You are on page 1of 111

3.

Nghệ thuật Phật giáo:

• Nghệ thuật Phật giáo thời kỳ vương triều Bồ-cam chủ yếu là biểu
hiện ở phương diện kiến trúc chùa tháp và tượng Phật. Nhưng
theo suy đoán, vào cuối 13, chỉ riêng ở vương thành Pagan đã xây
dựng khoảng vài ngàn chùa tháp Phật giáo lớn nhỏ. Trong đó, có
những chùa tháp có tính tiêu biểu.
• Ngôi chùa tháp trang nghiêm hùng vĩ nhất là chùa tháp A-nan-da
được xây dựng vào thời vua Kyanzittha (Khang-tất-đạt). Kiến trúc
của đại đa số chùa tháp là phỏng theo hình thức Ấn Độ, trong đó
có sự dung hòa với nghệ thuật Miến Điện, về tượng Phật, người
Miến từ rất sớm đã cho rằng đó là việc để tích đức cầu phúc. Sau
khi xây dựng chùa tháp xong, thì phải tôn tạo tượng Phật để lễ
bái.
• Tượng Phật từ thời vương triều Pagan được lưu giữ tới nay rất
nhiều. Trong đó nổi tiếng nhất là pho tượng mà vua người Môn là
Manuha đã cho tạc. Sau khi Thaton diệt vong ông đã cho xây một
ngôi chùa tháp lớn vào năm 1057 lấy tên là chùa tháp Manuha.
Trong ngôi chùa đó, ông đã cho tôn tạo một pho tượng Phât ngồi
cao 48 thước Anh. Phía sau lưng pho tượng này còn tạc một pho
tượng Phật nằm lớn. Theo tài liệu lich sử, vua Manuha sau khi mất
nước, bị bắt đưa đến Pagan, bèn bán đi số châu báu mang theo mua
lấy năm gánh bạc để làm pho tượng đó.
Buddha image in the Manuha temple
Reclining Buddha Image at Manuha Pagoda
• Ngày nay ở vùng Bồ-cam của Miến Điện, người ta thấy rất nhiều
chùa tháp còn lại thời cổ, nhất là những ngôi chùa nổi tiếng vẫn còn
rất nguyên vẹn. Bằng những chùa tháp đó, chúng ta có thể nhận ra
nền nghệ thuật tinh xảo của vương triều Bồ-cam cổ đại, như điêu
khắc, hội họa, chạm đồng, đắp tượng, khắc đá, đồ mạ vàng v.v...
Những bức bích họa, ngoài việc mô tả cuộc sống của đức Phật còn
miêu tả về sự tích của các nhân vật anh hùng của Miến Điện, và cuộc
sống của người dân đương thời.
Pagan suy thoái vào cuối thế kỷ thứ 13. Kublai Khan, Thế Tổ
Mông Cổ Hốt Tất Liệt, sau khi chiếm Vân Nam, gửi sứ thần
đến Narathihapate (1256-1287), bắt vua xứ Pagan phải triều
cống nhà Nguyên, viện cớ Miến Điện trước kia là chư hầu của
Nam Chiếu. Vua Narathihapate từ chối không triều cống. Hốt
Tất Liệt gửi sứ thần lần thứ hai năm 1273, bị quân đội Miến
giết. Hốt Tất Liệt lấy cớ ấy xua quân tiến chiếm Pagan năm
1287.
MỘT SỐ NGÔI CHÙA CỔ NỔI TIẾNG TẠI BAGAN

Chùa Thatbyinnyu, do vua Alaungsithu (1113- 1163), xây dựng vào thế kỷ XII. Chùa với kiến trúc
nguy nga, tháp cao 66 mét, cao nhất ở Bagan. Chùa có bốn cổng. Bước vào cổng phía Tây, nhìn lên
trần có những bức tranh hòa rất đẹp.
Chùa Dhamma Yanyi là ngôi chùa đồ sộ nhất ở Bagan, do vua Narathu (1107 - 1170) xây
dựng với kiến trúc bằng gạch.
Chùa Htilomimlo là một
trong những ngôi chùa lớn nhất
và cổ kính ở Bagan, xây dựng
năm 1211, dưới thời vua
Nadaungmya trị vì. Chùa được
xây dựng bằng gạch đỏ và cao
chừng khoảng 46 mét, chung
quanh chùa có nhiều tháp nhỏ.
Chùa là địà điểm hấp dẫn nhất
để ngắm hoàng hôn. Vì vậy, du'
khách đến Bagan, ít có người bỏ
qua cơ hội đến Htilomimlo để
ngắm hoàng hôn và chụp những
bức ảnh nghệ thuật tuyệt diệu.
Chính phủ Myanmar đã quy hoạch Bagan thành hai khu, cũ và mới. Khu
Bagan cũ hoàn toàn không có dân cư, dành cho khách tham quan du lịch
và nghiên cách khu Bagan mới khoảng 2 miles về phía Nam. Bagan mới
được chính phủ quy hoạch vào năm 1990.
Trong khu di tích Bagan cũ có Viện bảo tàng dựng trên khu đất rộng.
Tầng trệt có một hội trường rộng đủ mọi tiện nghi để có thể tổ chức một
cuộc hội thảo mang tầm cỡ quốc tế. Ở đây có phòng được dùng để chiếu
hình ảnh cổ vật, các di tích lịch sử được lưu giữ kể từ thời Bagan, những
di vật bằng đất nung, những tác phẩm được khắc bằng gỗ, bằng đá, bằng
kim loại và những trang phục thời cổ.
The distant view of Bagan Museum and Gadawtpalin Pagoda
Tầng một, trưng bày những nguyên bản kinh điển và những bản sao chép bằng
mực từ thời Bagan và những bức tranh họa các ngôi chùa cổ ở Bagan.
Tầng hai, trưng bày các tác phẩm với chủ đề về Phật giáo gồm những tượng và
bức tranh về đức Phật được các nghệ nhân điêu khắc và hội họa qua nhiều hình
thức sáng tác khác nhau.
Tầng ba, nơi để cho ta có thể đứng và ngắm nhìn toàn cảnh của Bagan, sông
Ayeyarwady, và núi rừng vùng Bagan.
Trong khu di tích Bagan này, Chính phủ Myanmar có xây một cái tháp cao 12
tầng để dành cho du khách lên ngắm cảnh và có cả dịch vụ nhà hàng ăn uống,
khu Resort. Phí vào cổng là 5usd /người.
Ở phố cổ
Bagan có một dịch
vụ hoạt động rất
đặc biệt dành cho
du khách khi đến
thăm xứ sở này là
đi khinh khí cầu để
ngắm toàn cảnh
của Bagan. Dịch
vụ này rất đắt tiền
(260usd/l
tiếng/người).
4. Sự ảnh hưởng của nghệ thuật điêu khắc đông bắc Ấn Độ
với nghệ thuật điêu khắc Bagan TK.XII – XIII.
 
Giới thiệu tóm tắt về
phong cách của điêu
khắc ở Đông Bắc Ấn
Độ. Sự tương đồng
của tượng và phong
cách ở các bức phù
điêu bằng vàng mã.
Điểm giống và khác
nhau giữa điêu khắc
đá và đồng ở Pala và
Bagan.
 
Thời kỳ
Gupta cuối
thế kỷ 6 -
đầu thế kỷ 7
Ấn Độ (có
thể là Bihar)
Đồ đồng.

viện bảo
tàng Anh
Đông Bắc Gupta / Licchavi thời Hẹp eo. Vòng eo và đùi thon gọn; Phần dưới của áo choàng xòe ra
kỳ thứ 7 thế kỷ thứ 8 sau Công ngoài với một dải gấp đôi treo trên mắt cá chân
nguyên
Phong cách Pala đặc trưng
Hình dáng cứng cáp, cách
điệu. Ngực rộng với nhiều
nếp y và thân và các chi
thon gọn. Khuôn mặt chữ
điền, môi mím và mũi rõ
ràng. Mắt bắt đầu hướng
lên ở rìa. Nhúng vào giữa
mí mắt. Mũi nhọn như mỏ
vẹt

Bảo tàng Pala thế kỷ 11


Vầng hào quang ngọn lửa đặc trưng của
tác phẩm điêu khắc Pala
Đức Phật ngồi trong tư thế thiền định, có Đức
Avalokiteshvara và Di Lặc đứng cạnh; Thời kỳ
Pala cuối thế kỷ 10-11; Ấn Độ, Bihar, tu viện
Nalanda Đá phiến đen - Bảo tàng Anh, London
Thời kỳ Pala thế
kỷ 10, Bihar, có
thể từ đá phiến
Nalanda Black với
dấu vết mạ vàng,
hiện lưu giữ tại
viện bảo tàng Anh

R. Pala Buddha -
Tìm thấy tại bảo
tàng quốc gia New
Delhi. Được phát
hiện ở Nalanda -
minh họa Tiểu sử
của Đức Phật
Pala thời kỳ Thế kỷ 9 – 10 CA Ấn Độ, Bihar, có thể
là Bodhgaya hoặc Nalanda; Đất nung. Kích thước:
Bagan, đất nung cuối thế kỷ 11-12 Dòng chữ
H. 6 1/2 in. (16,5 cm); W. 4 1/2 inch (11,4 cm); D. 2
inch (5,1 cm). Bảo tàng Mỹ thuật, Boston. dọc theo
mép dưới
chứa cái gọi
Đá Phyrophilite là “Tín
ở Miến Điện, ngưỡng
chạm khắc rất Phật giáo”
nổi. bằng tiếng
Pali, theo
Phyrophilite là
văn tự Môn-
một loại đá biến Myanmar và
chất, tương tự theo sau là
như đá phiến có sự lặp lại tên
kết cấu rất mịn của người
cho phép chạm hiến tặng và
khắc chính xác. mong muốn
được giải
thoát của
Đá sẫm màu chạm khắc được cho là của cả Ấn Độ và anh ta.
Miến Điện. Các mỏ đá này được tìm thấy ở quận
Purulia của Tây Bengal. Được phát hiện ở Bagan - Một dòng chữ bằng tiếng Myanmar trên mặt ngược của
hai; Arakan. Một số được tìm thấy ở Sri Lanka, Thái gạch nói rằng hình ảnh được thực hiện bởi con rể của
Lan một số ở Nalanda. Một số nhập khẩu từ Bihar. Vua Kyanzittha (1084-1112) để mong được giải cứu.
Tượng Phật
Tìm thấy ở Bồ Đề thế kỷ 12 -
Đạo Tràng. 13 - Bảo tàng
Đại diện cho 8 sự Bagan được
kiện trọng đại trong tìm thấy ở
cuộc đời của Đức Bagan
Phật. Một số hình Khuôn mặt
cho thấy cơ thể với vầng trán
ngắn hơn và cánh rộng cúi
tay béo hơn. Cổ xuống dẫn
ngắn nhưng mặt đến chiếc cổ
vuông hơn tượng ngắn là một
Bagan, mũi bớt đặc điểm của
nhọn hơn? các bức
tượng tại
Miến Điện
Tác phẩm điêu khắc đá của Pala và Bagan thế kỷ 12-13

Đức Phật chiến thắng


Mara thành đạo, được tìm
thấy tại bang Bihar, tượng
bằng đá Basalt .
Bảo tàng Anh

Đức Phật ngồi trong tư


thế bàn tay xuất địa ấn.
Thời kỳ Bagan, thế kỷ 11.
Đá sa thạch.
- Bảo tàng khảo cổ học
Bagan
Khỉ và voi làm
Thái tử Tất Đạt lễ cúng dường
Đa cắt tóc xuất mật ong cho
gia. Đức Phật.Thời
Thời kỳ Bagan,. kỳ Bagan, năm
Thế kỷ 11-12 1198.
CA Đá sa thạch đa
Đá sa thạch sắc.
Bảo tàng khảo Bảo tàng khảo
cổ học Bagan cổ học Bagan
Tượng Phật Bagan thế kỷ
Nhìn chung Bagan đã 12-13
nung nấu những lý
tưởng thẩm mỹ của Ấn
Độ. Tóc của Đức Phật
được mô tả thành
những lọn nhỏ hình nón
và khuôn mặt từ hình
bầu dục đến hình tam
giác với cằm hơi nhọn.
Đôi mắt to và hướng
lên trên giống như chim
phượng hoàng, sống
mũi cao và hơi trầm,
môi mím lại, môi dưới
hơi dày hơn môi trên.
Điêu khắc đồng
Đồng Pala
Thế kỷ 8-12 CA- Bảo tàng Ấn Độ - Kolkata
Hầu hết các đồ vật bằng kim loại của Pala
đều bằng đồng. Hợp kim cụ thể khác nhau
giữa các xưởng nhưng nhìn chung nó có
hàm lượng đồng cao đặc trưng.
Có rất nhiều hình ảnh kim loại còn sót lại có
niên đại từ thời Pala. Các vùng Bihar và
Bengal phải là những trung tâm sản xuất
hình ảnh kim loại quan trọng. Một phần là do
các mỏ quặng phong phú trên khắp
Magadha.
Hình ảnh kim loại có thể dễ dàng vận
chuyển và do đó có thể đã đóng một vai trò
quan trọng trong việc phổ biến phong cách
Ấn Độ đến Đông Nam Á
Đức Phật. Đồ đồng với hợp kim đồng, Bagan -
thế kỷ 12-13, Bảo tàng Anh

Đức Phật đang ngồi trong tư thế xuất địa ấn, cử


chỉ ngay trước khi giác ngộ

Trán rộng, khuôn mặt thon gọn (nhục kế trên đỉnh


đầu) có đính đá quý.
Một trong những món đồ đồng Miến Điện hay
nhất được biết đến trong thời kỳ Bagan, tác phẩm
này phản ánh ảnh hưởng mạnh mẽ của miền
đông Ấn Độ và đặc biệt là sự thích nghi của dòng
chảy theo phong cách ở vùng Bodh Gayā.
Một dấu hiệu đặc trưng của đồ đồng Bagan là
hàm lượng niken cao tạo ra lớp hoàn thiện giống
như bạc. Một số đồng từ Vân Nam, Trung Quốc
có chung điều này nhưng không được tìm thấy ở
miền đông Ấn Độ. Không có dấu vết của các
xưởng được biết đến ở Bagan nhưng thực tế là
phần lớn đồ đồng được tìm thấy ở đó cho thấy
một trung tâm đúc đồng.
9th century Licchavi
Nepal

Miến Điện - Bagan. Đồng với hợp


kim đồng, Thế kỷ 12-13 viện bảo
tàng Anh
Thời kỳ Bagan
cuối thế kỷ 11,
Đồ đồng Miến
Điện được
khảm bằng
bạc và đồng.
Tượng Phật đứng TK 11-12 Bagan:
Bảo tàng nghệ thuật Châu Á San
Francisco

Tượng Phật thế kỷ 11-12 - bằng


đồng Bảo tàng quốc gia: Yangon

Năm 1937 Hình ảnh này được tìm


thấy trong căn phòng của một ngôi
đền sau khi một bức tường gạch bị
sập.

Các bản khắc trên đá ở Bagan cũng


ghi lại rằng các đồ vật bằng kim loại
được đan xen trong các bảo tháp và
thậm chí được bọc trong các tượng
phật lớn làm bằng gạch bên trong
các ngôi đền.

Phần đáy gợn sóng kép của áo


choàng là điểm đặc biệt của các vị
Phật Bagan, bao gồm cả những
chiếc áo choàng nguyên bản lớn
còn tồn tại trong chùa Ananda .
Sri Lankan Date
13thAC
Nagapattinam
hợp kim đồng

Nhục kế hình ngọn


lửa ‘uṣṇīṣa’ là đặc
trưng, ​từ áo choàng ở
cổ tay và mắt cá chân
được rạch đơn giản.

Viện bảo tàng Anh

Miến Điện, phong cách Bagan, thế kỷ


12, bảo tàng Cleveland.
Chân tóchình trái tim
Lông mày như cánh chim bay lượn

Mắt như chim uống nước


vành mũi nổi lên

Tai chạm vai


Miệng kín, đầy đặn

Các tính năng cổ điển của Phật ở Bagan


So sánh Pala -
Bagan Sự khác biệt
trong
cơ thể của hình ảnh
Bagan:
1. Áo choàng ôm sát
cơ thể đơn giản hơn
2. Phiến lưng trơn
3. Cơ thể tròn hơn 4.
Điểm tương đồng
- ngôi sen kép

Pala 11th

Buddha Seated In Bhumisparshamudra


sandstone, Bagan 11th Century
Tranh Fresco
Trong thời kỳ Pala-Sena của NE Ấn Độ, ngoài một số bức tranh
tường bị hư hỏng nặng được phát hiện gần đây được tìm thấy ở
Nalanda, tất cả những gì còn lại của truyền thống hội họa Pala-
Sena là một số mảnh bản thảo lá cọ. Bản thảo lá cọ trong đó bản
thảo phổ biến nhất để minh họa là Astasahasrika Prajnaparamita.

Các bức tranh tường của Miến Điện trang trí các ngôi đền chủ
yếu được xây dựng với mục đích lưu giữ một hình tượng và thờ
cúng cá nhân. Các câu chuyện tiền thân của Đức Phật mà
người Miến Điện đã tạo ra một môi trường quy tụ thần thánh mà
các cá nhân tín ngưỡng.
India - Ajanta 5th century Bodhisattva Padmapani Bodhisattva, Myinkaba Kubyaukgyi. 1113
Hình minh họa - Pala thế kỷ 11 - Ngồi trên sư tử gợi ý
dvarapala / bodhisattva
hình tượng đức Văn Thù.
Myinkaba Kubyaukgyi, 1113
KIẾN TRÚC CỐ ĐÔ BAGAN
CẦN LƯU Ý
1. Về mặt kiến trúc
- Cấu trúc đặc, kín.
- Cấu trúc rỗng, mở.
- Các kiểu chùa:
+Một mặt và một lối vào
+Bốn mặt và bốn lối vào
2. Vật liệu và kỹ thuật xây dựng
3. Điêu khắc – Phù điêu - Tranh vẽ
4. Một số chùa tiêu biểu kiến trúc Bagan là di sản thế giới.
KIẾN TRÚC CỐ ĐÔ BAGAN

Bagan thời bấy giờ là một thành phố thịnh vượng, không chỉ lớn về quy mô
diện tích, mà còn là một trung tâm quốc tế về nghiên cứu tôn giáo và thế tục,
ví như ngữ pháp tiếng Pali, triết học tâm lý, và pháp lý. Thành phố thu hút
được các nhà sư, sinh viên từ tận Ấn Độ, Sri Lanka và Đế quốc Khmer (Khmer
Empire) đến học tập, nghiên cứu.
Trong gần 250 năm, những người cai trị Bagan và những người giàu có đã
xây dựng hơn 10.000 di tích tôn giáo (khoảng 1000 bảo tháp, 6.000 ngôi chùa
và 3000 tu viện) trong một khu vực rộng 104 km2 ở vùng đồng bằng Bagan.
Trong số đó, 2217 chùa, tu viện vẫn còn tồn tại đến ngày nay, thể hiện thành
tựu vượt trội của thợ thủ công Myanmar.
Về quy hoạch, đô thị cổ Bagan không giống như các thị quốc Pyu với hệ thống
tường thành bao ngoài vương quốc, mà chỉ có tường thành bao quanh cung
điện hoàng gia với khoảng 2000 tòa nhà và một vài công trình tôn giáo. Theo
thời gian, đoạn tường phía Tây của cố đô đã bị dòng sông cuốn trôi.
Về kiến trúc, các di tích còn tồn tại bao gồm chùa, thiền viện, hội trường
và thư viện.
Chùa Bagan có hai dạng chính: Chùa có cấu trúc đặc, kín và chùa có
cấu trúc rỗng, mở. Chùa có cấu trúc đặc nổi bật là bảo tháp (stupa) có cấu
trúc đặc, kín và là một cấu trúc đồ sộ, điển hình có một phòng (chaitya)
chôn xá lợi (hạt nhỏ có dạng viên tròn hình thành sau khi thi thể được hỏa
táng hoặc thân cốt sau khi chết của các vị cao tăng Phật giáo) bên trong.
Các chùa tháp hay bảo tháp Bagan được phát triển từ các chùa tại Thị
quốc Pyu trước đó và bắt nguồn từ kiến trúc miền Đông Nam Ấn Độ, ban
đầu có mái hình bán cầu, sau dần trở thành hình chuông hay hình lọng.
Các bảo tháp Bagan trở thành nguyên mẫu cho thiết kế đền, chùa
Myanmar sau này về cả biểu tượng, hình thức thiết kế, kỹ thuật xây dựng
và thậm chí cả vật liệu.
Chùa có cấu trúc rỗng (gu-style hollow temple) hay nội thất mở, được sử
dụng để thiền định, thờ cúng và các nghi lễ Phật giáo khác.
Các ngôi chùa
thường có hai kiểu:
1) Một mặt trước với
một lối vào chính,
thường vào từ hướng
Đông với một tiền
sảnh nhỏ. Kết nối các
không gian thông qua
hệ thống hành lang.
Chính điện hay điện
thờ là nơi đặt linh vật
tựa vào bức tường
phía Tây. Nội thất
được chiếu sáng bởi
cửa sổ tại bức tường
phía Bắc và Nam;
Tượng Phật tại tháp cổng của Chùa tháp Shwezigan,Di sản Bagan
2) Bốn mặt với bốn lối vào. Chùa có điện thờ là một khối trung tâm hình vuông
với 4 mặt đặt 4 linh vật, thể hiện 4 sự kiện vĩ đại trong cuộc đời Đức Phật (đản
sinh, thành đạo, thuyết pháp, nhập niết bàn). Với 4 khối tiền sảnh nhô ra, tạo
cho mặt bằng của các ngôi chùa này có hình chữ thập. Một số chùa có khối điện
thờ trung tâm hình ngũ giác, bổ sung vị Phật thứ 5 – Phật Tương lai. Chùa này
có 5 tiền sảnh. Phong cách này được cho là một sáng tạo kiến trúc độc đáo của
Bagan.

Sự phân biệt chùa tháp và chùa không phải lúc nào cũng rõ ràng. Có công trình
là sự kết hợp cả sự đặc, kín của bảo tháp và rỗng, mở của điện thờ. Ví dụ như,
chùa có điện thờ tại tầng dưới, bảo tháp tại tầng trên.  
Thiền viện (Vihara) là nơi chuyên tu tập của tăng, ni, có thể là một
phòng, một tòa nhà trong những ngôi chùa lớn hay cả một quần thể rộng
lớn. Nhà giảng, thư viện là các công trình cũng được tìm thấy trong số
các di tích tại Bagan. Công trình kiến trúc tại Pagan rất khác nhau về quy
mô, từ ngôi chùa nhỏ đến các ngôi chùa khổng lồ. Để tạo quy mô cho
công trình, nhiều tòa nhà được xây dựng trên bệ dật cấp tạo thành các
bậc thềm. Các bậc thềm đặt trên mặt đất và đặt cả trên mái nhà, là bệ
đỡ cho tầng hai hoặc bảo tháp. Xung quanh công trình chính được hỗ
trợ bởi các cấu trúc nhỏ hơn đặt xung quanh. Hầu hết các ngôi chùa lớn
cao 2 tầng. Chỉ có một vài ngôi chùa được xây dựng với chiều cao 3
hoặc 4 tầng.
Phối cảnh mô hình Thiền viện Upali Thein, Di sản Bagan
Phối cảnh Thiền viện Upali Thein,
Nội thất Thiền viện Upali Thein, Di sản Bagan
Về vật liệu và kỹ thuật xây
dựng, các cấu trúc tại Bagan
đều được xây dựng bằng
gạch trát vữa, chỉ có số ít tòa
nhà được xây dựng bằng đá
hoặc ốp đá. Đặc biệt, có một
số ngôi chùa được phủ vàng
bên ngoài. Các viên gạch xây
chùa có kích thước trung
bình 36 x 18 x 6 cm. Gạch
được sản xuất tại khu vực
xung quanh và đưa đến đây
bằng thuyền. Vữa xây dựng
được làm từ đất sét. Người
ta còn cho rằng vữa có thể
làm bằng chất kết dính hữu
cơ. Thời kỳ này đã sử dụng
các kỹ thuật xây dựng hầm
và vòm với các viên đá
hình nêm (voussoirs).
Về bản thảo và sách, tại đây còn lưu giữ trong các thiền viện bản thảo, sách về tôn
giáo được viết bằng tiếng Pali hoặc tiếng Phạn, trên lá cây, vải, giấy, sơn mài và
vàng lá.
Về điêu khắc, tại đây
lưu giữ nhiều bức
tượng bằng gỗ, đá và
kim loại mô tả Đức
Phật với nhiều tư thế
như đứng, đi, nằm
gắn liền với các sự
kiện chính trong cuộc
đời Đức Phật. Hình
ảnh Đức Phật chủ
yếu được miêu tả
mang tính biểu
tượng, không thể
hiện chi tiết chính
xác. Ngoài ra, tại đây
cũng xuất hiện các
điêu khắc hình tượng
hoa sen.
Về phù điêu, tại
đây lưu giữ rất
nhiều các bức phù
điêu bằng gốm,
gạch tráng men.
Trong đó điển hình
là các bức phù điêu
có in hình ảnh về
sự tích Đức
Phật (Jataka). Các
tấm phù điêu này
được tạo ra bằng
các khuôn đúc
bằng đồng hoặc đất
sét.
Về tranh vẽ, nội thất các ngôi chùa tại Bagan có rất nhiều tranh vẽ trên
tường, trần nhà. Các tranh được thực hiện bằng cách: Đầu tiên phủ lên bề
mặt một lớp vữa bùn mịn, làm khô. Sau đó sử dụng màu bằng các chất
màu tự nhiên vẽ lên trên. Các họa tiết lặp lại được vẽ theo khuôn giấy nến.
Nội dung của các bức tranh đa dạng, phần lớn miêu tả sự tích của Đức
Phật với hình tượng như cây bồ đề, Đức Phật với các kiếp tu hành, biểu
tượng Phật giáo. Bên dưới các ô tranh là chữ tóm tắt nội dung các cảnh.
Ngoài các tranh vẽ trên tường, tại đây còn lưu giữ được các bức tranh vẽ
trên vải với phong cách hội họa như các bức tranh vẽ trên tường.
Các di tích tôn giáo tại đây là minh chứng cho đỉnh cao của nền văn minh
Bagan (thế kỷ 11- 13), khi Bagan là kinh đô của vương quốc Pagan (Pagan
Kingdom). Các quần thể kiến trúc tôn giáo hoành tráng tại Bagan phản ánh
sức mạnh tôn giáo của một đế chế Phật giáo Nguyên thủy. Trong thời kỳ
này, Phật giáo trở thành một thế lực kiểm soát chính trị với nhà vua là
người đại diện.
Một bức bích họa bên trong Thiền viện Upali Thein
Bức tranh tường miêu tả sự tích Đức Phật (Jātaka), bên trong Chùa Gubyaukgyi, Di sản Bagan
Trang trí bên trong Chùa Sulamani, Di sản Bagan
Nền văn minh
Bagan đã giành
quyền kiểm
soát giao thông
đường sông,
mở rộng ảnh
hưởng trên một
khu vực rộng
lớn. Các truyền
thống làm công
đức trong xã
hội đã dẫn đến
gia tăng việc
xây dựng chùa,
đền thờ, đặc
biệt vào đầu
thế kỷ 13.

Sông Irrawaddy được chụp từ một chuyến bay thương mại đến Bangkok từ Châu Âu. Dòng sông chảy chậm và
vươn rộng ra cảnh quan xung quanh
Đế chế Pagan sụp đổ năm 1287 do các cuộc xâm lược của người
Mông Cổ. Bagan không còn là thủ đô vào năm 1297 khi vương quốc
Myinsaing (Myinsaing Kingdom) trở thành cường quốc mới ở
Thượng Myanmar (Upper Burma). Bagan dần thu hẹp lại thành một
đô thị nhỏ. Mặc dù vậy, Bagan tiếp tục vai trò là một trung tâm tôn
giáo quan trọng của quốc gia Myanmar.
Nhiều di tích tại Bagan bị hư hại trong trận động đất năm 1975 và
sau đó được sửa chữa lại. 
Chùa Shwesandaw, Di sản Bagan, Myanmar
Mặt bằng Chùa tháp Shwesandaw, Di sản Bagan
Bagan, Myanmar được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 2019) với tiêu
chí:
Tiêu chí (1): Bagan là một bằng chứng đặc biệt và liên tục về một truyền thống văn
hóa Phật giáo, đạt đến đỉnh cao của nền văn minh Bagan trong thế kỷ 11, 13 khi là
thủ đô của một đế chế khu vực (vương quốc Pagan).

Tiêu chí (2): Bagan là một ví dụ nổi bật, chứa một tập hợp phi thường về kiến ​​trúc
tượng đài Phật giáo, minh họa sức mạnh tôn sùng tôn giáo của một trong những đế
chế Phật giáo lớn đầu tiên tại châu Á.

Tiêu chí (3): Bagan là một ví dụ đặc sắc về tín ngưỡng và truyền thống Phật giáo
sống động, thể hiện thông qua số lượng đáng kể các bảo tháp, chùa và thiền viện
còn sót lại, được tiếp tục hỗ trợ bởi các hoạt động và truyền thống tôn giáo. Mặc dù
bằng chứng về thực hành công đức là phổ biến ở nhiều địa điểm Phật giáo, nhưng
những thành quả với quy mô và sự đa dạng làm cho Bagan trở nên đặc biệt. 
 
Sơ đồ các Khu vực tại Di sản Bagan, Mandalay, Myanmar
Sơ đồ vị trí di tích tiêu biểu tại vùng 1 thuộc Di sản Bagan, Mandalay, Myanmar 
Một số công trình tiêu biểu   
Di sản Bagan, Mandalay, Myanmar có rất nhiều công trình, dưới đây giới thiệu
một số công trình tiêu biểu tại Khu vực 1. 
1. Chùa tháp Shwezigan

Phối cảnh tổng thể quần thể Chùa tháp Shwezigan,Di sản Bagan, Mandalay, Myanmar
2. Chùa Ananda

Hình vẽ mặt đứng Chùa tháp Ananda, Di sản Bagan


Phối cảnh tổng thể Chùa tháp Ananda, Di sản Bagan
Bên trong 4 điện thờ là 4 tượng Phật khổng lồ đứng tại bốn mặt,
mỗi tượng cao 9,5 mét với bệ cao 2,4m. Các vị Phật được trang
trí bằng vàng lá, đại diện cho chư Phật quá khứ và hiện tại. Mỗi vị
được đặt tên cụ thể: Kakusandha (Phật Câu Lưu Tôn) hướng về
phía Bắc; Konagamana (Phật Câu Na Hàm Mâu Ni) hướng về
phía Đông; Kassapa (Phật Ca Diếp) hướng về phía Nam;
Gautama (Thích Ca Mâu Ni). Tương tự như chùa
tháp Shwezigan, 4 vị Phật trong chùa được gọi là Phật thời hiện
tại, mang ý nghĩa về sự toàn năng trong không gian và thời gian
của Đức Phật.
Tượng 4 vị Phật bên trong chính điện Chùa tháp Ananda, Di sản Bagan
Chùa được xây dựng
bằng gạch, được ốp
bằng gạch đất nung
tráng men.
Bên ngoài và bên
trong chùa có hàng
trăm bức phù điêu
được chạm khắc từ
đá núi lửa (sa thạch),
gạch đất nung tráng
men miêu tả cuộc
sống của Đức Phật
(Jataka), hoa sen...
Các bức tường bao
bên ngoài chùa có
chiều cao 12m, được
trang trí bằng các
bức tường lan can
kiên cố. 
Bên trong chùa
Ananda còn có
một thiền viện
mang tên Ananda
Oakkyaung
(Ananda
Oakkyaung
Monastery),  được
xây dựng vào năm
1113, là nơi sinh
sống của các nhà
sư trong chùa.
Công trình được
xây dựng bằng
gạch đỏ.

Thiền viện Ananda Oakkyaung bên trong quần thể Chùa Ananda, Di sản Bagan  
Nhân dịp kỷ
niệm 900 năm
xây dựng được
tổ chức vào
năm 1990, các
ngọn tháp của
ngôi chùa đã
được mạ
vàng. Đây là
một ngôi chùa
rất được tôn
kính tại Bagan. 
THAM KHẢO CÁC NGUỒN : 
https://whc.unesco.org/en/list/1588/ 
https://en.wikipedia.org/wiki/Myanmar
https://en.wikipedia.org/wiki/Sino-Tibetan_languages
https://en.wikipedia.org/wiki/Mon_people
https://en.wikipedia.org/wiki/Bagan
http://bagan.travelmyanmar.net
https://en.wikipedia.org/wiki/Shwezigon_Pagoda
https://en.wikipedia.org/wiki/Htilominlo_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Upali_Ordination_Hall
https://en.wikipedia.org/wiki/Ananda_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Manuha_Temple

https://en.wikipedia.org/wiki/Shwesandaw_Pagoda_(Bagan)
….
1. Vai trò của chế độ quận chủ đối với Phật giáo Pagan 
2. Kiến trúc các tự viện Phật giáo Pagan
3. Văn hóa Phật giáo Pagan
4. So sánh nghệ thuật điêu khắc Pagan và Pala

You might also like