You are on page 1of 379

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

ĐỀ CƯƠNG BÀI TẬP TUẦN, THÁNG và LỚN

QUY ĐỊNH CHUNG, TÀI SẢN,


THỪA KẾ
*****************************************

Năm học 2023-2024

1
YÊU CẦU và ĐỀ CƯƠNG BÀI TẬP (Dân sự Phần I)
************************************

Yêu cầu trước buổi thảo luận. Đối với mỗi vấn đề pháp lý được gợi ý trong tài liệu thảo
luận, sinh viên chuẩn bị ở nhà và nghiên cứu vấn đề từ các góc độ sau đây:
1) Với mục tiêu là phải hiểu tốt quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam nên
sinh viên phải trả lời được câu hỏi: Nhìn từ góc độ văn bản thì vấn đề nêu trên được giải
quyết như thế nào? Để có câu trả lời thì sinh viên phải đọc BLDS và văn bản hướng dẫn.
Lưu ý là vấn đề được thảo luận thường là những vấn đề mà văn bản không rõ ràng, không
đầy đủ hoặc có bất cập.
2) Với mục tiêu là phải có kiến thức thực tiễn về lĩnh vực mà mình học nên sinh
viên phải trả lời được câu hỏi: Nhìn từ góc độ thực tiễn thì vấn đề nêu trên được giải
quyết như thế nào? Để có câu trả lời, sinh viên phải đọc những bản án, quyết định, công
văn của Tòa án (hay tài liệu khác tương đương).
3) Với mục tiêu là phải có kiến thức sâu và rộng về lĩnh vực mà mình đã học nên
sinh viên phải trả lời được câu hỏi: Vấn đề nêu trên được các học giả kiến nghị giải quyết
như thế nào nhằm hoàn thiện pháp luật? Để có câu trả lời, sinh viên phải đọc bài viết hay
sách của các tác giả và xem lại bài giảng của giáo viên (giáo viên có thể trình bày quan
điểm của các tác giả khi thuyết giảng).
4) Với mục tiêu là phải có tư duy phản biện nên sinh viên phải trả lời được câu
hỏi: Theo quan điểm cá nhân của sinh viên, vấn đề nêu trên nên được giải quyết như thế
nào là thuyết phục nhất? Luật là một ngành khoa học khó. Do đó, trước khi đưa ra chính
kiến cá nhân, sinh viên (tương lai là luật gia) nên suy nghĩ kỹ, đọc nhiều tài liệu liên
quan.
5) Trong điều kiện có thể, sinh viên nên biết ở nước ngoài vấn đề đó được giải
quyết như thế nào? Để có câu trả lời, sinh viên có thể tham khảo trực tiếp tài liệu nước
ngoài hoặc đọc các tài liệu bằng tiếng Việt có đề cập đến pháp luật nước ngoài (trong đó
có bài giảng của giáo viên).

Yêu cầu tại buổi thảo luận. Với mục đích là sinh viên phải có kỹ năng tự nghiên cứu
nên trước khi bắt đầu buổi thảo luận, sinh viên phải nộp cho giảng viên kết quả làm việc
ở nhà theo những chủ đề đã được gợi ý.
Với mục đích là sinh viên phải có kỹ năng thuyết trình một vấn đề pháp lý và
phát triển tư duy phản biện nên trong buổi thảo luận sẽ có sinh viên (hay nhóm sinh viên)
trình bày kết quả đã chuẩn bị, sinh viên khác phản biện và giảng viên kết luận.
Ngoài ra, tùy theo từng buổi thảo luận, còn có các yêu cầu khác căn cứ vào mục
đích mà giảng viên đặt ra cho sinh viên.

Lưu ý: Trong tập tài liệu phục vụ thảo luận chỉ có những bản án, quyết định Tòa án. Đối
với những tài liệu khác như văn bản, án lệ, các bài viết liên quan, sinh viên tự tìm để
nghiên cứu và đọc trước khi tham gia buổi thảo luận.

“Những điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước. Những điều chúng ta
không biết là cả một đại dương”
**************************

2
Buổi thảo luận thứ nhất: Chủ thể của pháp luật dân sự
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến năng lực của cá
nhân, tư cách pháp nhân, mối quan hệ giữa pháp nhân và các thành viên đối với
nghĩa vụ phải thực hiện cho người thứ ba;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận
thứ nhất được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản (đánh máy vi tính) để giảng viên
đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một nhóm trình bày
bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định của Tòa án, nhất là
đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.

II- Cấu trúc bài tập (03 bài tập)

* Năng lực hành vi dân sự cá nhân

Nghiên cứu
- Điều 22, 23, 24 BLDS 2015 (Điều 22, 23 BLDS 2005); và các quy định khác
có liên quan;
- Quyết định số 52/2020/DS-GĐT ngày 11/9/2020 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao; Quyết định số 15/2020/QĐST-DS của Tòa án nhân dân
Quận S, TP. Đà Nẵng.

Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự của
ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2023,
Chương III;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.50 đến 53;
- Đỗ Văn Đại, Những vấn đề chung của pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức 2023, Bản án số 53-56, 57-60, 61-64;
- Đỗ Văn Đại và Nguyễn Thanh Thư, “Vấn đề bảo hộ người mất năng lực hành
vi dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 5/2011 (được cung cấp cùng với đề
cương);
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:

3
- Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân
sự và mất năng lực hành vi dân sự.
- Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự và là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

* Về người mất năng lực hành vi dân sự


- Trong quyết định số 52, Toà án nhân dân tối cao đã xác định năng lực
hành vi dân sự của ông Chảng như thế nào?
- Hướng của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết phục
không? Vì sao?
- Theo Toà án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai mới có
thể là người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Toà án nhân dân tối cao
như vậy có thuyết phục không, vì sao?
- Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của
người được giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý).
- Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ
của ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông
Chảng được hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý
của Toà án nhân dân tối cao về vấn đề vừa nêu.

* Về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi


- Cho biết điều kiện để Tòa án có thể tuyên một người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong quyết định số 15, Toà án tuyên bà E có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A là người giám hộ cho bà E
(có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A có quyền đối với tài sản của
bà E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) theo Điều 59 BLDS
năm 2015 có thuyết phục không? Vì sao?

* Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý

Nghiên cứu:
- Điều 74, Điều 85, Điều 86, Điều 87 BLDS 2015 (Điều 84, 86, 91 và 93 BLDS
2005);
- Bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/9/2012 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh;
- Tình huống: Công ty Bắc Sơn có Quyết định số 10/QĐ-BS/2N thành lập Chi
nhánh Công ty Bắc Sơn tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong quy chế hoạt động
của Chi nhánh, Công ty Bắc Sơn có quy định Chi nhánh có chức năng sản

4
xuất phụ tùng ô tô xe máy; Lắp ráp xe máy mới, sửa chữa và phục chế xe máy
cũ; Đại lý mua bán ký gửi hàng hoá. Chi nhánh có quyền lựa chọn khách hàng,
trực tiếp giao dịch, ký kết hợp đồng với khách hàng, chủ động trong mọi hoạt
động kinh doanh đã đăng ký. Ngoài ra, quy chế còn quy định “chi nhánh là
một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập”. Thực tế,
Chi nhánh Công ty Bắc Sơn ký Hợp đồng kinh tế với Công ty Nam Hà trong
đó thỏa thuận bán cho Công ty Nam Hà 6.000 xe gắn máy Trung Quốc sản
xuất với tổng giá trị là 38.100.000.000đồng. Khi có tranh chấp, Công ty Bắc
Sơn đã phủ nhận trách nhiệm đối với hợp đồng trên với lý do Chi nhánh có tư
cách pháp nhân.

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự của ĐH
Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2023,
Chương IV;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.54 đến 63;
- Đỗ Văn Đại, Những vấn đề chung của pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức 2023, Bản án số 107-109, 110-113;
- Các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ từng
điều kiện).
- Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện
của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn nào của
Bản án có câu trả lời.
- Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài
nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

- Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự ? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của BLDS 2005 và BLDS
2015).

- Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có
ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng buộc
Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

* Trách nhiệm dân sự của pháp nhân

Nghiên cứu:
- Điều 87, Điều 93, Điều 94 BLDS 2015 (Điều 93 và 98 BLDS 2005);

5
- Bản án số 10/2016/KDTM-PT ngày 17/03/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang.

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự của ĐH
Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức -Hội Luật gia Việt Nam 2023,
Chương IV;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.54 đến 63;
- Đỗ Văn Đại, Những vấn đề chung của pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức 2023, Bản án số 132-135;
- Các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và trách
nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.
- Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty Xuyên Á
không ? Vì sao ?
- Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á hay
của bà Hiền ? Vì sao ?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và Tòa cấp
phúc thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.
- Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty Xuyên
Á đã bị giải thể ?

III- Tiêu chí đánh giá


*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu
- Viết ngắn gọn; diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu phẩy hay sau
dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải khai thác tài liệu mà đề cương yêu cầu;
- Việc khai thác tài liệu được yêu cầu trong đề cương chỉ được tính điểm khi được
trích dẫn ít nhất một lần trong nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm)


- Bài tập 1: 3 điểm;
- Bài tập 2: 3 điểm;
- Bài tập 3: 2 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài


- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ nhất;
- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với buổi thảo luận.
**************************

6
Buổi thảo luận thứ hai: Giao dịch dân sự
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà
***************************

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến điều kiện để giao
dịch dân sự có hiệu lực và hệ quả pháp lý khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập của buổi
thảo luận thứ hai được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh
viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách (vào đầu buổi thảo luận) một bản để giảng
viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một nhóm trình bày
bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật và giải quyết một số vấn đề
pháp lý khi văn bản không đầy đủ, không hoàn thiện hoặc có sự khác nhau giữa
văn bản và thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định của Tòa án, nhất là
đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.

II- Cấu trúc bài tập (04 bài tập)

* Năng lực pháp luật dân sự của chủ thể trong xác lập giao dịch

Nghiên cứu:
- Điều 117 và Điều 122 BLDS 2015 (Điều 122 và Điều 127 BLDS 2005); Quy định
liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Đọc:
- Nguyễn Hồ Bích Hằng và Nguyễn Trương Tín, Giáo trình Những quy định chung
về Luật dân sự của ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức -Hội Luật gia
Việt Nam 2023, Chương VI;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.347 đến 450;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản án số 26-29;
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.
- Đoạn nào của bản án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu nhà ở
tại Việt Nam?

7
- Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với bà Đ đã bị
Tòa án tuyên bố vô hiệu?
- Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của chủ thể) về
căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?

* Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức

Nghiên cứu:
- Điều 22, 117, 122, 125 và 128 BLDS 2015 (Điều 22, 122, 127, 130 và 133 BLDS
2005); Quy định liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 329/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

Đọc:
- Nguyễn Hồ Bích Hằng và Nguyễn Trương Tín, Giáo trình Những quy định chung
về Luật dân sự của ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức -Hội Luật gia
Việt Nam 2023, Chương VI;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.341 đến 343;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản án số 34-36;
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ thời
điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
- Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi ông
Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
- Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không? Vì
sao? Trên cơ sở quy định nào?
- Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội không và
Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà anh/chị biết.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ
việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý khi đưa
ra hướng xử lý.
- Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó có bị
vô hiệu không? Vì sao?

* Giao dịch xác lập do có lừa dối

Nghiên cứu:
- Điều 127, Điều 132 BLDS 2015 (Điều 132, Điều 136 BLDS 2005); Quy định liên
quan khác (nếu có);
- Quyết định số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/8/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao; Quyết định số 210/2013/DS-GDDT ngày 21/5/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.

8
Đọc:
- Nguyễn Hồ Bích Hằng và Nguyễn Trương Tín, Giáo trình Những quy định chung
về Luật dân sự của ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức -Hội Luật gia
Việt Nam 2023, Chương VI;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.347 đến 450;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản án số 40-43, 48-49, 50-51, 133-135;
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo BLDS
2005 và BLDS 2015;
- Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý một bên cố tình không
cung cấp thông tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập giao dịch.
- Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên vô
hiệu do có lừa dối?
- Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ
anh/chị biết.
- Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì sao?

- Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
- Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
- Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa
dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
- Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định tương
ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?

* Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu

Nghiên cứu:
- Điều 131 BLDS 2015 (Điều 134 và 137 BLDS 2005), quy định liên quan khác
(nếu có);
- Quyết định số 26/2013/KDTM-GĐT ngày 13-8-2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Đọc:
- Nguyễn Hồ Bích Hằng và Nguyễn Trương Tín, Giáo trình Những quy định chung
về Luật dân sự của ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức -Hội Luật gia
Việt Nam 2023, Chương VI;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.356 đến 364;

9
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản án số 110 và tiếp theo;
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ có
phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công
việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?
- Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện như thế nào?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên quan
tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng
vô hiệu.
- Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công ty
Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu?
Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu như thế
nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?

- Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp
đồng vô hiệu?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp
đồng vô hiệu trong Quyết định trên.
- Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh sẽ được
bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Trong Bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận giấy chứng nhận
cấp cho anh Đậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có
thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ quả của
giao dịch dân sự vô hiệu không? Vì sao?

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn;
- Diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo khi đánh máy (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu
phẩy hay sau dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải biết khai thác các tài liệu được cung cấp;
- Việc khai thác tài liệu chỉ được tính điểm khi được trích dẫn ít nhất một lần trong
nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm):

10
- Bài tập 1, 3 và 4: 2 điểm/bài tập;
- Bài tập 2: 3 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài


- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ hai;
- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với buổi thảo luận.
**************************

11
Buổi thảo luận thứ ba: Tài sản và Quyền đối với tài sản
Làm việc cá nhân, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến tài sản, quyền đối
với tài sản;
- Rèn luyện kỹ năng tự làm việc, tự nghiên cứu;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình cá nhân. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một sinh
viên trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và sinh viên khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc văn bản pháp luật, khai thác, tìm kiếm tài liệu và giải
quyết một số vấn đề pháp lý;
- Rèn luyện kỹ năng đọc, phân tích để hiểu, đánh giá một bản án, quyết định của
Tòa án.

II- Cấu trúc bài tập (03 bài tập)

* Khái niệm tài sản

Nghiên cứu:
- Điều 105 và Điều 115 BLDS 2015 (Điều 163, 181 và 322 BLDS 2005); Án lệ số
31/2020/AL và các quy định liên quan khác (nếu có)
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hòa, Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long
- Bản án số 841/2023/HS-PT ngày 01/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh, Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bến Tre;
- Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương I;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.111 và 112;
- Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí
Luật học số 1/2009, tr.14 và tiếp theo; Đỗ Thành Công, “Vai trò của Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”,
in Đỗ Văn Đại (chủ biên), Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch về quyền
sử dụng đất, Nxb. Lao động 2012 (được cung cấp cùng đề cương);
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:

12
- Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về
giấy tờ có giá.
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả
lời không? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản;
- Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”.

- Bitcoin là gì?
- Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?
- Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật
Việt Nam không?
- Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp
luật mà anh/chị biết.
- Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?

- Quyền tài sản là gì?


- Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?
- Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?

* Căn cứ xác lập quyền sở hữu

Nghiên cứu:
- Điều 221 và Điều 236 BLDS 2015 (Điều 170, Điều 185, Điều 186 và Điều 247
BLDS 2005);
- Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
- Các quy định liên quan khác (nếu có).

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương II;

13
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.127 đến 133;
- Các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định
này của Tòa án?
- Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?

* Chuyển rủi ro đối với tài sản

Nghiên cứu:
- Điều 162 và Điều 441 BLDS 2015 (Điều 166, 234, 248 và Điều 440 BLDS
2005);
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương II;
- Tình huống sau: Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xoài trị giá 16.476.250
đồng. Tuy nhiên ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và
bà Dung từ chối thanh toán tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.

Đọc: Đỗ Văn Đại và Nguyễn Nhật Thanh, “Rủi ro đối với tài sản trong pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2015

Và cho biết:
- Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
- Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

14
III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn; Diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu phẩy hay sau
dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải biết khai thác các tài liệu được cung cấp và tìm kiếm tài liệu đã
được định hướng;
- Việc khai thác tài liệu chỉ được tính điểm khi được trích dẫn ít nhất một lần trong
nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm): Bài tập 1: 3 điểm; Bài tập 2: 3 điểm; Bài tập 3: 2 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài


- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ ba;
- Chế tài: Sinh viên không nộp bài đúng thời hạn thì coi như không nộp bài và
được coi như không có điểm đối với buổi thảo luận.
**************************

15
Buổi thảo luận thứ tư: Bảo vệ quyền sở hữu
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến bảo vệ quyền sở
hữu;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận
thứ tư được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình của sinh viên. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một
nhóm trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định (bản án) của Tòa
án, nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.

II- Cấu trúc bài tập (03 bài tập)

* Đòi động sản từ người thứ ba

Nghiên cứu:
- Điều 163 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 174, 189, 256, 257, 599 và tiếp theo
BLDS 2005) và các điều luật liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 123/2006/DS-GĐT ngày 30/05/2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương IV;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.116 đến 120; 144 đến 149;
- Đỗ Thành Công, “Quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 15 tháng 8 năm 2010;
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?
- Trâu có là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu không? Vì sao?
- Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của
ông Tài?
- Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có tranh
chấp trên?
- Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không?
Vì sao?

16
- Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì
sao?
- Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi tài sản
trong BLDS?
- Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền bù?
Vì sao?
- Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của
ông Tài không?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao.
- Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy định
nào bảo vệ ông Tài không?
-Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài
được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả
lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao.

* Đòi bất động sản từ người thứ ba

Nghiên cứu
- Điều 163 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 138, 174, 189, 256, 258 BLDS 2005);
- Quyết định số 07/2018/DS-GĐT ngày 09/05/2018 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao;
- Các điều luật liên quan khác (nếu có).

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương IV;
- Đỗ Thành Công, “Quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 15 tháng 8 năm 2010;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.112 đến 113 và 144 đến 149;
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Đoạn nào của Quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất có tranh
chấp thuộc bà X và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba ngay tình?
- Theo quy định (trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015), chủ sở hữu bất
động sản được bảo vệ như thế nào khi tài sản của họ được chuyển giao cho
người thứ ba ngay tình?

17
- Để bảo vệ bà X, theo Toà án nhân dân tối cao, Toà án phải xác định trách
nhiệm của bà N như thế nào đối với bà X?
- Hướng của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã được quy định trong
BLDS chưa?
- Theo anh/chị, hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao (trong câu hỏi
trên) có thuyết phục không? Vì sao?

* Lấn chiếm tài sản liền kề

Nghiên cứu
- Điều 163 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 9, 189, 259, 265 BLDS 2005) và các
điều luật liên quan khác (nếu có).
- Quyết định số 617/2011/DS-GDDT ngày 18/8/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao và Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07-09-2006 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương IV;
- Đỗ Văn Đại – Lương Văn Lắm, “Xử lý việc lấn chiếm tài sản người khác
trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 (59) 2010;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.149 đến 150;
- Tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền
sử dụng của ông Trê, bà Thi và phần lấn cụ thể là bao nhiêu?
- Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất
(không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà
Nguyên?
- BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian
thuộc quyền sử dụng của người khác không?
- Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào? Nêu ít nhất
một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
theo hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không
gian, mặt đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

- Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ
nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2)?
- Ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên không?
- Nếu ông Trê, bà Thi biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông Hậu
có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi không? Vì sao?

18
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần
đất ông Tận lấn chiếm và xây nhà trên.
- Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê, bà
Thi được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho câu trả lời?
- Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như
Quyết định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không? Nêu
rõ Quyết định mà anh/chị biết.
- Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán trong Quyết định số 23 được bình luận ở đây?
- Đối với phần chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57
m2 trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo dỡ
không?
- Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà
phụ trên như thế nào?
- Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không
gian ở Việt Nam hiện nay.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với
BLDS 2015 không ? Vì sao ?

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn;
- Diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu phẩy hay sau
dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải khai thác tài liệu mà đề cương yêu cầu;
- Việc khai thác tài liệu được yêu cầu trong đề cương chỉ được tính điểm khi được
trích dẫn ít nhất một lần trong nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm): Bài tập 1: 3 điểm; Bài tập 2: 3 điểm; Bài tập 3: 2 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài

- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ tư;


- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn, cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với buổi thảo luận.
**************************

19
Buổi thảo luận thứ năm: Quy định chung về thừa kế
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến các quy định
chung của chế định thừa kế;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận
thứ năm được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình của sinh viên. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một
nhóm trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định (bản án) của Tòa
án, nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ;
- Rèn luyện kỹ năng tìm kiếm tài liệu liên quan đến một chủ đề. Do đó, so với bài
tập trước, trong bài tập lần này sinh viên phải tìm kiếm tài liệu theo yêu cầu của
đề cương.

II- Cấu trúc bài tập (04 bài tập)

* Di sản thừa kế

Nghiên cứu
- Điều 612 BLDS 2015 (Điều 634 BLDS 2005); Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao và các điều luật liên quan
khác (nếu có);
- Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc;
- Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương V;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 4-7, 8-10 và 11-13;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.236 đến 237;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.

20
- Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?

- Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá
cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả
lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Toà án trong Bản án số 08 về
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của Phùng Văn N
là bao nhiêu? Vì sao?
- Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
- Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để
chia không? Vì sao?

- Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
- Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
- Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?

* Quản lý di sản

Nghiên cứu
- Điều 616, 617 và 618 BLDS 2015 (Điều 638, 639, 640 BLDS 2005) và các điều
luật liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La;
Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh.

Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương V;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 33-36 và 37-40;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr. 269 đến 271;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

21
Và cho biết:
- Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?
- Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản
có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai)
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.

* Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế

Nghiên cứu
- Điều 623 BLDS 2015 và các điều luật liên quan khác (nếu có).
- Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu
cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.

Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương V;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 189-190 và 191-194;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.244 đến 245;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.

- Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết
định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?

- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

22
- Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.

* Tìm kiếm tài liệu

Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật
về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2020 đến nay.
Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn những
thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết để trong dấu ngoặc kép, 3)
Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số trang của bài viết (ví dụ: từ tr.41
đến 51). Các bài viết được liệt kê theo alphabet tên các tác giả (không nêu chức danh).

Yêu cầu 2 : Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên.

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn; diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu phẩy hay sau
dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải khai thác tài liệu mà đề cương yêu cầu;
- Việc khai thác tài liệu được yêu cầu trong đề cương chỉ được tính điểm khi được
trích dẫn ít nhất một lần trong nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm):


Bài tập 1: 2 điểm;
Bài tập 2: 2 điểm;
Bài tập 3: 2 điểm;
Bài tập 4: 2 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài


- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ năm;
- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với buổi thảo luận.
**************************

23
Buổi thảo luận thứ sáu: Quy định về di chúc
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến các quy định về di
chúc trong chế định thừa kế;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận
thứ sáu được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình của sinh viên. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một
nhóm trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định (bản án) của Tòa
án, nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.

II- Cấu trúc bài tập (04 bài tập)

* Hình thức của di chúc

Nghiên cứu
- Điều 628 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 652, 654 và 655 BLDS 2005) và các
điều luật liên quan khác (nếu có).
- Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên;
Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương II;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 62 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.253 đến 255.
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
- Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?

24
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức
di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.

- Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?


- Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
- Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?
- Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
- Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
- Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc
của người không biết chữ.

* Tài sản được định đoạt theo di chúc

Nghiên cứu
- Điều 643, Điều 644 BLDS 2015 (Điều 634; Điều 636; Khoản 4, Điều 667 BLDS
2005) và các điều luật liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao và Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.

Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 51-53 và 54-57;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.255;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả
lời?
- Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
- Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

- Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?

- Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết?

25
- Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm?
- Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi?
Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.

* Di chúc chung của vợ chồng

Nghiên cứu
- Điều 630 BLDS 2015 (Điều 663, 664, 668 BLDS năm 2005) và các điều luật liên
quan khác (nếu có);
- Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh Phú
Thọ.

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VI;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 108-110;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.256;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng?
- Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của
vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.

* Di sản dùng vào việc thờ cúng

Nghiên cứu
- Điều 645 BLDS 2015 (Khoản 3 Điều 648, Điều 670 BLDS 2005) và các điều
luật liên quan khác (nếu có).
- Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau;

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VI;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 95 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.257 đến 258.

26
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Đối với phần đất có diện tích 4.582,3m2, Tòa án có coi đây là di sản dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?
- Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được thỏa mãn không
trong vụ việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m2 có thuyết
phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m2 trở thành tài sản chung của
những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp... liên quan đến phần đất
này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng
thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng” có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS.

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn (nhưng đầy đủ ý); diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu phẩy hay sau
dấu chấm phải viết hoa...).
* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu
- Sinh viên phải khai thác tài liệu mà đề cương yêu cầu;
- Việc khai thác tài liệu được yêu cầu trong đề cương chỉ được tính điểm khi được
trích dẫn ít nhất một lần trong nội dung của bài tập.
* Về nội dung (8 điểm): Mỗi bài tập 2 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài


- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ sáu;
- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với buổi thảo luận.
**************************

27
Buổi thảo luận thứ bảy: Thừa kế theo pháp luật
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến các quy định về
thừa kế theo pháp luật;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận
thứ bảy được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình của sinh viên. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một
nhóm trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định (bản án) của Tòa
án, nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.

II- Cấu trúc bài tập (04 bài tập)

* Xác định vợ/chồng của người để lại di sản

Nghiên cứu
- Điều 651 BLDS 2015 (Điều 676 BLDS 2005) và các điều luật liên quan khác
(nếu có);
- Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội; Án lệ số 41/2021/AL.

Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VII;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 126-129;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.261 đến 266;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản án
số 20.
- Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

- Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì sao?

28
- Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

- Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản án
số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát trong Bản án số 20.

- Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1 để lại


không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1 đối
với bà T2 và bà S.

* Xác định con của người để lại di sản

Nghiên cứu
- Điều 651 BLDS 2015 (Điều 676 BLDS 2005) và các điều luật liên quan khác
(nếu có);
- Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội; Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VII;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 130-133;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.261 đến 266;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
- Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của bản
án cho câu trả lời?

29
- Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
- Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư
cách nào? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh Tùng.
- Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hôn
nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ
Dung không? Vì sao?

- Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
- Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?
- Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến.

- Ở Việt Nam, con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế của người
để lại di sản không ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là người thừa kế
của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị
biết.

* Con riêng của vợ/chồng

Nghiên cứu
- Điều 651 BLDS 2015 (Điều 676 BLDS 2005) và các điều luật liên quan khác
(nếu có).
- Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội;

Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VII;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 134-136;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.261 đến 266;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?
- Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?
- Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến được
hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến
đối với di sản của cụ Tần.

30
- Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của
con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay.

* Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ hai, thứ ba

Nghiên cứu
- Điều 651, Điều 652 BLDS 2015 (Điều 635, Điều 676 và 677 BLDS 2005) và các
điều luật liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội.

Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VII;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 142-145, 146-149;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.267 và 268;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ T5
không? Vì sao?

- Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị trong trường hợp
từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di sản)
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Ở Việt Nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa kế
thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị của
cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
- Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể
được hưởng thừa kế thế vị không?
- Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa
kế thế vị của cụ T5.
- Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa kế
theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế
theo di chúc không? Vì sao?

- Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?

31
- Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không? Vì sao?
- Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không? Vì sao?
- Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc trên? Vì
sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên (áp
dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai).

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn (nhưng đầy đủ ý); diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu phẩy hay sau
dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải khai thác tài liệu mà đề cương yêu cầu;
- Việc khai thác tài liệu được yêu cầu trong đề cương chỉ được tính điểm khi được
trích dẫn ít nhất một lần trong nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm): Mỗi bài tập 2 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài

- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ bảy;


- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với buổi thảo luận.
**************************

32
Bài tập tháng thứ nhất (vấn đề chung)
Làm việc nhóm, không thảo luận trên lớp với giảng viên về nội dung bài tập

I- Mục tiêu đánh giá

- Về mặt nội dung, sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến
đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự, áp dụng tương tự pháp luật, quan hệ
pháp luật dân sự và chủ thể của pháp luật dân sự;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập tháng
được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm) nhưng
không có thảo luận trên lớp với giảng viên về nội dung bài tập (sinh viên nộp bài
tập và giảng viên đánh giá ở nhà);
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu và giải quyết một số vấn đề pháp lý;
- Rèn luyện kỹ năng đọc, phân tích để hiểu, đánh giá một bản án, quyết định của
Tòa án.

II- Cấu trúc bài tập (04 bài tập)

* Lạm dụng quyền dân sự

Nghiên cứu:
- Điều 10 BLDS 2015;
- Bản án số 32/2023/DS-PT ngày 10/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.

Đọc: Đỗ Văn Đại, Những vấn đề chung của pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức
2023, Bản án số 45-48.

Và cho biết:
- Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về “Lạm dụng quyền
dân sự”?
- Việc Tòa án xác định có “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này có thuyết
phục không? Vì sao?
- Tòa án đã áp dụng chế tài nào cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc
này?
- Việc áp dụng chế tài nêu trên cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc
này có thuyết phục không? Vì sao?

* Tuyên bố cá nhân đã chết

Nghiên cứu
- Điều 71 đến 73 BLDS 2015.
- Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân
Quận 9 TP. Hồ Chí Minh; Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018
của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa; Quyết định số
94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà Nội;

33
- Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân
huyện C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An).

Đọc: - Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự của ĐH
Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương III;
- Đỗ Văn Đại, Những vấn đề chung của pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức 2023, Bản án số 103-106;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản ánNxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 1-3.

Và cho biết:
- Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên bố
một người là đã chết;
- Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn bao
lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?

- Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố chết
biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?
- Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu cơ sở
pháp lý và ví dụ minh hoạ.
- Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào? Đoạn
nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời?
- Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019),
pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định trên
(quyết định năm 2018 và 2019).

- Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và Tòa án
tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có phù
hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có còn
được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý như thế
nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

* Tổ hợp tác

Nghiên cứu:
- Điều 111 đến 120 BLDS 2005; Điều 101 và tiếp theo BLDS 2015;
- Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự, ĐH Luật TP.
Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương IV;
- Đỗ Văn Đại, Những vấn đề chung của pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức 2023, Bản án số 144-147.

34
Và cho biết:
- Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy nghĩ
của anh/chị về những điểm mới này.
- Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?
- Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà H)?
Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết phục
không ? Vì sao.

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn; diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo khi đánh máy (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu
phẩy hay sau dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải tự tìm kiếm (với sự tư vấn của giảng viên nếu sinh viên yêu cầu)
bổ sung tài liệu như bài viết hay sách khi làm các bài tập được giao;
- Sinh viên phải biết khai thác các tài liệu được cung cấp hay được giảng viên định
hướng; việc khai thác tài liệu chỉ được tính điểm khi được trích dẫn ít nhất một
lần trong nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm)


- Bài tập 1: 2 điểm;
- Bài tập 2: 3 điểm;
- Bài tập 3: 3 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài

- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ 03;


- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với bài tập tháng thứ nhất.
**************************

35
Bài tập tháng thứ hai (tài sản và thừa kế)
Làm việc nhóm, không thảo luận trên lớp với giảng viên về nội dung bài tập

I- Mục tiêu đánh giá

- Về mặt nội dung, sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến
chế định tài sản và thừa kế;
- Sinh viên làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm. Do đó bài tập tháng
được tiến hành theo hình thức bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm) nhưng
không có thảo luận trên lớp với giảng viên về nội dung bài tập (sinh viên nộp bài
tập và giảng viên đánh giá ở nhà);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và nộp cho
giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật và giải quyết một số vấn đề
pháp lý;
- Rèn luyện kỹ năng đọc, phân tích để hiểu, đánh giá một bản án, quyết định của
Tòa án
- Rèn luyện kỹ năng sử dụng Internet và tin học. Do đó, bài tập tháng thứ hai sẽ
được nộp cho giảng viên phụ trách thông qua địa chỉ email (các nhóm nộp cho lớp
trưởng và lớp trưởng nộp cho giảng viên phụ trách thảo luận qua email).

II- Cấu trúc bài tập (02 bài tập)

* Hình thức sở hữu

Nghiên cứu
- Các quy định liên quan đến hình thức sở hữu trong BLDS 2005 và BLDS 2015.

Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương II;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.126 đến 135;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:

- Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2005? Nêu rõ các hình thức sở hữu
trong BLDS.
- Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2015? Nêu rõ các hình thức sở hữu
trong BLDS.
- Suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi về hình thức sở hữu giữa hai Bộ luật trên.

36
* Một số vấn đề liên quan đến chế định thừa kế

Nghiên cứu
- Quyết định số 382/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao, Quyết định số 545/2009/DS-GĐT ngày 26/10/2009 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao;
- Các quy định liên quan đến thừa kế trong BLDS.

Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương V;
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 27-28, 44-46, 105-107.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.241 đến 241 và 249 đến 260;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
- Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn thì di chúc
có giá trị pháp lý không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di
chúc năm 2005 cụ Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm đã quyết định
như vậy?
- Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ
Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

- Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di
chúc năm 2001 cụ Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm đã quyết định
như vậy?
- Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2001 cụ
Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như vậy?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

- Di tặng là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.


- Để có giá trị pháp lý, di tặng phải thỏa mãn những điều kiện gì? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
- Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã di tặng cho ai? Đoạn nào của Quyết định
cho câu trả lời?
- Di tặng trên có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của Quyết định cho câu
trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến di tặng.

- Truất quyền thừa kế là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.


- Trong Quyết định năm 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của ai? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?

37
- Truất quyền trên của cụ Biết có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến truất
quyền thừa kế.

- Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài sản nào? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
- Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp lý phần nào?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát và Tòa dân sự.

- Sự khác nhau giữa “truất quyền thừa kế” và “không được hưởng di sản” trong chế
định thừa kế. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong Quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, bà Nga có hành
vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình không? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
- Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng ông Bình thì bà Nga có được hưởng thừa kế di sản của ông Bình không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hành vi của bà Nga.

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn (nhưng đủ ý); diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo khi đánh máy (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu
phẩy hay sau dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải tự tìm kiếm (với sự tư vấn của giảng viên nếu sinh viên yêu cầu)
bổ sung tài liệu như bài viết hay sách khi làm các bài tập được giao;
- Sinh viên phải biết khai thác các tài liệu được cung cấp hay được giảng viên định
hướng; việc khai thác tài liệu chỉ được tính điểm khi được trích dẫn ít nhất một
lần trong nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm)


- Bài tập 1: 2 điểm;
- Bài tập 2: 6 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài

- Thời điểm: 1 tuần sau khi kết thúc buổi thảo luận cuối cùng;
- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với bài tập tháng thứ hai.
**************************

38
Bài tập lớn học kỳ (02 buổi thảo luận)
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

I- Mục tiêu đánh giá

- Sinh viên có được kiến thức đối với một số vấn đề pháp lý liên quan đến chủ thể,
tài sản, giao dịch dân sự và thừa kế;
- Rèn luyện kỹ năng tự tìm kiếm tài liệu, quy định của pháp luật để giải quyết một
số vấn đề pháp lý;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp nhiều vấn đề trong cùng một hồ sơ;
- Rèn luyện kỹ năng đọc, phân tích để hiểu và đánh giá một bản án, quyết định của
Tòa án;
- Rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm. Do vậy, bài tập lớn học kỳ được tiến hành
theo hình thức làm việc nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình và phản biện. Do đó, một nhóm sẽ được chỉ định
trình bày kết quả của mình và các nhóm khác phản biện.

II- Cấu trúc bài tập (05 bài tập)

1) Nghiên cứu Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh;

- Đọc Nguyễn Hồ Bích Hằng, Giáo trình Những vấn đề chung về Luật dân sự của ĐH
Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương V; Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng
Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản
án số 13 và tiếp theo; Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân
sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.77 và tiếp theo; Đỗ Văn Đại, Những vấn đề
chung của pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức 2023, Bản án số 148 và tiếp theo;

- Và trả lời các câu hỏi sau:

* Căn cứ xác lập đại diện


- Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.
- Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại diện theo
pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

* Hoàn cảnh của người được đại diện


- Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân hàng phải chịu
trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ sở các quy định
về đại diện hiện nay, anh/chị cho biết hướng như vừa nêu của Hội đồng thẩm
phán có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

* Hoàn cảnh của người đại diện

39
- Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối với giao
dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?
- Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông H1 vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng
thẩm phán (về vai trò của người đại diện).

* Quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện
- Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực hiện
giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu ít nhất một hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực hiện
giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì sao?
- Trong Quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền có được tự xác
lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào của Quyết định cho
câu trả lời?
- Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân tích đối với đại
diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền).

2) Nghiên cứu Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao; Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao; Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân
dân Tp. Hồ Chí Minh; Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021
của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

- Đọc Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP.
HCM, Nxb. Hồng Đức 2023; Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm); Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và
Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.235 và
tiếp theo;

- Và trả lời các câu hỏi sau:

* Hình thức sở hữu tài sản


- Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản.
- Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là
Quyết định 377) cho câu trả lời?
- Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu
riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của
ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?

40
- Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao?
- Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.

* Diện thừa kế
- Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
không ? Vì sao?
- Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên
có khác không? Vì sao?
- Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao?

- Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối với
tài sản là di sản do người quá cố để lại ? Nêu cơ sở khi trả lời.
- Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người thừa kế
của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp ? Vì sao ?

* Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc


- Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài
sản của ông Lưu cho bà Xê?
- Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?
- Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?
- Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 đồng triệu thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
- Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có
được chấp nhận không? Vì sao?

- Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho thấy
bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
- Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
- Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của cụ
Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc không ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
- Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động?
Vì sao?

- Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.
- Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà, trước
khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà
Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?

41
- Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp
đồng tặng cho.

* Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản


- Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và những
nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
- Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành
không?
- Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn
nhỏ đến khi trưởng thành?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải trích
cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung không?
- Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị hãy
giải thích giải pháp trên của Tòa án.

- Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá cố
khi họ còn sống?
- Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng
cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan
hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố).

- Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ nào của ông
Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông Định
(ông Lĩnh và bà Thành)?
- Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người thừa kế
(của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc vào việc những
người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa? Hướng như vậy của
Tòa án có thuyết phục không, vì sao?
- Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di
sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
- Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn thực
hiện chưa? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quá
cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được tiến hành
năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy có thuyết phục không, vì sao?
- Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính thuyết phục của
quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản (có nên giữ lại hay không?).

42
3) Nghiên cứu Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011, Quyết định số
767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011; Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày
28/08/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao;

- Đọc Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP.
HCM, Nxb. Hồng Đức 2023; Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm); Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và
Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.235 và
tiếp theo;

- Và trả lời các câu hỏi sau:

- Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc (về
thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
- Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức
người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không? Vì
sao?
- Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ hình
thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?
- Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết định
trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.

- Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có điều
kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
- Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở Việt
Nam?
- Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.
- Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên luật
hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?).

4) Nghiên cứu Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền
sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân;

- Đọc Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP.
HCM, Nxb. Hồng Đức 2023; Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số
153-156; Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.235 và tiếp theo;

- Và trả lời các câu hỏi sau:


- Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di
sản?
- Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di sản đã
được Tòa án chấp nhận?

43
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên ?
Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về nội
dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.
- Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.
- Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận
trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ
số 24/2018/AL

5) Nghiên cứu Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao;

- Đọc Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP.
HCM, Nxb. Hồng Đức 2023; Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm); Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và
Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.235 và
tiếp theo;

- Và trả lời các câu hỏi sau:


- Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần
thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?
- Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng
của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục không?
Vì sao?
- Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức
quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?

III- Tiêu chí đánh giá

*Về hình thức (1 điểm), yêu cầu


- Viết ngắn gọn;
- Diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc;
- Không có lỗi soạn thảo khi đánh máy (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu
phẩy hay sau dấu chấm phải viết hoa...).

* Về tài liệu tham khảo (1 điểm), yêu cầu


- Sinh viên phải tự tìm kiếm (với sự tư vấn của giảng viên nếu sinh viên yêu cầu)
quy định pháp luật và tài liệu như bài viết hay sách để làm các bài tập được giao;
- Sinh viên phải biết khai thác các bản án, quyết định của Tòa án và các tài liệu
khác khi làm các bài tập;
- Việc khai thác các tài liệu chỉ có giá trị (được tính điểm) khi được trích dẫn ít nhất
một lần trong nội dung của bài tập.

* Về nội dung (8 điểm):


- Bài tập 1: 1,5 điểm;
- Bài tập 2: 1,5 điểm;
- Bài tập 3: 1,5 điểm;

44
- Bài tập 4 : 2 điểm;
- Bài tập 5 : 1,5 điểm.

IV- Thời hạn nộp bài

- Thời điểm: Vào đầu buổi thảo luận thứ 8;


- Chế tài: Nhóm không nộp bài đúng thời hạn thì cũng coi như không nộp bài và
không có điểm đối với bài tập lớn.

45
Tài liệu cho bài tập tuần thứ nhất

46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN S- TP ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số:15/2020/QĐST-DS S, ngày 17 tháng 12 năm 2020

QUYẾT ĐỊNH
SƠ THẨM GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
V/v Yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S - TP. ĐÀ NẴNG

Thành phần giải quyết việc dân sự gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên họp: Ông Phùng Anh Dũng
Thư ký phiên họp: Ông Võ Ngọc Tín - Thư ký Tòa án nhân dân quận S, thành
phố Đà Nẵng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S tham gia phiên họp: Bà Lê Thị Vân
Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 17/12/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng mở
phiên họp sơ thẩm công khai giải quyết việc dân sự thụ lý số 15/2020/TLST-VDS ngày
30 tháng 11 năm 2020, về việc “Yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi” theo quyết định mở phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự số
15/2020/QĐ-TA ngày 08 tháng 12 năm 2020, gồm những người tham gia tố tụng sau
đây:
- Người yêu cầu giải quyết việc dân sự:
+ Bà Lê Thị A, sinh năm: 1952. Trú tại: Tổ 19, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng;
có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Lê Thị Q, sinh năm: 1964. Trú tại: Tổ 19, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng;
có mặt.
1

81
+ Ông Lê Đức D, sinh năm: 1970. Trú tại: Tổ 19, phường A, quận S, TP. Đà
Nẵng; có mặt.
+ Bà Lê Thị N, sinh năm: 1972. Trú tại: Tổ 128, phường M, quận N, TP. Đà
Nẵng; có mặt.
+ Bà Lê Thị H, sinh năm: 1977. Trú tại: Tổ 19, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng;
có mặt.
+ Ông Lê Đức L, sinh năm: 1979. Trú tại: Tổ 19, phường A, quận S, TP. Đà
Nẵng; có mặt.

NỘI DUNG VIỆC DÂN SỰ:


Trong quá trình giải quyết và tại phiên họp hôm nay bà Lê Thị A trình bày:
Cha mẹ bà là ông Lê Đức H, sinh năm: 1934 (chết) và bà Nguyễn Thị E, sinh
năm: 1935 kết hôn với nhau sinh được 12 người con là: Lê Thị A, sinh năm: 1952; Lê
Thị C, sinh năm: 1959 (chết); Lê Đức Đ, sinh năm: 1960 (chết); Lê Thị B, sinh năm:
1961 (chết); Lê Thị Q, sinh năm: 1964; Lê Đức T, sinh năm: 1965 (chết); Lê Đức T1,
sinh năm: 1973 (chết); Lê Đức D, sinh năm: 1970; Lê Thị N, sinh năm: 1972; Lê Đức
T2, sinh năm: 1974 (chết); Lê Thị H, sinh năm: 1977 và Lê Đức L, sinh năm: 1979. Bà
Nguyễn Thị E có tiền sử sinh đẻ, phát triển về thể chất và tâm thần hoàn toàn bình
thường, học đến lớp 3/12 thì nghỉ. Lớn lên, bà E làm nghề buôn bán vặt kiếm sống, đến
năm 60 tuổi thì nghỉ bán. Bà E có tiền sử bị cao huyết áp cách đây 04 năm, có khám tại
Bệnh viện Đa Khoa Hoàn Mỹ Đà Nẵng, sau đó về nhà uống thuốc hạ huyết áp tương đối
đều cho đến nay. Khoảng 01 năm trờ lại đây, bà E bắt đầu có biểu hiện lúc nhớ lúc quên,
thỉnh thoảng để quên đồ vật, tiền bạc. Gia đình có đưa bà E đến khám và điều trị nội trú
tại Bệnh viện Đa Khoa Hoàn Mỹ Đà Nẵng từ ngày 19/7/2020 đến ngày 20/7/2020 với
chẩn đoán: “Rối loạn tiêu hóa (K29)/ Tăng huyết áp (I10)”, ra viện uống thuốc theo đơn.
Hiện nay, bà E có thể tự mặc quần áo, tắm rửa được nhưng hơi chậm, còn đi chợ và làm
được một số công việc đơn giản trong gia đình.

82
Xét thấy bệnh tình bà E không thuyên giảm do đó bà Lê Thị A yêu cầu Tòa án
tuyên bố bà Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đồng thời chỉ
định bà Lê Thị A làm người giám hộ, đại diện theo pháp luật cho bà Nguyễn Thị E. Bà
A sẽ đại diện cho bà E trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các
quyền khác theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là: bà Lê Thị Q, ông Lê Đức D,
bà Lê Thị N, bà Lê Thị H và ông Lê Đức L: Thống nhất với lời trình bày của bà Lê Thị
A về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố mẹ ruột là bà Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi. Đồng thời cũng thống nhất cử Bà A (là chị cả trong gia đình) làm
người giám hộ cho bà E, Bà A sẽ đại diện cho bà E trong các giao dịch dân sự cần thiết
theo quy định pháp luật.
Tại phiên họp, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết việc dân sự
như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về thủ tục
tố tụng trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi; đảm bảo người yêu cầu và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thực hiện đầy đủ quyền của mình theo quy định.
- Về nội dung: Kiểm sát viên đề nghị Tòa án nhân dân quận S áp dụng Điều 23,
46, 47, 48, 49, 53, 54, 57, 58, 59, 136 của Bộ luật dân sự; Điều 376, 378 Bộ luật tố tụng
dân sự: Tuyên bố bà Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Xác
định bà Lê Thị A làm người giám hộ cho bà Nguyễn Thị E.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự được thẩm
tra tại phiên họp, ý kiến của các đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Tòa
án nhân dân quận S nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật:

3
Bà Lê Thị A có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mẹ ruột của bà là bà Nguyễn Thị E
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đây là việc dân sự theo quy định tại
khoản 1 Điểu 27, điểm a khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 2 Điều 39 của Bộ luật tố tụng
dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận S, TP. Đà Nẵng.
[2] Xét yêu cầu của bà Lê Thị A thì thấy:
- Căn cứ vào Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 1032/KLGĐTC ngày
08/12/2020 của Trung Tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đối với trường hợp bà
Nguyễn Thị E thì tại thời điểm hiện tại kết luận về y học: Mất trí không biệt định (F03);
Kết luận về năng lực hành vi dân sự: Khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Kết luận giám định pháp y tâm thần của Trung Tâm pháp y tâm thần khu vực
Miền Trung thấy phù hợp với lời trình bày của bà Lê Thị A, bà Lê Thị Q, ông Lê Đức
D, bà Lê Thị N, bà Lê Thị H, ông Lê Đức L và tình trạng hiện tại của bà Nguyễn Thị E.
Do đó, yêu cầu của bà Lê Thị A là có căn cứ theo quy định tại Điều 23 của Bộ luật dân
sự nên chấp nhận.
- Về việc chỉ định người giám hộ: Chồng bà Nguyễn Thị E đã chết, bà Lê Thị A là
con cả trong gia đình. Đồng thời các con của bà E là: bà Lê Thị Q, ông Lê Đức D, bà Lê
Thị N, bà Lê Thị H và ông Lê Đức L cũng thống nhất chỉ định Bà A làm người giám hộ
cho bà E. Xét thấy Bà A có đầy đủ điều kiện của cá nhân làm người giám hộ theo quy
định tại điều 46, 47, 48, 49, 53, 54, 136 Bộ luật dân sự nên cần chấp nhận.
[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên họp là phù hợp với nhận định của Tòa
án nhân dân quận S nên chấp nhận.
[4] Về chi phí cho việc giám định pháp y tâm thần đối với bà Nguyễn Thị E: bà
Lê Thị A đã thực hiện xong.
[5] Về lệ phí Tòa án: Bà Lê Thị A phải chịu lệ phí Tòa án theo quy định pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ các Điều 370, 372, 376, 378 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 23, 46, 47, 48, 49, 53, 54, 57, 58, 59, 136 của Bộ luật dân sự ;

4
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu Tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi của bà Lê Thị A.
1. Tuyên bố: Bà Nguyễn Thị E, sinh năm: 1935. Trú tại: Tổ 19, phường A, quận
S, TP. Đà Nẵng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Chỉ định bà Lê Thị A là người giám hộ của bà Nguyễn Thị E. Bà A thực hiện
quyền và nghĩa vụ của người giám hộ theo quy định tại điều 57, 58 Bộ luật dân sự và
thực hiện quản lý tài sản của người được giám hộ theo quy định tại điều 59 Bộ luật dân
sự.
2. Lệ phí giải quyết việc dân sự: 300.000 đồng bà Lê Thị A phải chịu nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng lệ phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006434
ngày 27/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng. Bà Lê Thị
A đã nộp đủ lệ phí.
- Quyền kháng cáo, kháng nghị: Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết định giải quyết việc dân
sự trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Viện kiểm sát cùng cấp có
quyền kháng nghị trong hạn 10 ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng
nghị trong hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

TM. HỘI ĐỒNG GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ


Nơi nhận:
- VKSND Q. Sơn Trà; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
- Chi cục THADS Q. Sơn Trà;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ việc dân sự.

Phùng Anh Dũng


5

5
6

6
Tài liệu cho bài tập tuần thứ hai

87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
Tài liệu cho bài tập tuần thứ ba

129
130
131
132
133
134
135
136
137
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 841/2023/HS-PT
Ngày: 01 - 11 - 2023

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:


Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Đại
diện Viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Các bị cáo Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trương Chí
Hải, Trịnh Tuấn Anh, Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Anh Tuấn, Bùi Quang
Chung, Phạm Văn Thành, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Đức; Người bị hại –
ông Lê Đức Nguyên; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan –bà Trương Ngọc
Lệ, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) đã thực hiện việc kháng cáo
theo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét
xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng,
Trương Chí Hải, Trịnh Tuấn Anh, Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Anh Tuấn, Bùi
Quang Chung, Phạm Văn Thành, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Đức đã khai
nhận toàn bộ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm
đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu,
chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố, Bộ công an thu
thập có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:
[2.1] Bị cáo Hồ Ngọc Tài và bị cáo Trần Ngọc Hoàng quen biết anh Lê
Đức Nguyên vào năm 2018 và đã nghe anh Nguyên tư vấn bán khoảng 1.000
Bitcoin tương đương 100.000.000.000 đồng để mua các loại tiền điện tử mới
như Aureus, Ifans… trên các sàn giao dịch điện tử quốc tế nhưng bị thua lỗ mất
hết số tiền đầu tư. Bị cáo Tài cho rằng việc mình thua lỗ là do bị anh Nguyên lừa
nên năm 2020 bị cáo Tài đã rủ bị cáo Hoàng cùng tìm anh Nguyên để đòi lại số
tiền đã mất thì bị cáo Hoàng đồng ý. Sau đó, bị cáo Tài gặp và đặt vấn đề với bị
cáo Trịnh Tuấn Anh (bạn cùng kinh doanh tiền điện tử với bị cáo Tài) về việc
tìm anh Nguyên và thỏa thuận sẽ chia cho bị cáo Tuấn Anh 30% số tiền lấy được
của anh Nguyên, bị cáo Tuấn Anh đồng ý. Bị cáo Tuấn Anh đã nhờ bị cáo
Trương Chí Hải đi tìm anh Nguyên nhưng chưa có kết quả. Ngày 11/5/2020, các
bị cáo Tài, Hoàng gặp các bị cáo Tuấn Anh, Hải bàn bạc thống nhất việc thuê xe
ô tô và tìm thêm người để khống chế anh Nguyên nên bị cáo Hải đã nhờ bị cáo
Nguyễn Quốc Dũng giúp đỡ. Một mặt bị cáo Tài nhờ các bị cáo Tuấn Anh, Hải
tìm anh Lê Đức Nguyên,
mặt khác bị cáo Tài nhờ bị cáo Mai Xuân Phốt tìm nhà anh Nguyên từ cuối
tháng 4/2020. Đến ngày 12/5/2020, bị cáo Tài và bị cáo Hoàng tìm được nơi đậu
xe ô tô của anh Nguyên nên bị cáo Tài chỉ đạo bị cáo Phốt gắn thiết bị định vị
lên nhíp ở gầm sau xe ô tô Lexus màu trắng, biển số 49A-178.67 của anh
Nguyên. Để có thêm lực lượng, bị cáo Hoàng yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Đức
gọi điện thoại rủ bị cáo Bùi Quang Chung cùng tham gia, rồi bị cáo Chung rủ
thêm bạn là bị cáo Phạm Văn Thành và bị cáo Thành rủ thêm các bị cáo Nguyễn
1
138
Chí Thanh, Phạm Văn Hùng cùng tham gia.

1
138
Chiều ngày 13/5/2020, bị cáo Tài điện cho bị cáo Tuấn Anh nói sẽ trả công
500.000.000 đồng cho người lái xe cố ý va chạm với xe của anh Lê Đức Nguyên
nên bị cáo Tuấn Anh điện thoại thông báo cho bị cáo Hải, bị cáo Hải điện thoại
cho bị cáo Nguyễn Quốc Dũng để tìm người lái xe va chạm với xe của anh
Nguyên. Đến ngày 14/5/2020, bị cáo Dũng điện thoại rủ bạn là bị cáo Phạm Hồ
Bảo Duy nhờ bị cáo Bảo Duy tìm người lái xe ô tô tạo vụ tai nạn với xe ô tô của
anh Nguyên thì bị cáo Bảo Duy đồng ý thực hiện. Tối cùng ngày 16/5/2020, bị
cáo Bảo Duy gọi điện cho các bị cáo Chung Trần Phương Duy, Dương Khải An
và Phạm Hoàng Việt cùng tham gia.
Đến 09 giờ 27 phút ngày 17/5/2020, theo dõi qua định vị phát hiện thấy xe
ô tô của anh Nguyên di chuyển từ thành phố Bảo Lộc hướng về Thành phố Hồ
Chí Minh, bị cáo Phốt định gọi cho bị cáo Tài nhưng bị cáo Tài đã gọi điện thoại
cho bị cáo Phốt trước để xác định vị trí xe ô tô của anh Nguyên. Sau khi biết
chính xác vị trí xe của anh Nguyên thì bị cáo Tài gọi điện báo cho bị cáo Tuấn
Anh và bị cáo Hải, bị cáo Hải điện thoại cho bị cáo Bảo Duy biết và cùng hành
động như sau:
- Bị cáo Đức điều khiển xe ô tô Fortuner biển số 51G-803.73 chở các bị cáo
Tài, Hoàng, Chung, Thành, Thanh và Hùng đến chùa Minh Đăng Quang ở Quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh đợi nhóm của bị cáo Hải.
- Bị cáo Nguyễn Anh Tuấn điều khiển xe ô tô Ford Everest biển số 51H-
263.14 đến đón bị cáo Trịnh Tuấn anh và đến nhà bị cáo Hải chở bị cáo Hải
cùng đi đến chùa Minh Đăng Quang ở Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh gặp
nhóm của bị cáo Tài, rồi cùng nhau đi lên đường cao tốc Thành phố Hồ Chí
Minh - Dầu Giây. Trên đường đi, bị cáo Hải nói cho bị cáo Anh Tuấn biết nhóm
của bị cáo Tài đang muốn tìm “con nợ” bằng cách tạo va chạm với xe “con nợ”
buộc “con nợ” phải xuống xe để chuyển tiền. Bị cáo Anh Tuấn chở bị cáo Hải đi
trước dẫn đường, chọn điểm va chạm rồi thông báo cho nhóm của bị cáo Tài và
bị cáo Bảo Duy tạo vụ tai nạn với xe của anh Nguyên.
- Bị cáo Bảo Duy điều khiển xe ô tô bán tải nhãn hiệu Nissan biển số 51C-
968.57 đón các bị cáo Việt, An và Phương Duy đi đến điểm hẹn ở cuối đường
cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Dầu Giây. Trên xe, bị cáo Bảo Duy cho các bị
cáo Phương Duy, Việt và An biết việc bị cáo Bảo Duy sẽ lái xe va chạm với xe
“con nợ” để “con nợ” phải xuống xe, tạo điều kiện cho “chủ nợ” đến khống chế
“con nợ” lấy tiền.
Khi ra tới Quốc lộ 1A, tất cả 03 xe xe đậu bên lề đường hướng về đường rẽ
lên cao tốc Dầu Giây - Thành phố Hồ Chí Minh thuộc địa phận thị trấn Dầu
Giây, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai đợi xe ô tô Lexus màu trắng biển số
49A-
178.67 của anh Nguyên đi qua để tiến hành theo kế hoạch.
Đến khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày 17/5/2020, phát hiện xe ô tô Lexus
màu trắng biển số 49A-178.67 của anh Nguyên do anh Vũ Minh Hiếu điều khiển
chạy qua, bị cáo Bảo Duy lái xe ô tô bán tải Nissan biển số 51C-968.57 chở các
bị cáo Phương Duy, Việt, An chạy đuổi theo được một đoạn thì đâm vào phần
đuôi bên phải xe ô tô Lexus màu trắng. Khi xe ô tô bị va chạm thì anh Nguyên
và anh Hiếu dừng xe lại, xuống kiểm tra thì bị cáo Bảo Duy đến nói chuyện rồi
gây sự với anh Nguyên và anh Hiếu, cố tình kéo dài thời gian để chờ nhóm của

2
139
bị cáo Tài đến, còn các bị cáo Phương Duy, Việt, An vẫn ngồi trên xe ô tô. Ngay
sau đó,

2
139
bị cáo Đức lái xe ô tô Fortuner biển số 51G-803.73 chở các bị cáo Tài, Hoàng,
Chung, Thanh, Thành, Hùng vượt lên, đậu xe chặn trước đầu xe ô tô Lexus. Tại
đây, các bị cáo Đức, Chung, Thanh, Thành, Hùng từ xe ô tô Fortuner biển số
51G-803.73 bước xuống đến khống chế anh Nguyên, anh Hiếu vào ghế sau xe ô
tô Lexus và kéo chị Xuyến (vợ Nguyên) cùng cháu Lê Vũ Trâm Anh ra khỏi xe
ô tô Lexus sang xe ô tô Fortuner. Về phía các bị cáo Tuấn Anh, Hải, Anh Tuấn
cùng ngồi trên xe ô tô Ford Everest biển số 51H-263.14 vượt lên đậu xe chặn
trước đầu xe ô tô Lexus để theo dõi, quan sát, khi cần thiết thì hỗ trợ.
Sau khi khống chế được anh Nguyên và anh Hiếu thì các bị cáo Tài, Hoàng
từ xe Fortuner sang xe ô tô Lexus, trên xe Lexus bị cáo Hoàng cầm khẩu súng
bắn đạn bi lên đạn dọa sẽ bắn, còn bị cáo Hùng dùng đầu bút bi giả làm kim
tiêm dọa nếu anh Nguyên không chuyển tiền sẽ bắn, sẽ chích kim tiêm dính máu
nhiễm HIV vào người. Đến khoảng 12 giờ 38 phút cùng ngày (17/5/2020), khi
xe qua trạm thu phí Dầu Giây thì bị cáo Hoàng lấy điện thoại của anh Nguyên,
ép anh Nguyên phải đọc mật khẩu để mở điện thoại truy cập vào ví điện tử của
anh Nguyên, còn bị cáo Hùng và bị cáo Thanh mở băng keo bịt mắt anh Nguyên
để bị cáo Hoàng đưa điện thoại dí sát mặt anh Nguyên để máy điện thoại nhận
dạng khuôn mặt nhưng vẫn chưa chuyển tiền được nên bị cáo Tài tiếp tục thao
tác và chuyển được 0,158 BTC; 105.639.624 TRX; 19.330.000 BTT từ ví TRX,
ví BTT của anh Nguyên sang ví BTT của bị cáo Tài. Và khi bị cáo Hoàng lái xe
ô tô Lexus về khu phố 2, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí
Minh thì dừng lại. Tại đây, bị cáo Tài và bị cáo Hoàng đã lấy 01 camera hành
trình gắn trên xe ô tô Lexus của anh Nguyên, 03 điện thoại Iphone của anh
Nguyên, anh Hiếu, chị Xuyến.
Sau khi chiếm đoạt được 0,158 BTC; 105.639.624 TRX; 19.330.000 BTT
và chiếm đoạt 03 điện thoại di động, 01 camera hành trình có tổng trị giá là
45.115.000 đồng, bị cáo Tài đã chuyển BTC, TRX, BTT trên sàn Binance
chuyển đổi thành 168 Bitcoin, sau đó các bị cáo đã quy đổi tổng số 86,91 BTC
(Bitcoin) được 18.880.000.000 đồng và các bị cáo được chia tiền, Bitcoin cụ thể
như sau:
- Bị cáo Trần Ngọc Hoàng đã bán 26,8 Bitcoin, nhận về 5.649.000.000
đồng. Ngoài ra, bị cáo Hoàng còn nhận 50.000.000 đồng từ bị cáo Tài để chuyển
cho bị cáo Phúc nhưng bị cáo Hoàng không chuyển. Tổng cộng bị cáo Hoàng
thực nhận được tiền đồng là 5.699.000.000 đồng.
- Bị cáo Trịnh Tuấn Anh đã bán 23 Bitcoin và nhận về 5.060.000.000 đồng,
rồi bị cáo Tuấn Anh đã chuyển 1.050.000.000 đồng cho bị cáo Hải. Do đó, ngoài
số Bitcoin chưa bán thì bị cáo Trịnh Tuấn Anh đã thực nhận số tiền
4.010.000.000 đồng
- Bị cáo Trương Chí Hải được bị cáo Tuấn Anh chuyển 1.050.000.000
đồng, sau đó bị cáo Hải chuyển cho bị cáo Nguyễn Anh Tuấn 50.000.000 đồng.
Ngoài ra, bị cáo Hải còn giữ 50.000.000 đồng từ bị cáo Nguyễn Quốc Dũng, nên
tổng cộng bị cáo Hải nhận là 1.050.000.000 đồng.
- Bị cáo Nguyễn Anh Tuấn được chia 50.000.000 đồng (nhận từ bị cáo Hải).
- Bị cáo Nguyễn Quốc Dũng được chia 412.000.000 đồng (nhận tiền từ bị
cáo Hải).
- Bị cáo Nguyễn Văn Đức được chia 300.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo

3
140
Hải).

3
140
- Bị cáo Bùi Quang Chung được chia 270.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo
Hải).
- Bị cáo Phạm Văn Thành được chia 250.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo
Hải).
- Bị cáo Phạm Văn Hùng được chia 210.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo
Thành).
- Bị cáo Nguyễn Chí Thanh được chia 210.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo
Tài).
- Bị cáo Mai Xuân Phốt nhận 1.000.000.000 đồng từ bị cáo Tài (trong đó, bị
cáo Tài nhờ bị cáo Phốt cúng dường ở đền Cô Sáu của ông Nguyễn Kim Thành
và bị cáo Phốt đã cúng dường số tiền 800.000.000 đồng nên bị cáo Phốt chỉ thực
nhận 200.000.000 đồng).
- Bị cáo Phạm Hồ Bảo Duy được chia 20.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo
Dũng).
- Bị cáo Chung Trần Phương Duy được chia 7.000.000 đồng (nhận tiền từ
bị cáo Bảo Duy).
- Bị cáo Phạm Hoàng Việt được chia 6.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo
Bảo Duy).
- Bị cáo Dương Khải An được chia 5.000.000 đồng (nhận tiền từ bị cáo
Bảo Duy).
Các bị cáo đã có hành vi khống chế anh Lê Đức Nguyên, anh Vũ Minh
Hiếu, chị Vũ Thị Hồng Xuyến, sử dụng súng dọa sẽ bắn, dọa sẽ chích kim tiêm
dính máu nhiễm HIV để ép anh Nguyên đọc mật khẩu làm cho anh Nguyên, anh
Hiếu, chị Xuyến lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tiền điện tử của anh Nguyên và chuyển đổi số tiền điện tử đã chiếm đoạt thành
tiền đồng Việt Nam. Thực tế các bị cáo đã chiếm đoạt được 0,158 BTC;
105.639.624 TRX;
19.330.000 BTT quy đổi thành 168 Bitcoin rồi tiếp tục chuyển đổi 86,91 Bitcoin
thành tiền đồng Việt Nam và chiếm đoạt 03 điện thoại di động, 01 camera hành
trình. Các bị cáo chiếm đoạt 03 điện thoại di động, 01 camera hành trình và
chiếm đoạt tiền điện tử rồi chuyển đổi số tiền điện tử đã chiếm đoạt thành tiền
đồng Việt Nam thì phải xác định giá trị 03 điện thoại di động, 01 camera và số
tiền đồng Việt Nam mà bị cáo đã quy đổi thành công là căn cứ xác định giá trị
tài sản bị chiếm đoạt. Trong vụ án này, các bị cáo đã chiếm đoạt được 03 điện
thoại di động, 01 camera hành trình có tổng trị giá là 45.115.000 đồng và 168
Bitcoin rồi quy đổi 86,91 BTC (Bitcoin) được 18.880.000.000 đồng.
Các bị cáo Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trương Chí Hải, Trịnh Tuấn
Anh, Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Văn Đức là người có đầy
đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được việc dùng vũ lực,
khống chế người bị hại để chiếm đoạt tài sản của người bị hại là vi phạm pháp
luật, xâm phạm quyền sở hữu của người khác nhưng vì lợi ích cá nhân các bị
cáo vẫn cố tình thực hiện.
Vụ án có đồng phạm, hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và
nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị
hại được pháp luật bảo vệ, tạo dư luận xấu trong xã hội.
[2.2] Với hành vi nêu tại mục [2.1], Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo

4
141
Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trương Chí Hải, Trịnh Tuấn Anh, Nguyễn
Quốc

4
141
Dũng, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Văn Đức phạm tội “Cướp tài sản” theo quy
định tại điểm a khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo yêu cầu xác định các bị cáo chỉ phạm tội
“Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình năm
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo và các luật sư bào chữa cho các bị cáo
cho rằng các bị cáo chiếm đoạt tiền điện tử (tiền ảo), nhưng hiện nay pháp luật
chưa có quy định cụ thể về tiền điện tử (tiền ảo) và đây không phải là tài sản
theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự nên Bản án sơ thẩm xác định các bị
cáo chiếm đoạt 18.880.000.000 đồng (quy đổi từ 86,91 Bitcoin). Từ đó, đề nghị
Hội đồng xét xử xác định các bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật tố tụng hình sự.
Xét thấy, tội “Cướp tài sản” là tội có cấu thành hình thức, mục đích của các
bị cáo trong vụ án này là chiếm đoạt tiền đồng thông qua việc chiếm giữ Bitcoin
(tiền điện tử, tiền ảo). Ngay từ đầu bị cáo Tài và các đồng phạm mong muốn
chiếm đoạt khoảng 200.000.000.000 đồng của anh Lê Đức Nguyên bằng việc
khống chế, ép buộc anh Nguyên, người thân của anh Nguyên phải chuyển
khoảng
1.000 Bitcoin. Thực tế các bị cáo đã khống chế, chuyển thành công 168 Bitcoin,
rồi quy đổi 86,91 Bitcoin được 18.880.000.000 đồng và đã chiếm đoạt 03 điện
thoại di động, 01 camera hành trình trị giá 45.115.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp
sơ thẩm xác định hành vi của các bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” theo điểm a
khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, nên
Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận quan điểm của các luật sư bào chữa
cho các bị cáo.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hồ Ngọc Tài (…).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
I, Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm c khoản 1 Điều
357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Anh Tuấn; không chấp nhận
kháng cáo của các bị cáo Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trương Chí Hải,
Trịnh Tuấn Anh, Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Văn Đức, Bùi Quang Chung,
Phạm Văn Thành, Nguyễn Chí Thanh; Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số
223/2023/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Anh Tuấn:
A. Về tội danh:
Tuyên bố các bị cáo Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trịnh Tuấn Anh,
Trương Chí Hải, Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Anh Tuấn
phạm tội “Cướp tài sản”.
B. Về hình phạt: (…).

5
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
Tài liệu cho bài tập tuần thứ tư

183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
Tài liệu cho bài tập tuần thứ năm

208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH SƠN LA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 11/2020/DS-PT
Ngày: 10 - 6 - 2020
V/v: Tranh chấp quyền quản lý di sản
thừa kế.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Quản Hữu Chiến.
Các Thẩm phán: Ông Phạm Tuấn Minh.
Ông Đỗ Tuấn Long.
- Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thu Phương – Thư ký Tòa án
nhân dân tỉnh Sơn La.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên toà: Ông
Hà Văn Quang - Kiểm sát viên.
Ngày 10tháng6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 24/TLDS-PT ngày 16 tháng 01 năm
2020 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa
án nhân dân huyện M bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐ-PT ngày 02 tháng
03 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La; giữa các Đ sự:
Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H;Địa chỉ: Tiểu khu C, thị trấn Nông trường
M, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.
Bị đơn: Anh Phạm Tiến N;Địa chỉ: Tiểu khu C, thị trấn Nông trường M,
huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Dương Thị H; Luật
sư thuộc Công ty Luật Quốc tế BA – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Tiến T; Địa chỉ: Tiểu
khu C, thị trấn Nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La.Hiện đang chấp hành án
tại: Trại giam Y, huyện P tỉnh Sơn La; vắng mặt.
Bà Phạm Thị H; địa chỉ: Tiểu khu C, TTNT M, huyện M, tỉnh Sơn La; có
mặt.
Bà Phạm Thị L; địa chỉ: Tiểu khu 40, thị trấn nông trường M, huyện M,
tỉnh Sơn La;
Bà Phạm Thị N; địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện Ch, thành phố Hà Nội;

222
Bà Phạm Thị Nh; địa chỉ; Số nhà 19, ngõ 34A, đường L, quận H, thành phố
Hà Nội;
Bà Phạm Thị H; địa chỉ: Thôn T, xóm 5, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.
Đều xin xét xử vắng mặt và có văn bản ủy quyền cho nguyên đơn anh
Phạm Tiến H có mặt tại phiên tòa.
Người kháng cáo: Bị đơn anh Phạm Tiến N.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai tại phiên tòa và các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án, Nguyên đơn anh Phạm Tiến H trình bày:
Giữa anh và anh Phạm Tiến T, cháu Phạm Tiến N có họ hàng với nhau,
anh Thiện là anh trai ruột của anh Hiệu và cháu Nghĩa là con trai của anh Phạm
Tiến T. Trước đây anh Phạm Tiến T có vợ là chị Dương Thị Hường nhưng hai
anh chị đã ly hôn từ năm 1997.
Nguyên nhân khởi kiện đòi lại nhà đất của bố mẹ, cũng như nguyên nhân
khởi kiện cháu Nghĩa đến Tòa án với nội dung như sau:
Bố đẻ anh là Phạm Tiến Đ, mẹ đẻ anh là Đoàn Thị T, bố mẹ anh sinh
được 07 anh chị em gồm bà Phạm Thị L, sinh năm 1940, bà Phạm Thị N, sinh
năm 1944, bà Phạm Thị Nh, sinh năm 1949, bà Phạm Thị H, sinh năm 1954, bà
Phạm Thị H sinh năm 1956, Phạm Tiến T, sinh năm 1959 và anh là Phạm Tiến
H, sinh năm 1963, khi bố mẹ anh còn sống bố mẹ anh có một ngôi nhà gỗ 04
gian lợp ngói nằm trên diện tích đất 311m 2 (Đất đã có Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T).
Đến năm 1994 ông Phạm Tiến Đ chết, đến năm 2012 bà Đoàn Thị T chết.
Khi chết bố, mẹ anh không để lại di chúc giao cho con cái nào trong gia đình
được sử dụng, quản lý ngôi nhà và diện tích đất nói trên, do đó ngôi nhà và diện
tích đất trên để nguyên không có ai quản lý vì các anh chị đã đi xây dựng gia
đình hết không có ai ở trông nom ngôi nhà đó, bản thân anh Hiệu và anh Thiện
đều phải đi chấp hành án nên ngôi nhà không có ai trông coi quản lý đã xuống
cấp trầm trọng, nay anh Hiệu đã đi chấp hành án xong trở về, bản thân anh cũng
đã có nhà ở không liên quan đến nhà của bố mẹ anh, còn anh Thiện vẫn đang
chấp hành án nên nguyện vọng của các anh chị em trong nhà là giao cho anh
Hiệu tu sửa lại ngôi nhà và quản lý đất đai của bố mẹ để lại để làm nơi thờ cúng
bố mẹ chứ không phân chia, tuy nhiên khi anh có ý định sửa thì cháu Nghĩa cản
trở không cho xuất trình một giấy ủy quyền của anh Thiện có nội dung là ủy
quyền cho cháu Nghĩa trông coi ngôi nhà đến khi anh Thiện chấp hành án trở về.
Với những lý do trên, anh Hiệu đề nghị Tòa án giải quyết buộc cháu
Nghĩa và anh Thiện không được cản trở việc anh tu sửa ngôi nhà, cháu Nghĩa
không được xâm phạm đến tài sản của bố, mẹ anh, bàn giao lại nhà và đất của
bố mẹ anh để lại cho anh tu sửa trông coi, quản lý để làm nơi thờ cúng bố mẹ
anh.

223
Theo Bản tự khai, trình bày tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, Bị đơnanh Phạm Tiến N trình bày:
Anh không tự xâm chiếm nhà cửa của ông bà nội anh là ông Đ và bà T mà
do bố anh có viết giấy ủy quyền cho anh trông coi quản lý vì bố anh đang đi
chấp hành án.
Tuy bố mẹ anh đã ly hôn nhưng do không có ai hương khói cho ông bà
ngày giỗ nên bố anh đã bàn bạc với các bác trong gia đình mang bát hương của
ông Đ bà T về nhà mẹ anh và anh đang ở để thờ cúng, các bác đã đồng ý và từ
đó mỗi lần giỗ là lại làm tại nhà anh. Xuất phát từ việc đó mà bố anh là Phạm
Tiến T có giấy ủy quyền giao cho anh trông coi, chăm sóc cây cối, quản lý ngôi
nhà. Kể từ đó đến nay, anh vẫn thực hiện đúng việc bố anh ủy quyền.
Hiện nay anh sinh sống cùng với mẹ anh, anh chỉ thực hiện việc ủy quyền
của bố anh là trông coi quản lý, chờ bố anh chấp hành án về còn bản thân anh
cũng không có tranh chấp tranh dành gì ngôi nhà và đất để ở cho bản thân anh.
Theo các văn bản ghi ý kiến và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, Người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Tiến T trình bày:
Anh là anh trai của anh Phạm Tiến H, bố mẹ anh là ông Phạm Tiến Đ, mẹ
là Đoàn Thị T, bố mẹ anh chết đi để lại một ngôi nhà và đất, cây cối ăn quả, khi
chết ông bà không để lại di chúc. Anh là con trai trưởng trong gia đình nên anh
có trách N hương khói cho ông bà.
Trong lúc anh đi chấp hành án, anh có ủy quyền cho con trai là Phạm Tiến
N trông coi ngôi nhà và đất của ông bà. Nay anh Hiệu và anh chị em trong nhà
có nguyện vọng giao cho anh Hiệu tu sửa quản lý anh không nhất trí đề nghị Tòa
án xem xét giao cho cháu Phạm Tiến N quản lý.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa
án nhân dân huyện M đã quyết định: Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật
tố tụng dân sự; các Điều 166, 169, 181, 207, 208, 209, 212, 217, 218 Bộ luật dân
sự năm 2015; khoản 9 Điều 6 Luật Nhà ở:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H.
Xử tạm giao cho anh Phạm Tiến H quản lý tài sản của ông Phạm Tiến Đ
và bà Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất, anh Hiệu có trách N sửa chữa
những phần ngôi nhà bị hư hỏng, nghiêm cấm việc anh Phạm Tiến H không
được tự ý phá dỡ xây mới ngôi nhà khi chưa có sự đồng ý của các chị em trong
gia đình.
Được quyền quản lý nhà, tài sản trên đất và diện tích đất theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T số 0010/QSDĐ/323/QĐUB do
UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004.
Trong quá trình được tạm giao quản lý nhà, đất của ông Phạm Tiến Đ, bà
Đoàn Thị T, anh Phạm Tiến H không được sử dụng sai mục đích như cho thuê,
cho mượn hoặc tự ý thực hiện các giao dịch như mua bán, chuyển nhượng khối
tài sản của ông Đ, bà N cho người khác. Khối tài sản của ông Phạm Tiến Đ và

224
bà Đoàn Thị N gồm đất và tài sản trên đất tại Tiểu khu C, thị trấn nông trường
M, huyện M, tỉnh Sơn La.
2. Buộc anh Phạm Tiến N có trách N bàn giao lại cho anh Phạm Tiến H
toàn bộ nhà và đất của ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T đang quản lý cho
anh Phạm Tiến H. Nghiêm cấm anh Phạm Tiến N có hành vi cản trở anh Phạm
Tiến H trong quá trình sửa chữa ngôi nhà , phá hủy tài sản của ông Phạm Tiến Đ
và bà Đoàn Thị T, tự ý xâm phạm vào nhà, đất của ông Phạm Tiên Đ và bà
Đoàn Thị T khi chưa có sự đồng ý của anh Phạm Tiến H trong thời gian anh
Phạm Tiến H được tạm giao quản lý ngôi nhà của ông Đ, bà T.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các
Đ sự.
Do không nhất trí với Bản án sơ thẩm, ngày 20 tháng 11 năm 2019 bị đơn
anh Phạm Tiến N có đơn kháng cáo, không nhất trí với bản án sơ thẩm do xác
định sai quan hệ pháp luật, phải là Tranh chấp về chia di sản thừa kế; nguyên
đơn anh Phạm Tiến H không có quyền khởi kiện; anh Nghĩa nhận trông coi tài
sản của ông Đ bà T thông qua ủy quyền của bố đẻ là ông Phạm Tiến T nên đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, để anh Nghĩa tiếp tục trông coi tài sản cho
đến khi ông Thiện chấp hành án trở về.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn anh Phạm Tiến H không nhất trí kháng cáo của bị đơn anh
Phạm Tiến N, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn anh Phạm Tiến N và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp luật sư
Dương Thị Hương giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét hủy bản án sơ thẩm hoặc sửa bản án sơ thẩm theo hướngbác yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phạm Tiến H; để anh Phạm Tiến N được tiếp
tục trông coi, quản lý di sản cho đến khi ông Phạm Tiến T chấp hành án trở về.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến như sau: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội
đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, phần trình bày của các Đ sự tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn anh Phạm Tiến N,
sửa bản án sơ thẩm về phần quan hệ pháp luật; không chấp nhận kháng cáo của
anh Nghĩa về việc nhận trông coi, quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ
và bà Đoàn Thị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


* Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà, xem xét nội dung kháng cáo và ý kiến trình bày của các Đ sự tại phiên
toà. Tòa án nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật:

225
Bố mẹ của Nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đoàn Thị T
khi còn sống có tạo dựng được một khối tài sản gồm diện tích 311m 2 đất và 01
ngôi nhà gỗ 4 gian; diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên bà Đoàn Thị T tại Tiểu khu C, thị trấn nông trường M, huyện M,
tỉnh Sơn La.
Năm 1994, ông Đ chết, đến năm 2012 bà T chết; cả hai ông bà đều không
để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế nêu trên và không giao quyền quản lý
di sản thừa kế cho ai. Các thành viên trong gia đình thay nhau trông coi, quản lý
khối di sản của ông Đ, bà T.
Khi anh Hiệu được sự ủy quyền của các chị em trong gia đình, đãtiến
hành sửa chữa, tôn tạo lại ngôi nhà trên đất; thì bị đơn anh Phạm Tiến N là cháu
của ông Đ, bà T ngăn cản, không cho làm với lý do; trước khi đi chấp hành án,
anh Nghĩa đã được bố đẻ là ông Phạm Tiến T giao cho quản lý khối di sản của
ông bà Đ T, nên anh Nghĩa có trách N trông coi, quản lý khối di sản này.
Cả anh Hiệu và anh Nghĩa đều không có yêu cầu chia di sản thừa kế của
ông bà Đ, T; mà chỉ tranh chấp về quyền quản lý khối di sản của ông bà. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là Tranh chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất là chưa chính xác; cần xác định quan hệ pháp luật là
“Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế” để đảm bảo giải quyết đúng nội dung
tranh chấp của các bên.
Ông Đ chết năm 1994, bà T chết năm 2012; tính đến thời điểm anh Hiệu
khởi kiện ra Tòa án (ngày 15/8/2019) vẫn chưa hết thời hiệu khởi kiện liên quan
đến di sản thừa kế của ông bà. Do đó, anh Hiệu vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết về tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế của ông Đ, bà T.
[2] Về những người tham gia tố tụng
Đối tượng tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế giữa anh Phạm Tiến H
và anh Phạm Tiến Nlà khối di sản của ông Đ, bà T. Liên quan đến khối di sản
này, ngoài ông Phạm Tiến T, còn có các bà Phạm Thị L, Phạm Thị N, Phạm Thị
Nh, Phạm Thị H, Phạm Thị H đều là con gái của ông Đ, bà T cũng có quyền
được quản lý khối di sản thừa kế. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người
này vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan là
thiếu sót.
Tuy nhiên, qua xác minh với các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều
xác nhận, đã ủy quyền toàn bộ cho anh Hiệu giải quyết vụ án tại Tòa án; nhất trí
với việc giao di sản thừa kế cho anh Hiệu trông coi, quản lý; việc Tòa án cấp sơ
thẩm không đưa các bà vào tham gia tố tụng, các bà không có ý kiến gì, không
bị ảnh hưởng vì quyền và lợi ích của các bà đã đồng nhất với anh Hiệu; đồng
thời xin vắng mặt trong các buổi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm. Do đó, xét
thấy thiếu sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm chưa đến mức vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng và đã được Tòa án cấp phúc thẩm khắc phục.
[3] Về nội dung kháng cáo
[3.1] Về việc xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp di sản thừa kế”:

226
Theo nội dung đơn khởi kiện của anh Phạm Tiến H, anh được các đồng
thừa kế bao gồm các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đồng ý ủy quyền cho anh,
đứng ra trông coi, quản lý, sửa chữa và tôn tạo lại đất, tài sản trên đất tại Tiểu
khu C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Toàn bộ nhà và đất là di
sản thừa kế do bố mẹ anh để lại.
Cháu Nghĩa là con trai của anh Phạm Tiến T đã ngăn cản, không cho anh
Hiệu tiến hành việc tôn tạo, tu sửa lại di sản thừa kế. Do đó, anh Hiệu đã khởi
kiện ra Tòa án, yêu cầu giải quyết về tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế;
không yêu cầu Tòa án giải quyết về chia di sản thừa kế.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Tiến T là một trong các
đồng thừa kế cũng không có yêu cầu độc lập về chia di sản thừa kế. Do đó, yêu
cầu kháng cáo của anh Nghĩa đề nghị xác định quan hệ pháp luật của vụ án là
“Tranh chấp di sản thừa kế” là không có căn cứ chấp nhận.
[3.2] Về quyền khởi kiện của anh Phạm Tiến H:
Theo hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, các Đ sự đều thừa nhận anh Phạm Tiến
H thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Đ, bà T; ông Đ chết năm 1994, bà T chết
năm 2012 không để lại di chúc; anh Hiệu có các quyền, nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại theo quy định tại Điều 636 của Bộ luật Dân sự 2005, trong đó
có quyền quản lý di sản thừa kế theo quy định tại các Điều 638, 640 của Bộ luật
Dân sự 2005(nay được quy định tại các Điều 614 và các Điều 616, 618 Bộ luật
dân sự năm 2015).
Anh Phạm Tiến N cho rằng, anh được giao quản lý khối di sản của ông Đ,
bà T nên đã có hành vi ngăn cản việc quản lý di sản thừa kế của anh Phạm Tiến
H. Theo quy định của pháp luật, anh Hiệu có quyền khởi kiện vụ án về tranh
chấp quyền quản lý di sản thừa kế để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của anh Nghĩa về nội dung này.
[3.3] Về việc ông Phạm Tiến T ủy quyền cho anh Phạm Tiến N trông coi,
quản lý di sản của ông Đ, bà T:
Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống
tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T. Khi ông Thiện đi chấp
hành án, có giao lại cho anh Nghĩa trông coi di sản của ông bà. Tuy nhiên, theo
quy định tại Điều 616 của Bộ luật Dân sự 2015 thì “Người quản lý di sản là
người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử
ra”. Ông Đ bà T chết, không để lại di chúc; việc quản lý di sản của ông Thiện
không có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Do đó, ông Thiện
không có quyền giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông coi, sử dụng di sản
của ông bà Đ T.
Giấy ủy quyền cho con trai Phạm Tiến N đề ngày 15/8/2013 của ông
Phạm Tiến T không có giá trị pháp lý; không phải là cơ sở để phát sinh quyền
quản lý di sản của anh Phạm Tiến N đối với di sản của ông bà Đ T.
[3.4] Về quyền quản lý di sản thừa kế của ông Đ, bà T:

227
Kể từ thời điểm năm 2013, khi anh Thiện đi chấp hành án; anh Nghĩa có
qua lại trông coi, nhưng không ở trực tiếp tại nhà và đất của ông bà Đ, T mà ở
một vị trí đất khác. Ngoài ra, còn có bà Phạm Thị H (con gái của ông Đ bà T) ở
liền kề và trông coi khối di sản này. Do đó, xác định từ năm 2012 đến nay, di
sản của ông Đ, bà T chưa giao cho ai quản lý.
Qúa trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng
thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của
ông Đ, bà T. Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ
năng lực hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không
bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo
đức xã hội. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh
Phạm Tiến H là phù hợp.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên; xét thấy,có cơ sở chấp nhận một
phần kháng cáo của bị đơn anh Phạm Tiến N; sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Mvề việc xác định
quan hệ pháp luật và đưa bổ sung những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng; không chấp nhận kháng cáo của anh Nghĩa về việc bác quyền
khởi kiện và quyền quản lý di sản thừa kế của anh Phạm Tiến H.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí:
Anh Phạm Tiến N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do một phần
yêu cầu kháng cáo được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309; khoản 2 Điều 148 của Bộ luật tố
tụng dân sự 2015; khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của UBTVQH về định mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Tuyên xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn anh Phạm Tiến
N; sửaBản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án
nhân dân huyện M như sau:
1. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn Phạm Tiến H
và bị đơn Phạm Tiến N là: “Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế”.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh
Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và bà
Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T số
0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004 tại Tiểu khu
C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. (Có sơ đồ trích đo hiện trạng
khu đất kèm theo).
Anh Hiệu có các quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản theo quy
định tại các Điều 617, Điều 618 của Bộ luật Dân sự 2015 và có quyền yêu cầu C
7

228
Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền quản lý di sản khi bị người khác xâm
phạm theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí:
Anh Phạm Tiến N không phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc
thẩm, được trả lại 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số AA/2016/0003509
nộp ngày 20/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 26
của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7ª, 7b và 9
của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dược thực hiện theo quy
định tại Điều 30 của Luật thi hành án.”
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày
10/6/2020).

Nơi nhận: T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- TAND huyện M;
- VKSND tỉnh Sơn La; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi cục THADS huyện M;
- Đ sự;
- Lưu. (đã ký)

Quản Hữu Chiến

229
9

230
231
232
233
234
235
Tài liệu cho bài tập tuần thứ sáu

236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 222/2018/DS-PT
Ngày: 15 - 11 - 2018
V/v chia thừa kế quyền sử dụng đất

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Hải Hà
Các Thẩm phán: Ông Hồ Minh Tấn
Ông Huỳnh Văn Yên
- Thư ký phiên tòa: Ông Hồ Dũng Liêm là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thúy Hồng - Kiểm sát viên.

Trong các ngày 14 và 15 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 137/2018/TLPT - DS ngày 27
tháng 7 năm 2018 về việc “Chia thừa kế quyền sử dụng đất ”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 39/2018/DS-ST ngày 04/6/2018 của Tòa án
nhân dân huyện T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 195/2018/QĐ-PT ngày
08 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Lưu Tuyết M, sinh năm 1964 (có mặt)
Địa chỉ: Khóm 6, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
2. Bà Lưu Thị P, sinh năm 1950
Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện P, tỉnh Cà Mau.
Đại diện hợp pháp của bà P: Bà Lưu Tuyết M, sinh năm 1950 (Theo văn
bản ủy quyền ngày 03/3/2014) (có mặt)
3. Bà Lưu Phương D, sinh năm 1946 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P,
bà Lưu Phương D: Luật sư Võ Thanh T – Văn phòng Luật sư Võ Thanh T thuộc
Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lưu Tuyết M : Ông Nguyễn
Thanh Đ, sinh năm 1966. Địa chỉ: Số 57, đường N, khóm 5, phường 1, thành phố
C, tỉnh Cà Mau. (có mặt)

272
- Bị đơn: Bà Lưu Thị L, sinh năm 1949 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Đại diện hợp pháp của bà L: Chị Đặng Mỹ X, sinh năm 1979
Địa chỉ: Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau (Theo văn bản ủy quyền ngày
04/4/2016) (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lưu Thị L: Ông Nguyễn
Thanh H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh
Cà Mau. (có mặt)
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Phạm Thị M, sinh năm 1978 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T B, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
2. Chị Phạm Kim C, sinh năm 1983 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T B, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
3. Chị Phạm Thu A, sinh năm 1980 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp K, xã Khánh B, huyện T, tỉnh Cà Mau.
4. Bà Lưu Thị H, 61 tuổi (có mặt)
Địa chỉ: Ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D, bà
Lưu Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Các nguyên đơn bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D trình
bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp có diện tích 12.936m2, tọa lạc tại ấp T, xã K,
huyện T, tỉnh Cà Mau là của cha mẹ của các bà là ông Lưu Văn C (chết vào ngày
27/01/2012) và bà Lê Thị V (chết ngày 04/02/1994). Cha, mẹ các bà có 08 người
con gồm Lưu Văn Q (đã chết, không vợ con), Lưu Phương D, Lưu Thị P, Lưu Thị
L, Lưu Thị Mỹ L (đã chết, không chồng con), Lưu Lệ H (đã chết năm 1983, có 03
người con: Phạm Thị M, Phạm Kim C, Phạm Thu A), Lưu Thị H, Lưu Tuyết M.
Phần đất trên hiện nay do bà Lưu Thị L canh tác. Phần đất ở, đất vườn và đất trồng
lúa do cha các bà đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất lá thì cha
bà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi chết, cha các bà không
để lại di chúc cho ai. Nay các bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho các bà được chia
thừa kế phần đất trên và chia cho 05 người là Lưu Phương D, Lưu Thị L, Lưu Thị
P, Lưu Thị H, Lưu Tuyết M. Các nguyên đơn không yêu cầu chia phần đất gắn liền
với căn nhà tình nghĩa và khu nền mộ.
Bà Lưu Thị L và đại diện theo ủy quyền của bà Lưu Thị L trình bày: Cha mẹ
bà L là ông Lưu Văn C và bà Lê Thị V chết có để lại 16 công đất tầm 03 mét
(1.296m2/công) gồm 10 công đất ruộng đã đứng tên Lưu Văn C và 06 công đất lá
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất tọa lạc tại ấp T, xã K,
huyện T, tỉnh Cà Mau. Bà L thống nhất với nguyên đơn là cha mẹ bà sinh 08 người

273
con, hiện nay còn sống 05 người, có 03 người cháu con của Lưu Lệ H như các
nguyên đơn trình bày. Cha bà có để lại tờ di chúc lập ngày 21/01/2011 (AL), khi
cha bà lập di chúc, bà là người chứng kiến, các chị em còn lại không có ai chứng
kiến. Tại di chúc trên, bà L được chia 05 công đất ruộng và 06 công đất trồng lá.
Bà L yêu cầu chia 10 công đất ruộng cho bà 05 công, bà D 05 công. Phần đất lá
còn lại giữ cho bà để thờ cúng. Tại phiên tòa ngày 04/4/2017, bà L và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bà L xác định chỉ tranh chấp 05 công đất ở, đất
vườn và đất ruộng và 06 công đất lá mà bà L đang canh tác, không tranh chấp 05
công đất bà D đang canh tác nên không có yêu cầu chia thừa kế và không có đơn
khởi kiện đối với phần đất bà D đang canh tác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lưu Thị H trình bày: Cha mẹ bà
có để lại 16 công đất tầm 03 mét. Bà yêu cầu phân chia đất ruộng cho bà L 05
công, bà D 05 công, phần đất lá 06 công chia cho bà L để thờ cúng. Bà không yêu
cầu quyền lợi gì trong vụ án này. Nếu được chia thừa kế, bà để lại cho bà Lưu Thị
L hưởng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị M, chị Phạm Kim C,
chị Phạm Thu A trình bày:
Các chị là con của bà Lưu Thị H (chết năm 1983). Các chị không yêu cầu
chia thừa kế phần đất trên và yêu cầu Tòa án hòa giải, xét xử vụ án vắng mặt.
Tại bản án sơ thẩm số 39/2018/DS-ST ngày 04/6/2018 của Tòa án nhân dân
huyện T đã quyết định: Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 92, 144, 147, 227, 228 Bộ
luật Tố tụng dân sự; Các Điều 646, 647, 649, 657, 670, 675, 676, 677, 733, 734 Bộ
luật Dân sự 2005; Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 203 Luật Đất đai năm
2013; Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày
13/6/2012 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P
kiện đòi bà Lưu Thị L chia thừa kế phần đất có diện tích 672,908m 2 do ông Lưu
Văn C đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng, phần đất tọa lạc tại Ấp T, xã K,
huyện T, tỉnh Cà Mau. Không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của bà Lưu Phương
D.
Bà Lưu Tuyết M được chia phần đất có diện tích 672,908m2, có vị trí tứ cận:
Phía tây giáp đất bà Lý Kim V dài 96,1m; Phía đông giáp đất bà Lưu Thị P được
chia dài 96,1m; Phía bắc giáp phần đất ông Phạm Văn Đ, Phạm Văn T dài 7m;
Phía nam giáp phần đất bà Lưu Thị L quản lý dài 7m.
Bà Lưu Thị P được chia phần đất có diện tích 672,908m 2, có vị trí tứ cận:
Phía tây giáp đất bà Lưu Tuyết M được chia, dài 96,1m; Phía đông giáp đất bà Lưu
Thị L đang quản lý dài 96,1m; Phía bắc giáp phần đất ông Phạm Văn Đ, Phạm Văn
T dài 7m; Phía nam giáp phần đất bà Lưu Thị L quản lý dài 7m.
Giao cho bà Lưu Thị L tiếp tục quản lý, sử dụng phần diện tích quyền sử
dụng đất còn lại (Có sơ đồ đo đạc kèm theo).

274
Ngày 15/6/2018 bà Lưu Thị L kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm
do phần đất tranh chấp đã được cha bà cho bà là đúng theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/6/2018 các bà Lưu Tuyết M, Lưu Thị P, Lưu Phương D kháng cáo
với nội dung yêu cầu chia phần đất để thuận tiện cho việc đi lại và yêu cầu chia
đều phần đất lá cho các đồng thừa kế.
Phía nguyên đơn tranh luận: Phần đất lá diện tích 4.582,3m 2 là di sản của
cha mẹ, yêu cầu được chia cho các đồng thừa kế.
Phía bị đơn tranh luận: Phần đất lá do bà L đã sử dụng thời điểm cụ C còn
sống và dùng để thờ cúng, cụ C có di chúc giao đất cho bà L dùng để thờ cúng nên
không đồng ý chia.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy
định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và
nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T, ghi nhận
sự thỏa thuận của các đương sự về việc giao cho bà Lưu Tuyết M phần đất ngang
06m, dài 40m giáp với phần đất của bà Lưu Phương D. Chia đều phần đất diện tích
4.582,3m2 cho các đồng thừa kế và 01 phần dùng để thờ cúng giao cho bà L.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm;
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Tại phiên tòa, phía bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P yêu cầu được nhận
phần đất ngang 6m, dài 40m dùng để ở giáp với phần đất của bà Lưu Phương D,
phần của bà P sẽ giao cho bà M, bà D thống nhất giao phần thừa kế của bà nếu
được nhận cho bà Lưu Thị L, các đương sự không tranh chấp và giao toàn bộ phần
đất theo đo đạc thực tế là 6.874m 2 (trừ phần đất của bà M, bà P yêu cầu) cho bà L.
Chi phí thẩm định tại chỗ 400.000 đồng theo trình tự tại cấp phúc thẩm bà M
không yêu cầu. Chị X đại diện hợp pháp của bà L và bà Lưu Thị H thống nhất theo
yêu cầu của các bà M, P, D. Các đương sự thống nhất không kháng cáo phần đất
này do đã tự thỏa thuận với nhau tại phiên tòa. Do đó ghi nhận sự thỏa thuận của
các đương sự.
[2] Đối với phần đất trồng lá diện tích 4.582,3m 2 tại phiên tòa các đồng thừa
kế vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bà M, bà D cho rằng mặc dù trong quyết
định của bản án sơ thẩm không ghi cụ thể về phần đất này, chỉ tuyên chấp nhận
một phần yêu cầu khởi kiện của các bà, các bà đều biết cấp sơ thẩm không chấp
nhận khởi kiện đối với diện tích đất này là do trong phần nhận định của cấp sơ
thẩm có nhận định cụ thể. Nay bà M, bà P, bà D vẫn yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
tiếp tục xem xét chia thừa kế phần đất diện tích 4.582,3m 2, không đề nghị hủy án
sơ thẩm.

275
Xét bản án sơ thẩm nhận định “Ông C xác định đây là đất dùng vào việc
thờ cúng do đó không được phân chia. Bà L là người có công cải tạo, canh tác
toàn bộ di sản thừa kế của ông C nên giao cho bà L, quản lý canh tác toàn bộ phần
đất này là phù hợp. Hơn nữa, bà L đã quản lý, sử dụng đất kể từ khi ông Lưu Văn
C mất, thực tế bà L có công canh tác, sử dụng và thực hiện quyền, nghĩa vụ của
người sử dụng đất nên không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của các đồng nguyên
đơn”. Thực tế bà L hiện đang thờ cúng cụ C và cụ V, bà H cũng thừa nhận đất lá là
đất dùng để thờ cúng. Mặc dù di chúc của cụ C chưa tuân thủ theo quy định của
pháp luật nhưng theo di chúc này vẫn thể hiện nguyện vọng của cụ C giao phần đất
cho bà L dùng vào việc thờ cúng nên không chấp nhận kháng cáo của bà M, bà D,
bà P về yêu cầu chia phần đất này. Di sản phần đất này trở thành tài sản chung của
bà L, bà H, bà D, bà P, bà M, mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp... liên quan
đến phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế. Nếu bà L không thực
hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản
lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng.
[3] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần
kháng cáo của bà M, bà D, bà P ghi nhận sự thỏa thuận của bà M, bà P, bà D, bà L,
bà H giao phần đất ngang 06m, dài 40m có cạnh giáp với phần đất của bà D đang
quản lý, sử dụng. Chấp nhận yêu cầu của bà M, bà P, bà D về việc chia phần đất
diện tích 4.582,3m2 cho các đồng thừa kế và 01 phần dùng để thờ cúng. Như nhận
định trên không chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với
yêu cầu chia phần đất diện tích 4.582,3m2 của bà M, bà P, bà D và không chấp
nhận kháng cáo của bà L.
[4] Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bà M, bà P, bà D, bà L
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 300; Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều
27, 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu
Phương D, bà Lưu Thị L.
Sửa bản án sơ thẩm số 39/2018/DS-ST ngày 04/6/2018 của Tòa án nhân dân
huyện T.
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 92, 144, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Các Điều 646, 647, 649, 657, 670, 675, 676, 677, 733, 734 Bộ luật Dân sự 2005;
Điều 623 Bộ luật Dân sự; Điều 203 Luật Đất đai; Pháp lệnh số 10/2009/PL-
UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí
Tòa án; Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 6 năm 2012 hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.

276
1. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị
P, bà Lưu Phương D, bà Lưu Thị L chia thừa kế phần đất ngang 6m, dài 40m, tổng
diện tích 240m2 (100m2 đất ở) có cạnh giáp với phần đất của bà Lưu Phương D
chiều dài 40m, các cạnh còn lại giáp với phần đất của bà Lưu Thị L. Bà L được sử
dụng toàn bộ phần đất còn lại là 6.634m2.
(Kèm trích đo hiện trạng tháng 4/2016).
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà
Lưu Phương D chia phần đất diện tích 4.582,3m 2 tại Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà
Mau.
Phần đất diện tích 4.582,3m2 là tài sản chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu
Phương D, bà Lưu Thị H, bà Lưu Thị P, bà Lưu Tuyết M.
Giao phần đất diện tích 4.582,3m2 cho bà Lưu Thị L quản lý, sử dụng để thờ
cúng.
(Có sơ đồ đo đạc kèm theo BL 97)
2. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lưu Tuyết M phải chịu 3.210.000 đồng, ngày
22/02/2016 bà M đã dự nộp 2.160.000 đồng tại Biên lai thu số 0005551 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện T được đối trừ, bà M tiếp tục nộp 1.050.000 đồng.
Bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D không phải chịu, ngày 22/02/2016 bà P, bà D đã
dự nộp mỗi người 2.160.000 đồng tại các Biên lai thu số 0005552, 0005553 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T được nhận lại.
Án phí dân sự phúc thẩm bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D,
bà Lưu Thị L không phải chịu. Ngày 18/6/2018 bà M, bà P, bà D đã dự nộp mỗi
người 300.000 đồng theo các Biên lai thu số 0008301, 0008302, 0008303; ngày
15/6/2018 bà L đã dự nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0008295 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện T được nhận lại.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Tòa án nhân dân huyện T; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi cục THADS huyện T
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn; Đã ký
- Lưu (TM:TANDTCM).

Hoàng Thị Hải Hà


6

277
Tài liệu cho bài tập tuần thứ bảy

278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
Tài liệu cho bài tập tháng thứ nhất

304
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH PHÚ THỌ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 32/2023/DS-PT
Ngày 10 tháng 5 năm 2023
V/v: “Yêu cầu tuyên bố hợp HĐ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
-Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Quang Vũ
Các thẩm phán: Ông Tạ Văn Thành
Ông Phạm Văn Toàn
- Thư ký ghi biên bản: Ông Bùi Trung Hiếu- Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Thọ.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thanh Huyền - Kiểm sát viên.
Trong ngày 10 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 107/2022/TLPT- DS
ngày 02 tháng 12 năm 2022 về việc tranh chấp “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 10/2022/DS-ST ngày 20/10/2022 của Tòa án
nhân dân huyện T N, tỉnh Phú Thọ có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2023/QĐXXPT-DS ngày
10 tháng 4 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1948;
Địa chỉ: Khu X, xã T S, huyện L T, tỉnh Phú Thọ;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Triệu Văn T, sinh năm 1951; Địa chỉ:
Khu T T, TT L T, huyện L T, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Bà Lê Thị H, sinh năm 1972;
Địa chỉ: Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Thọ; Hiện đang cải tạo tại
phân trại số 5 trại giam T L, huyện H H, tỉnh Phú Thọ.
2.2. Chị Đinh Thị Thúy H, sinh năm 1996; Địa chỉ: Khu X, xã T L,
huyện T N, tỉnh Phú Thọ.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. UBND huyện T N, tỉnh Phú Thọ;
Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND huyện T N: Ông
Phan Hải P - Phó trưởng phòng TN và MT huyện T N.
3.2. UBND xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Thọ;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu H - Chủ tịch UBND xã
T L, huyện T N.

305
3.3. Văn phòng Công chứng K Đ. Địa chỉ: Số nhà X đường H V,
phường V C, TP. V T, tỉnh Phú Thọ do ông Tô Quang T - Công chứng viên
tham gia.
3.4. Văn phòng Công chứng H T N. Địa chỉ: Xã V X, huyện T N, tỉnh
Phú Thọ do ông Nguyễn Văn Đ - Công chứng viên tham gia.
3.5. Chi cục Thi hành án dân sự huyện T N. Địa chỉ: Thị trấn H H,
huyện T N. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Minh N - Phó Chi cục
trưởng Chi cục Thi hành án dân sự.
3.6. Chi cục thuế khu vực T N - T T. Địa chỉ: Thị trấn H H, huyện T N.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Bùi Thị Lan H - Đội trưởng đội nghiệp vụ
quản lý thuế.
3.7. Anh Trần Anh T, sinh năm 1989 và chị Bùi Thị L, sinh năm 1989.
Địa chỉ: Thôn T T, xã V T, huyện V T, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.8. Anh Bùi Đình M sinh năm 1994
Địa chỉ: Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Thọ;
Người tham gia tố tụng khác tòa án không triệu tập.
3. Người kháng cáo: Ông Triệu Văn T là người đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn kháng cáo.
(các bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều có đơn
đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện của nguyên đơn và người được uỷ quyền của
nguyên đơn là Ông Triệu Văn T trình bày: Theo bản án số 47/2020/HSST
ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tuyên Lê Thị H, ở Khu X, xã
T L, huyện T N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với mức án 16 năm tù và
buộc Bà H phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị H số tiền là 880 triệu đồng và
theo Quyết định số 304/2020/HSPT của TAND Cấp cao tại Hà Nội: Đình chỉ xét
xử phúc thẩm, kể từ ngày 08/12/2020 Lê Thị H phải trả cho Bà Nguyễn Thị H số
tiền 880 triệu đồng và lãi theo Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Khi phải thi hành bản án số 47/2020/HSST Lê Thị H có tài sản là thửa đất
số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất theo Giấy
CNQSDĐ số CM 061402 ở Khu X, xã T L, huyện T N do UBND huyện T N
cấp đứng tên Lê Thị H.
Theo Luật thi hành án dân sự Lê Thị H phải dùng tài sản này để trả cho
những người có tên tại Bản án số 47/2020/HSST đã có hiệu lực pháp luật nhưng
Lê Thị H trốn tránh trách nhiệm thi hành bằng thủ đoạn tẩu tán tài sản là thửa
đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất theo
Giấy CNQSDĐ số CM 061402 ở Khu X, xã T L, huyện T N do UBND huyện T
N cấp đứng tên Lê Thị H. Bằng thủ đoạn uỷ quyền cho Đinh Thị Thuý H để làm
hợp đồng chuyển nhượng tài sản trên cho Trần Anh T và Bùi Thị L ở xã V T,
huyện V T, tỉnh Vĩnh Phúc. Việc H uỷ quyền cho H đứng ra thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng tài sản trên cho T và L đã vi phạm khoản 2, Điều 75 Luật thi
hành án dân sự; đoạn 2, điểm a, khoản 11, Điều 1 của Nghị định 33/NĐ-CP
ngày 18/7/2015. Việc làm của H và H đã vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
Bà H đã gây thiệt hại to lớn cho Bà H về kinh tế. Vì vậy, Bà H khởi kiện yêu
cầu Toà án nhân dân
2 306
huyện T N: Tuyên bố “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa Đinh
Thị Thuý H với Trần Anh T và Bùi Thị L vô hiệu.
Ngày 21/9/2022, Ông T có đơn đề nghị bổ sung như sau: Đưa thêm Thẩm
phán Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội vào tham gia xét xử với lý do theo
đơn khiếu nại của tôi; Đề nghị xác minh làm rõ trước khi Lê Thị H thực hiện
hợp đồng ủy quyền cho Đinh Thị Thúy H có cho Huyền biết bản án số
47/2020/HS-ST, khi ủy quyền cho H bán tài sản này thì H phải dùng số tiền thu
được để thi hành bản án số 47/2020/HS-ST hay không?; Đề nghị xác minh việc
chứng thực hợp đồng ủy quyền giữa Đinh Thị Thúy H với Lê Thị H của Văn
phòng Công chứng K Đ thì Công chứng viên có biết Lê Thị H có bản án số
47/2020/HS-ST đã có hiệu lực pháp luật (H có nghĩa vụ phải trả cho tôi và 08
người khác tổng số tiền là 4.700.000.000đ) hay không?; Đề nghị làm rõ hợp
đồng chuyển nhượng giữa Đinh Thị Thúy H với Trần Anh T và Bùi Thị L mang
tính chất hình thức (giả tạo) nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án
(vì tài sản giá trị nhiều tỷ đồng mà lại bán với giá 100 triệu đồng).
Ngày 18/10/2022, Ông T lại có đơn đề nghi bổ sung như sau: Tuyên bố
“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 15/4/2021giữa Đinh Thị
Thuý H với Trần Anh T và Bùi Thị L vô hiệu và hủy các giấy tờ liên quan đến
giao dịch này.
* Bị đơn là Bà Lê Thị H trình bày: “Tôi là mẹ đẻ Anh Bùi Đình M, chị
Đinh Thị Thuý H là vợ Anh M, là con dâu của tôi. Đối với Anh Trần Anh T và
chị Bùi Thị L thì tôi không biết là ai. Đối với Bà Nguyễn Thị H chỉ biết từ khi
tôi vay tiền của Bà H. Hiện nay tôi đang cải tạo tại Trại giam T L theo bản án số
47/2020/HSST ngày 04/9/2020 của TAND tỉnh Phú Thọ về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” với mức phạt 16 năm tù. Tại bản án này tôi có nghĩa vụ trả cho Bà
H số tiền 880 triệu đồng xong do tôi đang bị cải tạo và tài sản của tôi duy nhất
có 01 nhà trên quyền sử dụng đất thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích
1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất theo Giấy CNQSDĐ số CM 061402 ở Khu
X, xã T L, huyện T N do UBND huyện T N cấp đứng tên Lê Thị H đã thế chấp
cho Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay của con tôi là Bùi Đình M, tôi không
có tài sản nào khác nên không thi hành được. Trước khi có bản án số
47/2020/HSST ngày 04/9/2020 của TAND tỉnh Phú Thọ có hiệu lực pháp luật,
tôi có tài sản 01 nhà trên quyền sử dụng đất thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện
tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất theo Giấy CNQSDĐ số CM 061402 ở
Khu X, xã T L, huyện T N do UBND huyện T N nhưng tài sản này đã được thế
chấp tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam để đảm bảo cho khoản vay
của Anh M (con trai tôi). Quá trình vay vốn của Ngân hàng do Anh M không có
khả năng trả tiền cho Ngân hàng nên Ngân hàng đã khởi kiện Anh M đối với
hợp đồng tín dụng và TAND huyện T N đã xét xử theo Bản án số 02 ngày
15/01/2021 để buộc Anh M phải có nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng, đồng thời có
quyền phát mại tài sản thế chấp của tôi nêu trên để trả tiền cho Ngân hàng theo
quy định. Các thủ tục vay vốn của Anh M và thế chấp tài sản của tôi đã được ghi
nhận trong hồ sơ của Ngân hàng. Lý do tôi ủy quyền cho chị Đinh Thị Thúy H
chuyển nhượng tài sản cuả tôi đã thế chấp Ngân hàng: Do Anh M (con trai tôi)
không có khả năng thanh toán trả tiền cho Ngân hàng nên Ngân hàng đã khởi
kiện với Anh M về hợp đồng tín dụng và
3 3
TAND huyện T N đã xét xử tại Bản án số 02 ngày 15/01/2021 trong đó Ngân
hàng có quyền phát mại tài sản thế chấp của tôi nêu trên để trả tiền cho Ngân
hàng theo quy định. Do tôi phải cải tạo, Anh M (con trai tôi) đến thăm nom có
nói với tôi là Ngân hàng thúc dục trả tiền vì đã quá hạn từ lâu. Vì thế tôi có nói
với Anh M cố giữ nhà để ở nhưng cháu Mạnh nói không có khả năng thanh toán
và chỉ còn duy nhất là tài sản của tôi để thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng. Sau
một thời gian thì có người của Ngân hàng đến nói với tôi phải thực hiện nghĩa
vụ đối với tài sản đảm bảo cho khoản vay của Anh M tại Ngân hàng. Vì lý do
Anh M mất chứng minh nhân dân nên bảo tôi ủy quyền cho con dâu (chị H)
chuyển nhượng để có tiền trả cho Ngân hàng và tôi đồng ý. Tại hợp đồng ủy
quyền ngày 01/4/2021 giữa tôi với chị Đinh Thị Thuý H do tôi ký là đúng với
mục đích để thanh toán tiền trả cho Ngân hàng do Anh M đã vay, không có mục
đích nào khác. Khi tôi ký hợp đồng ủy quyền thì đã đánh máy sẵn đem đến cho
tôi ký. Tôi phải có nghĩa vụ với Bà H và các trường hợp khác tại bản án số 47
nhưng tài sản duy nhất này tôi đã thế chấp Ngân hàng vay vốn cho Anh M. Sau
khi tôi ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị H thì chị H chuyển
nhượng cho ai tôi không biết nhưng tôi biết đã trả đủ cho Ngân hàng về khoản
tiền Anh M vay của Ngân hàng, ngoài ra còn thanh toán cho tôi khoản tiền án
phí hình sự 200.000 đồng và
28.023.000 đồng án phí dân sự trong vụ án hình sự theo bản án số
47/2020/HSST. Sau khi chuyển nhượng tôi không nhận được khoản tiền nào
khác. Đối với trách nhiệm với Bà H theo bản án số 47 thì sau khi tôi cải tạo
xong sẽ có trách nhiệm trả nợ cho Bà H. Nay Bà H khởi kiện tôi đề nghị giữ
nguyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị H với Anh T và
chị L vì tôi ủy quyền là hoàn toàn tự nguyện”.
* Đồng bị đơn là chị Đinh Thị Thúy H trình bày: “Tôi là con dâu Bà
H, Bà H là chủ sử dụng quyền sử dụng đất thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện
tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất theo Giấy CNQSDĐ số CM 061402 ở
Khu X, xã T L, huyện T N. Mẹ Anh M đã thế chấp tại Ngân hàng TMCP Công
Thương chi nhánh Cổ Tiết, huyện T N từ năm 2018, sau đó Bà H dính vào pháp
luật hình sự và bị bắt xử lý, hiện đang cải tạo tại Trại giam T L. Đến tháng
7/2019 là hoàn trả nợ Ngân hàng và bảo đảm bằng tài sản của Bà H cho Anh M.
Do hoàn cảnh khó khăn, bố Anh M mất, mẹ (Bà H đi tù) nên vợ chồng tôi không
có khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Sau đó Ngân hàng đã khởi kiện yêu cầu vợ
chồng tôi trả tiền cho Ngân hàng. Gia đình và Ngân hàng đã thống nhất bán tài
sản để trả cho Ngân hàng khoản tiền mà Anh M đã vay. Vì Bà H đang chấp hành
án đã mất quyền công dân nên không đứng ra bán được nên Ngân hàng đã làm
hợp đồng ủy quyền giữa tôi và Bà Lê Thị H để tôi có quyền đứng bán tài sản để
trả nợ cho Ngân hàng. Mọi thủ tục, giấy tờ liên quan về hợp đồng ủy quyền do
Ngân hàng đứng ra làm. Sau đó khoảng tháng 4/2021 tôi có bán mảnh đất trên
cho Anh T và chị L để trả tiền nợ cho Ngân hàng. Sau đó đã trả nợ đầy đủ số
tiền vay cho Ngân hàng. Việc bán tài sản của tôi để trả nợ cho Ngân hàng là
đúng pháp luật, khi tôi bán tài sản không có cơ quan chức năng nào đình chỉ,
ngăn chặn. Nay Bà H khởi kiện tôi không nhất trí vì tôi không biết Bà H là ai,
tôi cũng không vay mượn gì Bà H. Tôi chỉ đứng ra theo sự ủy quyền của Bà H
để bán tài sản để trả nợ cho
4 4
Ngân hàng. Việc vay nợ giữa Bà H với Bà H chúng tôi không biết, tôi chỉ làm
theo yêu cầu của Ngân hàng và bán tài sản thế chấp để trả nợ cho Ngân hàng”.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Anh T và chị Bùi
Thị L trình bày: Qua tìm hiểu thông tin của người nhà gần ô đất chúng tôi được
biết khu đất hiện tại ở thời điểm đó đang được thế chấp tại Ngân hàng TMCP
Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Đ H (nay là B P T) - Phòng giao dịch T N
(gọi là Ngân hàng) và phía Ngân hàng đang có phương án phát mại tài sản nêu
trên. Qua tìm hiểu hồ sơ hướng dẫn từ phía Ngân hàng ô đất trên có thể giao
dịch mua bán bình thường đúng theo quy định của pháp luật. Vợ chồng tôi thống
nhất làm thủ tục chuyển nhượng và mua bán ô đất nêu trên. Trong quá trình thực
hiện giao dịch được Ngân hàng hướng dẫn làm các thủ tục cần thiết có liên quan
và chúng tôi trực tiếp trả tiền tại Ngân hàng (hai vợ chồng tôi và vợ chồng chị H,
Anh M) bao gồm tiền gốc, lãi và tiền án phí. Sau đó lấy được bìa đỏ chúng tôi
đến Văn phòng Công chứng H T N làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa vợ chồng tôi và chị Đinh Thị Thúy H theo đúng qui định của pháp luật
cùng với phía UBND xã T L tiến hành đo đạc hoàn thiện hồ sơ. Sau đó chúng tôi
gửi hồ sơ sang tên Giấy CNQSDĐ tới Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
huyện T N, nộp thuế, phí đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật và được
UBND huyện T N cấp Giấy CNQSDĐ số DA 604511 ngày 28/5/2021. Việc
thực hiện mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
nêu trên của chúng tôi là phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị TAND
huyện T N xem xét bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chúng tôi.
Ngày 26/9/2022 Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L trình bày bổ sung như
sau: Sau khi biết được thông tin về việc Bà Lê Thị H có thế chấp tài sản tại Ngân
hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Đ H nay là chi nhánh B P T -
phòng giao dịch T N và được phía Ngân hàng cung cấp thông tin, hướng dẫn các
thủ tục cần thiết để thực hiện việc mua bán đúng quy định pháp luật và đảm bảo
đầy đủ quyền lợi của các bên liên quan. Việc trả tiền được cán bộ Ngân hàng
hướng dẫn và thực hiện tại phòng giao dịch của Ngân hàng có 3 bên gồm: vợ
chồng tôi, vợ chồng chị H và phía Ngân hàng. Tôi trực tiếp trả tiền, cán bộ Ngân
hàng trực tiếp nhận từ tôi. Các giấy tờ liên quan để hoàn thiện thủ tục phía Ngân
hàng và Anh M ký (do là người đứng vay). Tổng số tiền vợ chồng tôi trả cho
Ngân hàng và án phí các loại là 1.041.571.293đồng (bao gồm cả tiền án phí của
Bà H và cán bộ thi hành án cũng có mặt tại thời điểm trả tiền tại phòng giao dịch
T N - Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam). Sau khi trả tiền cho phía
Ngân hàng thì Ngân hàng trực tiếp đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
tôi, phía Ngân hàng hướng dẫn vợ chồng tôi và chị H tới Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất huyện T N xóa thế chấp và Văn phòng Công chứng để hoàn
thiện thủ tục chuyển nhượng và các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật
cùng trong ngày 15/4/2021. Số tiền ghi trong hợp đồng 100 triệu đồng là do
chúng tôi tự thỏa thuận còn thực tế như số tiền tôi đã trình bày ở trên.Vì vậy, đề
nghị Tòa án bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho chúng tôi.
*Đại diện Văn phòng Công chứng K Đ do ông Tô Quang T trình bày:
Ngày 01/4/2021, bà Đinh Thị Thúy H có địa chỉ ở Khu X, xã T L, huyện T N
đến Văn phòng Công chứng K Đ yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền với
nội dung
5 5
như sau: Bà Lê Thị H là chủ sử dụng quyền sử dụng đất thửa số 58, tờ bản đồ số
12, tại Khu X, xã T L, huyện T N theo Giấy CNQSDĐ và quyền sở hữu nhà ở,
tài sản khác gắn liền với đất số CM 061402 do UBND huyện T N cấp ngày
15/6/2018. Tại thời điểm yêu cầu Công chứng quyền sử dụng đất nêu trên đang
thế chấp tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh Đ H (nay là
chi nhánh B P T) phòng giao dịch T N theo hợp đồng thế chấp tài sản số
18.12.0080/2018/HĐBĐ/NHCT248, đồng thời Bà H đang thực hiện án phạt tù
tại trại giam T L nên bà H có yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền với nội
dung Bà H ủy quyền cho bà H đến Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
chi nhánh B P T - Phòng giao dịch T N để rút tài sản nêu trên và bán để trả nợ
Ngân hàng. Do tài sản đang thế chấp tại Ngân hàng nên tôi đã yêu cầu cung cấp
hợp đồng thế chấp và văn bản đồng ý của Ngân hàng cho phép bên thế chấp là
Bà Lê Thị H thực hiện việc ủy quyền nêu trên. Ngân hàng đã cung cấp hợp đồng
thế chấp và thông báo số 130/TB-CNBPT ngày 30/3/2021 về việc thực hiện hợp
đồng ủy quyền giao dịch tài sản hiện đang thế chấp tại Ngân hàng. Sau khi thụ
lý hồ sơ, ngày 01/4/2021 ông Đỗ Duy K nhân viên Văn phòng Công chứng K Đ
đã đến trại giam T L nơi Bà H đang chấp hành án tiến hành cho Bà H ký hợp
đồng ủy quyền nêu trên dưới sự giám sát của Ban Giám thị trại giam T L. Sau đó
tại Văn phòng Công chứng K Đ, tôi tiến hành cho bà H ký kết hợp đồng ủy
quyền nêu trên và tiến hành công chứng hợp đồng. Như vậy toàn bộ quá trình từ
khi thụ lý cho đến khi thực hiện công chứng hợp đồng ủy quyền số 2064 , quyển
số 03/2021 TP/CC- SCC/HĐGD ngày 01/4/2021 Văn phòng Công chứng K Đ
đã thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật.
*Văn phòng Công chứng H T N do ông Nguyễn Văn Đ - Công chứng
viên trình bày: Ngày 15/4/2021 Văn phòng Công chứng H T N nhận yêu cầu
của Anh Trần Anh T ở xã V T, huyện V T, tỉnh Vĩnh Phúc về việc nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của Bà Lê Thị H (người được
ủy quyền là chị Đinh Thị Thúy H ký hợp đồng). Hồ sơ chuyển nhượng gồm có:
Phiếu yêu cầu công chứng do Trần Anh T ký; hợp đồng ủy quyền ngày
01/4/2021 của Bà Lê Thị H cho chị Đinh Thị Thúy H (con dâu Bà H) do Công
chứng viên Tô Quang T ký. Nội dung hợp đồng ủy quyền: “Bên B được toàn
quyền thay mặt bên A.... làm các thủ tục pháp lý cần thiết..., chuyển nhượng,
tặng cho ... giá cả và các điều kiện của các giao dịch này do bên B toàn quyền
quyết định ...”; Chứng minh nhân dân của Đinh Thị Thúy H; Sổ hộ khẩu của Bùi
Đình M và Đinh Thị Thúy H; Chứng minh nhân dân của Trần Anh T và Bùi Thị
L; Sổ hộ khẩu của Trần Anh T cùng gia đình; Giấy CNQSDĐ của Bà Lê Thị H
có nội dung xóa thế chấp của phòng Tài nguyên và Môi trường; Lịch sử giao
dịch tài sản; Xác nhận Văn phòng Công chứng H T N: Xác nhận trước ngày
15/4/2021 Văn phòng Công chứng Hà Thị Ngữ không nhận được bất kỳ văn bản
của cơ quan nào có nội dung ngăn chặn không được mua bán chuyển nhượng về
quyền sử dụng đất của Bà Lê Thị H ở địa chỉ Khu X, xã T L, huyện T N. Căn cứ
vào các tài liệu bên bán - mua xuất trình tại Văn phòng Công chứng (bản chính),
tôi xác định: Giấy CNQSDĐ của Bà Lê Thị H cấp ngày 15/6/2018 và thế chấp
vào Ngân hàng để vay tiền ngày 18/6/20218 và trước thời điểm xảy ra vụ án
hình sự số 47/2020/HSST ngày 04/9/2020 của TAND tỉnh Phú Thọ; Thông
báo số 130/TB-CNBPT ngày
6 6
20/3/2021 của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Chi nhánh B P T về
việc thực hiện ủy quyền...; hai bên mua bán tài sản đã nhất trí thỏa thuận mua
bán tài sản, cùng quyền nghĩa vụ của từng bên do Công chứng viên giải thích và
thống nhất ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Với những tài liệu
nói trên tôi đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
15/4/2021 tại Văn phòng Công chứng H T N việc công chứng của tôi hoàn toàn
đúng phù hợp với pháp luật, đề nghị Tòa xem xét.
* Đại diện UBND xã T L do ông Nguyễn Hữu H - Chủ tịch UBND xã
trình bày: Về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị Định Thị Thúy H
với Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L về thửa đất số 58, bản đồ số 12, Giấy
CNQSDĐ mang tên Lê Thị H. Sau khi kiểm tra hồ sơ, sổ sách lưu trữ UBND xã
T L xác định: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Bà Lê Thị H ủy
quyền cho bà Định Thị Thúy H đến UBND xã T L xuất trình Giấy CNQSDĐ
(bìa gốc), hợp đồng ủy quyền số 2064 ngày 01/4/2021 và hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 15/4/2021 do Văn phòng Công chứng H T
N xác lập: Chị Đinh Thị Thúy H là người được Bà Lê Thị H ủy quyền đến làm
thủ tục xác nhận đơn đăng ký biến động quyền sử dụng đất của Bà H tại UBND
xã T L; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Bà H do Văn phòng
Công chứng H T N thực hiện. Vì vậy đề nghị TAND huyện T N xem xét giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
*Đại diện UBND huyện T N do ông Phan Hải P là người đại diện
theo ủy quyền trình bày: Trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa Bà H ủy quyền cho bà H chuyển nhượng cho ông T và bà L thửa đất số
58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1.093,8m2 tại Khu X, xã T L. Nay quyền sử dụng
đất đã được cấp Giấy CNQSDĐ cho ông Trần Anh T và bà Bùi Thị L. UBND
huyện T N xét thấy: Căn cứ vào hồ sơ do cơ quan Công chứng và các đương sự
cung cấp cho UBND huyện và căn cứ quy định của pháp luật, UBND huyện T N
đã cấp Giấy CNQSDĐ cho ông T và bà L đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình thực hiện cấp Giấy CNQSDĐ tại thửa đất nêu trên, UBND
huyện không nhận được bất kỳ đơn thư hay ý kiến phản ánh nào về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy đề nghị TAND huyện T N căn cứ
vào quy định của pháp luật làm căn cứ giải quyết.
* Chi cục THA dân sự huyện T N do ông Trần Minh N - Phó Chi cục
trưởng trình bày: Tại bản án dân sự số 02 ngày 15/01/2021 của TAND huyện
T N, cơ quan THA dân sự đã thi hành xong khoản tiền án phí của Bùi Đình M
và do Bùi Đình M nộp. Khi thi hành bản án nêu trên thì tài sản đảm bảo của Bà
Lê Thị H chưa có ai đề nghị xử lý và ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
chưa có đơn đề nghị thi hành án. Bản án số 47/2020/HSST ngày 04/9/2020 của
TAND tỉnh Phú Thọ, Chi cục nhận ủy thác từ Cục THA dân sự tỉnh Phú Thọ
ngày 02/3/2021 đối với phần án phí của Bà Lê Thị H theo Quyết định ủy thác số
23 ngày 01/3/2021 và Chi cục THA dân sự huyện T N đã thụ lý giải quyết theo
quyết định thi hành án số 153 ngày 04/3/2021, đồng thời tống đạt Quyết định thi
hành án nêu trên cho Bà H qua người thân thích theo quy định của pháp luật,
đến ngày 15/4/2021 Anh M là con trai Bà H đã tự nguyện nộp thay cho Bà H số
tiền án phí

7 7
là 28.223.000 đồng, cơ quan THA chưa tiến hành xác minh tài sản của Bà H vì
đã thi hành xong án phí.
Ngày 03/10/2022 ông Trần Minh N trình bày bổ sung: Sau khi kiểm tra sổ
sách lưu trữ Chi cục Thi hành án dân sự huyện T N cung cấp như sau: Tại Công
văn số 268/CV- CCTHADS ngày 12/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện T N về việc phối hợp trong thi hành án dân sự giữa Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam - Chi nhánh B P T - Phòng Giao dịch huyện T N. Xác
định tổng số tiền Anh Bùi Đình M và Bà Lê Thị H phải thi hành án khoản tiền
án phí nộp ngân sách Nhà nước với số tiền là 73.125.210 đồng (Bảy mươi ba
triệu một trăm hai mươi năm nghìn hai trăm mười đồng). Tại thời điểm Anh Bùi
Đình M báo cáo Ngân hàng trả khoản tiền phải thực hiện theo các hợp đồng tín
dụng nên Ngân hàng đã thông báo cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện T N
theo Công văn phối hợp trên. Ngày 15/4/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện
T N đã cử cán bộ đến thu các khoản tiền theo Công văn trên tại Ngân hàng
(Phòng Giao dịch huyện T N). Các khoản thu trên do Anh M nộp: Khoản tiền
Anh M phải nộp: Số tiền
17.611.057 đồng là tiền án phí theo Quyết định Thi hành án số 148/QĐ-CCTHA
ngày 01/3/2021; Khoản tiền phải nộp 27.291.133đồng theo Quyết định Thi hành
án số 144/QĐ-CCTHA ngày 01/3/2021; Khoản tiền Anh M nộp thay cho Bà Lê
Thị H theo Bản án số 47/2020/HSST (có quyết định số 304/2020/HSPT-QĐ
ngày 03/12/2020 của TAND Cấp cao tại Hà Nội) là 28.223.000 đồng.
* Đại diện Chi cục Thuế khu vực T N - Thanh Thủy do bà Bùi Thị
Lan H đại diện ủy quyền trình bày: Chi cục Thuế đã nhận được toàn bộ hồ sơ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đinh Thị Thúy H (người được ủy
quyền từ Bà H) với ông Trần Anh T và Bùi Thị L) trên cơ sở quy định của pháp
luật Chi cục Thuế đã xác định đối với thu nhập cá nhân của bà H phải nộp là
11.192.568 đồng và tiền thuế trước bạ đối với ông T là 2.798.142 đồng. Vì vậy
đề nghị TA giải quyết theo quy định của pháp luật.
*Anh Bùi Đình M (con Bà Lê Thị H) trình bày: Tôi có ký hợp đồng tín
dụng vay của phòng Giao dịch T N - Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
- Chi nhánh B P T thì Bà H có ký hợp đồng thế chấp tài sản cho khoản vay của
tôi gồm hai khoản vay: Vay dài hạn là 300 triệu đồng, vay ngắn hạn là 500 triệu
đồng. Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.120.080 ngày 16/8/2018 (nghĩa là Bà H
thế chấp ngày 16/8/2018), còn việc Bà H vay tiền của Bà H như nào tôi không
biết. Do vợ chồng tôi không có khả năng trả vốn vay cho Ngân hàng nên Ngân
hàng đã khởi kiện tôi để trả số tiền hai lần vay là 800 triệu đồng. TAND huyện T
N đã xét xử. Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật tôi vẫn không có khả năng
thanh toán nên Ngân hàng đã rất nhiều lần đôn đốc tôi trả nợ, Ngân hàng có
thuyết phục và động viên tôi cố tìm nguồn trả nợ không sẽ bị xử lý (phát mại tài
sản thế chấp của Bà H). Do Bà H đang phải cải tạo tù không thể tự xử lý tài sản
được nên chúng tôi đã báo cáo Ngân hàng. Ngân hàng đã đồng ý cho Bà H ủy
quyền để xử lý tài sản thế chấp. Do thời điểm đó tôi bị mất chứng minh nhân
dân nên phải ủy quyền cho vợ tôi (Đinh Thị Thúy H). Ngân hàng đã có văn bản
gửi cho Bà H và tôi chấp thuận cho Bà H ủy quyền. Vì thế chúng tôi đã làm hợp
đồng tại Văn phòng Công chứng K Đ. Việc lập ủy quyền do Văn phòng Công
chứng đi làm đến Trại giam (nơi Bà H cải tạo) và chị H, các thủ tục pháp lý là
8 8
do Văn phòng Công chứng.

9 9
Thực tế trước thời điểm đó qua thông tin thì vợ chồng Anh T, chị L ở V T có
biết Bà H thế chấp tài sản tại Ngân hàng nên có đặt vấn đề mua tài sản của Bà H
thông qua Ngân hàng và hướng dẫn. Vợ chồng tôi đã báo cáo Ngân hàng và
thống nhất với Ngân hàng (phòng giao dịch T N) đến ngày 15/4/2021 thì vợ
chồng Anh T, chị L đến trả tiền để lấy bìa đỏ ra làm hợp đồng chuyển nhượng.
Khi đến Ngân hàng có vợ chồng tôi, vợ chồng Anh T, chị L cùng cán bộ Ngân
hàng xác định khoản nợ của tôi cụ thể là bao nhiêu. Sau khi được cán bộ Ngân
hàng thông báo số nợ của tôi là gần một tỷ (cụ thể 968.446.083đồng theo công
văn của Ngân hàng là đúng) thì vợ chồng Anh T đã đưa tiền cho Ngân hàng
nhận, còn tôi chỉ là người ký các giấy tờ liên quan của Ngân hàng (vợ chồng
Anh T đem tiền đi trả Ngân hàng chứ không đưa trực tiếp cho vợ chồng tôi). Sau
khi trả tiền đủ cho Ngân hàng thì Ngân hàng cũng thông báo cho vợ chồng tôi có
văn bản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T N yêu cầu về việc phối hợp thu
các khoản án phí của Bản án. Vợ chồng tôi và vợ chồng Anh T đã được cán bộ
thi hành án thông báo về các khoản tiền thu sung Ngân sách Nhà nước gồm: Án
phí dân sự tại các bản án dân sự giữa tôi với Ngân hàng là 17.611.057 đồng và
27.291.153đồng và tiền án phí Bà H phải nộp trong vụ án hình sự là
28.223.000đồng. Tổng là 73.125.210đồng. Số tiền này Anh T và chị L cũng trực
tiếp nộp, còn tôi chỉ biết ký vào phiếu thu. Như vậy, vợ chồng Anh T trực tiếp
trả khoản nợ Ngân hàng và các loại án phí chứ vợ chồng tôi không có tiền. Sau
khi nộp đầy đủ các khoản án phí của tôi và Bà H thì Ngân hàng mới trả bìa đỏ
của Bà H. Ngân hàng cũng trực tiếp đưa cho Anh T chứ tôi không nhận. Sau đó
vợ tôi là người được Bà H ủy quyền đã cùng vợ chồng Anh T đến Văn phòng
Công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng và nay đã sang tên Anh T, chị L. Mọi
thủ tục đều do vợ chồng Anh T làm tại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
còn vợ tôi chỉ biết ký. Các khoản nộp trên do vợ chồng Anh T trả phù hợp với
giá trị tài sản của Bà H nên vợ chồng tôi không nhận được khoản tiền nào khác.
Việc chuyển nhượng chỉ nhằm mục đích trả nợ Ngân hàng. Thực tế vợ chồng
Anh T nhận chuyển nhượng tài sản của Bà H thì phải bỏ ra hơn một tỷ đồng
(Đây là giá trị thực của tài sản chuyển nhượng), còn giá trị ghi trong hợp đồng
100 triệu là do các bên tự thỏa thuận.
*Đại diện Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam: Do bà Đặng Thị
Bích H - Phó Giám đốc chi nhánh B P T - Ngân hàng TMCP Công Thương Việt
Nam và bà Nguyễn Như Q - Giám đốc phòng giao dịch T N trình bày: Anh Bùi
Đình M có ký hợp đồng tín dụng vay của Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam - Chi nhánh Đ H (nay là chi nhánh B P T) - phòng Giao dịch T N 02 khoản
vay: Khoản vay dài hạn ngày 04/̃7/2019 là 300 triệu đồng và khoản vay ngắn
hạn ngày 05/7/2019 là ̀500 triệu đồng. Khi vay Anh M không có tài sản của cá
nhân nhưng được mẹ đẻ là Lê Thị H bảo đảm và Bà H đã thế chấp tài sản là:
Quyền sử dụng đất có diện tích là 1093,8m2, thửa số 58, tờ bản đồ số 12. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với
đât số CM 061402 do UBND huyện T N cấp ngày 15/6/2018 đứng tên Bà Lê
Thị H. Tài sản trên đất gồm: Nhà 02 tầng cùng toàn bộ tài sản gắn liền với đất
tại địa chỉ Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Tho. ..Hợp đồng thế chấp tài sản
số 1812080/HĐBĐ/NHCT 248 ngày 18/6/2018. Sau khi vay quá trình sử dụng
vốn do Anh M đã vi phạm nghĩa vụ thời hạn hợp đồng cho vay, Ngân hàng đã
10 10
đôn

11 11
đốc, yêu cầu Anh M cả vợ Anh M là chị Đinh Thị Thuý H rất nhiều lần nhưng
vợ chồng Anh M không thực hiện. Chính vì thế Ngân hàng đã phải khởi kiện
Anh M tại Toà án nhân dân huyện T N. Toà án nhân dân huyện T N đã xét xử:
Bản án số 02/2021/ST-DS ngày 15/01/2021 và bản án số 02/2021/ST-KDTM
ngày 15/01/2021. Bản án không bị kháng cáo, kháng nghị và đã có hiệu lực pháp
luật. Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng cũng đã nhiều lần đôn đốc
yêu cầu vợ chồng Anh M thực hiện nghĩa vụ theo Bản án nhưng vợ chồng Anh
M vẫn không có khả năng thanh toán trả cho Ngân hàng. Vì thời gian kéo dài
nên Ngân hàng buộc phải có biện pháp xử lý tài sản thế chấp của Bà Lê Thị H -
Người bảo đảm cho khoản vay của Anh M theo Hợp đồng thế chấp mà Bà H đã
cam kết, Anh M đã cam kết. Tuy nhiên Ngân hàng chưa sử dụng biện pháp đề
nghị cơ quan có thẩm quyền phát mại để thu hồi công nợ vì theo quy định của
pháp luật Ngân hàng cho phép người vay và người thế chấp tài sản tự nguyện xử
lý tài sản thế chấp để trả nợ cho Ngân hàng do vợ chồng Anh M, chị H và Bà H
có đề nghị để tự xử lý tài sản thế chấp. Do thời gian đó người thế chấp tài sản là
Bà Lê Thị H đang bị tạm giam thi hành án phạt tù do vi phạm Luật hình sự nên
không có điều kiện để tự xử lý tài sản thế chấp nên các bên có xin ý kiến Ngân
hàng cho Bà H uỷ quyền cho chị H xử lý tài sản. Căn cứ vào quy định của Ngân
hàng và pháp luật nên Ngân hàng đã chấp thuận. Chính vì vậy, ngày 30/3/2021
Ngân hàng đã có Công văn số 130/TB-CNBPT chấp thuận cho Bà Lê Thị H uỷ
quyền cho con dâu là chị Đinh Thị Thuý H được ký hợp đồng bán tài sản của Bà
H để trả nợ cho Ngân hàng và nhận tài sản thế chấp tại Ngân hàng .(Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của Bà H). Sau khi đã hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ trả
nợ cho Ngân hàng. Căn cứ vào đề nghị của vợ chồng Anh M và Bà H nên sau
khi Ngân hàng chấp thuận cho uỷ quyền thì giữa Bà H và chị H đã làm hợp đồng
uỷ quyền. Vì khi chị H cung cấp giấy uỷ quyền hợp pháp cho Ngân hàng, Ngân
hàng kiểm tra thấy đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp
của Bà H và người được uỷ quyền và chính quyền lợi của Ngân hàng thì Ngân
hàng đồng ý cho chị H tự xử lý tài sản theo quy định của pháp luật. Ngày
15/4/2021 phòng Giao dịch huyện T N cùng Anh M, chị H tại phòng Giao dịch
huyện T N để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Anh M. Tại thời điểm đó Ngân hàng
xác định có vợ chồng chị H, Anh M cùng với 01 người đàn ông, 01 người phụ
nữ khoảng 30 tuổi, Ngân hàng đoán là người mua tài sản của Bà H vì trước đó
Anh M, chị H đã trao đổi với Ngân hàng đã tìm được người mua tài sản nên hẹn
đến ngày 15/4/2021 thì sẽ đem tiền đến cùng với vợ chồng Anh M, chị H trả tiền
cho Ngân hàng. Ngân hàng đã hướng dẫn các thủ tục cần thiết cho Anh M. Sau
khi Ngân hàng kiểm tra xác định số nợ của Anh M phải trả đủ cho Ngân hàng là:
968.446.083 đồng trong đó có gốc, lãi, lãi phạt, để thông báo cho vợ chồng Anh
M thì thấy người đàn ông đi cùng vợ chồng Anh M, chị H đưa tiền cho vợ chồng
Anh M trả tiền cho Ngân hàng đầy đủ. Sau khi Anh M thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của Bà H cho vợ chồng Anh M, chị H đi xoá thế chấp. Ngân hàng nhận được
Công văn số 268/CV-CCTHADS ngày 12/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện T N. Căn cứ Công văn trên của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T N
thì Ngân hàng đã thông báo cho Chi cục Thi hành án dân sự biết ngày 15/4/2021
Anh M sẽ trả tiền cho Ngân hàng. Ngày 15/4/2021 thì cán bộ
12 12
Chi cục Thi hành án dân sự huyện T N đã trực tiếp đến Ngân hàng thu tiền của
Anh M theo công văn phối hợp. Sau khi Thi hành án dân sự huyện T N thu
khoản tiền theo công văn phối hợp và được sự nhất trí của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện T N thì Ngân hàng đã trả Giấy CNQSDĐ của Bà H cho Anh M và
chị H. Ngoài ra Ngân hàng không nhận được bất kỳ văn bản nào đề nghị phối
hợp hay ngăn chặn đối với tài sản thế chấp của Bà H ủy quyền cho chị H.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2022/DS-ST ngày 20/10/2022 của Tòa
án nhân dân huyện T N, tỉnh Phú Thọ đã quyết định:
Căn cứ vào: Khoản 1- Điều 147; Khoản 1 - Điều 228 của Bộ luật tố tụng
dân sự; Điều 116, 117, 118, 119, 223,500,501,502,503 của Bộ luật dân sự;
Điều
166,167,168, 170 Luật đất đai; Khoản 1 - Điều 26, Điểm đ - Khoản 1 - Điều 12,
Khoản 1 - Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/NQ - UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị H.
Xử bác yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị H về việc: Yêu cầu tuyên
bố “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 15/4/2021 giữa Bà
Lê Thị H (do chị Đinh Thị Thúy H ký hợp đồng theo ủy quyền của Bà H) với
Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L vô hiệu.
Ngày 31 tháng 10 năm 2022 Ông Triệu Văn T là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn kháng cáo và ngày 03/11/2022, Ông Triệu Văn T có nộp
đơn kháng cáo bổ sung, các nội dung kháng cáo: Đề nghị hủy Bản án dân sự sơ
thẩm số 10/2022/TLST-DS ngày 20/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện T N,
tỉnh Phú Thọ, đề nghị: Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Đinh Thị Thúy H với Trần Anh T và Bùi Thị L vô hiệu và hủy các giấy tờ liên
quan đến giao dịch này.
Tại phiên tòa phúc thẩm đương sự xin rút yêu cầu kháng cáo hủy bản
án sơ thẩm. Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa Đinh Thị Thúy H với Trần Anh T và Bùi Thị L
vô hiệu và hủy các giấy tờ liên quan đến giao dịch. Đề nghị tuyên hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Trần Anh T và Bùi Thị L. Đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn nêu quan điểm: Hợp đồng ủy quyền vô hiệu
ngay từ khi được công chứng vì Bà H đã ủy quyền vượt quá phạm vi được
ủy quyền, không ký trước mặt Công chứng viên, Công chứng viên không
trực tiếp tìm hiểu về quyền của Bà H nhưng vẫn ký công chứng, do vậy
Hợp đồng công chứng và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng
vô hiệu.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên
toà nêu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét
xử, thư ký phiên toà khi giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đơn kháng cáo của đương sự đúng hạn
luật định. Hội đồng xét xử đã xét xử đúng nguyên tắc, các bên đương sự đều
thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về nội
dung kháng cáo, đại diện VKS đề nghị HĐXX: Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều
309 của Bộ luật Tố tụng Dân sự: Đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại
13 13
diện theo ủy

14 14
quyền của nguyên đơn, sửa án sơ thẩm theo hướng tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Hợp đồng ủy quyền chỉ có hiệu lực đối với
phần ủy quyền giải chấp tại ngân hàng, các nội dung khác vô hiệu. Thu hồi giấy
chứng nhận đã cấp cho Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L. Hậu quả của hợp
đồng vô hiệu giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của Ông Triệu Văn T là người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn làm trong hạn luật định nên được xem xét giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Tòa án giải giải quyết vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan của vụ án theo khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự do đương sự có
đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút
yêu cầu kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm nên HĐXX không xem xét
và không đình chỉ do không thuộc phạm vi khởi kiện.
[2] Về nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Theo Bản án số 47/2020/HSST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Thọ đã tuyên Lê Thị H, ở Khu X, xã T L, huyện T N phạm tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” với mức án 16 năm tù và buộc Bà Lê Thị H phải bồi thường
cho Bà Nguyễn Thị H số tiền là 880.000.000 đồng. Bản án trên bị cáo có kháng
cáo về hình phạt, không có kháng cáo kháng nghị phần dân sự của bản án, do
vậy phần dân sự có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 05/10/2020. Như vậy nghĩa vụ
dân sự của Bà Lê Thị H theo bản án bắt đầu từ ngày 05/10/2020 còn việc buộc
thực hiện nghĩa vụ dân sự thì kể từ khi người có quyền có đơn yêu cầu.
Quyết định số 304/2020/HSPT ngày 08/12/2020 của TAND cấp cao tại
Hà Nội: Đình chỉ xét xử phúc thẩm về phần hình sự. Tại quyết định trên cũng
nêu rõ bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, do vậy phần dân sự của bản án
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.120.080 ngày 16/8/2018 (nghĩa là Bà
H thế chấp ngày 16/8/2018) giữa Bà Lê Thị H và Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam - Chi nhánh Đ H (nay là chi nhánh B P T) - Phòng Giao dịch T
N (BL-
169) thì các bên xác định giá trị tài sản thế chấp là 2.120.000.000 đồng. Gía
chuyển nhượng thực tế do chị Đinh Thị Thúy H và vợ chồng Anh Trần Anh T
và chị Bùi Thị L khai nhận là 1.041.571.293 đồng (bao gồm cả tiền án phí của
Bà H). Gía do cơ quan Chi cục thuế huyện T N tính là 559.628.360 đồng. Tuy
nhiên “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 15/4/2021 giữa
Bà Lê Thị H (do chị Đinh Thị Thúy H ký hợp đồng theo ủy quyền của Bà H) với
Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L ghi giá trị chuyển nhượng là 100.000.000
đồng.
Ông Triệu Văn T cung cấp cho tòa án kết quả thẩm định giá tài sản trên
(là tài liệu tham khảo) tại thời điểm giải quyết tại cấp phúc thẩm, giá trị nhà và
đất là 2.469.480.000 đồng.
Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao
dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả
15 15
tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch
đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”. Từ
những tình tiết vụ việc có cơ sở xác định giá ghi trong Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được công chứng ngày 15/4/2021 là giả tạo nhằm che giấu
Hợp đồng giá cao hơn (để “chịu thuế thấp”). Khoản 2 Điều 501 Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định “Nội dung của hợp đồng về quyền sử dụng đất không được
trái với quy định về mục đích sử dụng, thời hạn sử dụng đất, quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về
đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan” (Việc hai bên khai giá trên
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản thấp hơn giá thực tế sẽ dẫn đến thiếu số
tiền thuế phải nộp. Đây là hành vi trốn thuế theo quy định tại khoản 5 Điều 143
Luật Quản lý thuế 2019 - là hành vi bị nghiêm cấm).
Về việc nguyên đơn không làm đơn yêu cầu thi hành án dân sự trước thời
điểm có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/4/2021: Do
nguyên đơn không được nhận trích lục án phần dân sự có hiệu lực pháp luật, nội
dung này được chứng minh bằng các tài liệu là các đơn khiếu nại, dấu cấp văn
bản (25/3/2022 là ngày Bà H nhận được Quyết định số 304/2020/HSPT) nên
nguyên đơn không biết thời điểm án có hiệu lực để làm đơn đề nghị thi hành án
dân sự là khách quan.
Về Hợp đồng ủy quyền số 2064, quyển số 03/2021 TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 01/4/2021 Văn phòng Công chứng K Đ lập. Mặc dù tôn trọng sự tự định
đoạt của đương sự nhưng việc ủy quyền lại vượt quá giới hạn pháp luật cho
phép, bởi lẽ người ủy quyền đang có nghĩa vụ dân sự theo bản án hình sự, ngoài
tài sản này người ủy quyền không còn bất kỳ tài sản nào có giá trị. Do đó, Khi
ký hợp đồng ủy quyền, lẽ ra người ủy quyền chỉ được ủy quyền phần giao dịch
giải chấp tài sản với ngân hàng (để giải quyết khoản nợ với ngân hàng từ trước),
thì người ủy quyền lại ủy quyền cho người nhận ủy quyền được toàn quyền mua
bán, chuyển nhượng, định đoạt khối tài sản này (là ngoài các quyền Bà H có).
Việc ủy quyền này đã vượt quá phạm vi được phép ủy quyền và gây thiệt hại
cho người khác (cụ thể là chủ nợ). Vì sau khi giải chấp khoản vay với ngân hàng
thì khối tài sản này đã không còn bị ràng buộc với ngân hàng, nhưng lại phát
sinh nghĩa vụ ràng buộc với các chủ nợ khác. Điều 10 Bộ luật Dân sự 2015 quy
định về giới hạn việc thực hiện quyền dân sự
“1. Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình
gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục
đích khác trái pháp luật.
2. Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định tại khoản 1
Điều này thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu
quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền
của họ, buộc bồi thường nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật
quy định”.
Điều 160 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nguyên tắc xác lập, thực hiện
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
1. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập, thực hiện trong
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

16 16
Quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở
hữu được chuyển giao, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.
2. Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài
sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh
hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác.
Ngoài các nội dung trên còn thấy: Anh Bùi Đình M là con của Bà H có
đăng ký quyền sử dụng đất riêng đứng tên ông Bùi Đình M tại 02 thửa đất thuộc
Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Thọ (Thửa đất số: 218, tờ bản đồ số 12,
diện tích 307,4 m2, loại đất: Đất trồng cây lâu năm được UBND huyện T N cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/7/2016, có số phát hành CĐ
865322, số vào sổ CH-01029. Nguồn gốc: Nhận cho tặng quyền sử dụng đất từ
bố mẹ đẻ. Thửa đất số: 214, tờ bản đồ số 12, diện tích 204,0 m2 (trong đó: ONT
= 100,0 m2
+ CLN = 104,0 m2) được UBND huyện T N cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 09/3/2018, có số phát hành CK 314848, số vào sổ CH-01275.
Nguồn gốc: Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hai thửa đất này không
đăng ký giao dịch bảo đảm từ năm 2018 đến năm 2022 (Tài liệu do UBND
huyện T N cung cấp). Việc Anh M có tài sản nhưng lại dùng tài sản của Bà H để
thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng, trong khi Bà H đang có nghĩa vụ thì lại
bằng việc ủy quyền (lạm dụng quyền dân sự) gây thiệt hại cho người khác, nên
cần xác định trong trường hợp này việc ủy quyền bị giới hạn, việc lạm quyền là
vi phạm pháp luật.
Từ các lập luận trên, nhận thấy: Việc ủy quyền chuyển nhượng của Bà Lê
Thị H đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bà H. Vì vậy, Bà H khởi
kiện yêu cầu Toà án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Đinh Thị Thuý H với Trần Anh T và Bùi Thị L vô hiệu là có căn cứ. Lý do vô
hiệu là do giả tạo, vi phạm pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Do
vậy, cần sửa Bản án sơ thẩm 10/2022/DS-ST ngày 20/10/2022 của Tòa án nhân
dân huyện T N, tỉnh Phú Thọ theo hướng;
- Xác định Hợp đồng ủy quyền số 2064, quyển số 03/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 01/4/2021 do Văn phòng Công chứng K Đ lập chỉ có giá trị
pháp lý đối với phần giải chấp tại ngân hàng, các nội dung khác vô hiệu.
- Xác định Hợp đồng chuyển nhượng ngày 15/4/2021 đối với thửa đất số
58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất giữa Bà Lê
Thị H (do chị Đinh Thị Thuý H được ủy quyền ký bên A) với Trần Anh T và
Bùi Thị L đã được công chứng số 1447 quyển số 02/2021 TP- SCC/HĐGD do
Văn phòng Công chứng H T N đã thực hiện là vô hiệu.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa DA 604511 ngày 28/5/2021 do
UBND huyện T N cấp cho Trần Anh T và Bùi Thị L đối với thửa đất số 58, tờ
bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m 2 tại Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Thọ
không còn giá trị sử dụng, cần thu hồi. Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số
58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất được trả lại
cho Bà Lê Thị H.

17 17
Chị Đinh Thị Thúy H, Văn phòng Công chứng K Đ có biết về Bản án số
47/2020/HS-ST đã có hiệu lực pháp luật hay không. Hai nội dung này đã làm rõ
tại cấp sơ thẩm, không có cơ sở xác định chị Đinh Thị Thúy H và Văn phòng
Công chứng K Đ đã không khách quan khi công chứng và chuyển nhượng tài
sản. Văn bản công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
15/4/2021 tại Văn phòng Công chứng H T N là đúng trình tự pháp luật nhưng do
các bên khai gian dối về giá chuyển nhượng, nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba và vi phạm pháp luật nên vô hiệu về nội dung, không thuộc lỗi của Công
chứng viên.
Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị
L, chị Đinh Thị Thúy H, Bà Lê Thị H vắng mặt nên không thể hiện quan điểm
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, do vậy Hội đồng xét xử không xem
xét. Nếu có yêu cầu thì giải quyết bằng vụ án dân sự khác.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ là có cơ
sở nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Yêu cầu kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:

[1]. Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Chấp nhận kháng cáo của Bà Nguyễn Thị H (do Ông Triệu Văn T đại
diện). Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2022/DS-ST ngày 20/10/2022 của Tòa
án nhân dân huyện T N, tỉnh Phú Thọ.
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự
và các Điều 116; 117; 118; 119; 123; 124; khoản 1 Điều 407; Điều 10; 160;
500;
501; 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số 2064, quyển số 03/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 01/4/2021 do Văn phòng Công chứng K Đ đã thực hiện chỉ có
giá trị pháp lý đối với nội dung ủy quyền giải chấp tại Ngân hàng TMCP Công
Thương Việt Nam - Phòng giao dịch T N, các nội dung khác vô hiệu.
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/4/2021
đối với thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền
với đất giữa Bà Lê Thị H (do chị Đinh Thị Thuý H được ủy quyền ký bên A) với
Trần Anh T và Bùi Thị L đã được công chứng số 1447 quyển số 02/2021 TP-
SCC/HĐGD do Văn phòng Công chứng H T N đã thực hiện là vô hiệu;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa DA 604511 ngày 28/5/2021
do UBND huyện T N cấp cho Trần Anh T và Bùi Thị L đối với thửa đất số 58,
tờ bản đồ số 12, diện tích 1.093,8 m 2 tại Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú
Thọ không còn giá trị sử dụng, UBND huyện T N có trách nhiệm thu hồi giấy
chứng nhận này.
- Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích
1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất được trả lại cho Bà Lê Thị H.
" Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
18 18
án dân

19 19
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và Điều 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự."
[2]. Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Không giải quyết do chưa
có yêu cầu của các đương sự.
[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND tỉnh Phú Thọ;
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện T N;
- TAND huyện T N;
- Chi cục THADS huyện T N;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ.

Nguyễn Quang Vũ

20 20
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
-1-
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH A

Quyết định số: 02/2020/QĐST-DS


Ngày: 13/01/2020.
QUYẾT ĐỊNH
SƠ THẨM GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
V/v: “Yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết”
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C TỈNH A
Thành phần giải quyết việc dân sự gồm có:
Thẩm phán - Chuû toïa phieân hoïp: Ông Huỳnh Văn Quân.
Thö kyù phieân hoïp: Bà Trần Thị Út – Thư ký Tòa án nhân dân huyện C,
tỉnh A.
Ñaïi dieän Vieän kieåm saùt nhân dân huyện C tham gia phiên họp: Bà Phan
Thị Thơ – Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C mở phiên
họp sơ thẩm công khai giải quyết việc dân sự thụ lý số: 684/2019/TLST-DS ngày
25 tháng 12 năm 2019. Về việc: “Yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là
đã chết” theo Quyết định mở phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự số:
02/2020/QĐST/VDS ngày 02 tháng 01 năm 2020, gồm những người tham gia tố
tụng sau đây:

Người yêu cầu giải quyết việc dân sự:


Ông Đ H, sinh năm: 1968;
Địa chỉ: A, xã L, huyện C, tỉnh A..
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bà N T, sinh năm: 1967;
Địa chỉ: Ấp 1A, xã Tân Trạch, huyện C, tỉnh A.
NỘI DUNG VIỆC DÂN SỰ

Trong đơn yêu cầu ngày 17 tháng 12 năm 2019 và tại phiên họp Ông Đ H
là người yêu cầu trình bày: Từ năm 2008 do vợ chồng có mâu thuẩn nên Ông
Hoàng đến tỉnh Lâm Đồng sinh sống không liên lạc với gia đình. Tại quyết định
số: 01/2011/QĐ-MPH ngày 02/3/2011Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố mất
tích. Tại quyết định số: 01/2015/QĐVDS-ST ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân
huyện C đã tuyên bố Đ H đã chết và tại bản án số: 28/2011/HNST ngày
14/6/2011 Tòa án nhân dân huyện C đã cho ly hôn giữa Bà N T và Ông Đ H.
Ngày 20/11/2019 Ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, xã L, huyện C và có đơn
yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết.

331
-2-
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bà N T trình bày: Thừa nhận
Ông Đ H vẫn còn sống và đồng ý yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là
đã chết.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu quan
điểm: Quá trình giải quyết việc dân sự Tòa án đã tuân thủ đúng qui định tố tụng
dân sự. Đề nghị chấp nhận yêu cầu của Ông Đ H hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết đối với Ông Đ H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự được
thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên
họp, Tòa án nhân dân huyện C.nhận định:
[1] Về tố tụng: Ông Đ H yeâu caàu hủy quyết định tuyên bố một người là đã
chết là việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại
ñieàu 361 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Sau khi thụ lý giải quyết Ông Đ H đã cung cấp đơn xin
xác nhận còn sống tại A, xã L, huyện C có xác nhận của UBND xã L ngày
09/12/2019. Qua đối chiếu kết quả tra cứu hồ sơ hộ khẩu và chứng minh nhân dân
đã có đủ căn cứ để xác định Ông Đ H vẫn còn sống. Tòa án nhân dân huyện C có
đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của Ông Đ H hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết theo Điều 395 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C là có căn cứ, đúng
pháp luật.
[3] Về lệ phí: Ông Đ H phải chịu 300.000đ lệ phí việc dân sự sơ thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
- Caên cöù Ñieàu 361; Điều 367; Điều 370; Điều 395 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng Điều 73 Bộ luật dân sự;
- Áp dụng Điều 37 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận đơn yêu cầu cuûa Ông Đ H về việc yêu cầu hủy bỏ quyết định
tuyên bố một người là đã chết.
- Hủy bỏ quyết định yêu cầu tuyên bố một người là đã chết đối với Ông Đ
H, sinh năm: 1968. Địa chỉ: A, xã L, huyện C, tỉnh A.
- Ông Đ H được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để xác lập lại các thủ
tục về nhân thân và hộ tịch.

332
-3-
- Hậu quả pháp lý: Ông Đ H xác định không có tài sản nên không yêu cầu
giải quyết hậu quả pháp lý có liên quan đến quyết định tuyên bố một người là đã
chết.
- Về lệ phí: Ông Đ H phaûi chòu 300.000ñ leä phí vieäc daân söï, ñöôïc
khaáu tröø taïm öùng leä phí 300.000đ bieân lai soá 0008104 ngaøy 24/12/2019
cuûa Chi cục thi haønh aùn dân sự huyeän Caàn Ñöôùc, Ông Hoàng ñaõ noäp ñuû lệ phí.
- Quyền kháng cáo, kháng nghị: Người yêu cầu có mặt được quyền kháng
cáo quyết định naøy trong thôøi haïn 10 ngaøy keå töø ngaøy Tòa án ra quyeát
ñònh. Viện kiểm sát nhân dân huyện C có quyền kháng nghị Quyết định giải
quyết việc dân sự trong thời hạn 10 ngày. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
Nơi nhận:
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
- TAND tỉnh A.
- VKSND huyện C.
- CC thi hành án dân sự huyện C.
- UBND xã L;
- Đương sự.
- Lưu hồ sơ, lưu án văn.

Huỳnh Văn Quân

333
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK NÔNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 02/2021/DS-PT
Ngày 11-01-2021
V/v tranh chấp hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thông;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân
Chiến; Bà Bùi Thị Ngọc.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Trang, là Thư ký viên của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Nông.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên tòa:
Ông Dương Phúc Trường – Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 53/2020/TLPT-DS ngày 06 tháng 10
năm 2020 về việc“Tranh chấp hợ p đồ ng thuê quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27 tháng 7 năm 2020
của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 68/2020/QĐ-PT ngày
13 tháng 11 năm 2020 giữ a các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễ n Thế Th; địa chỉ: Thôn 06, xã N, huyệ n Đ,
tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
- Bị đơn: Tổ trưở ng Tổ hợ p tá c X, xã N: Ông Nguyễ n Thăng L; địa
chỉ: Thôn 06, xã N, huyệ n Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Bùi Vĩnh H; đị a chỉ: Thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng
mặt. Bà Bùi Thị H; đị a chỉ: Thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng
mặt. Ông Phạm Hùng V; đị a chỉ: Tổ 05, phường M, thành phố G, tỉnh
Đắk
Nông – Vắng mặt.
Ông Nguyễn T; đị a chỉ: Thôn 07, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng
mặt. Bà Nhan Thị L, ông Trương Ch, ông Nguyễn Trọng L; cùng địa chỉ:
Thôn
07, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

334
Ông Nguyễn Thành Ch, ông Lê Văn H, ông Cù Bá L; cùng địa chỉ: Thôn
02, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Ông Lê Văn H, ông Trần H, ông Nguyễn Văn Kh, ông Lê Trọng L, ông

335
Lều Văn M, ông Nguyễn Thành N, ông Cù Bá Ng; cùng địa chỉ: Thôn 03, xã N,
huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Ông Nguyễn H, ông Cao Quang T, ông Ngô Văn M, ông Bùi Văn V, ông
Bùi Tấn Tr, ông Hoàng Đình C, ông Nguyễn Văn Ph, ông Nguyễn Xuân B, ông
Nguyễn Ngọc L, ông Trần Viết Th, ông Lê Quý T, ông Trần Viết Q, ông Trần
Đình T, ông Võ Văn H, bà Phạm Thị Th, ông Lê Quyết Ch, ông Lê Xuân Ph,
ông Trương Văn D, ông Nguyễn Văn D, ông Trần Văn M, ông Nguyễn Văn Ch,
ông Trương Đức T, bà Vũ Thị T, ông Lê Tiến S, ông Đoàn Thanh T, ông Đường
Văn H, ông Nguyễn H, ông Nguyễn Văn Kh, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn
Thế Th, ông Trần Hoàng S, ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Thăng L, ông
Phạm Thế N, ông Huỳnh Cao T, ông Lê Văn H, ông Trương Đức H, ông
Trương Đức Kh, ông Hồ Chí T, ông Phạm Văn Th, ông Hồ Sỹ S, ông Vũ Hữu
Đ, bà Trần Thị Đ, ông Nguyễn Đức Ng, ông Hồ Ngọc Đ, ông Phan Văn C, ông
Võ Văn Th, ông Lê Hồng Kh, ông Vũ Văn Th, ông Nguyễn T, ông Ngô Đình Q,
ông Trần Đình D, ông Nguyễn Tấn S, ông Trương Công H, ông Nguyễn Đ, bà
Trần Thị V, ông Ngô Văn Tr, ông Trần Đình L, ông Trần Viết T, ông Mai Thế
T, ông Bùi Quốc Th, ông Bùi Vĩnh U, ông Bùi Quang H, ông Bùi Vĩnh M, ông
Nguyễn Đình M, ông Lê Quý D, ông Bùi Vĩnh C; cùng địa chỉ: Thôn 06, xã N,
huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễ n Thế Th – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 25/3/2019 của ông Nguyễ n Thế Th và trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:
Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viế t tắ t là Tổ hợ p tá c ) ký hợp
đồng thuê quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê
500m2 đất tọa lạc tại thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây
dựng kho cất trữ cà phê sau thu hoạch, diện tích đất cho thuê là một phần của
thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03, diện tích 12.103m 2 theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số Y do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên
hộ ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Vị trí đất cho thuê có tứ cận: Phía
Đông giáp đường bê tông; phía Tây giáp đất ông Nguyễn Thế Th; phía Nam
giáp đường đất; phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu H.
Sau khi ký kết hợp đồng và chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã N, ông đã
tiến hành phá bỏ 56 trụ tiêu trị giá 600.000 đồng/trụ; 06 cây sầu riêng trị giá
800.000 đồng/cây, 02 cây dừa trị giá 500.000 đồng/cây, 01 cây chôm chôm trị
giá 500.000 đồng/cây, 01 cây ổi không hạt trị giá 500.000 đồng/cây, 01 cây mít
ghép vàng trị giá 500.000 đồng/cây, tất cả trồng năm 2017; 01 cây mít 10 năm
tuổi trị giá 1.000.000 đồng/cây; 05 cây sao trồng bờ rào chắn gió trị giá 200.000
đồng/1 cây; 01 cây xoan lấy gỗ trị giá 500.000 đồng/cây; 01 chuồng gà rộng
06m2 trị giá 3.000.000 đồng; 01 bụi chuối trị giá 500.000 đồng; 45m hàng rào
B40 trị giá 4.000.000 đồng.
Đến ngày 11/01/2019, ông nhận được Thông báo số: 01/TB-THT của Tổ
hợp tác, nội dung thể hiệ n do hoàn cảnh thay đổi nên hợp đồng thuê đất được
chấm dứt theo Điều 420 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngày 14/01/2019, ông
đã làm văn bản thông báo cho Tổ hợp tác biết ông không đồng ý chấm dứt hợp
2 335
đồng thuê quyền sử dụng đất ký ngày 13/9/2018. Ông cho rằng việc chấm dứt
hợp đồng là không đúng với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của gia đình ông, nên ông khởi kiện yêu cầ u Tổ hợp tác
phải bồi thường thiệt hại về cây cối trước và sau khi giải phóng mặt bằng với số
tiề n
50.400.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện của Tổ hợp tác X, xã N trình
bày: Ngày 13/9/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đấ t
của ông Th để làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số:
61/SCT/HĐ-GD. Sau khi ký hợ p đồ ng , Tổ hợp tác nhậ n thấy đường giao
thông yếu kém, cách xa trung tâm , không thuận lợi cho việc chở nông sản nên
đã gửi giấy mời ông Th họp để thương lượng về việ c hủy hợp đồng nhưng ông
Th không tham gia. Thông qua ba lần họp, Tổ hợp tác đã hủy hợp đồng thuê đất
và nhờ Công an xã, địa chính xã vào đất nhà ông Th để xác minh nhưng không
có thiệt hại về hoa màu. Mặt khác, ông Th chưa bàn giao đất cho Tổ hợp tác, Tổ
hợp tác cũng không yêu cầu ông Th chặt cây, múc đất và thực tế không có tài
sản trên đất bị thiệt hại , do đó , Tổ hợp tác không chấp nhận yêu cầu bồi thường
thiệ t hạ i của ông Th.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H trình bày: Bà thống
nhất với lời trình bày của ông Th, yêu cầu Tòa án buộc Tổ hợp tác phải bồi
thường thiệt hại về cây cối trước và sau khi giải phóng mặt bằng cho vợ chồ ng
bà số tiền 50.400.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Vĩnh H trình bày: Thời
điểm ký kế t hợp đồng , ông đang làm Tổ trưởng Tổ hợp tác, đến tháng 01/2019
ông Nguyễ n Thăng L thay ông làm Tổ trưở ng. Ông không đồ ng ý vớ i yêu cầ
u bồ i thườ ng thiệt hại của ông Th vì chưa phát sinh trá ch nhiệ m bồi thường.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn T trình bày: Ông là
Chủ tịch Ủ y ban nhân dân xã N nhiệm kỳ 2016-2021. Ngày 13/9/2018, ông
chứng thực hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th, bà H với ông H
là đại diện của Tổ hợp tác, mục đích thuê đấ t để làm nhà kho theo chủ trương
của dự án Z. Với vai trò là người đứng đầu địa phương, ông đã gọi điện cho ông
Th đôn đốc, nhắc nhở bàn giao mặt bằng để thi công đúng thời hạn. Ông không
yêu cầ u ông Th chặt cây, múc đất để bàn giao mặt bằng, cũng không biết trên
đất của ông Th có tài sản gì . Ông và ông Phạm Hùng V có đến nhà ông Th để
yêu cầu nộp tiền đối ứng số tiền 65.000.000 đồng nhưng ông Th không nộp. Đối
vớ i yêu cầ u khở i kiệ n củ a ông Th , ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Hùng V trình bày: Ngày
24/5/2017, Ban quản lý dự án Z tiến hành họp tham vấn chính quyền địa phương
và Tổ hợp tác, thống nhất Tổ hợp tác sẽ thuê đất để xây dựng nhà kho. Theo quy
định của dự án, Tổ hợp tác phải chuẩn bị mặt bằng; dự án chỉ thi công khi nhận
mặt bằng đủ điều kiện thi công công trình. Sau khi nhận được hợp đồng thuê đất
giữ a Tổ hợ p tá c vớ i ông Th, Ban quản lý dự án đã kiểm tra thực địa và thấy
mặt bằng là sân đất, đã được san gạt từ trước để phơi nông sản. Tuy nhiên, do là
đất nông nghiệp chưa đủ điều kiện thi công nên Ban quản lý dự án đã đề nghị Tổ
công tác cấp huyện hỗ trợ pháp lý cho Tổ hợ p tá c để chuyển đổi mục đích sử
3 336
dụng đất. Ngày 25/10/2018, Ban quản lý dự án có Công văn đề nghị phối hợp

4 336
triển khai các nội dung liên quan đến việc thi công công trình tại Tổ hợ p tá c,
sau đó yêu cầu Tổ hợ p tá c bàn giao mặt bằng để thi công nhà kho. Do vướng
mắc về việc đóng góp vốn đối ứng, thời gian của hợp đồng thuê đất và giá trị sử
dụng công trình nên Ban quản lý dự án đã gặp Tổ hợ p tá c và ông Th để giải
thích các chính sách hỗ trợ và quy định của dự án. Trườ ng hợ p Tổ hợ p tá c
không bàn giao mặt bằng thì Ban quản lý dự án sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền và
không hỗ trợ xây dựng nhà kho, cắt giảm khối lượng thi công đoạn đường giao
thông do thiếu phần vốn đối ứng của hợp phần nhà kho dẫn đến không đảm bảo
tỷ lệ vốn đối ứng của Tổ hợ p tá c trong toàn bộ công trình. Ông không yêu cầ u
ông Th chặt cây trên đấ t vì chưa có biên bản bàn giao mặt bằng, ông chỉ yêu cầu
Tổ hợ p tá c huy động vố n đố i ứ ng trước khi thi công theo đúng quy định. Đối
với yêu cầu khởi kiệ n củ a ông Th, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27/7/2020 của Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông đã quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 420, Điều 422, Điều 428 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số :
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và
thông báo quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/7/2020, ông Nguyễ n Thế Th kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩ m xé t xử lạ i vụ á n theo hướ ng chấ p nhậ n yêu cầ u khở i kiệ n củ a nguyên
đơn.
Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo
và trình bày những nội dung như trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông:
- Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng Dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ, kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308,
Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn
Thế Th, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27/7/2020 của Tòa
án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th nộp trong thời hạn
luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là đúng pháp luật.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th, căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ lưu trong hồ sơ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét
xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm và thiếu sót cụ thể như sau:
[2.1]. Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 13/9/2018 được ký kết giữa
ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H với Tổ trưởng Tổ hợp tác là ông Bùi Vĩnh H.

5 336
Theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ thể xác lập,
thực hiện giao dịch của Tổ hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc

6 336
các thành viên ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao
dịch và việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Trường hợp thành viên của
Tổ hợp tác không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì
thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện. Tuy
nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ việc ông H ký kết hợp đồng
thuê đất có được các thành viên của Tổ hợp tác ủy quyền hay không; trong hồ sơ
không có văn bản uỷ quyền của các thành viên Tổ hợp tác.
[2.2]. Thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Y được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006 cho hộ ông
Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ tại
thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ ông Th, bà H gồm
những ai, việc ký kết hợp đồng có được các thành viên trong hộ gia đình đồng ý
hoặc có văn bản ủy quyền cho ông Th tham gia giao kết hợp đồng hay không;
không đưa các thành viên trong hộ gia đình vào tham gia tố tụng trong vụ án để
làm rõ nội dung này là có phần thiếu sót.
[2.3]. Tại Điều 2 của Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất thể hiện thời hạn
thuê quyền sử dụng đất là 20 năm kể từ ngày 13/9/2018. Ngày 09/01/2019, Tổ
hợp tác ban hành Thông báo số: 01/TB-THT về việc chấm dứt hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất giữa Tổ hợp tác với ông Nguyễn Thế Th với các lý do quy
định tại Điều 420 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (BL 06, 07). Ngày 11/01/2019,
ông Th nhận được Thông báo số : 01/TB-THT củ a Tổ hợp tác về việc chấm dứt
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với ông Th, bà H. Ngày 14/01/2019, ông Th
làm văn bản thông báo cho Tổ hợp tác biết gia đình ông không đồng ý chấm dứt
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ký ngày 13/9/2018 (BL 92). Như vậy, hợp
đồng
thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th, bà H với Tổ hợp tác vẫn còn tồn tại trên thực
tế. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật la ̀ tranh chấp hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất, nhưng quá trình giải quyết không xem xét đến hợp đồng có
hiệu lực hay bi ̣ vô hiệu. Trường hợp hợp đồng bi ̣ vô hiệu thì phải xác định lỗi dẫn
đến hợp đồng bị vô hiệu mới có căn cứ giải quyết về bồi thường thiệt hại.
[3]. Tại Đơn khởi kiện ngày 25/3/2019, ông Th khởi kiện bị đơn là Tổ hợp
tác X xã N, người đại diện: Ông Bùi Vĩnh H, chức vụ: Tổ trưởng. Lẽ ra, cấp sơ
thẩm phải hướng dẫn ông Th sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đối với bi ̣ đơn là
ông Bùi Vĩnh H, chứ không phải la ̀ Tổ hợp tác, bởi vì ông H la ̀ người trực tiếp
ký kết hợp đồng la ̀ bi ̣ đơn trong vụ án, còn các thành viên trong tổ hợp tác tại
thời điểm ký hợp đồng la ̀ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tổ hợp tác
không có tư cách pháp nhân nên ông Bùi Vĩnh H không phải la ̀ người đại diện
cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng.
[4]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn là Tổ
hợp tác X xã N, người đại diện ông Bùi Vĩnh H, nhưng tại bản án sơ thẩm lại
xác định bị đơn là Tổ trưởng Tổ hợp tác ông Nguyễn Thăng L là không đúng,
bởi vì ông Bùi Vĩnh H là người ký kết hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, nên
ông H là bị đơn trong vụ án.
[5]. Tòa án cấp sơ thẩm xác định các thành viên của Tổ hợp tác là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng Toà án không thông báo thụ lý vụ án cho họ
biết, trong hồ sơ không có bản tự khai hoặc biên bản lấy lời khai của những
7 336
người này. Tại Biên bản xác minh ngày 05/10/2019 thể hiện tất cả các thành

8 336
viên của Tổ hợp tác vẫn sinh sống và có hộ khẩu thường trú tại địa phương
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại tiến hành niêm yết văn bản tố tụng đối với họ là
không đúng quy định tại khoản 5 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Mặt
khác, các thành viên của Tổ hợp tác có hộ khẩu thường trú ở các thôn khác nhau
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại lập biên bản niêm yết chung tại thôn 02, 03, 06,
07, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông là không đúng theo quy định Điều 179 của
Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[6]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc xác minh, thu
thập chứng cứ của cấp sơ thẩm là chưa đầy đủ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng; cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần chấp nhận kháng
cáo của ông Nguyễn Thế Th và quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát,
hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết
lại theo quy định của pháp luật.
[7]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông
Nguyễn Thế Th không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; trả lại cho ông
Nguyễn Thế Th 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng
khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th.
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27/7/2020 của Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông để giải quyết lại vụ án theo thủ tục
sơ thẩm.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Trả lại cho ông Nguyễn Thế Th 300.000đ
(ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0002791 ngày 11/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Đ, tỉnh Đắk Nông.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- TAND cấp cao tại TPHCM; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Nông;
- TAND huyện Đắk R’Lấp;
- Chi cục THADS huyện Đ;
- Các đương sự;
- Lưu: Tòa dân sự; Tổ hành (Đã ký tên, đóng dấu)
chính tư pháp; hồ sơ vụ án.

Phạm Thị Thông

6 339
Tài liệu cho bài tập tháng thứ hai

6 340
341
342
343
344
Tài liệu cho bài tập lớn học kỳ

345
Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2014 và các lời khai trong quá trình tố
tụng, nguyên đơn là bà Đinh Thị T trình bày:
Ngày 20/7/2011, bà và Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển M.N (viết tắt là
Công ty M.N) ký kết Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh doanh số 02/07-
2011/HĐVT. Theo hợp đồng, Công ty M.N vay bà số tiền 7.000.000.000 đồng,
thời hạn vay 06 tháng, lãi suất 13,5%/nă m. Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền
vay và tiền lãi vay theo hợp đồng, Công ty M.N đề nghị Ngân hàng A – Chi
nhánh
T.H phát hành Thưbảo lãnh thanh toán cho bà (Đinh Thị T) số tiền 7.483.000.000
đồng.
Ngày 21/7/2011, Giám đốc A – Chi nhánh T.H phát hành Thư bảo lãnh
thanh toán số 1480 VSB 201100217 có nội dung: Că n cứ hồ sơ đề nghị bảo lãnh
thanh toán của Công ty M.N, A - Chi nhánh T.H chấp thuận cung cấp 01 bảo
lãnh thanh toán để hoàn trả tiền vay với tiền lãi vay cho người thụ hưởng là bà
Đinh Thị T – sinh nă m 1974, CMND số 011689781 do Công an thành phố H cấp
ngày 13/5/2005 với số tiền là 7.483.000.000 đồng để bảo lãnh cho Công ty M.N
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và tiền lãi vay theo Hợp đồng vay
tiền số 02/07-2011/HĐTV. Ngân hàng cam kết vô điều kiện, không hủy ngang
và không yêu cầu Công ty M.N phải xem xét trước, thanh toán cho bà Đinh Thị
T số tiền 7.483.000.000 đồng trong vòng 05 ngày sau khi nhận được thông báo
bằng vă n bản của bà Đinh Thị T và chỉ cần nêu số tiền phải thanh toán mà không
cần phải nêu bất cứ lý do nào khác. Mọi sửa đổi, bổ sung, thay thế, điều chỉnh
hợp đồng đ ược ký kết sau ngày Thưbảo lãnh thanh toán này có hiệu lực cũng
không làm thay đổi nghĩa vụ của Ngân hàng theo Thưbảo lãnh thanh toán này.
Bảo lãnh có hiệu lực kể từ khi Công ty M.N thanh toán đầy đủ tiền vay và tiền
lãi vay theo quy đ ịnh tại hợp đồng cho bà Đinh Thị T.
Ngày 21/7/2011, Giám đốc A – Chi nhánh T.H có Vă n bản số 217 xác
nhận việc phát hành Thưbảo lãnh thanh toán là có thực và đúng thẩm quyền của
Giám đốc A – Chi nhánh T.H.
Ngày 26/7/2011, do đã có sự bảo lãnh của Ngân hàng A nên bà chuyển số
tiền 7.000.000.000 đồng bằng Ủy nhiệm chi vào tài khoản của Công ty M.N mở
tại A – Chi nhánh T.H. Cùng ngày, Công ty M.N có vă n bản xác nhận đã nhận
đủ số tiền vay 7.000.000.000 đồng. Hết thời hạn vay, Công ty M.N không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán như thỏa thuận tại Hợp đồng số 02/07-2011/HĐVT
ngày 20/7/2011. Bà đã nhiều lần yêu cầu A – Chi nhánh T.H thực hiện nghĩa vụ
trả nợ thay theo Thưbảo lãnh thanh toán số 1480 VSB 201100217 ngày
21/7/2011. Tuy nhiên, đến nay bà không nhận được bất kỳ khoản tiền nào theo
nội dung Thưbảo lãnh thanh toán số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011.
Nhưvậy, Ngân hàng A
346
1

347
– Chi nhánh T.H đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản tiền bảo lãnh
thanh toán như đã cam kết. Do đó, bà đề nghị Tòa án buộc Ngân hàng A – Chi
nhánh T.H phải trả bà số tiền 7.483.000.000 đồng cộng với lãi suất quá hạn do
chậm trả theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và quy định của pháp luật.
Tại Bản tự khai ngày 10/8/2015 và các lời khai trong quá trình tố tụng, bị
đơn là Ngân hàng A – do bà Hoàng Lan H là đại diện theo ủy quyền - trình bày:
Qua kiểm tra trên hệ thống sổ sách và phần mềm lưu trữ thông tin của
Ngân hàng A thì Thưbảo lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011 do bà T
cung cấp cho Tòa án không có trong hồ sơ, sổ sách và không được hạch toán
trên IPCAS (Phần mềm lưu trữ thông tin) của Ngân hàng. Ngân hàng A không
biết và không được thông báo về Thưbảo lãnh nêu trên. Chỉ sau khi Ngân hàng
A được Tòa án thông báo thụ lý vụ án do bà T khởi kiện, liên quan đến việc
phát hành Thưbảo lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011 do ông
Nguyễn Hữu H1 – nguyên Giám đốc Chi nhánh T.H ký thì Ngân hàng A mới
biết về Thưbảo lãnh này.
Theo nội dung Thưbão lãnh do bà T xuất trình (có chữ ký của ông H1) thì
đây là Thưbảo lãnh vay vốn và bảo lãnh này (nếu có) đã được phát hành trái
thẩm quyền, người phát hành bảo lãnh không có quyền và không được ủy quyền
phát hành bảo lãnh vay vốn. Thưbảo lãnh do ông H ký và phát hành là trái pháp
luật, vi phạm quy định về ủy quyền thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước,
của Ngân hàng A và của pháp luật; đồng thời vi phạm Điều 14 Quyết định
26/2006/QĐ- NHNN ngày 26/6/2006 về việc Ban hành Quy chế bảo lãnh Ngân
hàng quy định về thẩm quyền ký bảo lãnh, vi phạm Điều 21 Quyết định
398/QĐ-HĐQT-TD ngày 29/5/2007 ban hành quy định bảo lãnh Ngân hàng
trong hệ thống Ngân hàng A quy định về thẩm quyền ký bảo lãnh. Ngoài ra,
theo quy định tại Vă n bản số 1477/NHNo-TD ngày 29/5/2007 của Ngân hàng A
quy định về thẩm quyền ký bảo lãnh (là vă n bản ủy quyền của Ngân hàng A cho
các Chi nhánh) thì ông H1 với chức danh Giám đốc A – Chi nhánh T.H không
được Ngân hàng A ủy quyền để ký phát hành bảo lãnh vay vốn trong nước.
Việc ông H1 ký phát hành Thưbảo lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày
21/7/2011 để bảo lãnh vay vốn là trái pháp luật, vi phạm các quy định về ủy
quyền thường xuyên (vượt quá phạm vi được ủy quyền và đã thực hiện công
việc không được ủy quyền).
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà T, Ngân hàng A không đồng ý thực hiện
trách nhiệm bảo lãnh theo Thưbảo lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày
21/7/2011 vì đây là bảo lãnh vay vốn và Thưbảo lãnh này đã được phát hành
trái thẩm quyền. Do đó, Thưbảo lãnh do bà T xuất trình không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa Ngân hàng với bà T. Đề nghị Tòa án đưa ông H1 vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, buộc ông
H1 phải thực hiện nghĩa vụ đối với bà T theo đúng quy định về xử lý hậu quả
2

347
của giao dịch dân sự do ngư ời không có quyền đại diện xác lập, thực hiện hoặc
xác lập, thực hiện vượt quá

347
phạm vi đại diện; buộc ông H1 liên đới cùng Công ty M.N thực hiện nghĩa vụ
trả tiền cho bà T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần Đầu tư Phát
triển M.N (do ông Mai Thanh P là đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Ngày 20/7/2011, Công ty M.N ký Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất
kinh doanh số 02/07-2011/HĐVT với bà T, số tiền vay là 7.000.000.000 đồng,
thời hạn vay 06 tháng, lãi suất vay 13,5%/nă m. Công ty đã nhận đủ số tiền vay
do bà T chuyển vào tài khoản của Công ty tại Ngân hàng A – Chi nhánh T.H. Bà
T đồng ý cho Công ty vay tiền trên cơsở Thưbảo lãnh thanh toán hoàn trả tiền
vay và tiền lãi vay do Ngân hàng A – Chi nhánh T.H đứng ra bảo lãnh cho Công
ty. Thực tế, Công ty là khách hàng thường xuyên, có đề nghị bảo lãnh, có dưnợ
và có tài sản thế chấp tại Ngân hàng A – Chi nhánh T.H tại thời điểm ký kết Hợp
đồng số 02/07- 2011/HĐTV. Hiện nay, tình hình hoạt động của Công ty gặp
nhiều khó khă n nên Công ty chưa trả được số tiền vay 7.000.000.000 đồng và
tiền lãi theo thỏa thuận là 483.000.000 đồng, tổng số tiền là 7.483.000.000 đồng.
Vì vậy, Công ty đề nghị Tòa án buộc Ngân hàng A phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh cho Công ty, thanh toán cho bà T số tiền 7.483.000.000 đồng theo Thưbảo
lãnh thanh toán. Sau đó, Công ty sẽ có trách nhiệm thanh toán với Ngân hàng A
số tiền nêu trên.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơthẩm số 24/2017/KDTM-ST ngày
21, 24/11/2017, Tòa án nhân dân quận B, thành phố H quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị T “Yêu
cầu Ngân hàng A thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán theo Thưbảo lãnh
thanh toán số 1480VBS 201100217 ngày 27/7/2011 của Ngân hàng A – Chi
nhánh T.H và trả tiền lãi quá hạn do vi phạm nghĩa vụ chậm trả tiền”.
Buộc bị đơn Ngân hàng A phải trả nguyên đơn bà Đinh Thị T khoản tiền
7.483.000.000 đồng theo cam kết bảo lãnh cho Công ty cổ phần Đầu tưPhát
triển
M.N tại Thưbảo lãnh thanh toán số 1480 VBS 201100217 ngày 27/7/2011 của
Ngân hàng A – Chi nhánh T.H và khoản tiền lãi quá hạn 4.293.372.000 đồng do
vi phạm nghĩa vụ chậm trả tiền. Tổng cộng hai khoản tiền Ngân hàng A phải trả
nguyên đơn bà Đinh Thị T là 11.776.372.000 đồng.
Ngân hàng A có quyền khởi kiện đối với Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N khi có yêu cầu.
Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn Ngân hàng A có đơn kháng cáo Bản án sơ
thẩm nêu trên.
Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT ngày
02/5/2019, Tòa án nhân dân thành phố H quyết định:
Sửa một phần Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 24/2017/KDTM-
3

348
ST ngày 21, 24/11/2017 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H và xử nhưsau:

348
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị T:
"Yêu cầu Ngân hàng A thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán theo Thưbảo
lãnh thanh toán số 201100217 ngày 27/7/2011 của Ngân hàng A – Chi nhánh
T.H và trả tiền lãi quá hạn do vi phạm nghĩa vụ chậm trả tiền”.
- Buộc bị đơn Ngân hàng A phải trả cho bà Đinh Thị Tâm số tiền
7.483.000.000 đồng tiền cam kết bảo lãnh cho Công ty cổ phần Đầu tưPhát
triển
M.N tại Thưbảo lãnh thanh toán số 1480 VBS 201100217 ngày 27/7/2011 của
Ngân hàng A – Chi nhánh T.H và 4.287.759.000 đồng tiền lãi. Tổng cộng là
11.770.759.000 đồng.
Ngân hàng A có quyền khởi kiện đối với Công ty cổ phần Đầu tưPhát triển
M.N khi có yêu cầu.
Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bị đơn Ngân hàng A có đơn đề nghị xem xét lại
vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/QĐKNGĐT-VC1-KDTM
ngày 22/11/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H.N kháng nghị đối
với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT ngày 02/5/2019
của Tòa án nhân dân thành phố H; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao tại H.N xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu
trên và Bản án kinh doanh thương mại sơthẩm số 24/2017/KDTM-ST ngày 21,
24/11/2017 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H; giao hồ sơvụ án cho Tòa án
nhân dân quận B, thành phố H xét xử sơthẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 04/2020/KDTM-GĐT ngày 17/02/2020, Ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H.N quyết định:
Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT
ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H và Bản án kinh doanh, thương
mại sơthẩm số 24/2017/KDTM-ST ngày 21, 24/11/2017 của Tòa án nhân dân quận
B, thành phố H về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”giữa nguyên đơn là bà
Đinh Thị T với bị đơn là Ngân hàng A; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công
ty cổ phần Đầu tưPhát triển M.N.
Giao hồ sơvụ án cho Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xét xử lại sơthẩm
theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử giám đốc thẩm, nguyên đơn bà Đinh Thị T đề nghị Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm nêu trên theo
thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 05/2022/KN-KDTM ngày
30/5/2022, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm đối với
Quyết định giám đốc thẩm số 04/2020/KDTM-GĐT ngày 17/02/2020 của Ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H.N; đề nghị Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm
4

4
nêu trên

5
và giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT
ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất
trí với Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Theo Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh doanh số 02/07-2011/H
ĐVT ngày 20/7/2011, bà Nguyễn Thị T cho Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N vay số tiền 7.000.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng, lãi suất
13,5%/nă m, việc cho vay có đảm bảo bằng bảo lãnh của Ngân hàng A. Ngày
21/7/2011, Ngân hàng A – Chi nhánh Tây Hà Nội đã phát hành Thưbảo lãnh
thanh toán số 1480 VBS 201100217 (viết tắt là Thưbảo lãnh) có nội dung:
“Ngân hàng A – Chi nhánh
T.H … chấp thuận cung cấp một bảo lãnh thanh toán để hoàn trả tiền vay cộng
với tiền lãi vay cho người thụ hưởng là bà Đinh Thị T… với số tiền là
7.483.000.000 đồng … để bảo lãnh cho Công ty Cổ phần Đầu Tư Phát triển M.N
thực hiện đầy đ ủ nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và tiền lãi vay cho bà Đinh Thị T
theo Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh doanh số 02/07-2011/HĐVT ký
ngày 20/07/2011 giữa Công ty Cổ phần Đầu Tư Phát triển M.N và bà Đinh Thị T
... Trong văn bản của bà Đinh Thị T gửi Ngân hàng chỉ cần nêu số tiền mà Ngân
hàng phải thanh toán thay cho Công ty Cổ phần Đầu tưPhát triển M.N, tài
khoản chuyển tiền mà không cần phải nêu bất cứ lý do nào khác … Bảo lãnh
thanh toán này có hiệu lực từ khi Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển M.N nhận
được đầy đủ tiền vay (Bảy tỷ đồng chẵn) theo quy định tại Hợp đồng cho đến
khi Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N thanh toán đầy đủ tiền vay và tiền lãi vay theo quy định tại hợp đồng cho
bà Đinh Thị T”. Agribank – Chi nhánh T.H cũng có Vă n bản số 217 ngày
21/7/2011 xác nhận việc phát hành Thưbảo lãnh nêu trên là có thực và đúng
thẩm quyền của Giám đốc A. Ngày 26/7/2011, bà T đã chuyển số tiền
7.000.000.000 đồng bằng Ủy nhiệm chi vào tài khoản của Công ty M.N mở tại
Ngân hàng A – Chi nhánh Tây Hà Nội trên cơ sở Thư bảo lãnh do Ngân hàng A
phát hành. Sau đó, Công ty
M.N có Vă n bản số 0207/2011 ngày 26/7/2011 xác nhận đã nhận đủ tiền vay.
Tuy nhiên, do Công ty M.N không thanh toán đúng hạn số tiền vay nêu trên cho
bà T; Ngân hàng A – Chi nhánh Tây Hà Nội cũng không đồng ý thanh toán tiền
vay và tiền lãi theo Thưbảo lãnh nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Ngân
hàng A phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
[2] Ngân hàng A không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T vì cho rằng
Thưbảo lãnh vô hiệu. Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng A xác định ông H1
(nguyên Giám đốc Ngân hàng A - Chi nhánh T.H) không có quyền đại diện cho
Ngân hàng A ký phát hành bảo lãnh vay vốn trong nước theo quy định tại Điều
21 Quyết định 398/QĐ-HĐQT-TD ngày 02/5/2007 về bảo lãnh Ngân hàng trong
hệ thống Ngân hàng A. Tuy nhiên, quy định nêu trên là quy định nội bộ của
Ngân hàng A, có giá trị ràng buộc nghĩa vụ của người đứng đầu Chi nhánh
Ngân hàng
5

350
A (ông H1) phải biết và thực hiện. Việc ký Thư bảo lãnh vượt quá phạm vi ủy
quyền của Giám đốc Ngân hàng A – Chi nhánh T.H là lỗi của Ngân hàng A và
Chi nhánh Ngân hàng A nên không thuộc trường hợp Ngân hàng A được miễn
hoặc chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định tại Điều 28, Điều 29 Quy định
bảo lãnh Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng A (ban hành kèm theo Quyết
định số 398/QĐ-HĐQT-TD ngày 02/5/2007 của Hội đồng quản trị Ngân hàng
A). Mặt khác, khi giao dịch với Ngân hàng A, khách hàng nhưCông ty M.N và
bà T không thể biết và không buộc phải biết các quy định nội bộ nêu trên, họ
cũng không phải là đối tượng điều chỉnh của các quy định đó.
[3] Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định bà T buộc phải biết việc ông H1
(Giám đốc Ngân hàng A – Chi nhánh T.H) ký Thưbảo lãnh có thuộc phạm vi ủy
quyền hay không khi tham gia giao dịch với Ngân hàng A và do bà T không
thực hiện quyền của mình mà vẫn chuyển tiền cho Công ty M.N nên không thể
buộc Ngân hàng A thực hiện nghĩa vụ theo Thưbảo lãnh. Tuy nhiên, theo quy
định của Ngân hàng thì Thưbảo lãnh là cam kết đơn phương bằng vă n bản của
Ngân hàng về việc Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã
cam kết với bên nhận bảo lãnh. Việc kiểm tra, thẩm định hồ sơxem khách hàng
có đủ điều kiện đư ợc bảo lãnh hay không, có hồ sơ bảo đảm cho nghĩa vụ được
bảo lãnh để từ đó chấp nhận hay từ chối bảo lãnh là nghĩa vụ của Chi nhánh
Ngân hàng A khi thực hiện thủ tục bảo lãnh. Bà T là người có quyền thụ hưởng
bảo lãnh của Ngân hàng A; bà T không liên quan đến việc lập hồ sơ, thẩm định,
xét duyệt và ký Thưbảo lãnh của Ngân hàng A là thật hay giả, đúng phạm vi ủy
quyền hay không. Thực tế, để có cơ sở tin tưởng thực hiện hợp đồng vay tiền
phục vụ sản xuất kinh doanh và chuyển tiền vào tài khoản của Công ty M.N mở
tại Ngân hàng A – Chi nhánh
T.H nên khi nhận được Thư bảo lãnh bà T đã kiểm tra bằng cách yêu cầu Ngân
hàng A - Chi nhánh T.H xác nhận Thưbảo lãnh mà Chi nhánh Ngân hàng A đã
phát hành. Vì vậy, nhận định nêu trên của Tòa án cấp giám đốc thẩm là không
có cơ sở, không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.
[4] Ngân hàng A không công nhận giá trị pháp lý của Thư bảo lãnh vì cho
rằng ông H1 vi phạm các quy định của Ngân hàng A trong quá trình phát hành
Th ưbảo lãnh, nhưng đây là trách nhiệm giữa cá nhân ông H với pháp nhân là
Ngân hàng A. Theo quy định về Chi nhánh tại Điều 92 Bộ luật dân sự nă m 2005
thì Ngân hàng A – Chi nhánh T.H là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng A, có
nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức nă ng của pháp nhân là Ngân
hàng A; khi Chi nhánh Ngân hàng A xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì sẽ
phát sinh quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng A. Do đó, trong trường hợp này
Ngân hàng A phải có trách nhiệm thực hiện cam kết bảo lãnh tại Thưbảo lãnh
do Ngân hàng A – Chi nhánh T.H phát hành theo quy định tại Điều 93 Bộ luật
dân sự năm 2005. Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định không thể buộc Ngân
6

351
hàng A thực hiện nghĩa vụ tại

351
Thưbảo lãnh do Ngân hàng A – Chi nhánh T.H phát hành là không phù hợp với
các quy định pháp luật nêu trên và không đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp
của bà T.
[5] Ngân hàng A còn cho rằng Thưbảo lãnh không có trong hồ sơ, sổ sách
theo dõi, không thu phí bảo lãnh, không được hạch toán trên IPCAS (phần mềm
l ưu trữ thông tin) của Ngân hàng A. Tuy nhiên, các vấn đề này thuộc về trách
nhiệm của Ngân hàng A khi quản lý, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy
định về bảo lãnh.
[6] Thưbảo lãnh do ông H ký với tưcách là Giám đốc Ngân hàng A - Chi
nhánh T.H, có đóng dấu của Ngân hàng A – Chi nhánh T.H nên Thưbảo lãnh là
vă n bản do Ngân hàng A phát hành, trong đó ông H1 chỉ ký với tưcách là người
đ ại diện của Ngân hàng A. Do đó, Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định việc
giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà T có liên quan đến trách nhiệm của ông H1
trong việc ký Thưbảo lãnh nên cần thiết đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với
tưcách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không phù hợp
với các quy định của pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 337, Điều 342, Khoản 2 Điều 343, Điều
344 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 05/2022/KN-
KDTM ngày 30/5/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số 04/2020/KDTM-GĐT ngày
17/02/2020 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H.N về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh” giữa nguyên đơn là bà Đinh Thị T với bị đơn là
Ngân hàng A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần Đầu
tư Phát triển M.N.
3. Giữ nguyên Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-
PT ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H.

352
Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình
bày: Ngày 10/9/2010 Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai có ký hợp
đồng tín dụng với Công ty TNHH N với nội dung cơ bản như sau:
- Công ty TNHH N vay số tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng).
- Mục đích vay bổ sung vốn công trình xây dụng.
- Thời hạn vay 08 tháng tính từ ngày giải ngân vay vốn đầu tiên.
- Lãi suất linh hoạt.
- Tài sản thế chấp gồm: quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21,
phường A, thành phố B và công trình xây dựng trên đất do bà Nguyễn Thị T
đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng và quyền sở hữu nhà; quyền sử
dụng thửa đất số 313, tờ bản đồ 42 phường C, thành phố B và công trình xây
dựng trên đất do bà Phạm Thị D đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà để bảo đảm thanh toán cho Ngân
hàng.
Ngoài ra còn một số thỏa thuận khác đã ghi trong hợp đồng.
Ngày 14/9/2010, Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai đã giao Công
ty TNHH N số tiền 02 tỷ đồng, sau đó Công ty TNHH N vi phạm nghĩa vụ thanh
toán, Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai đã nhiều lần yêu cầu Công ty
TNHH N thanh toán nợ, nhưng vẫn không thực hiện.
Trong suốt quá trình thực hiện nghĩa vụ Công ty TNHH N đã thanh toán số
tiền lãi là 77.613.890 đồng. Ngày 14/12/2010 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số
tiền vốn vay thành khoản nợ quá hạn với mức lãi của 150% lãi trong hạn là
13,15%. Nay Ngân hàng TMCP K yêu cầu Công ty TNHH N phải thanh toán số
tiền gốc 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng); tiền lãi gồm lãi suất quá hạn và lãi
phạt tổng tính tới hết ngày 27/09/2016 là 2.890.456.069 đồng; nếu Công ty
TNHH N không có tài sản thanh toán thì yêu cầu các tài sản thế chấp dùng bảo
đảm thanh toán số tiền cho Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai.
Theo bản tự khai và nhữmg lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện
của Công ty TNHH N trình bày:
Hợp đồng tín dụng, thế chấp tài sản đúng như đại diện nguyên đơn nêu, số
tiền vốn và tiền lãi mà Công ty TNHH N còn thiếu Ngân hàng TMCP K - Chi
nhánh Đồng Nai đúng như đại diện Ngân hàng nêu. Nay Công ty TNHH N
không có ý kiến gì, nhất trí thanh toán tiền cho Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh
Đồng Nai.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà có ký hợp đồng dùng quyền sử dụng thửa
đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và công trình xây dựng trên đất,
do bà đứng tên bảo lãnh cho Công ty TNHH N vay tiền là đúng sự thật. Nay bà
không có ý kiến gì.
+ Bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim D1, Nguyễn Thị N1 và Nguyễn Thị
H1 trình bày: quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố
B do bà T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của chung các bà
với bà
T. Thửa đất có nguồn gốc do cha các bà là ông Nguyễn Văn T1 để lại (ông T1
1 353
chết ngày 12/05/1990), nên là tài sản chung của các bà với bà T. Việc bà T dùng
quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B bảo lãnh
cho

1 354
Công ty TNHH N vay tiền khi không có ý kiến của các bà là không đúng. Nay
các bà yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ
bản đồ 21, phường A, thành phố B và quyền sở hữu nhà trên đất này.
+ Ông Nguyễn Ngọc T2 trình bày: quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ
21, phường A, thành phố B này là chung của ông với bà T và các bà Nguyễn Thị
H, Nguyễn Thị Kim D1, Nguyễn Thị N1, Nguyễn Thị H1 vì của cha ông để lại.
Do đó, ông cùng vợ và các con bà T vẫn sống trên nhà, đất này. Năm 2006 ông
và vợ là bà Lê Thị H2 đầu tư tiền sửa nhà trên đất này. Mẹ ông là bà T tự động
đem thế chấp bảo lãnh cho Công ty TNHH N vay tiền là không đúng. Nay ông
không đồng ý với yêu cầu của Ngân hàng TMCP K là dùng quyền sử dụng thửa
đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và quyền sở hữu nhà trên đất
này bảo đảm thanh toán tiền thay cho Công ty TNHH N đối với Ngân hàng
TMCP K.
+ Bà Lê Thị H2 trình bày: Năm 2006 bà và chồng là ông T2 đầu tư tiền sửa
sang lại nhà trên thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B nhưng để
bà T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu. Bà cùng chồng và một số
người con bà T vẫn sinh sống trên nhà, đất này. Bà T đem thế chấp bảo lãnh cho
Công ty TNHH N vay tiền khi không có ý kiến của vợ chồng bà và các người
con của bà T đang sống trên đất là không đúng. Nay bà không đồng ý với yêu
cầu của Ngân hàng TMCP K.
+ Bà Phạm Thị D trình bày: Bà có ký vào giấy thế chấp quyền sử dụng
thửa đất số 313, tờ bản đồ 42, phường C, thành phố B và công trình xây dựng
trên đất do bà đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà vay tiền giùm cho bà Nguyễn Thị Thanh T3 và ông
Nguyễn Phạm Quang M, thực sự bà không nhận tiền của Ngân hàng. Nay bà
cũng nhất trí dùng nhà đất đã thế chấp để thanh toán tiền cho Ngân hàng TMCP
K thay cho Công ty TNHH N. Còn tiền bà đã thanh toán cho Ngân hàng bà sẽ
yêu cầu giải quyết sa:
+ Các anh, chị Nguyễn Phạm Thị Thủy T4; Nguyễn Phạm Thị Thùy T5;
Nguyễn Đắc Thiện T6 và Nguyễn Đắc Thanh T7 vắng mặt trong suốt quá trình
thụ lý giải quyết vụ án, nên không có ý kiến trình bày.
+ Bà Nguyễn Thị Thanh T3 và ông Nguyễn Phạm Quang M vắng mặt trong
suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án nên không có ý kiến trình bày.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2016/KDTM-ST ngày 27/9/2016 của Tòa
án nhân dân huyện Trảng Bom, quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng TMCP K. Buộc Công ty
TNHH N có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng
Nai số tiền vốn 02 tỷ đồng và số tiền đến hết ngày 27/9/2016 là 2.270.757.010
đồng.
Kể từ ngày 28/9/2016, nếu Công ty TNHH N chưa thanh toán số tiền vốn
trên thì phải trả thêm tiền lãi theo mức lãi đã ký kết trên hợp đồng tín dụng số
25/HĐTD/NH-PN/TCB-BHA ký ngày 10/9/2010.
Nếu Công ty TNHH N không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng TMCP
K được quyền yêu cầu phát mãi quyền sử dụng đất thửa 313, tờ bản đồ 42,
phường C, thành phố B và quyền sở hữu nhà trên đất để thanh toán cho Ngân
hàng TMCP K
- Chi nhánh Đồng Nai.
1 355
Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim D1,
Nguyễn Thị N1 và Nguyễn Thị H1. Tuyên bố hợp đồng thế chấp bảo lãnh quyền
sử dụng thửa số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và quyền sở hữu nhà

1 356
trên đất này giữa Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai với bà Nguyễn Thị
T vào ngày 13/9/2010 bị vô hiệu.
Buộc Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai trả lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A,
thành phố B cho bà Nguyễn Thị T.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của đương
sự.
Tại bản án dân sự phúc phẩm số 07/2017/KDTM-PT ngày 07/4/2017 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, quyết định: sửa một phần bản án dân sự sợ
thẩm về án phí, các phần khác giữ nguyên.
Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án.
Ngày 10/10/2017, Ngân hàng TMCP K đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
đối với bản án phúc thẩm trên với lý do yêu cầu xác định hợp đồng thế chấp bảo
lãnh của cụ Nguyễn Thị T là hợp pháp.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 72/2018/KN-KDTM ngày
06/4/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
kháng nghị đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2017/KDTM-
PT ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai theo thủ tục giám đốc
thẩm.
Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám
đốc thẩm hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số
07/2017/KDTM-PT ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và một
phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2016/KDTM-ST ngày
27/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về phần thế
chấp bảo đảm nhà đất tại địa chỉ 12/1, đường E, phường A, thành phố B, tỉnh
Đồng Nai của cụ Nguyễn Thị T đối với Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ
thương
- Chi nhánh Đồng Nai.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số
4701051315 do Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai cấp vào ngày 06/9/2002 thì cụ
Nguyễn Thị T là người đứng tên chủ sở hữu căn nhà số 12/1, đường E tọa lạc
trên thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Ngày
13/9/2010, cụ Nguyễn Thị T thế chấp toàn bộ nhà đất trên để đảm bảo cho
khoản vay 1.646.260.000 đồng của Công ty TNHH N đối với Ngân hàng TMCP
K - Chi nhánh Đồng Nai theo hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 25-
02/HĐTC- BĐS/TCB-BHA ngày 10/9/2010. Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở nêu trên thì cụ Nguyễn Thị T là chủ sở hữu
hợp pháp đối với nhà đất tại địa chỉ 12/1, đường E, phường Quyết Thắng. Vì
vậy, cụ Nguyễn Thị T có quyền ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh theo đúng quy
định pháp luật.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cho rằng nhà đất trên là tài sản chung
của cụ Nguyễn Thị T và các con là các ông, bà Nguyễn Thị Kim D1, Nguyễn
3 355
Ngọc T2, Nguyễn Thị N1, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim D1 nên việc cụ T
một mình tự ý ký kết hợp đồng thế chấp tài sản bảo lãnh là không đúng pháp
luật. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án không thể hiện có bất cứ tài liệu chứng cứ gì chứng
minh đây

3 355
là tài sản chung của cụ T và các con của cụ T. Do đó, nhận định này của Tòa án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm là không có cơ sở pháp lý.
[3] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm còn nhận định rằng vào
ngày 09/9/2010, cụ Nguyễn Thị T đã lập hợp đồng ủy quyền cho ông T2 toàn
quyền sử dụng nhà đất với thời hạn 05 năm, trong khi hợp đồng ủy quyền chưa
chấm dứt thì cụ Nguyễn Thị T đã ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh là không đúng
với Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự. Do cụ Nguyễn Thị T là chủ sở hữu nhà đất nêu trên nên dù cụ
T có ủy quyền cho ông T2 toàn quyền sử dụng thì cũng không làm hạn chế hoặc
làm mất đi quyền về tài sản theo quy định của pháp luật của cụ T. Do đó, nhận
định của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng là không chính xác.
[4] Mặt khác, khi ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh, cụ Nguyễn Thị T đã 84
tuổi (sinh năm 1926). Theo quy định của pháp luật thì cụ T là người già yếu. Vì
vậy, cần xem xét, đánh giá lại việc cụ T ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh có hoàn
toàn tự nguyện hay không; tình trạng sức khỏe, tinh thần của cụ T có đảm bảo để
tự mình xác lập các giao dịch dân sự trên hay không, Tòa án cấp sơ thẩm và
phúc thẩm chưa làm rõ nên chưa có đủ cơ sở để đánh giá tính hợp pháp của hợp
đồng thế chấp bảo lãnh mà cụ T đã ký kết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 343 và Điều 345 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 72/2018/KN-
KDTM ngày
04/6/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2017/KDTM-
PT ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và một phần Bản án kinh
doanh thương mại sơ thẩm số 06/2016/KDTM-ST ngày 27/9/2016 của Tòa án
nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín
dụng và hợp đồng thế chấp tài sản” giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại
cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Chi nhánh Đồng Nai với bị đơn là Công ty trách
nhiệm hữu hạn N - Đ - C cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
khác trong vụ án, về phần xử lý tài sản thế chấp bảo đảm nhà đất tại địa chỉ số
12/1, đường E, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai của cụ Nguyễn Thị T đối
với Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương - Chi nhánh Đồng Nai.
Giao hồ sơ vụ án nêu trên cho Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh
Đồng Nai giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật./.

4 356

You might also like