ta là bao hoài niệm về những tháng năm không thể nào quên. Đó là khi con người ta
nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, để vệ quốc, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ và tình cảm
cá nhân để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc… Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những
huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thực xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm
chất hiện thực của mình qua bài thơ “Tây Tiến”. Nhận xét về bài thơ “Tây Tiến”, tác giả Hà Minh Đức viết: “Tây Tiến” là
bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn” . Qua khổ thơ hai và ba trong thi phẩm, ta càng hiểu rõ
thêm về nhận định này.
Quang Dũng là người con của thủ đô Hà Nội. Ngay từ lúc còn là một chàng trai Hà thành đầy sức trẻ, ông đã nguyện cống
hiến sức mình vào sự nghiệp cứu nước. Bên cạnh vai trò là một người lính hăng hái và nhiệt thành cách mạng, Quang Dũng
còn được biết đến với nhiều năng khiếu đặc biệt như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Chính những điều này đã củng cố
thêm niềm tin của mọi người về sự tài hoa của nhà thơ – chiến sĩ Quang Dũng. Trong suốt quá trình phụng sự sức mình cho
đất nước cũng như đến cuối đời, nhà thơ đã ghi lại những cảm xúc, tâm tư của mình trong những tác phẩm mang dấu ấn
riêng, đó cũng đồng thời là những đóng góp rất đáng kể của ông cho nền văn học nước nhà. Một số tác phẩm nổi bật của
Quang Dũng cần kể đến như: “Mắt người Sơn Tây”, “Rừng biển quê hương” (năm 1957), “Đường lên Châu Thuận” (năm
1964), “Rừng về xuôi” (năm 1968). Nhưng tiêu biểu nhất là tập “Mây đầu ô” (năm 1986) mà điển hình là bài thơ “Tây
Tiến”. Thi phẩm ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”, được ra đời năm 1948, do Quang Dũng muốn ghi lại những kỉ niệm,
những niềm thương, nỗi nhớ dành cho đoàn binh một thời gắn bó của mình.
“Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn”, nhận định đã đề cập đến một vẻ đẹp rất
riêng của “Tây Tiến” đó là tính nhạc. “Nhạc điệu” ở đây không phải một bộ môn nghệ thuật riêng rẽ mà nhạc ấy là nhạc
điệu của thơ, là một sự biểu đạt của ngôn ngữ, là vần điệu, sự hài thanh, sự sắp xếp câu chữ mang tính nhạc và dễ đi vào
lòng người. “Tây Tiến” là một thi phẩm “giàu nhạc điệu” không chỉ ở vần điệu, tiết tấu hài hòa, nhịp nhàng, mà còn ở cảm
xúc và tâm hồn của tác giả, của chủ thể trữ tình đang nhớ nhớ thương thương về binh đoàn từng gắn bó. Như vậy nhận định
của Hà Minh Đức khẳng định tính nhạc trong bài thơ “Tây Tiến” - nhạc ở vần thơ, nhạc ở cảm xúc, tâm hồn.
Sau những dòng thơ gieo neo, trúc trắc nơi chặng đường hành quân gian khổ, “Tây Tiến” ru ta trong nhạc điệu cất lên từ
men say của tâm hồn người lính:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Trong toàn bộ thi phẩm, đây là lần thứ hai “đuốc” được liên tưởng đến “hoa” – nếu trong đêm sương Mường Lát, chiến sĩ
Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo như “hoa về trong đêm hơi” thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản
mường miền Tây, bút pháp lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi những liên
tưởng thú vị, đem đến sự náo nức, rạo rực trong lòng người, khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội
tưng bừng, rộn rã. Đâu rồi những mệt nhọc, khó khăn? Đâu rồi những mỏi mệt, hi sinh? Khung cảnh đêm liên hoan dường
như đã xóa tan những điều đó. Ở đây cụm từ “bừng lên” là một nét nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó đem đến ấn tượng về
thứ ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xóa đi cái tối tăm lạnh lẽo của núi rừng, thể hiện niềm vui sướng, rạo rực
trong lòng người. Người đọc còn có thể hình dung ra những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến
sĩ, bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa
của niềm vui trẻ trung, lạc quan, ngọn lửa của tình yêu với con người và mảnh đất miền Tây. Cứ như thế, từng câu chữ như
những nốt trầm bổng trên khuông nhạc, dìu dắt tâm hồn người đọc đến với bao hình ảnh ấn tượng:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp”
Từ “kìa” và cụm từ nghi vấn “tự bao giờ” đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng mộ trìu mến của các chiến
sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành
quân nơi rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mua rừng và thú dữ. Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng
còn đưa người đọc đến một cảm nhận thú vị khi liên tưởng tới câu thơ trước. Doanh trại bừng lên hình như không chỉ vì
ánh sáng của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây. Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng
đẹp đẽ bởi bút pháp mỹ lệ hóa trong xiêm áo lộng lẫy và nét e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn
trước một đoàn quân “xanh màu lá”, duyên dáng hơn trước những người lính “dữ oai hùm”. Nét tương phản của cảm hứng
lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. Người lính Tây Tiến không chỉ
ngỡ ngàng, say đắm trước vẻ đẹp của những thiếu nữ miền Tây e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu của
núi rừng. Man điệu có thể hiểu là vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể là giai điệu mới mẻ của vùng đất lạ
trong tiếng khèn lên mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa nghệ sĩ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến
say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào, những đường nét duyên dáng trong

8
đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ với những vẻ đẹp say người của phương xa đất
lạ: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Câu thơ có tới sáu thanh bằng đã diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng chơi vơi ấy. Nhịp
điệu của bốn câu thơ như nhịp nhặt khoan, dìu dặt của tiếng khèn, gợi vẻ khỏe khoắn, trẻ trung. Bốn câu thơ vừa chan chứa
màu sắc, âm thanh, vừa ấm áp tình người. Đó phải chăng là nhịp điệu của đời sống chiến khu và của tâm hồn những người
lính trẻ.
Nhạc tính của “Tây Tiến” không chỉ đến từ những vần thơ rộn ràng tái hiện không khí liên hoan mà còn nhẹ nhàng, bâng
khuâng trong những câu từ của hoài niệm, của nỗi nhớ về cảnh và người miền Tây:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ
tha thiết mênh mông về cảnh sắc và con người miền Tây Bắc. Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn với người đi, nhưng
đâu chỉ là nhắn với ai đó mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình hướng về Châu Mộc, hướng về núi rừng miền Tây trong
một chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của hoài niệm, nhớ nhung. Từ “ấy” vang lên không chỉ là chỉ định về một
buổi chiều sương đặc biệt mà còn mở ra những cung bậc da diết của nỗi nhớ. Trong tiếng Việt, “ấy” là một đại từ chỉ định
luôn đem đến sắc thái xa xôi, mơ hồ cùng nỗi nhớ tiếc cho những danh từ đứng cùng với nó như thuở ấy, ngày ấy, người
ấy. Và bây giờ, khi đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng cũng nhắc về “chiều sương ấy” với bao nỗi nhớ thương lưu
luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều miền Tây với cảnh, với người đã bị đẩy về một quá
khứ thật xa xăm. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhấn,
một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng.
Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của
gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm.
“Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những kỉ niệm
trở về, thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về cảnh và người. Câu hỏi thứ nhất hướng về những hàng lau xám buồn
bên bờ sông hoang dại: “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về “hồn lau” thay
vì bờ lau, hàng lau hay rừng lau… Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li li nên chỉ cần
một chút gió rất nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa,
mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi đã khiến rừng lau như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con
người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da diết. Và hơn thế nữa, đối với Quang Dũng, hình ảnh “hồn lau”
dường như đã trở thành đặc trưng, biểu đạt cho một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa và giàu ý chí:
“Đâu đây đứt pháo xích kêu giòn
Liệt sĩ tên còn xanh núi non
Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt
Mà như lau sậy có linh hồn”
(“Pha Đin” - Quang Dũng)
Còn trong những cung bậc thiết tha của nỗi nhớ trong “Tây Tiến”, câu hỏi “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” càng làm xao xác
lòng người. Trong những năm tháng quá khứ, người chiến sĩ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông
Mã, giữa phơ phất ngàn lau, lau như linh hồn của rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sĩ trên đường hành quân. Nay người
đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, cảm giác về những bờ lau cô đơn nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xúc
động trong lòng người đã chia xa. Và cứ thế, “hồn lau” nhắc nhớ và liên hệ tới tình cảm với con người, vẫn trong cấu trúc
câu hỏi “có thấy”, “có nhớ”:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Trong làn sương mờ của hoài niệm, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa huyền ảo. Dáng người ấy
vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền độc mộc, vừa mềm mại, duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ “hoa đong đưa”.
Quang Dũng không viết hoa “đung đưa” mà là hoa “đong đưa” vừa nhằm miêu tả sự duyên dáng của hoa trên dòng nước lũ
vừa gợi tả tinh tế dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của những sơn nữ miền sơn cước. Chi tiết “đong đưa” rất nhẹ, rất nhỏ ấy nhưng
đã góp phần làm nên nhạc điệu tâm hồn cho thi phẩm. Toàn bộ đoạn thơ là những miêu tả, những liên tưởng, hoài niệm,
nhớ mong của tác giả đối với thiên nhiên miền Tây đẹp, lãng mạn, có sự giao hòa độc đáo tính họa và tính nhạc.
Như vậy, có thể thấy ý kiến của tác giả Hà Minh Đức hoàn toàn xác đáng. Những câu thơ trong “Tây Tiến” không chỉ được
khắc, chạm hình sắc, đường nét vào người và cành, mà còn được tác giả phổ vào những nốt nhạc tinh tế. Nhạc điệu ấy thể
hiện ở vần chân: “Bờ-đưa”, vần lưng: “ấy- thấy”; ở điệp âm, điệp thanh: “Châu Mộc, độc, dòng, đong”.... Nhưng đây là
nhạc điệu được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc: “Giữa chiến trường nhiều khi thay
cho nhạc / là những tâm hồn có nhạc ở bên trong” (Phạm Tiến Duật). Từ hình thức, câu từ đến nội dung, xúc cảm, đọc
“Tây Tiến” và đặc biệt là hai khổ thơ này, “ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng” (Xuân Diệu) và cảm được điệu
nhạc cất lên từ cuộc sống và trong tấm lòng của nhà thơ dành cho một thời kì gian khó và những người đồng đội giờ đây đã
chia xa.
Mỗi phần của bài thơ “Tây Tiến” đều mở ra những khung cảnh và hoài niệm khó quên trong những vần điệu linh hoạt và
tài tình. Những hình ảnh mộc mạc ấy dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ, mỗi nét đậm nhạt với sự kết hợp cả cảnh và con
người đều thật sống động. Tám câu thơ của khổ hai đều vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ đẹp mĩ
lệ, thơ mộng, trữ tình. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển, giàu nhạc điệu, “nhạc điệu của
cuộc sống và tâm hồn”. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của tác giả trong tổng thể bài thơ, để lại dấu ấn
lâu bền trong trái tim bạn đọc. Bất giác ta lại nhớ đến những vần thơ Giang Nam đã từng viết về thi phẩm này:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng

9
Và bài thơ ấy con người ấy
Sống mãi muôn đời với núi sông.”

10

You might also like