Professional Documents
Culture Documents
Thế hệ Z hiện đang là đối tượng mục tiêu của rất nhiều thương hiệu. Vì thế, nhu cầu
muốn hiểu sâu sắc về tâm lý, sở thích của thế hệ Z để tiếp cận, thu hút họ đúng cách của
các thương hiệu ngày càng cao. Đối với các ngành dịch vụ nói chung, cũng như dịch vụ
xem phim chiếu rạp nói riêng, đây là đối tượng các thương hiệu thường xuyên lắng nghe,
chú ý đến những gì họ nói cũng như hành động của họ. Việc thực hiện các nghiên cứu,
cũng như áp dụng sự đồng cảm vào phương pháp kinh doanh và Marketing cho các chiến
lược tiếp cận thế hệ Z chắc chắn sẽ mang lại kết quả cao. Khi thế hệ Z đang dần trở thành
nhóm tiêu dùng lớn nhất qua thời gian, việc thấu hiểu nhóm này không chỉ dừng ở việc
biết được họ làm gì hay làm như thế nào, doanh nghiệp cần phải hiểu được vì sao họ làm
như vậy. Từ đó có thể tạo ra và truyền tải được sự cân bằng giữa sản phẩm và trải nghiệm
cho khách hàng.
Xu hướng mới của ngành giải khát Việt Nam hiện nay đó chính là trà sữa. Nghiên cứu về
thị trường này cho thấy người sử dụng và nhận biết ngành hàng này là rất cao theo đó là
tần suất sử dụng vô cùng lớn. Nhóm chúng em muốn biết được việc thực hiện nghiên cứu
về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua trà sữa thương hiệu Việt “Phúc Long” của
khách hàng có gì khác không so với việc lựa chọn những thương hiệu nước ngoài? Nó sẽ
ảnh hưởng như thế nào đến hành vi cũng như quyết định mua của khách hàng? Từ đó, có
thể đưa ra các chiến lược kinh doanh cũng như marketing hiệu quả cho những nhà kinh
doanh đang có ý định hoặc đã đầu tư vào lĩnh vực này. Và hơn hết, các nghiên cứu về đề
tài này ở Việt Nam vẫn còn khá ít dữ liệu cùng với những dữ liệu chưa được cập nhật.
Chính vì lẽ đó mà nhóm chúng em quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định chọn trà sữa Phúc Long của người tiêu dùng Gen Z tại thành phố
Hồ Chí Minh”.
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trên đến hành vi sử dụng túi đựng hàng
thay thế túi ni lông của người dân TP.HCM.
Từ kết quả nghiên cứu, dựa vào số liệu đã phân tích đề xuất một số giải pháp
Marketing đến các nhà quản lý nhằm thu hút khách hàng cho Phúc Long.
1.1.2 Câu hỏi nghiên cứu
Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hành vi sử dụng các loại túi đựng hàng thay thế túi ni
lông của người dân TP.HCM?
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hành vi sử dụng túi đựng hàng thay thế túi ni lông
của người dân TP.HCM như thế nào?
1.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng khảo sát: người tiêu dùng là thế hệ Z sử dụng sản phẩm trà sữa Phúc Long tại
TP.HCM
Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trà sữa Phúc Long của
người tiêu dùng Gen Z tại thành phố Hồ Chí Minh
Lĩnh vực nghiên cứu: trong giới hạn, đề tài chỉ tập trung vào việc nghiên cứu quyết định
chọn trà sữa Phúc Long của Gen Z tại TP. HCM.
Nghiên cứu định tính: Được thực hiện nhằm khám phá, khẳng định và điều chỉnh những
các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trà sữa Phúc Long của người tiêu dùng Gen Z
tại thành phố Hồ Chí Minh Z. Phương pháp này được thực hiện thông qua kỹ thuật thảo
luận nhóm giữa người nghiên cứu và một nhóm các bạn sinh viên ở thành phố Hồ Chí
Minh. Bảng câu hỏi được sử dụng nhằm xây dựng và điều chỉnh các thang đo, các khái
niệm cho phù hợp.
Nghiên cứu định lượng: Phương pháp này được sử dụng nhằm đánh giá độ tin cậy, giá trị
thang đo, kiểm định các giả thuyết của mô hình; dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua
bảng câu hỏi được gửi trực tiếp đến các bạn sinh viên đang học tập tại thành phố Hồ Chí
Minh. Dữ liệu sau khi thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.
Khái quát về lí do chọn đề tài, mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
để thực hiện đề tài.
Trong chương này nhóm nghiên cứu tổng hợp và khái quát về các lý thuyết cơ bản để làm
căn cứ và cơ sở khoa học cho nền tảng cho nghiên cứu. Đồng thời, nhóm đưa ra các mô
hình nghiên cứu của các tác giả đi trước và đề xuất mô hình nghiên cứu của nhóm.
Nội dung chương này là các vấn đề liên quan đến phương pháp nghiên cứu mà nhóm sử
dụng nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Các nội dung bao gồm quy trình
nghiên cứu, xây dựng và kiểm định thang đo, phân tích mẫu nghiên cứu.
Sau khi nhóm đã thu thập dữ liệu sẽ tiến hành phân tích về các yếu tố tác đô ̣ng đến quyết
định chọn trà sữa Phúc Long của người tiêu dùng thế hệ Z tại TP.HCM. Nhóm tác giả tập
trung phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố và mức độ ảnh hưởng, đồng thời tìm ra sự
khác biệt giữa các nhóm yếu tố.
Chương này gồm những đánh giá và kết luận chung cho cả đề tài. Nô ̣i dung bao gồm
tổng kết lại các kết quả nghiên cứu, các đóng góp của nghiên cứu vào lý thuyết, thực tiễn
và dự báo, đưa ra các nhận xét đánh giá.
Theo số liệu của Nielsen Việt Nam, năm 2017, nhóm thực phẩm ngẫu hứng và thức uống
- hai trong số nhóm sản phẩm chịu tác động từ sự tham gia mua hàng của thế hệ Z, có
tổng thị phần trị giá 6,6 tỷ USD. Không chỉ quyết định việc sử dụng hai nhóm hàng trên,
thế hệ Z còn quyết định cả các hoạt động giải trí bên ngoài, ăn tối và các sản phẩm công
nghệ như điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính xách tay, đồng hồ thông minh.
Vì lớn lên trong thời đại công nghệ thông tin, những thứ không thể thiếu trong cuộc sống
của những người trẻ này được cho là điện thoại di động (45%) và internet (21%). Khi các
phương tiện truyền thông xã hội trở thành một phần thiết yếu trong cuộc sống thì họ sử
dụng các công cụ này cho các mục đích khác nhau như kết nối với bạn bè và gia đình
(93%), cập nhật những gì đang xảy ra xung quanh (73%).
Đáng chú ý hơn, họ còn sử dụng các kênh truyền thông xã hội để bày tỏ ý kiến, niềm tin
của mình (55%) và tường thuật các hoạt động hằng ngày (42%). Tuy nhiên, các hoạt động
giải trí bao gồm đi uống trà sữa hoặc gặp bạn bè tại các quán cà phê, đi xem phim, đi siêu
thị, tụ tập tại cửa hàng tiện lợi hoặc ghé thăm nhà bạn bè cũng là những hoạt động tiêu
biểu họ yêu thích.
Những điều này cho thấy thế hệ Z tương tác nhiều, tiếp cận nhiều với các thông tin và
tương tác với các thương hiệu ở rất nhiều kênh. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là mặc dù tiếp
cận nhiều với các thương hiệu, sản phẩm nhưng thế hệ Z ít trung thành với một thương
hiệu nào và thích có những trải nghiệm mới. Họ sẵn sàng thử các thương hiệu mới nếu
cảm thấy những thương hiệu đó thú vị mặc dù đã yêu thích và thường xuyên sử dụng một
số thương hiệu. Các số liệu nghiên cứu của Nielsen Việt Nam cho thấy chỉ có khoảng
16% số người thuộc thế hệ Z cẩn thận lựa chọn thương hiệu trước khi mua và không
thích thay đổi. Theo các chuyên gia, điều này cũng tốt vì các thương hiệu có thể thu hút
sự chú ý của người tiêu dùng thế hệ Z đối với các sản phẩm mới ra mắt.
Phản ứng của thế hệ Z đối với các thương hiệu mà họ yêu thích:
- 81% sẽ chuyển đổi từ thương hiệu yêu thích sang sản phẩm tương tự với chất
lượng cao hơn.
- 79% cho biết họ thích một sản phẩm chất lượng, không nhất thiết phải là một sản
phẩm có thương hiệu.
- 72% sẽ chuyển đổi nếu họ tìm thấy một sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn.
Khoảng 51% số người được hỏi là nữ, và phần lớn (53%) trong độ tuổi 18-19.
Kết quả cuộc khảo sát của công ty nghiên cứu thị trường Kantar Millward Brown Nghiên
cứu về thế hệ Z năm 2017, cho thấy 58% số người tiêu dùng thuộc thế hệ Z tỏ ra tích cực
với các mẩu quảng cáo có nội dung hài hước, 51% dành ưu tiên cho những câu chuyện
hấp dẫn, 50% cho những khúc nhạc hay, và chỉ 22% chú ý đến những người nổi tiếng.
Việc thu hút sự chú ý của thế hệ Z là một sự thách thức. Thời gian chú ý của họ cho mỗi
một nội dung (hoặc hình ảnh) không kéo dài hơn 8 giây. Không giống như thế hệ Thiên
Niên Kỷ, họ thích hình ảnh hoặc biểu tượng (emoji) hơn là văn bản. Vì thế, nội dung
được thể hiện bằng hình ảnh và được chia nhỏ là cách tiếp cận phù hợp để thu hút sự chú
ý của họ.
Hơn nữa, Thế hệ Z có xu hướng chi tiêu tiết kiệm hơn. Kết quả khảo sát cho thấy chỉ
49% những người thuộc thế hệ Z mua hàng trực tuyến ít nhất mỗi tháng một lần so với
74% của lớp người trước đó. Những người thuộc thế hệ Z nhận định về điểm mạnh của
hình thức bán hàng trực tuyến: 63% cho rằng vì tiết kiệm thời gian, 53% cho rằng việc
chọn hàng ở đó tốt hơn, 50% cho rằng vì hàng bán trực tuyến rẻ hơn, 30% cho rằng việc
sắp xếp sản phẩm trên mạng dễ tìm hơn. Kết quả điều tra của Ernst & Young cho thấy
58% những người thuộc thế hệ Z đến cửa hàng vì muốn được trực tiếp nhìn và cảm nhận
món hàng, 50% nói rằng họ đến đó mua để khỏi tốn phí chuyên chở, 43% cho rằng họ
đến đó để mua nhanh hơn thay vì phải chờ nhiều giờ giao hàng trực tuyến.
Gen Z thường thích tìm kiếm và quan tâm đến các nội dung như: sản phẩm độc đáo mới
ra mắt (87%), giảm giá (62%), xu hướng mới đang được mọi người ưa chuộng (50%),…
v.v. Có tới tám trên mười người nói rằng ý kiến của những người khác trên mạng xã hội
thật sự đã có ảnh hưởng tới quyết định mua sắm của họ, thậm chí họ có thể mua những
sản phẩm họ chưa từng mua trước đó, và 83% số người cho rằng họ tin tưởng vào các
thông tin sản phẩm được chia sẻ bởi những người bán hàng hơn là quảng cáo chính hãng.
Thứ nhất, với tư cách là người sử dụng sản phẩm, người tiêu dùng quan tâm tới các đặc
trưng của sản phẩm và cách sử dụng hàng hóa tối ưu.
Thứ hai, với tư cách là người trả tiền để mua sản phẩm, người tiêu dùng quan tâm tới giá
cả của các loại hàng hóa và giới hạn ngân sách dành cho các loại hàng hóa khác nhau.
Những mục quảng cáo liên quan tới giảm giá hay khuyến mãi thường có sức hấp dẫn đối
với người tiêu dùng nhạy cảm với giá cả.
Thứ ba, với tư cách là người mua hàng, họ quan tâm nhiều đến phương thức mua hàng.
Đó là việc quyết định xem nên đặt mua hàng qua mạng Internet hay đến trực tiếp các
showroom
4.1.4.1Quá trình quyết định mua của người tiêu dùng
Hoạt động marketing cần chú ý đến toàn bộ quá trình mua sắm của khách hàng chứ
không phải chỉ riêng khâu quyết định mua của họ.
Sự hiểu biết về nhu cầu của khách hàng và quá trình mua hàng của họ là cơ sở đảm bảo
cho các hoạt động marketing đạt được thành công. Qua việc phân tích quá trình tâm lý
của khách hàng từ lúc ý thức nhu cầu, khảo sát thông tin, đánh giá phương án lựa chọn
đến khi đi đến quyết định mua sắm và được biết đến mặt hàng nhà tiếp thị có thể thu
lượm được nhiều thông tin để xác định chương trình marketing hữu hiệu đáp ứng nhu cầu
khách hàng đối với thị trường mục tiêu của doanh nghiệp
Quá trình quyết định mua là một chuỗi các giai đoạn mà người tiêu dùng trải qua trong
việc quyết định mua sản phẩm hoặc dịch vụ. Quá trình đó gồm 5 giai đoạn:
Tìm Đánh
Nhận Quyếết Đánh
kiếếm giá các
biếết định giá sau
thông phương
nhu cầầu mua khi mua
tin án
Hình 2.2: Quá trình quyết định mua hàng của khách hàng
Nguồn: Philip Kotler, 2001
4.2 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÀ SỮA VÀ THƯƠNG HIỆU PHÚC
LONG
4.2.1 Giới thiệu về Phúc Long Coffee Tea & House
Phúc Long ra đời từ năm 1957 tại Bảo Lộc, Lâm Đồng với mong muốn mang đến cho
khách hàng các sản phẩm chất lượng được chế biến từ chè và cà phê. Năm 2007, Phúc
Long sở hữu đồi chè tại Thái Nguyên. Bởi chính bản thân tôi nhận thấy Trà Thái Nguyên
cạnh tranh được về hương vị, hình thức và chất nước đặc trưng nhưng cũng giống như
các loại trà ở các địa phương khác, Phúc Long với kinh nghiệm truyền thống cha truyền
con nối từ sản xuất đến kinh doanh, nhanh chóng phát triển thành một thương hiệu nổi
tiếng bây giờ.
Giữa thập niên 70, nhà máy sản xuất đầu tiên được xây dựng và đưa vào hoạt động tại
TP.HCM. Các sản phẩm của Phúc Long đã được khách hàng đón nhận và có mặt hầu hết
tại các chợ và siêu thị lớn nhỏ. Hiện nay, Phúc Long đã đầu tư xây dựng them nhiều nhà
máy với trang thiết bị đạt tiêu chuẩn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước cũng như
xuất khẩu.
Ngày nay, Phúc Long dần mở rộng tệp sản phẩm cũng như chất lượng phục vụ, giúp cho
thương hiệu nắm vững lượng khách hàng chung thành.
Thông tin công ty:
Trụ sở chính: Công ty TNHH SX TM Phúc Long - ĐKKD: 0302 108 546
do sở KHĐT TPHCM cấp lần đầu ngày 12/9/2000
Nhà máy: D_8D_CN Đường XE 1, Khu Công Nghiệp Mỹ Phước III, phường Mỹ Phước,
thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Việt Nam
Địa chỉ: 42/24 - 42/26 Đường 643 Tạ Quang Bửu, phường 4, quận 8, Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028 6263 0377 - 6263 0378
Fax: (028) 6263 0379
Website: https://www.phuclong.com.vn/
Email: Sales@phuclong.com.vn
4.2.2 Nguồn gốc và lịch sử ra đời của trà sữa
Khi mà người Hà Lan đô hộ Đài Loan, thì Đài Loan đã trở thành địa điểm chính để
những thương buôn đến nhập khẩu các loại trà và một số sản phẩm khác. Từ đó loại trà
được pha chung với đường và sữa theo công thức của người châu Âu để đáp ứng nhu
cầu đã được du nhập vào Đài Loan. Đây cũng chính là những lý do tại sao Đài Loan trở
thành cha đẻ của loại thức uống tuyệt hảo này. Sau khi bị Nhật Bản xâm lược, Đài
Loan lại tiếp tục trở thành trụ điểm chính để trồng trà đen cho người Nhật và từ đây trà
sữa bắt đầu phát triển.
Thức uống trà sữa càng ngày càng được cải tiến hơn nữa sau năm 1983, khi một người
đàn ông sang xứ sở hoa anh đào và đã nhìn thấy một người Nhật Bản uống cà phê lạnh.
Thấy được điều đó ông đã thử trở về Đài Loan và pha trà lạnh cho các thực khách của
mình thưởng thức. Cách pha chế này đã nhanh chóng nhận được những phản hồi rất
tích cực từ những người sử dụng và nó đã nhanh chóng trở thành một trào lưu lan rộng
khắp các tỉnh thành trong nước và trong một dịp khác, người quản lý của ông đã vô tình
làm rơi hạt Fen Yuan (một loại trân châu đường đen của Đài Loan) vào cốc trà sữa mà
bà đang uống, bà đã chợt nhận thấy sự kết hợp thật tuyệt vời giữa trà sữa và loại hạt
trên châu này và ngay lập tức bà đã đưa những nhân viên cùng làm việc trong cửa hàng
đó thử, mọi người ai cũng bất ngờ vì cảm nhận được sự thơm ngon, béo ngậy của trà
sữa khi kết hợp với những hạt trân châu vừa giòn vừa dai và từ đây trà sữa trân châu
chính thức được ra đời và phát triển đến tận ngày nay.
Trà sữa trân châu bắt đầu xuất hiện ở Đài Loan vào thời gian khoảng năm 1980 và cho
đến thời điểm hiện tại bây giờ thì loại đồ uống này vẫn là một đồ uống được yêu thích,
quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của hàng triệu người trong đó đặc biệt là đối với
giới trẻ, không những chỉ phát triển ở Đài Loan mà sản phẩm đồ uống trà sữa trân châu
đã và đang ngày càng vươn xa đến khắp các nơi trên thế giới từ Châu ÚC, Châu Á,
Châu Âu, Châu Mỹ…
Thị trường trà sữa ở Việt Nam đang càng ngày trở nên phát triển hơn bao giờ hết với sự
hội nhập của hàng loạt các thương hiệu trà sữa trân châu lớn nhỏ, phát triển từ trong
nước đến các thương hiệu ngoại nhập. Những thương hiệu trà sữa như Dingtea,
TocoToco, Royal Tea, Gong cha, Phúc Long… đang trở thành một trong những thương
hiệu có mức độ phát triển mạnh mẽ nhất tại thị trường trà sữa Việt Nam.
Tham khảo cuộc nghiên cứu tìm hiểu về hành vi uống trà sữa và đánh giá các cửa hàng
trà sữa phổ biến tại Việt Nam vào 5/ 2018 của Q&Me (dịch vụ nghiên cứu thị trường
Việt Nam) thì:
Bạn bè là yếu tố chính trong việc nhận biết trà sữa, theo sau đó là các yếu tố có bán
ở gần nơi ở/làm việc/học tập và thấy mọi người xung quanh uống.
91% đáp viên nhận biết trà sữa có uống trà sữa, và tỷ lệ uống trà sữa cao hơn ở
những người trẻ tuổi với 95%.
Ngon, thư giãn và dành cho tuổi trẻ là những hình ảnh được dùng để hình dung khi
nói về trà sữa.
Ở HCM, Hot & Cold là cửa hàng được đến thường xuyên nhất với tỷ lệ 22%, tiếp đó
là Hoa Hướng Dương (14%) và Phúc Long (13%).
Giá cao, vị trí không thuận tiện và chất lượng không tốt là những lý do chính khiến
người dùng rời bỏ các cửa hàng trà sữa.
Hình 2.2:Các cửa hàng trà sữa ở TP HCM
Nguồn:Q&Me,2018
Ý định hành vi bị chi phối bởi hai yếu tố: thái độ và chuẩn chủ quan, để quan tâm hơn
đến các yếu tố góp phần đến xu hướng sử dụng thì xem xét hai yếu tố trên. Thái độ là
biểu hiện yếu tố cá nhân thể hiện niềm tin thích cực hay tiêu cực của người dung đối với
sản phẩm/ dịch vụ. Chuẩn chủ quan thể hiện ảnh hưởng của quan hệ xã hội (gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp) lên cá nhân người dùng.
Trong mô hình hành động hợp lý TRA, thái độ được đo lường bằng nhận thức về các
thuộc tính, đặc điểm sản phẩm, nếu biết trọng số của các thuộc tính đó thì có thể dự đoán
gần kết quả lựa chọn của người tiêu dùng. Yếu tố chuẩn chủ quan được đo lường bằng
những người có liên quan này, những người này thích hay không thích họ mua và sử
dụng. Mức độ của các yếu tố chuẩn chủ quan đến xu hướng mua của người tiêu dùng phụ
thuộc: mức độ ủng hộ/ phản đối đối với việc mua, sử dụng của người tiêu dùng và động
cơ của người tiêu dùng làm theo mong muốn của những người có ảnh hưởng. Mức độ
ảnh hưởng của người có liên quan đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng và động cơ
thúc đẩy người tiêu dùng làm theo những người có liên quan là hai yếu tố cơ bản để đánh
giá chuẩn chủ quan. Mức độ thân thiết của những người có liên quan càng mạnh đối với
người tiêu dùng thì ảnh hưởng càng lớn đến quyết định chọn mua và sử dụng của họ.
Niềm tin của người tiêu dùng vào những người có liên quan càng lớn thì xu hướng chọn
mua, sử dụng của họ cũng bị ảnh hưởng càng lớn. Ý định mua của người tiêu dùng sẽ bị
tác động bởi người này với những mức độ ảnh hưởng mạnh yếu khác nhau.
Nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào
trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn
(Mác - Lênin, 1996).
Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con
đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp
đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong, như
sau:
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn mở đầu của quá
trình nhận thức. Đó là giai đoạn nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử
dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật, hiện tượng khách quan, mang tính
chất cụ thể, với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của
con người. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là cảm
giác, tri giác và biểu tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián
tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật, hiện
tượng. Nó được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy
lý.
Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói cách
khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Do đó, thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý, là cơ sở của động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối cùng
của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới. Do đó, sự nhận thức
ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn (Mác - Lênin, 1996).
4.3.3 Mô hình hành vi dự định (Theory of Planned Behavior - TPB)
Thuyết hành vi dự định (TPB), được phát triển từ lý thuyết hành động hợp lý TRA
(Ajzen, I. & Fischbein, M., 1975), giả định một hành vi có thể được dự báo hoặc giải
thích bởi các xu hướng hành vi để thực hiện hành vi đó. Các xu hướng hành vi được giả
sử bao gồm các nhân tố động cơ mà ảnh hưởng đến hành vi và được định nghĩa như là
mức độ nỗ lực mà mọi người cố gắng để thực hiện hành vi đó (Ajzen, I., 1991).
Xu hướng hành vi là một hàm của ba nhân tố. Thứ nhất, các thái độ được khái niệm như
là đánh giá tích cực hay tiêu cực về hành vi thực hiện. Nhân tố thứ hai là ảnh hưởng xã
hội mà đề cập đến là sức ép xã hội được cảm nhận để thực hiện hay không thực hiện hành
vi đó. Cuối cùng, thuyết hành vi dự định TPB được Ajzen xây dựng bằng cách bổ sung
thêm yếu tố kiểm soát hành vi cảm nhận vào mô hình TRA. Thành phần kiểm soát hành
vi cảm nhận phản ánh việc dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi, điều này phụ
thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực và các cơ hội để thực hiện hành vi. Ajzen đề nghị
rằng nhân tố kiểm soát hành vi tác động trực tiếp đến xu hướng thực hiện hành vi và nếu
đương sự chính xác trong cảm nhận mức độ kiểm soát của mình, thì kiểm soát hành vi
còn dự báo cả hành vi.
Hành vi mua sắm của người tiêu dùng là những hành vi mà người tiêu dùng thể hiện
trong việc tìm kiếm, mua, sử dụng, đánh giá sản phẩm và dịch vụ mà họ mong đợi sẽ
thỏa mãn như nhu cầu cá nhân của họ (Peter, B. B., 1988).
Hành vi người tiêu dùng là sự tương tác năng động của các yếu tố ảnh hưởng đến nhận
thức, hành vi và môi trường mà qua sự thay đổi đó con người thay đổi cuộc sống của họ.
Hành vi người tiêu dùng được hiểu là một loạt các quyết định về việc mua cái gì, tại sao,
khi nào, thế nào, nơi nào, bao nhiêu, bao lâu một lần, liệu như thế thì sao mà mỗi cá
nhân, nhóm người tiêu dùng phải có quyết định qua thời gian về việc chọn dùng sản
phẩm, dịch vụ, ý tưởng hoặc các hoạt động (Juha, M., 2008).
Theo Philip Kotler trong marketing, nhà tiếp thị nghiên cứu hành vi người tiêu dùng với
mục đích nhận biết nhu cầu, sở thích, thói quen của họ, cụ thể là xem người tiêu dùng
muốn mua gì, sao họ lại mua sản phẩm, dịch vụ đó, tại sao họ mua nhãn hiệu đó, họ mua
như thế nào, mua ở đâu, khi nào mua và mức độ mua ra sao để xây dựng chiến lược
marketing thúc đẩy người tiêu dùng mua sắm sản phẩm, dịch vụ của mình và ông đã hệ
thống các yếu tố dẫn đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng như sau (Kotler, P., &
Gary, A., 2017).
4.3.5 Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng
Hành vi người tiêu dùng chịu tác động của một loạt các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
và đặc điểm của chính người tiêu dùng. Các yếu tố cơ bản tác động đến hành vi mua hàng
gồm: văn hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý. (Kotler & Armstrong, 2012).
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quyết định mua hàng bao gồm ảnh hưởng của xã hội,
ảnh hưởng của tiếp thị và ảnh hưởng của ngữ cảnh. Yếu tố xã hội bao gồm nền văn hóa, nếp
sinh hoạt, tầng lớp xã hội và nhóm tham khảo. Yếu tố tiếp thị được biết đến như giá cả, sản
phẩm, địa điểm và khuyến mại cũng ảnh hưởng đến quá trình mua hàng ở nhiều giai đoạn.
Và cuối cùng là yếu tố ngữ cảnh bao gồm: thể chất, xã hội, thời gian, công việc và thu nhập.
(Churchill & Peter, 1998).
Hình 2.2. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng
Gồm 3 yếu tố: nền văn hóa, nhánh văn hóa, tầng lớp xã hội.
Nền văn hóa: Nền văn hóa là yếu tố quyết định cơ bản nhất những mong muốn và hành
vi của một người. Một đứa trẻ khi lớn lên sẽ tích luỹ được một số những giá trị, nhận
thức, sở thích và hành vi thông qua gia đình của nó và những định chế then chốt khác.
Nhánh văn hóa: mỗi nền văn hóa đều có những nhánh văn hóa nhỏ hơn tạo nên những
đặc điểm đặc thù hơn và mức độ hòa nhập với xã hội cho những thành viên của nó. Các
nhánh văn hóa tạo nên những khúc thị trường quan trọng, và những người làm Marketing
thường thiết kế các sản phẩm và chương trình Marketing theo các nhu cầu của chúng.
Hành vi mua sắm của một cá nhân sẽ chịu ảnh hưởng của những đặc điểm nhánh văn hóa
của cá nhân đó.
Tầng lớp xã hội: hầu như tất cả các xã hội loài người đều thể hiện rõ sự phân tầng xã
hội. Sự phân tầng này đôi khi mang hình thức, một hệ thống đẳng cấp theo đó những
thành viên thuộc các đẳng cấp khác nhau được nuôi nấng và dạy dỗ để đảm nhiệm những
vai trò nhất định. Các tầng lớp xã hội là những bộ phận tương đối đồng nhất và bền vững
trong xã hội, được xếp theo thứ bậc và gồm những thành viên có chung những giá trị,
mối quan tâm và hành vi.
4.3.5.2Nhân tố xã hội
Gồm 3 yếu tố: nhóm tham khảo, gia đình và vai trò của địa vị xã hội.
Nhóm tham khảo: nhóm tham khảo của một người bao gồm những nhóm có ảnh hưởng
trực tiếp (mặt đối mặt) hay gián tiếp đến thái độ hay hành vi của người đó. Những nhóm
có ảnh hưởng trực tiếp đến một người gọi là những nhóm thành viên. Đó là những nhóm
mà người đó tham gia và có tác động qua lại. Có những nhóm là nhóm sơ cấp, như gia
đình, bạn bè, hàng xóm láng giềng, và đồng nghiệp, mà người đó có quan hệ giao tiếp
thường xuyên. Các nhóm sơ cấp thường là có tính chất chính thức hơn và ít đòi hỏi phải
có quan hệ giao tiếp thường xuyên hơn.
Gia đình: các thành viên trong gia đình là nhóm tham khảo quan trọng có ảnh hưởng lớn
nhất. Thứ nhất là gia đình định hướng gồm bố mẹ của người đó. Tại gia đình này người
đó sẽ được định hướng bởi các giá trị văn hóa, chính trị, hệ tư tưởng…Khi trưởng thành
và kết hôn, mức ảnh hưởng của người vợ hoặc người chồng trong việc quyết định loại
hàng hóa sẽ mua là rất quan trọng.
Địa vị xã hội: lối tiêu dùng của một người phụ thuộc khá nhiều vào địa vị xã hội của
người đó, đặc biệt là các mặt hàng có tính thể hiện cao như quần áo, giày dép, xe cộ…
Những người thuộc cùng một tầng lớp xã hội có khuynh hướng hành động giống nhau
hơn so với những người thuộc hai tầng lớp xã hội khác nhau. Những người có địa vị xã
hội như thế nào thường tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tương ứng như thế. Những người
có địa vị cao trong xã hội chi tiêu nhiều hơn vào hàng hóa xa xỉ, cao cấp.
4.3.5.3Nhân tố cá nhân
Gồm các yếu tố: giới tính, tuổi tác và giai đoạn của chu kì sống, nghề nghiệp, hoàn cảnh
kinh tế, lối sống.
Giới tính: giới tính là yếu tố cá nhân đầu tiên có ảnh hưởng tiên quyết đến hành vi tiêu
dùng. Do những đặc điểm tự nhiên, phụ nữ và đàn ông có nhu cầu tiêu dùng khác nhau và
cách lựa chọn hàng hóa cũng khác nhau. Các nghiên cứu đã cho thấy, nếu quyết định lựa
chọn hàng hóa của phụ nữ căn cứ chủ yếu vào giá cả, hình thức, mẫu mã của hàng hóa thì
đàn ông lại chú trọng đến công nghệ, uy tín của hàng hóa này.
Tuổi tác và giai đoạn của chu kì sống: người ta mua những hàng hóa và dịch vụ khác
nhau trong suốt đời mình. Thị hiếu của người ta về các loại hàng hóa, dịch vụ cũng tuỳ
theo tuổi tác. Việc tiêu dùng cũng được định hình theo giai đoạn của chu kỳ sống của gia
đình.
Nghề nghiệp: nghề nghiệp của một người cũng ảnh hưởng đến cách thức tiêu dùng của
họ. Những người có nghề nghiệp khác nhau sẽ có nhu cầu tiêu dùng khác nhau ngay từ
những hàng hóa chính yếu như quần áo, giày dép, thức ăn…đến những loại hàng hóa
khác như: mĩ phẩm, máy tính, điện thoại…
Hoàn cảnh kinh tế: việc lựa chọn sản phẩm chịu tác động rất lớn từ hoàn cảnh kinh tế
của người đó. Hoàn cảnh kinh tế của người ta gồm thu nhập có thể chi tiêu được của họ
(mức thu nhập, mức ổn định và cách sắp xếp thời gian), tiền tiết kiệm và tài sản (bao gồm
cả tỷ lệ phần trăm tài sản lưu động), nợ, khả năng vay mượn, thái độ đối với việc chi tiêu
và tiết kiệm.
Lối sống: những người cùng xuất thân từ một nhánh văn hóa, tầng lớp xã hội và cùng
nghề nghiệp có thể có những lối sống hoàn toàn khác nhau và cách thức họ tiêu dùng
khác nhau. Cách sống “thủ cựu” được thể hiện trong cách ăn mặc bảo thủ, dành nhiều
thời gian cho gia đình và đóng góp cho nhà thờ của mình. Hay những người có thể chọn
lối sống “tân tiến” có đặc điểm là làm việc thêm giờ cho những đề án quan trọng và tham
gia hăng hái khi có dịp đi du lịch và chơi thể thao và chi tiêu nhiều hơn cho việc đáp ứng
những nhu cầu cá nhân.
4.3.5.4Nhân tố tâm lí
Gồm 4 yếu tố: nhu cầu và động cơ, nhận thức, sự hiểu biết, niềm tin và thái độ.
Nhu cầu và động cơ: nhu cầu là một thuộc tính tâm lý, là những điều mà con người đòi
hỏi để tồn tại và phát triển. Tại bất kỳ một thời điểm nhất định nào con người cũng có
nhiều nhu cầu. Một số nhu cầu có nguồn gốc sinh học. Một số nhu cầu khác có nguồn
gốc tâm lý. Tại những thời điểm khác nhau, người ta lại bị thôi thúc bởi những nhu cầu
khác nhau. Con người sẽ cố gắng thỏa mãn trước hết là những nhu cầu quan trọng nhất.
Khi người ta đã thoả mãn được một nhu cầu quan trọng nào đó thì nó sẽ không còn là
động cơ hiện thời nữa, và người ta lại cố gắng thỏa mãn nhu cầu quan trọng nhất tiếp
theo.
Nhận thức: một người có động cơ luôn sẵn sàng hành động. Vấn đề người có động cơ đó
sẽ hành động như thế nào trong thực tế còn chịu ảnh hưởng từ sự nhận thức của người đó
về tình huống lúc đó. Nhận thức được định nghĩa là "một quá trình thông qua đó cá thể
tuyển chọn, tổ chức và giải thích thông tin tạo ra một bức tranh có ý nghĩa về thế giới
xung quanh". Nhận thức không chỉ phụ thuộc vào những tác nhân vật lý, mà còn phụ
thuộc vào cả mối quan hệ của các tác nhân đó với môi trường xung quanh và những điều
kiện bên trong cá thể đó.
Sự hiểu biết: sự hiểu biết giúp con người khái quát hóa và có sự phân biệt khi tiếp xúc
với những hàng hóa có kích thước tương tự nhau. Khi người tiêu dùng hiểu biết về hàng
hóa họ sẽ tiêu dùng một cách có lợi nhất.
Niềm tin và thái độ: thông qua thực tiễn và sự hiểu biết con người hình thành nên niềm
tin và thái độ vào sản phẩm. Theo một số người giá cả đi đôi với chất lượng. Họ không
tin có giá cả rẻ mà chất lượng hàng hóa lại tốt. Chính điều đó làm cho họ e dè khi mua
hàng hóa có giá cả thấp hơn hàng hóa khác cùng loại. Niềm tin hay thái độ của người tiêu
dùng đối với một hãng sản xuất ảnh hưởng khá lớn đến doanh thu của hãng đó. Niềm tin
và thái độ rất khó thay đổi, tạo nên thói quen khá bền vững cho người tiêu dùng.
Yếu tố cá nhân
Marketing Mix
Hình 2.3. Mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn nhà hàng
thức ăn nhanh của người tiêu dùng tại Thái Lan
Nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến ý định mua thực phẩm hữu cơ của người
tiêu dùng tại Đài Loan” của (Effendi, I., Ginting, P., Lubis, A. N., & Fachruddin, K.
A., 2002)
Kết quả nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến ý định mua thực phẩm hữu cơ của người
tiêu dùng tại Đài Loan” (Teng và Wang, 2015) khẳng định rằng, ý định mua thực phẩm
hữu cơ có thể dự đoán bằng thái độ của người tiêu dùng đối với thực phẩm hữu cơ và thái
độ của người tiêu dùng đối với sản phẩm này lại phụ thuộc vào kiến thức thực phẩm và
kiến thức sức khỏe của mỗi người. Chuẩn chủ quan cũng sẽ ảnh hưởng đến ý định mua
thực phẩm hữu cơ. Ngoài ra, nghiên cứu đã không tìm thấy sự ảnh hưởng của giá và sự
sẵn có của sản phẩm ý định mua thực phẩm hữu cơ và ý định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng thực phẩm hữu cơ thực tế.
Hình 2.4. Mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến ý định mua thực phẩm hữu
cơ của người tiêu dùng tại Đài Loan
Hình 2.4.2: Mô hình nghiên cứu quyết định chọn rạp chiếu phim tại TP.HCM
5.1.2.2Nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua nước giải khát đóng
chai của người dân Cần Thơ”:
Kết quả nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Kim Dung (2014) với đề tài “Các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định mua nước giải khát đóng chai của người dân thành phố Cần Thơ”
đã xác định được 7 yếu tố chính, đó là yếu tố chất lượng, giá cả, mẫu mã, thương hiệu,
quảng cáo, nhóm tham khảo, thói quen sử dụng tác động đến hành vi người tiêu dùng.
Đặc biệt người tiêu dùng ngày càng chú trọng đến vấn đề đảm bảo sức khỏe, sử dụng sản
phẩm có nguồn gốc tự nhiên, không chất phụ gia chất hóa học. Theo đó, sản phẩm có
nguồn gốc tự nhiên là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm nước
giải khát là yếu tố ảnh hưởng nhất đến quyết định mua của người tiêu dùng. Mặt khác,
thương hiệu là yếu tố người tiêu dùng quan tâm. Nói tóm lại, người tiêu dùng ngày càng
có nhiều hiểu biết về sản phẩm, yêu cầu ngày càng cao. Xu hướng tiêu dùng thiên về sản
phẩm có thương hiệu nổi tiếng, được nhiều người quan tâm, có chất lượng tốt, không chất
hóa phẩm sẽ được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn.
Thương hiệu
Hình 2.4.1:Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua nước giải khát đóng
chai của người dân thành phố Cần Thơ
5.1.2.3Nghiên cứu những yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng cà phê nguyên chất
của giới trẻ tại TP Hồ Chí Minh
Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Mỹ Thuận (2016) với đề tài “Nghiên cứu những yếu
tố tác động đến hành vi tiêu dùng cà phê nguyên chất của giới trẻ tại TP Hồ Chí Minh”
đã chỉ ra rằng, có 6 yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng cà phê nguyên chất của giới
trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh, nhân tố có mức ảnh hưởng lớn nhất là thương hiệu sản
phẩm, tiếp theo là giá cả cảm nhận, yếu tố cá nhân, yếu tố phân phối, chương trình
chiêu thị, yếu tố sức khỏe.
Hình 2.4.2: Mô hình những yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng cà phê nguyên
chất của giới trẻ tại TP Hồ Chí Minh
Giá Cả H5(+)
H2(+)
Các yếu tố ảnh hưởng đến
hành vi quyết định sử dụng
H3(+)
Thương Hiệu trà sữa Phúc Long của Gen
tại Tp.HCM
H4(+)
Sự Tinh Cậy
Chất lượng kỹ thuật liên quan đến những gì được phục vụ còn chất lượng chức năng nói
lên chúng được phục vụ như thế nào.
H1: Chất lượng dịch vụ tác động tỉ lệ thuận đến quyết định chọn sử dụng trà sữa
Phúc Long.
Giá cả: Giá cả được phần lớn mọi người quan tâm. Đối với quyết định mua sản
phẩm của khách hàng, sự ảnh hưởng và chi phối cảu giá rất lớn. Rất nhiều khách hàng
thường đồng nhất cảm nhận về giá với cảm nhận về chất lượng sản phẩm theo cách
nghĩ “tiền nào của nấy”. Họ sẵn sàng chấp nhận mua sản phẩm với mức giá cao vì
theo quan điểm của họ những sản phẩm đắt tiền là những sản phẩm có chất lượng tốt.
Song cũng không ít khách hàng quyết định mua những sản phẩm ở mức giá phù hợp
với khả năng thanh toán của họ.
H 2: Giá cả có tỉ lệ thuận với quyết định mua trà sữa của khách hàng
2
Thương hiệu: độ phủ của thương hiệu trên thị trường rất ảnh hưởng đến quyết
định của người mua. Nếu như thương hiệu được lặp đi lặp nhiều lần và đa phần người
mua có thể nhìn thấy mọi nơi thì rất dễ gây được ấn tượng và thiện cảm cho người
mua.
H3: Thương hiệu của khách hàng có tỉ lệ thuận với quyết định mua cà phê chai
của khách hàng.
Sự tin cậy: Là sự kỳ vọng vào các cá nhân hay các công ty mà qua tương tác sẽ
hành xử mộtcách có đạo đức, đáng tin cậy, phù hợp với các chuẩn mực xã hội và sẽ thực
hiện các cam kết mà các cá nhân/công ty đó đã đặt ra. Niềm tin làm gia tăng ý định sử
dụng các dịch vụ (Lu & cộng sự, 2011).
H4: Sự tin cậy của người tiêu dùng tỉ lệ thuận với quyết định chọn mua trà sữa.
Nhóm tham khảo: ảnh hưởng của những người xung quanh đến quyết định mua
của khách hàng là điều khó tránh khỏi. Có thể khách hàng đã chọn sản phẩm của một
công ty nhưng ý kiến tác động khác lại làm lung lay suy nghĩ đó và khách hàng thay
đối quyết định, đó cũng là điều dễ hiểu.
H5: Nhóm tham khảo tác động tỉ lệ thu đến quyết định chọn sử dụng trà sữa.
Bảng 3.1. Kết quả phỏng vấn về các yếu tố trong mô hình
Qua quá trình khảo sát và thu thập được kết quả từ các đối tượng, nhóm đã tiến hành tổng
hợp và thống kê các số liệu từ bảng câu hỏi để có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề. Từ
kết quả khảo sát, nhóm bám sát vào cơ sở lý thuyết để phân tích số liệu và đưa ra kết quả.
Cách chọn mẫu nghiên cứu được tham khảo theo các quan điểm:
Kích thước tổng thể mẫu nghiên cứu tối thiểu là 200 (Gorsuch, R. L., 1983).
Dựa theo nghiên cứu của (Hair, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., & Black,
W. C., 1998) cho tham khảo về kích thước mẫu dự kiến. Theo đó, kích thước mẫu
tối thiểu là gấp 5 lần tổng số biến quan sát. Trong bài có 36 biến quan sát nên tối
thiểu cần có số mẫu là 5*36 = 180.
Đối với phân tích hồi quy đa biến: cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công
thức là n = 8*m 50; với m là số biến nghiên cứu độc lập (Tabachnick, B. G., &
Fidell, L. S., 1996) . Với đề tài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
chọn trà sữa Phúc Long của người tiêu dùng Gen Z tại thành phố Hồ Chí Minh”
thì cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được là n = 8*7 50 = 106.
Đối với cỡ mẫu lớn, không biết tổng thể dùng công thức:
Trong đó:
n: là cỡ mẫu
z: giá trị phân phối tương ứng với độ tin cậy lựa chọn (nếu 95% thì giá trị z là 1.96,...)
p: là ước tính tỷ lệ % của tổng thể
q: q = 1 - p: thường tỷ lệ p và q được ước tính 50%/ 50% đó là khả năng lớn nhất có
thể xảy ra của tổng thể
Tham khảo từ những cách chọn cỡ mẫu trước đây, nhóm nghiên cứu đề tài “Các yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định chọn trà sữa Phúc Long của người tiêu dùng Gen Z tại thành
phố Hồ Chí Minh” với độ tin cậy 95%, sai số cho phép 5%, nhóm tác giả chọn mẫu n
= 400.
Thang đo Likert sử dụng một phương pháp tổng hợp thu thập dữ liệu , điều này làm cho
các câu hỏi dễ hiểu hơn. Làm việc với dữ liệu định lượng, nó rất dễ dàng rút ra kết luận,
báo cáo, kết quả và đồ thị từ các kết quả phản hồi. Hơn nữa, vì thang đo Likert sử dụng
một thang điểm, mọi người không buộc phải đưa ra ý kiến thay vào đó nó cho phép người
được hỏi có thể chọn mức trung bình (giữ ý kiến trung lập) cho vấn đề đưa ra.
Các biến quan sát trong bảng câu hỏi khảo sát sử dụng thang đo Likert (5 mức điểm) với
lựa chọn từ số 1 là “Hoàn toàn không đồng ý” đến lựa chọn số 5 là “Hoàn toàn đồng ý”
nhằm đánh giá, phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trà sữa Phúc
Long của người tiêu dùng thế hệ gen Z tại Thành phố Hồ Chí Minh”
Theo quan điểm của Gronroos (1984) cho rằng, chất lượng dịch vụ được đánh giá trên hai
khía cạnh: chất lượng kỹ thuật và chất lưỡng kỹ năng. Chất lượng kỹ thuật liên quan đến
những gì được phục vụ còn chất lượng chức năng nói lên chúng được phục vụ như thế
nào.
Dựa trên cơ sở lý thuyết trên, nghiên cứu này đo lường “Chất lượng dịch vụ” bởi 7 biến
quan sát kí hiệu từ CL1 đến CL7.
CL1 Cơ sở vật chất tại quán trà sữa, thoáng mát, view đẹp
CL2 Nhân viên tại quán ăn mặc đồng phục gọn gàng, sạch sẽ
CL4 Việc order diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, mất ít thời gian
CL6 Nhân viên trong quán nhiệt tình khi khách hàng cần sự giúp đỡ
Thang đo này đo lường về Thương hiệu quán trà sữa Phúc Long bao gồm sự nổi tiếng, độ
uy tính,…
Trong nghiên cứu, về thang đo vị trí đo lường bởi 3 biến quan sát kí hiệu từ TH1 đến
TH4
Một dịch vụ tốt cần phải có độ tin cậy cao cho khách hàng, cung cấp cho khách hàng
những dịch vụ mà khách hàng cần, đặc biệt là tính ổn định, độ bảo mật cho thông tin cần
được quan tâm (Phan Tiến Hoàng, 2015)
Vấn đề sự tin cậy phụ thuộc nhiều vào các chính sách bảo mật, kỹ thuật công nghệ của
doanh nghiệp và vấn đề an ninh mạng, vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xâm hại từ bên ngoài
mà doanh nghiệp khó kiểm soát hoặc không lường trước được. (Szymanski và Hise, 2000)
Theo Abraham Maslow thì nhu cầu về sự an toàn là nhu cầu thứ hai sau nhu cầu sinh lý.
Khi con người được thoả mãn nhu cầu về sự an toàn thì họ sẽ cảm thấy yên tâm và ẽ tập
trung để theo đuổi thỏa mãn những nhu cầu khác.
Trong nghiên cứu, sự tin cậy về vị trí đo lường bởi 5 biến quan sát kí hiệu từ TC1 đến
TC5
TC2 Nhân viên phục vụ chuyên nghiệp, giải quyết thỏa đáng vấn đề
của bạn
TC3 Chất lượng nước uống tốt, thức ăn kèm như bánh ngon, đảm bảo
an toàn vệ sinh thực phẩm
TC4 Bạn chưa từng gặp vấn đề khi sử dụng dịch vụ tại Phúc Long
(tính sai hóa đơn, phục vụ nhầm đồ uống, thức ăn, phục vụ
không đúng yêu cầu,...)
TC5 Bạn thích Phúc Long ngay khi sử dụng dịch vụ lần đầu tiên
Trong nghiên cứu, nhóm tham khảo đo lường bởi 4 biến quan sát kí hiệu từ TK1 đến TK4
TK1 Gia đình có ảnh hưởng đến quyết định chọn trà sữa Phúc Long của
tôi
TK2 Bạn bè, đồng nghiệp có ảnh hưởng đến quyết định chọn trà sữa
Phúc Long của tôi
TK3 Tôi chọn trà sữa Phúc Long khi người nổi tiếng mà tôi tin tưởng lựa
chọn thương hiệu này
TK4 Các bình luận, nhận xét trên mạng có ảnh hưởng đến quyết định
chọn trà sữa Phúc Long của tôi
6.1.1.6 Thang đo “Quyết định chọn trà sữa Phúc Long của người tiêu dùng”
Quyết định chọn là biến phụ thuô ̣c của mô hình.
Trong nghiên cứu, thang đo được đo lường bởi 3 biến phụ thuô ̣c được kí hiệu từ QĐ1 đến
QĐ3
QĐ1 Tôi có ý định uống trà sữa Phúc Long trong tương lai
QĐ2 Tôi quyết định sẽ uống trà sữa Phúc Long trong tương lai
QĐ3 Tôi quyết định sẽ tiếp tục uống trà sữa Phúc Long trong tương lai
Bảng 6: Thang đo Quyết định chọn trà sữa Phúc Long của người tiêu dung
trước khi phân tích EFA để loại các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể tạo ra
các yếu tố giả
Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha chỉ cho biết các đo lường có liên kết với nhau hay
không; nhưng không cho biết biến quan sát nào cần bỏ đi và biến quan sát nào cần giữ
lại. Khi đó, việc tính toán hệ số tương quan giữa biến tổng sẽ giúp loại ra những biến
quan sát nào không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo (Nguyen, D. T., &
Nguyen, T. M. T., 2009).
Các tiêu chí được sử dụng khi thực hiện đánh giá độ tin cậy thang đo:
Các loại biến quan sát có hệ thống tương quan biến tổng nhỏ (nhỏ hơn 0.3); tiêu chuẩn
chọn thang đo có đội tin cậy Alpha lớn hơn 0.6 (Alpha càng lớn thì độ tin cậy nhất quán
nội tại càng cao).
Các mức giá trị của Alpha: lớn hơn 0.8 là thang đo lường tốt, từ 0.7 đến 0.8 là
dùng được, từ 0.6 trở lên là có thể sử dụng trong trường hợp khái niệm nghiên cứu là
mới hoặc là mới trong bối cành nghiên cứu (Nguyen, D. T., & Nguyen, T. M. T., 2009).
Các biến có hệ số tương quan biến – tổng (item – total correlation) nhỏ hơn 0.3
được xem là biến rác sẽ bị loại bỏ và thang đo được chấp nhận khi hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha đạt yêu cầu (Hoang, T. & Chu, N. M. N., 2005) và tiêu chuẩn chọn
thang đo khi độ tin cậy Cronbach’s Alpha phải từ 0.7 trở lên.
Dựa theo thông tin trên, nghiên cứu thực hiện đánh giá thang đo dựa theo tiêu chí:
Chọn thang đo có độ tin cậy Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.7 (các khái niệm trong
nghiên cứu này là tương đối mới đối với đối tượng nghiên cứu khi tham gia trả lời).
Loại các biến quan sát có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0.3 (đây là
những biến không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo và nhiều nghiên
cứu trước đây đã sử dụng tiêu chí này).
6.1.2.2 Phân tích nhân tố khám phá
Phân tích nhân tố khám phá EFA nhằm đánh giá giá trị hội tụ và giá trị phân biệt
của các thang đo. Hai phương pháp chủ yếu trong phân tích nhân tố khám phá EFA là
phương pháp rút trích nhân tố (Principal compoents) và phương pháp xoay nhân tố
(Varimax procedure). Dữ liệu được phân tích phải đáp ứng được những nhu cầu dưới
đây:
KMO (Kaiser - Meyer - Olkin): Xem xét sự thích hợp của phân tích nhân tố. Trị số
KMO lớn có ý nghĩa phân tích nhân tố là thích hợp. Điều kiện đủ để phân tích nhân tố
khám phá là trị số KMO phải nằm trong khoảng từ 0.5 đến 1. Nếu như trị số này nhỏ
hơn 0.5 thì có nghĩa việc phân tích nhân tố có thể không phù hợp với dữ liệu mà nhóm
tác giả đang khảo sát (Hoang, T., & Chu, N. M. N., 2008).
Hệ số tải nhân tố (Factor Loading): (Hair, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., &
Black, W. C., 1998) , hệ số này là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA:
Factor loading > 0.3 được xem là đạt mức tối thiểu
Factor loading > 0.4 được xem là quan trọng
Factor loading > 0.5 được xem là có ý nghĩa thực tiễn
Ngoài ra, trường hợp các biến số có Factor loading được trích dẫn vào các nhân
tố khác nhau mà chênh lệch trọng số rất nhỏ (các nhà nghiên cứu thường không chấp
nhận < 0.3), tức không tạo nên sự khác biệt để đại diện cho một nhân tố, thì biến đó
cũng bị loại và các biến còn lại sẽ được nhóm vào nhân tố tương ứng đã được rút trích
trên ma trận mẫu (Pattern Matrix).
Tuy nhiên, cũng như trong phân tích nhân tố phân tích Cronbach’s Alpha, việc
loại bỏ hay không một biến quan sát không chỉ đơn thuần nhìn vào con số thống kê mà
còn phải xem xét giá trị nội dung của biến đó. Trường hợp biến có trọng số Factor
loading thấp hoặc được trích vào các nhân tố khác nhau mà chênh lệch trọng số rất nhỏ
nhưng có đóng góp quan trọng vào giá trị nội dung của khái niệm mà nó đo lường thì
không nhất thiết phải loại bỏ biến đó (Nguyen, D. T., & Nguyen, T. M. T., 2009).
Trong nghiên cứu này, mẫu nghiên cứu có kích thước n = 420, khi xử lý EFA nhóm
tác giả dụng phương pháp trích Principal components với phép xoay Varimax, loại bỏ
các biến có giá trị Factor loading ≤ 0.5 hoặc trích vào các nhân tố khác mà chênh lệch
trọng số Factor loading giữa các nhân tố ≤ 0.3.
Tổng phương sai trích: Dùng để thể hiện sự biến thiên được giải thích bởi các nhân
tố, các thang đo sẽ được chấp nhận khi tổng phương sai trích lớn hơn 50%. Điều kiện
để phân tích nhân tố khám phá là phải thỏa mãn các yêu cầu: Hệ số tải nhân tố (Factor
loading ) > 0.5, 0.5 ≤ KMO ≤ 1: Hệ số KMO (Kaiser - Meyer - Olkin) là chỉ số được
dùng để xem xét sự thích hợp của phân tích nhân tố, trị số KMO lớn có ý nghĩa phân
tích nhân tố là thích hợp. Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05): Đây là
một đại lượng thống kê dùng để xem xét giả thuyết các biến không có tương quan
trong tổng thể. Nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05) thì các biến quan
sát có mối tương quan với nhau trong tổng thể. Phần trăm phương sai toàn bộ
(Percentage of variance) > 50%: Thể hiện phần trăm biến thiên của các biến quan sát.
Nghĩa là xem biến thiên là 100% thì giá trị này cho biết phân tích nhân tố giải thích
được bao nhiêu phần trăm.
Tiêu chuẩn rút trích nhân tố gồm chỉ số Eigenvalua (đại diện cho lượng biến thiên
được giải thích bởi các nhân tố) và chỉ số Cumulative (tổng phương sai trích cho biết
phân tích nhân tố giải thích được bao nhiêu phần trăm và bao nhiêu phần trăm bị thất
thoát). Các nhân tố có Eigenvalua < 1 sẽ không có tác dụng tóm tắt thông tin tốt hơn
biến gốc (biến tiềm ẩn trong các thang đo trước khi EFA). Vì thế, các nhân tố chỉ được
rút trích tại Eigenvalua ≥ 1 và được chấp nhận khi tổng phương sai trích ≥ 50%. Tuy
nhiên, trị số Eigenvalue và phương sai trích là bao nhiêu còn phụ thuộc vào phương
pháp trích và phép xoay nhân tố (Gerbing, D. W., & Anderson, J. C., 1988) . Nếu sau
phân tích EFA là phân tích hồi quy thì có thể sử dụng phương pháp trích Principal
components với phép xoay Varimax (Nguyen, V. K., 2018)
Các nhóm so sánh phải độc lập và được chọn một cách ngẫu nhiên.
Các nhóm so sánh phải có phân phối chuẩn hoặc cỡ mẫu phải đủ lớn để được
xem như tiệm cận phân phối chuẩn.
Phương sai của các nhóm so sánh phải đồng nhất. Lưu ý: nếu giả định tổng thể
có phân phối chuẩn với phương sai bằng nhau không đáp ứng được thì bạn có thể dùng
kiểm định phi tham số Kruskal - Wallis sẽ để thay thế cho ANOVA.
ANOVA test:
Đánh giá độ phù hợp (mức độ giải thích) của mô hình bằng hệ số xác định R 2 (R
Square). Tuy nhiên, R2 có đặc điểm càng tăng khi đưa thêm các biến độc lập vào mô
hình mặc dù không phải mô hình càng có nhiều biến độc lập thì phù hợp với tập dữ
liệu. Vì thế R2 điều chỉnh (Adjusted R Square) có đặc điểm không phụ thuộc vào số
lượng biến đưa thêm vào mô hình được sử dụng thay thế R 2 để đánh giá mức độ phù
hợp của mô hình hồi quy bội.
Để phân tích mối quan hệ của nhiều biến độc lập với một biến phụ thuộc, ta sử dụng
hồi quy đa biến.
Khi sử dụng hồi quy đa biến, các tham số cần được chú ý:
Kiểm định giả định hồi quy của mô hình: Giúp xác định giả thuyết phân phối chuẩn
có bị vi phạm hay không. Nếu giá trị trung bình Mean = 0 và giá trị Std.dev xấp xỉ bằng 1
thì mô hình không bị vi phạm phân phối chuẩn. Đồng thời xem xét đồ thị phân tán phần
dư để xác định có nhân tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến biến phụ thuộc hay không.
Kiểm tra hiện tượng tự tương quan:
Tương quan là hiện tượng các sai số ngẫu nhiên có mối liên hệ tương quan nhau, khi
đó có thể xảy ra hiện tượng tương quan. Hậu quả của tự tương quan các phân dư:
Các ước lượng OSL (Ordinary Least Square) vẫn là các ước lượng tuyến tính
không chênh lệch nhưng không hiệu quả (vì phương sai không nhỏ nhất).
Phương sai của các ước lượng là các ước lượng lệch vì vậy kiểm định T và F
không còn hiệu quả.
Các dự báo về biến phụ thuộc không chính xác.
Kiểm tra hiện tượng tự tương quan bằng kiểm định d của Durbin Watson. Nếu trị số
Durbin Watson nằm trong khoảng (1;3) thì ta có thể kết luận không xảy ra hiện tượng
tự tương quan và có thể sử dụng kết quả của mô hình hồi quy.
Tính phân phối chuẩn của phần dư là một trong những điều kiện quan trọng để các
giá trị mức ý nghĩa (p - value) trong các kiểm định thống kê như T - Test, F - Test có
ý nghĩa. Nếu phần dư không có phân phối chuẩn, có khả năng là mô hình đã thiếu đi
mất một biến độc lập quan trọng để giải thích cho biến phụ thuộc hoặc có một biến độc
lập sai dạng chức năng. Với mẫu số 400, việc phân phối chuẩn của phần dư sẽ được
kiểm tra bằng cách vẽ đồ thị P - P phần dư chưa chuẩn hóa thu được từ mô hình hồi
quy.
Kiểm định phương sai thay đổi:
Một trong những giả định quan trọng khi thực hiện hồi quy tuyến tính đó là phương
sai của biến phụ thuộc có các mức thay đổi bằng nhau tức là phương sai không đổi với
mỗi giá trị của các biến độc lập. Hậu quả của việc phương sai thay đổi tương tự như
hậu quả của sự tương quan. Kiểm định phương sai thay đổi bằng phương pháp Breusch
pangan nghĩa là thực hiện hồi quy từ phân dư thu từ mô hình hồi quy chính với các
biến độc lập của mô hình hồi quy chính.
6.1.2.5 Kiểm định sự khác biệt về hành vi sử dụng trà sữa Phúc Long theo đặc điểm
nhân khẩu học
Công cụ sử dụng là phép kiểm định Independent - Sample T-Test, phân tích phương
sai (Anova), kiểm định Kruskal - Wallis. Trong đó:
Independent - Sample T - Test được sử dụng trong trường hợp các yếu tố nhân khẩu
học có hai thuộc tính (chẳng hạn, giới tính bao gồm: giới tính nam và giới tính nữ), vì
thế chia tổng thể mẫu nghiên cứu làm hai nhóm tổng thể riêng biệt.
Phân tích phương sai (Anova) được sử dụng trong trường hợp các yếu tố nhân khẩu
học có ba thuộc tính trở lên, vì thế chia tổng thể mẫu nghiên cứu làm ba nhóm tổng thể
riêng biệt trở lên (chẳng hạn, độ tuổi bao gồm: Từ 12 - 18 tuổi; Từ 19 - 22 tuổi; Từ 23
- 27 tuổi). Điều kiện để thực hiện Anova là các nhóm so sánh phải độc lập và được
chọn một cách ngẫu nhiên; các nhóm so sánh phải có phân phối chuẩn hoặc cơ mẫu đủ
lớn để tiệm cận với phân phối chuẩn; phương sai của các nhóm so sánh phải đồng
nhất.
Kiểm định Kruskal - Wallis được sử dụng khi điều kiện để Anova không thỏa mãn,
trong đó trường hợp phổ biến là khi phương sai của các nhóm so sánh không đồng
nhất (Hoang, T & Chu, N. M. N, 2005).