Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 2 - Cốm pha hỗn dịch Loratadin
Nhóm 2 - Cốm pha hỗn dịch Loratadin
KHOA Y
Cho phép em gửi đến thầy ThS. DS. Nguyễn Văn Hà sự biết ơn chân thành và sâu sắc
nhất. Dưới sự giúp đỡ của thầy đã cho em có điều kiện được làm quen với báo cáo chuyên
đề. Bởi đây là cơ hội giúp em tích lũy thêm nhiều vốn kiến thức và kinh nghiệm cho bài
khóa luận tốt nghiệp sắp tới.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm thông tin em đã gặp không ít những khó khăn và áp
lực khi có những thông tin còn hạn chế. Nhưng nhờ có sự góp ý, hướng dẫn của thầy, bài
báo cáo của em đã được hoàn chỉnh hơn. Song, phần báo cáo của em khó tránh khỏi sai
sót và hạn chế, kính mong nhận được thêm sự góp ý, chỉ dạy từ thầy để em khắc phục và
hoàn thiện bài báo cáo tốt hơn trong những lần sắp tới.
Cuối cùng, em kính chúc thầy luôn dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp trồng
người.
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một nước nhiệt đới, do đó các bệnh như dị ứng, mày đay, là khá phổ biến.
Loratadin, một thuốc thuộc nhóm kháng histamin thế hệ thứ hai có tác dụng kéo dài (hơn
24 giờ), không gây buồn ngủ và có tác dụng phụ thấp trên thần kinh trung ương đã được
sử dụng rộng rãi trong điều trị các bệnh dị ứng trên. Phần lớn chế phẩm Loratadin hiện có
là thuốc dạng viên nén và viên nang, không thuận lợi cho việc nuốt, làm cho bệnh nhân
tuân thủ điều trị kém. Hiện nay, trên thị trường có dạng bào chế thuốc bột, tuy nhiên
thuốc bột có nhược điểm dễ bay bụi, độ trơn chảy thấp, dễ hút ẩm. Ngoài ra, dạng bào chế
hỗn dịch cũng đã có trên thị trường nhưng dạng này khó phân liều chính xác, chi phí lớn,
không ổn định, khó vận chuyển và bảo quản. Do đó, cốm pha hỗn dịch là dạng bào chế có
thể khắc phục những nhược điểm của các dạng bào chế khác giúp bảo quản dược chất lâu
dài hơn vì được tồn trữ, phân phối ở dạng rắn.
Vấn đề đặt ra là Loratadin có độ tan thấp làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu thuốc, do
đó cần tăng độ tan của Loratadin để tăng sinh khả dụng. Trên thế giới cũng như trong
nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về các dạng dạng bào chế thuốc Loratadin. Tuy
nhiên, chưa thấy các nghiên cứu về dạng cốm pha hỗn dịch. Nhằm đa dạng hóa các sản
phẩm cũng như tăng thêm sự lựa chọn trong điều trị cho các chuyên gia y tế và bệnh
nhân, việc nghiên cứu chủ đề cốm pha hỗn dịch Loratadin có tính khả thi và ý nghĩa thực
tiễn. Bài nghiên cứu cốm pha hỗn dịch Loratadin 5 mg gồm các mục tiêu:
1. Mục tiêu chính
Xây dựng công thức và quy trình bào chế cốm pha hỗn dịch Loratadin có tính tan tốt.
2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu xây dựng công thức tối ưu cốm pha hỗn dịch Loratadin.
Nghiên cứu xây dựng quy trình bào chế cốm pha hỗn dịch Loratadin.
Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật cho cốm pha hỗn dịch Loratadin.
2
Cl
O O
được tăng khi chế phẩm được bảo quản trong tủ lạnh làm sự rót thuốc ra khỏi chai sẽ khó
khăn và bệnh nhân khó nuốt hơn.
1.2.2.2. Thành phần của cốm pha hỗn dịch [22]
Dược chất: Hầu như các dược chất trong chế phẩm thường là các kháng sinh và đối tượng
sử dụng là trẻ em.
Các tá dược: Khi chọn tá dược cần có 2 yêu cầu quan trọng:
Phải có tính chất của thuốc cốm là khô, tơi, đồng nhất và có độ chảy tốt để dễ phân liều
khi đóng gói
Dễ dàng phân tán thành hỗn dịch khi lắc (không dùng lực phân tán mạnh)
Bảng 1.1. Các tá dược sử dụng trong điều chế cốm pha hỗn dịch
Các tá dược thường sử dụng Các tá dược ít sử dụng
Chất gây treo Tá dược chống đóng bánh
Chất gây thấm Tá dược tạo sự kết bông
Chất làm ngọt Chất phá bọt
Mùi thơm Tá dược dính
Chất màu Tá dược rã
Các chất điều chỉnh pH Tá dược trơn
Chất bảo quản Tá dược độn
Chất chống oxy hóa
Theo Patent CN105030691A đã nghiên cứu và đưa ra tỷ lệ tối ưu các thành phần
Loratadin, PEG 4000, HPC trong tạo cốm Loratadin là 1:5:20. Sáng chế đã tạo cốm bằng
cách sử dụng phương pháp đun nóng chảy hỗn hợp Loratadin và PEG 4000 kết hợp với
dung dịch tá dược dính HPC. Cốm này giúp tăng độ hòa tan của Loratadin [12].
Bằng phương pháp sủi bọt, Dandan Yang và các cộng sự đã điều chế thành công hỗn dịch
nano Loratadin sử dụng Soluplus làm chất ổn định để cải thiện sinh khả dụng của
Loratadin trong in vivo. Kích thước hạt trung bình là khoảng 100 nm. Ưu điểm của công
nghệ này là đơn giản, tiêu tốn năng lượng thấp [11].
1.4. Các khó khăn và các điểm mấu chốt khi xây dựng và bào chế công thức
Độ tan của Loratadin.
Giai đoạn tạo hạt cốm: kiểm soát kích thước hạt cốm, tốc độ chảy, độ ẩm và tính dính.
Giai đoạn tạo hỗn dịch: kiểm soát kích thước tiểu phân Loratadin để đảm bảo một số đặc
điểm:
- Kích thước của các tiểu phân rắn càng nhỏ thì tốc độ lắng càng chậm [8].
- Các tiểu phân phải có kích thước đồng đều để tránh các hạt to tách ra nhanh làm kéo
theo các hạt nhỏ tách ra. Tuy nhiên, nếu chia hạt quá mịn trong trường hợp khi đã lắng
xuống đáy chai các hạt có khuynh hướng kết hợp lại với nhau thành bánh, khi lắc lên khối
bánh sẽ vỡ ra và tạo thành những khối lớn hơn các tiểu phân ban đầu [8].
- Trong hỗn dịch lý tưởng, các chất dạng hạt hoặc thuốc không hòa tan lơ lửng đồng nhất
theo ba chiều trong toàn bộ nền tá dược và vẫn giữ nguyên sau một thời gian dài. Tuy
nhiên, điều này trên thực tế là không thể thực hiện được [8].
7
Hình 2.1. Sơ đồ quy trình bào chế cốm pha hỗn dịch Loratadin
Mô tả quy trình:
Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu
Cân hoạt chất và tá dược.
Nghiền riêng các thành phần tá dược (trừ Loratadin, HPC và PEG 4000) trong cối sứ.
Rây Lactose monohydrat, HPC và Crospovidon qua rây 0,5mm và Aerosil qua rây
0,25mm
Pha dịch tá dược dính: hòa tan HPC vào lượng ethanol vừa đủ
Chuẩn bị PEG 4000 và Loratadin:
11
- Phân tán Loratadin vào PEG 4000 đun chảy trên bếp cách thủy ở nhiệt độ 70 oC, vừa đun
vừa khuấy cho đến khi tan hoàn toàn thu được dung dịch trong suốt.
- Làm lạnh nhanh hỗn hợp trên bằng nước đá. Đồng thời, khuấy liên tục cho tới khi thu
được hỗn hợp đông đặc.
- Để sản phẩm ổn định trong bình hút ẩm trong 24 giờ. Sau đó, nghiền nhỏ và rây sản
phẩm qua rây có kích thướt 0,35 mm thu được (1).
Bước 2: Trộn khô
Trộn đều (1) với Lactose monohydrat, Crospovidon, Aspartam, Natri benzoat và orange
flavor trong cối sứ.
Lưu ý: Kiểm soát sự đồng nhất của quá trình trộn khô.
Bước 3: Trộn ướt
Làm ẩm khối bột khô bằng dịch tá dược dính.
Lưu ý: Kiểm soát thời gian trộn ướt vì ethanol dễ bay hơi nên làm khô khối bột.
Bước 4: Tạo hạt
Xát hạt qua rây 1 mm
Lưu ý:
- Kiểm soát thời gian xát hạt qua rây do ethanol dễ bay hơi nên làm khô khối bột, ảnh
hưởng đến chất lượng cốm.
- Giữ nguyên tình trạng cốm sau khi tạo hạt, không được dịch chuyển
Bước 5: Sấy
Sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 45oC trong 24 giờ
Lưu ý: Kiểm soát hàm ẩm không quá 5%
Bước 6: Sửa hạt qua rây 0.63 mm
Bước 7: Trộn hoàn tất
Trộn đều cốm với tá dược màu và Aerosil
Bước 8: Đóng gói, dán nhãn
Lưu ý dòng chữ: “Để pha hỗn dịch uống”
12
2.2.2.2. Các thông số trọng yếu cần kiểm soát của quy trình
Bảng 2.5. Các thông số trọng yếu cần kiểm soát của quy trình
Giai đoạn Thông số cần kiểm soát
Nung chảy PEG 4000 và Loratadin Nhiệt độ: 70oC
- Thời gian trộn
Trộn khô
- Sự đồng nhất của khối bột
- Thời gian trộn
Trộn ướt
- Sự đồng nhất của khối bột
Tạo hạt Thời gian tạo hạt
- Nhiệt độ sấy: 45oC
Sấy - Thời gian sấy: 24 giờ
- Kiểm soát hàm ẩm ≤ 5%
- Thời gian trộn
Trộn hoàn tất
- Sự đồng nhất của cốm
Tiến hành: Vận hành máy, cho môi trường hòa tan vào cốc và đợi nhiệt độ môi trường đạt
37ºC ± 0,5ºC. Cho mẫu thử vào cốc. Sau các khoảng thời gian 5, 10, 15, 30, 60 phút hút
mẫu đem định lượng. Mỗi lần hút 10 ml dung dịch thử sau đó bổ sung ngay 10 ml dung
14
dịch đệm phosphat pH 6,8 vào cốc thử độ hòa tan; dung dịch thử vừa hút ra được lọc qua
màng cellulose acetat 0,45 µm rồi đem định lượng bằng phương pháp đo quang.
Kết luận: Công thức 3 với tỉ lệ giữa Loratadin và PEG 4000 là 1 : 5 cho thấy độ hòa tan
của Loratadin tăng đáng kể so với Loratadin nguyên liệu và ở công thức 4 và 5 thì độ hòa
tan của Loratadin cũng tăng không đáng kể so với công thức 3.
3.1.2.2. Khảo sát tá dược độn và dính [12]
Theo tính toán, tổng khối lượng của tá dược độn và dính so với 1000 mg chế phẩm là
khoảng 80%
Bảng 3.2. Khảo sát tá dược độn và dính HPC trên hệ phân tán rắn Loratadin và PEG
4000 (1:5) (Theo % khối lượng)
Công thức 1 Công thức 2 Công thức 3 Công thức 4 Công thức 5
Lactose 75 72 71 70 69
HPC 5 8 9 10 11
Kết luận: Công thức 4 tạo cốm đều, sợi cốm ngắn, tơi, xốp, ít vỡ vụn hơn so với các công
thức còn lại.
3.1.2.3. Khảo sát tá dược trơn chảy Aerosil
Chỉ tiêu: xác định độ chảy của hạt cốm dựa vào góc nghỉ α. Góc nghỉ α càng nhỏ thì hạt
càng có lưu tính tốt và chảy càng tốt, lưc ma sát nhỏ. Và tốc độ chảy phụ thuộc vào tính
chất hoạt chất, tá dược, độ ẩm của cốm,...
α = 20 – 25o: độ trơn chảy rất tốt
α = 25 – 30o: độ trơn chảy tốt
Bảng 3.3. Khảo sát % khối lượng tá dược trơn chảy Aerosil trong 1000 mg chế phẩm
Công thức 1 Công thức 2 Công thức 3
Aerosil 0,5% 0,75% 1%
Góc chảy α 29,3 27,1 24,4
Kết luận: Công thức 3 hỗn hợp cốm có độ trơn chảy tốt.
3.1.3. Công thức hoàn chỉnh
Bảng 3.4. Công thức cốm pha hỗn dịch Loratadin hoàn chỉnh
Thành phần Hàm lượng 1 gói (mg) Hàm lượng 100 gói (g)
Loratadin 5,0 0,5
15
Nếu mẫu thử bị chảy ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ sấy quy định thì trước khi đưa lên nhiệt
độ đó, cần duy trì từ 1 giờ đến 2 giờ ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ nóng chảy của mẫu thử
từ 5°C đến 10°C.
3.3.1.3. Độ đồng đều hàm lượng [18]
Phép thử độ đồng đều hàm lượng được tiến hành trên 10 đơn vị riêng lẻ lấy ngẫu nhiên.
Chế phẩm đạt yêu cầu phép thử, nếu có không quá một đơn vị có hàm lượng nằm ngoài
giới hạn từ 85% đến 115% và không có đơn vị nào có hàm lượng nằm ngoài giới hạn từ
75% đến 125% của hàm lượng trung bình. Chế phẩm không đạt yêu cầu phép thử, nếu có
quá ba đơn vị có hàm lượng nằm ngoài giới hạn từ 85% đến 115%, hoặc có một hay nhiều
đơn vị có hàm lượng nằm ngoài giới hạn từ 75% đến 125% của hàm lượng trung bình.
Nếu hai hoặc ba đơn vị có hàm lượng nằm ngoài giới hạn từ 85% đến 115%, nhưng ở
trong giới hạn từ 75% đến 125% của hàm lượng trung bình, thử lại trên 20 đơn vị khác
lấy ngẫu nhiên. Chế phẩm đạt yêu cầu phép thử, nếu có không quá ba trong tổng số 30
đơn vị đem thử có hàm lượng nằm ngoài giới hạn từ 85% đến 115% và không có đơn vị
nào có hàm lượng nằm ngoài giới hạn từ 75% đến 125% của hàm lượng trung bình.
Hàm lượng Loratadin C22H23ClN2O2 từ 85% đến 115% so với lượng ghi trên nhãn
3.3.1.4. Định tính [15]
Phương pháp sắc ký lớp mỏng
- Bản móng: Silica gel GF254
- Dung môi khai triển: Ether - diethylamin (40:1).
- Dung dịch thử: Lắc kỹ một lượng bột cốm đã nghiền mịn tương ứng với khoảng 20mg
Loratadin với 5ml hỗn hợp cloroform - methanol (1:1) trong 30 phút và ly tâm.
- Dung dịch đối chiếu: Hòa tan 20mg Loratadin chuẩn trong 5ml hỗn hợp cloroform
-methanol (1 : 1).
Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 5µl mỗi dung dịch trên và để khô vết.
Triển khai sắc ký đến khi dung môi di chuyển được khoảng 3/4 chiều dài bản mỏng
(khoảng 15cm). Sau khi triển khai sắc ký, để bản mỏng khô ngoài không khí và quan sát
bản mỏng dưới tia UV ở bước sóng 254nm. Vết chính trên sắc ký đồ của dung dịch thử
phải tương ứng về vị trí, màu sắc và kích thước với vết chính trên sắc ký đồ của dung dịch
đối chiếu.
Trong mục Định lượng: pic chính trên sắc ký đổ của dung dịch thử phải có thời gian lưu
tương ứng với thời gian lưu của pic chính trên sắc ký đồ của dung dịch chuẩn.
19
- Căn cứ vào diện tích pic Loratadin thu được từ dung dịch thử, dung dịch chuẩn và hàm
lượng C22H23ClN2O2 của Loratadin chuẩn, tính hàm lượng C 22H23ClN2O2 có trong một
đơn vị chế phẩm.
Hàm lương C22H23ClN2O2 trong chế phẩm từ 90% đến 110%.
3.3.1.6. Tạp chất liên quan [15]
Phương pháp sắc ký lỏng
- Dung dịch dikali hydrophosphat 0,01 M, dung dịch dikali hydrophosphat 0.6 M, pha
động, dung môi pha loãng.
- Điều kiện sắc ký: Chuẩn bị như mục định lượng, với thể tích tiêm là 50 µl.
- Dung dịch chuẩn gốc: Sử dụng dung dịch chuẩn trong mục định lượng.
- Dung dịch đối chiếu: Pha loãng dung dịch chuẩn gốc bằng dung môi pha loãng để thu
được dung dịch có nồng độ chính xác khoảng 0,8 µg trong 1 ml. Lọc qua màng lọc
0,45µm.
- Dung dịch thử: Sử dụng dung dịch thử trong mục định lượng.
Cách tiến hành:
- Kiểm tra tính phù hợp của hệ thống sắc ký.
- Tiến hành sắc ký với dung dịch đối chiếu và ghi lại sắc ký đồ. Phép thử chỉ có giá trị khi
độ lệch chuẩn tương đối của diện tích pic Loratadin không quá 4,0%.
- Tiến hành sắc ký đối với dung dịch thử và ghi lại sắc ký đồ: Trên sắc ký đồ thu được,
thời gian lưu tương đối khoảng 0,79 đối với 4-(8-cloro-11-fluoro-6,11-dihydro-5H
benzo[5,6]cyclohepta[1,2-b]pyridin-11-yl)-1-piperidin- carboxylat ethyl và 1,0 đối với
Loratadin.
- Tiến hành sắc ký lần lượt đối với dung dịch đối chiếu và dung dịch thử. Căn cứ vào diện
tích các pic tạp thu được từ dung dịch thử, diện tích pic Loratadin thu được từ dung dịch
đối chiếu và hàm lượng của Loratadin chuẩn, tính hàm lượng các tạp chất, so với lượng
Loratadin ghi trên nhẫn.
Giới hạn:
- 4-(8-cloro-11-fluoro-6,11-dihydro-5H benzo[5,6]cyclohepta[ 1,2-b]pyridin-11-yl)-1-
piperidin-carboxylat ethyl: ≤ 0,2 %
- Từng tạp chất khác: ≤ 0,1 %
21
Bảng 3.7. Yêu cầu thử thôi nhiễm với bao bì, dụng cụ từ nhựa PET
Chỉ tiêu kiểm tra Điều kiện ngâm thôi Dung dịch ngâm thôi Giới hạn tối ta
Antimony 0,05 µg/ml
60oC trong 30 phút Acid acetic 4%
Germani 0,1 µg/ml
25oC trong 1 giờ Heptan 30 µg/ml
Ethanol 20%
Cặn khô
60oC trong 30 phút Nước 30 µg/ml
Acid acetic 4%
22
4.1. Vai trò của hệ phân tán rắn trong quá trình phân tán hoạt chất
4.1.1. Độ hòa tan của Loratadin
Tính tan là thách thức lớn nhất đổi với các hoạt chất mới trên thị trường, 60% những sản
phẩm mới tiềm năng đối mặt với vấn đề này, 40% hoạt chất (API) là những chất kém tan
trong nước, chính điều này hạn chế sự đa dạng về dạng bào chế, ứng dụng lâm sàng, khả
năng tiếp cận thị trường và đạt được hiệu quả tối đa của thuốc.
Loratadin rất kỵ nước, nên khi hòa tan, các tiểu phân dược chất nổi lên trên bề mặt môi
trường hòa tan và có xu hướng kết tụ lại với nhau. Do đó, diện tích tiếp xúc của Loratadin
với môi trường hòa tan rất nhỏ. Vì vậy, để cải thiện độ hòa tan của Loratadin, cần tăng
thêm tính thấm của các tiểu phân Loratadin với môi trường hòa tan [21].
Hình 4.1. Độ hòa tan của Loratadin được đo trong các môi trường pH khác nhau trong
phạm vi toàn bộ đường tiêu hóa (GI)
Độ hòa tan thấp nhất (khoảng 0,004-0,006 mg/ml) là thu được trong môi trường pH cao
nhất (7,5 và 6,5) được thử nghiệm. Độ hòa tan cao nhất thu được khoảng 4,59 mg/ml thu
23
được ở pH 1,2. Độ hòa tan thay đổi đáng kể trong khoảng pH được chấp nhận của dạ dày
(trạng thái đói/ăn) và pH thay đổi theo cá thể hoặc một số bệnh hiện mắc, với sự sụt giảm
đáng kể độ tan của Loratadin khi độ pH được tăng từ 1,2 lên 2 (1,32 mg/ml), thậm chí còn
giảm hơn nữa khi tăng độ pH lên 2,5 (0,60 mg/ml) [7].
Hơn nữa, tốc độ hòa tan rất chậm ở tá tràng (pH = 6,5) nếu Loratadin chưa hòa tan kịp ở
dạ dày và quá trình làm trống dạ dày đưa thuốc xuống tá tràng thì tốc độ hấp thu sẽ chậm
hơn đáng kể so với những người có sự hòa tan hoàn toàn trong dạ dày vì ở pH 6,5 (môi
trường tá tràng), tốc độ giải phóng cực kỳ chậm với sự hòa tan hoàn toàn sau khoảng 12
giờ. Do đó, tốc độ làm rỗng dạ dày ảnh hưởng đối với thuốc Loratadin là đáng kể [7].
Cho nên, dạng hệ phân tán rắn, sẽ có tác dụng tăng độ hòa tan của Loratadin trong khoảng
pH thay đổi của dạ dày và thậm chí cao hơn ở tá tràng, từ đó tăng sinh khả dụng của thuốc
[7].
4.1.2. Vai trò của hệ phân tán rắn
Có nhiều kĩ thuật khác nhau để cải thiện độ tan của hoạt chất kém tan trong nước như
giảm kích thước tiểu phân, hỗn dịch nano, chất hoạt động bề mặt, tạo muối, sử dụng dạng
vô định đình, sử dụng hệ phân tán rắn,... Hệ phân tán rắn được xem là xu hướng hiện đại
và triển vọng để cải thiện độ tan và sinh khả dụng đường uống của những hoạt chất kém
tan trong nước. Các hệ phân tán rắn có thể cải thiện sinh khả dụng của các thuốc tan trong
nước kém với các đặc tính hóa lý vì chúng cho phép tăng nồng độ trong đường tiêu hóa
bằng cách tăng độ hòa tan [10].
Việc sử dụng hệ phân tán rắn làm hệ thống phân phối thuốc có lợi thế là cho phép hình
thành dạng phân tán phân tử giữa hoạt chất kém tan trong nước và chất mang ưa nước,
thường cải thiện tính tan và tình trạng quá bão hòa của thuốc khi hệ thống tiếp xúc với
nước. Hệ phân tán rắn làm tăng sinh khả dụng của dược chất ít tan bằng cách làm tăng độ
hòa tan và tốc độ hòa tan theo một số cơ chế như làm giảm kích thướt tiểu phân dược
chất, dược chất được phân tán ở mức độ cực mịn, thậm chí ở mức độ phân tử nếu hệ có
cấu trúc dung dịch rắn. Ngoài ra, sự tương tác giữa dược chất và chất mang sẽ ngăn chặn
sự kết tụ của các tiểu phân mịn do chất mang bao quanh các tiểu phân dược chất, tạo ra
diện tích bề mặt hòa tan lớn hơn sau khi chất mang được hòa tan. Dược chất được chuyển
từ dạng tinh thể sang vô định hình trong hệ phân tán rắn, độ tan của dược chất ở trạng thái
vô định hình tăng lên đáng kể do không cần năng lượng để phá vỡ mạng tinh thể trong
quá trình hòa tan [2]. Quy trình sản xuất cốm trong bài sử dụng phương pháp đun chảy để
tạo hệ phân tán rắn. Phương pháp đun chảy là một phương pháp đơn giản, dễ thực hiện,
24
không phụ thuộc máy móc thiết bị nhiều nên đem lại lợi ích cao về mặt kinh tế. PEG 4000
được sử dụng phổ biến làm chất mang trong hệ phân tán rắn, có nhiều ưu điểm như bền
về mặt hóa lí, không độc, nhiệt độ nóng chảy thấp lại tan tốt trong nước và nhiều dung
môi hữu cơ nên thuận lợi khi bào chế hệ phân tán rắn bằng phương pháp đun chảy [23].
4.2. Kết luận
Qua thời gian nghiên cứu và thực hiện chủ đề “Xây dựng công thức, quy trình bào chế và
tiêu chuẩn kỹ thuật cốm pha hỗn dịch Loratadin 5 mg” nhóm đã hoàn thành mục tiêu và
nội dung đề ra như sau:
- Đã xây dựng thành công công thức tối ưu cốm pha hỗn dịch Loratadin 5 mg qua các giai
đoạn nghiên cứu: khảo sát thành công tỷ lệ tối ưu giữa khối lượng của hoạt chất Loratadin
và các tá dược (PEG 4000 và HPC), tỷ lệ tá dược trơn bóng Aerosil ảnh hưởng tới tốc độ
chảy của khối cốm và lựa chọn được loại tá dược độn.
- Đã xây dựng được quy trình bào chế cốm pha hỗn dịch với những nghiên cứu cải thiện
độ tan của hoạt chất bằng giảm kích thước tiểu phân hoạt chất và quá trình đun nóng chảy
tạo hệ phân tán rắn.
- Xây dựng được tiêu chuẩn kỹ thuật cho cốm pha hỗn dịch.
4.3. Đề nghị
Do thời gian nghiên cứu có hạn và không có điều kiện thực nghiệm trực tiếp nên chủ đề
chỉ có thể thực hiên dựa vào tài liệu tham khảo và kinh nghiệm thực tiễn của nhóm trong
quá trình học tập lý thuyết cũng như thực hành. Để nội dung nghiên cứu được hoàn chỉnh
hơn, nhóm đề nghị:
- Nghiên cứu thực tế trên quy mô phòng thí nghiệm để đánh giá và xây dựng công thức,
quy trình bào chế và các thông số kỹ thuật phù hợp hơn. Từ đó mở rộng nghiên cứu sản
xuất trên quy mô Pilot.
- Nghiên cứu độ ổn định của sản phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO