You are on page 1of 17

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HCM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA GIÁO DỤC

MÔN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

BÀI TẬP NHÓM

TIỂU LUẬN

NGHIÊN CỨU NỀN GIÁO DỤC THÁI LAN VÀ BÀI HỌC


KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Phạm Lan Hương

Khóa: 14

Lớp: NVSP dành cho giáo viên CĐ-ĐH

Nhóm: 2.2

1
DANH SÁCH NHÓM

Nghề Phân
Họ tên Nơi làm việc Số ĐT Email
nghiệp loại
Nguyễn Thị Nhân viên
Ngân hàng Đại Á 0909029931 sala_dt@yahoo.com A
Quỳnh Như ngân hàng
Phạm Thanh Nhân viên
Ngân hàng Á Châu 0907600685 thanhnga0606@gmail.com A
Nga ngân hàng
Nguyễn Việt Chi cục thuế Bình
Nhân viên 0902900820 honganh.buh@gmail.com A
Hồng Anh Thạnh
Nguyễn Thị Công ty TNHH City
Nhân viên 0907111789 thuthanhqn@gmail.com A
Thu Thanh Garden VN
Trần Thị Kim Nhân viên Ngân hàng Quân
0908553714 kimoanhtdnh@gmail.com A
Oanh ngân hàng đội
Nguyễn Việt Nhân viên Sacombank Tân
0949557705 ngoclinh16111984@yahoo.com.vn A
Ngọc Linh kế toán Bình
Nguyễn Kiều Chưa đi
0906362682 kieungan27@yahoo.com A
Ngân làm
Nguyễn Xuân Nhân viên Ngân hàng
0906668410 quangfx@gmail.com A
Quang ngân hàng Eximbank (Hội sở)
Công ty TNHH
Nguyễn Thị
Kế toán KGL Việt Nam - 0985515425 Ngocsa.net26@gmail.com A
Ngọc Sa
CN Hồ Chí Minh
Công ty TNHH Tài
Nhân viên chính PPF Việt
Trần Bảo
phân tích Nam – toà nhà 0908075506 tbnguyen1304@gmail.com A
Nguyên
tín dụng Golden Building
194 Điện Biên Phủ

2
MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................3

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THÁI LAN...........................................................3

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NỀN GIÁO DỤC THÁI LAN.............................6

2.1. Về quản lý và cấu trúc tổ chức............................................................................7

2.1.1. Giáo dục mầm non và giáo dục cơ sở..............................................................8

2.1.2. Giáo dục đại học...............................................................................................9

2.1.3. Đào tạo giáo viên............................................................................................10

2.1.4. Giáo dục và Kế hoạch phát triển xã hội & kinh tế quốc dân lần thứ X (2007-
2011).........................................................................................................................11

CHƯƠNG 3: ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA NỀN GIÁO DỤC THÁI LAN..............26

CHƯƠNG 4: VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM........................................................29

3
MỞ ĐẦU

Toàn cầu hóa đã và đang trở thành một xu thế tất yếu trong bối cảnh thế giới
ngày nay. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Hội nhập mở ra cho Việt
Nam cơ hội giao lưu, học hỏi, tăng cường hợp tác trong tất cả các lĩnh vực để phát
triển toàn diện đất nước. Nhưng nó cũng đòi hỏi chúng ta phải tích cực phấn đấu để
đáp ứng được các tiêu chuẩn chung của quốc tế, đồng thời phải giữ vững được bản
sắc dân tộc và chủ quyền của đất nước. Để đạt được điều này, bên cạnh việc có các
chính sách đúng đắn, một lộ trình phù hợp, thì việc cải cách toàn diện nền giáo dục
hiện tại cũng là một vấn đề cần đặt ra. Nền giáo dục Việt Nam tuy đã có bước phát
triển và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong thời gian gần đây, nhưng bên
cạnh đó cũng còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Trước yêu cầu hội nhập, nâng cao trình
độ của lực lượng lao động là vấn đề mang tính cấp thiết và sống còn để đáp ứng
được các tiêu chuẩn của quốc tế và giúp kinh tế Việt Nam phát triển và đứng vững
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt.

Để cải cách giáo dục, bên cạnh việc có một chính sách đúng đắn thì việc trao
đổi, hợp tác về giáo dục cũng như nghiên cứu về các nền giáo dục trên thế giới để
học hỏi, rút kinh nghiệm và áp dụng vào Việt Nam cũng là một giải pháp để xem
xét. Nhất là với các nền giáo dục của khu vực Đông Nam Á, là nơi có nhiều điểm
tương đồng về kinh tế- văn hóa- xã hội sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc rút
kinh nghiệm và học hỏi cách làm của họ để ứng dụng vào điều kiện Việt Nam.

Thái Lan là quốc gia láng giềng trong khu vực Đông Nam Á, là đất nước có
sự tương đồng nhất định về mặt văn hóa và không có sự chênh lệch quá mức về trình
độ phát triển. Nền giáo dục Thái Lan cũng có sự tương đồng với giáo dục Việt Nam,
với những ưu- nhược điểm gần tương tự. Do đó, nghiên cứu nền giáo dục Thái Lan
sẽ giúp các nhà giáo dục Việt Nam có sự đối chiếu, so sánh, rút kinh nghiệm và vận
dụng vào điều kiện Việt Nam tương đối tốt. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
tập trung nghiên cứu các vấn đề về bình đẳng giáo dục và chất lượng giáo dục ở Thái
Lan, tổng quan về bối cảnh quốc gia cũng như hệ thống giáo dục, đặc biệt tập trung
vào giáo dục tiểu học, giáo dục cơ bản, giáo dục đại học và đào tạo giáo viên của
Thái Lan, tiến độ đạt được của 6 mục tiêu giáo dục sau đó được phân tích, cùng với

1
các yếu tố có thể thúc đẩy và cản trở tiến bộ của giáo dục. Từ đó sẽ rút ra được các
ưu, nhược điểm và ứng dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THÁI LAN
Thái Lan (tên chính thức: Vương quốc Thái Lan), là một quốc gia nằm ở vùng
Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanma, phía đông giáp Lào và Campuchia,
phía nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía tây giáp Myanma và biển Andaman.
Lãnh hải Thái Lan phía đông nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía
tây nam giáp với lãnh hải Indonesia và Ấn Độ ở biển Andaman.

Thái Lan là một quốc gia quân chủ lập hiến đứng đầu là vua Bhumibol
Adulyadej lên ngôi từ năm 1946, vị nguyên thủ quốc gia tại vị lâu nhất trên thế giới
và vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Thái Lan. Vua Thái Lan theo nghi thức là
nguyên thủ, tổng tư lệnh quân đội và nhà lãnh đạo tinh thần Phật giáo của đất nước.
Thủ đô Băng Cốc là thành phố lớn nhất và là trung tâm chính trị, thương mại, công
nghiệp và văn hóa.

Với dân số chỉ hơn 66,5 triệu người, Thái Lan là một nước chủ yếu theo Phật
giáo (chiếm 94,6% dân số). Khoảng 75% dân số là dân tộc Thái, 14% là người gốc
Hoa và 3% là người Mã Lai, phần còn lại là những nhóm dân tộc thiểu số như Môn,
Khmer và các bộ tộc khác. Có khoảng 2,2 triệu người nhập cư hợp pháp và bất hợp
pháp ở Thái Lan. Khoảng 4,6% dân số là người Hồi giáo, sinh sống chủ yếu ở các
tỉnh phía nam. Một số tỉnh, thành phía nam Chumphon (cách Bangkok 463 km về
phía tây nam) là điạ bàn cư trú chủ yếu của người Hồi giáo. Họ thường tập trung
thành những cộng đồng tách riêng với các cộng đồng khác. Trong khi dân số theo
đạo Thiên Chúa chỉ chiếm con số rất nhỏ (khoảng 0,71%) sống chủ yếu ở Bangkok
và các tỉnh phía Bắc.

Tiếng Thái là ngôn ngữ hành chính tại Thái Lan, có bảng chữ cái riêng, tồn tại
những thứ ngôn ngữ khác, cũng như tiếng địa phương chủ yếu là tiếng Isan hoặc
tiếng Môn–Khmer. Dân cư Thái Lan chủ yếu là những người nói tiếng Thái. Trong
đó gồm có tiếng Trung Thái, tiếng Xiêm, tiếng Đông Bắc Thái hay tiếng Isan còn
gọi là tiếng Lào, tiếng Bắc Thái hay tiếng Lanna cũng gọi là tiếng Lào, và tiếng Nam
Thái, tiếng Mã Lai. Người Thái tuy chỉ chiếm khoảng 1/3 dân số, đứng sau những
người đông bắc Thái, nhưng là nhóm người đã từ lâu chi phối kinh tế, chính trị và
văn hóa Thái Lan. Nhờ sự thống nhất trong hệ thống giáo dục, nhiều người Thái có

3
thể nói tiếng Xiêm như tiếng địa phương của họ.Đồng thời tiếng Anh được giảng
dạy rộng rãi tại Thái Lan, nhưng mức độ thành thạo thấp.

Kinh tế Thái Lan phát triển nhanh từ 1985 đến 1995 và trở thành một quốc
gia công nghiệp mới trong đó du lịch với những điểm đến nổi tiếng như Ayutthaya,
Pattaya, Bangkok, Phuket, Krabi, Chiang Mai, và Ko Samui và xuất khẩu đóng góp
lớn cho nên kinh tế.

GDP của Thái Lan vào khoảng 273 tỷ USD, GDP tính trên đầu người khoảng
$8,013 (Viện quốc tế về quản lý phát triển [IMD], 2009). Trong cuốn Niên giám
cạnh tranh Thế giới (WCY) xuất bản hàng năm, đo lường khả năng cạnh tranh của
một quốc gia, về tăng trưởng và hiệu quả kinh tế cũng như các nhân tố mềm về khả
năng cạnh tranh, chẳng hạn như môi trường, chất lượng cuộc sống, công nghệ và
giáo dục, IMD (2009) đã xếp Thái Lan hạng thứ 26 trên 57 nền kinh tế. Các nước
khác trong khu vực, như Singapore (hạng thứ 3), Malaysia (18), Indonesia (42) và
Philippines (thứ 43).

Thái Lan tham gia đầy đủ các tổ chức quốc tế và tổ chức trong vùng. Gần đây,
Thái Lan trở thành một thành viên tích cực trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), đặc biệt là sau khi chế độ dân chủ được tái lập sau năm 1992. Thái Lan
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 6 tháng 8 năm 1976.

Về đối ngoại, Chính phủ của Thủ tướng Abhisit chủ trương tăng cường quan
hệ với tất cả các nước, tích cực phát huy vai trò của Thái Lan trong khu vực và quốc
tế (Thủ tướng Abhisit đã thăm Trung Quốc, Lào, Campuchia, Nhật Bản, Indonesia,
Malaysia, Singapore, Anh và sắp tới sẽ đi thăm Châu Âu và Bắc Mỹ); tích cực tham
gia các hợp tác khu vực và tiểu vùng (GMS, ACMECS, EWEC,…). Với cương vị
Chủ tịch ASEAN nhiệm kỳ 2008 - 2009, Thái Lan đã tổ chức thành công Hội nghị
Cấp cao ASEAN 14 (từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 10 tháng 3 năm 2009), Hội nghị
Ngoại trưởng ASEAN (ngày 16-23 tháng 7 năm 2009) và Hội nghị Cấp cao ASEAN
và các nước đối tác (tháng 10 năm 2009). Tuy nhiên hiện nay, quan hệ Thái Lan -
Campuchia còn là vấn đề nan giải, gây quan ngại cho nhiều nước.

Không giống như các quốc gia khác trong khu vực, nhờ chính sách ngoãi giao
mềm dẻo, Thái Lan chưa bao giờ bị là thuộc địa của các cường quốc nước ngoài. Nói

4
chung, Thái Lan là một quốc gia tương đối đồng nhất và hòa bình. Tuy nhiên gần
đây tình trạng bạo lực xảy ra tại ba tỉnh Hồi giáo ở cực nam, cụ thể là Yala, Pattani
và Narathiwat, cũng như tình trạng bất ổn chính trị đang diễn ra ở thủ đô Bangkok.

Theo Báo cáo Phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên Hiệp
Quốc (UNDP, 2007a), đo lường mức độ phát triển của một quốc gia thông qua việc
sử dụng ba tiêu chí cơ bản là tuổi thọ, giáo dục và các tiêu chuẩn sống, Thái Lan
được xếp hạng thứ 78 về chỉ số phát triển con người (HDI), xếp sau Singapore (25),
Brunei (30) và Malaysia (thứ 63). Ba quốc gia này được xếp vào nhóm có chỉ phát
triển con người cao. Các nước khác trong khu vực như Philippines (90), Việt Nam
(105), Indonesia (107), Lào (130), Campuchia (131 ), Myanmar (132) và Timor-
Leste (150), được xếp cùng loại với Thái Lan, nhóm có mức chỉ số trung bình.

5
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NỀN GIÁO DỤC THÁI LAN
Giống như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Thái Lan rất coi trọng việc phát
triển giáo dục và đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực này. Tuy nhiên do
những hạn chế về địa hình và lịch sử, nền giáo dục của Thái Lan còn gặp phải nhiều
vấn đề nan giải.
Bộ máy thể chế giáo dục Thái Lan: chủ yếu dựa vào ba cơ quan chức năng
chính đó là Ủy ban Giáo dục Quốc gia, Bộ Giáo dục và Bộ Đại học. Trong đó Ủy
ban Giáo dục Quốc gia chịu trách nhiệm về các chính sách đối với ngành Giáo dục,
các kế hoạch và nghiên cứu Giáo dục cấp quốc gia; Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm về
việc phân chia cấp học, các hình thức đào tạo khác nhau trên toàn đất nước; Bộ Đại
học có trách nhiệm pháp lý đối với các trường Đại học công lập. Ngoài ra đối với
một số trường chuyên ngành thì tuỳ thuộc vào ngành đào tạo mà sẽ trực thuộc Bộ
Nội vụ, Bộ Quốc phòng hay Bộ Giao thông vận tải
Kể từ năm 1960, Thái Lan đề ra nhiệm vụ quan trọng chính trong chính sách
phát triển đất nước là phát triển giáo dục kết hợp hài hoà với các chính sách kinh tế
và chính trị.
Năm 1977, chính phủ áp dụng những thay đổi hệ thống giáo dục trong nước:
Yêu cầu thời gian học là 6 năm cấp tiểu học, 3 năm cấp 2 sơ cấp và 2 năm cấp 2 cao
cấp. Cuối cùng là hình thức giáo dục bậc cao.
Trước khi được vào học tại bất cứ một trường đại học công lập nào, học sinh
phải tham dự vào một kỳ thi đại học do Bộ Giáo dục tổ chức. Đây là một cuộc cạnh
tranh về tri thức gay gắt được tổ chức vào tháng 4 hàng năm.
Tạo lập được hệ thống giáo dục hiện đại như ngày nay đã minh chứng cho
những nỗ lực đáng kể của các nhà lãnh đạo Thái Lan. Với hệ thống giáo dục này,
Thái lan đáp ứng đáng kể yêu cầu phát triển về mặt công nghệ và phát triển ngành
công nghiệp của đất nước.
Tuy nhiên, giáo dục Thái Lan còn chưa phát triển đồng đều. Theo ước tính
của Bộ Giáo dục Thái Lan những năm gần đây, có khoảng 3 triệu/ 62 triệu người dân
Thái Lan mù chữ (tức tỷ lệ người biết chữ ở Thái Lan là 95%). Thêm vào đó là
khoảng cách về tốc độ phát triển giáo dục giữa các vùng miền còn quá chênh lệch.
Thành phố và các vừng kinh tế phát triển thì nhu cầu học lên cao ngày càng lớn,

6
trong khi ở vùng sâu vùng xa tỷ lệ thất học gần như 100%. Đây là một thách thức
khó khăn đối với đất nước Thái Lan trên con đường phổ cập tri thức giáo dục.
Tại Thái Lan có một số cơ sở đào tạo uy tín; đặc biệt là Viện Công Nghệ
Châu á (AIT), ra đời vào năm 1959. Với tư cách là một trường đào tạo chương trình
sau đại học, trường đã và đang đáp ứng nhu cầu đào tạo về công nghệ tiên tiến cho
các nước trong khu vực Châu Âu. Học tập tại AIT là sinh viên đến từ hơn bốn mươi
quốc gia khác nhau, chủ yếu là các nước ở Châu á. Đông nhất vẫn là sinh viên Thái
Lan và sau đó là sinh viên Việt Nam. Các giáo sư cũng đến từ nhiều nước khác nhau,
do đó tiếng Anh được sử dụng chung khi lên lớp. Ngoài ra, AIT còn có các chi
nhánh trực thuộc phối hợp đào tạo, như Viện Công nghệ Châu á tại Việt Nam, trung
tâm tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Đặc điểm giáo dục Thái Lan khá tương đồng với Việt Nam về mặt số năm
đào tạo, công tác quản lý, ở bậc đại học số năm đào tạo tương đồng nhau ở một số
các ngành nghề.

2.1. Về quản lý và cấu trúc tổ chức


Bộ Giáo dục (được thành lập vào năm 1892 và trước năm 1887 được xem như bộ
phận quản lý giáo dục) chịu trách nhiệm về mặt giáo dục ở Thái Lan. Bộ bao gồm 05
Văn phòng chính: Văn phòng Thư ký thường trực là bộ phận chính chịu trách nhiệm
về "cung cấp cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục thông tin để xây dựng và thực hiện các
chính sách về hỗ trợ và quản lý ngân sách và bao gồm cả việc thẩm định các dự án
giáo dục”. Văn phòng cũng hoạt động như "một đơn vị phối hợp trong quản lý và
hợp tác với các Bộ khác và văn phòng chính phủ (Bộ Giáo dục, 2008b, trang 7). Văn
phòng của Hội đồng Giáo dục (OEC) là “đơn vị xây dựng các chính sách phát triển
chính cho các kế hoạch và thiết lập các tiêu chuẩn giáo dục quốc gia. OEC cũng chịu
trách nhiệm nghiên cứu và đánh giá giáo dục (Bộ GD, 2008b, trang 7).

Văn phòng của Ủy ban Giáo dục cơ bản (OBEC) duy trì 'sự liên tục của các hoạt
động để đạt hiệu quả trong chính sách dành cho phát triển xã hội và cũng như thực
hiện các chính sách của Bộ Giáo dục. OBEC đánh giá kết quả hoạt động thực hiện
qua tất cả các lĩnh vực giáo dục, sau đó đưa ra những cải tiến trong công việc dựa
trên các chính sách "(Bộ Giáo dục.2008b, trang 7).

7
Văn phòng Ủy ban Giáo dục Đại học (OHEC), hay còn gọi là Bộ Đại học Nội vụ,
chịu trách nhiệm về giáo dục ở cả hai trình độ đại học và sau đại học. OHEC có
'quyền xây dựng chiến lược, quản lý và thúc đẩy giáo dục đại học đối với vấn đề
quyền tự do học thuật (tức là tự do dạy và thảo luận các vấn đề giáo dục không có sự
can thiệp của các nhà chính trị) và bằng cấp của các tổ chức (Bộ GD, 2008h, trang
8).

Văn phòng Ủy ban Giáo dục Dạy nghề có trách nhiệm về “học nghề và các khóa
học chuyên sâu dài hạn. Giáo dục và đào tạo kỹ thuật, dạy nghề được cung cấp thông
qua hệ thống trường học chính thức, trong cả hai loại hình giáo dục cơ bản và dạy
nghề, cũng như thông qua các hình thức giáo dục không chính quy (Bộ GD, 2008b,
trang 8). Không giống như trong quá khứ, những nỗ lực đã được thực hiện gần đây
để đảm bảo rằng chồng chéo trách nhiệm giữa các cơ quan khác nhau là cần tránh.

2.1.1. Giáo dục mầm non và giáo dục cơ sở


Hệ thống giáo dục Thái Lan bao gồm 12 năm giáo dục cơ bản miễn phí: sáu năm
Prathotn (hoặc giáo dục tiểu học, P 1 tới P6), ba năm Mattayom Ton (hoặc học trung
học cơ sở, M1 tới M3), và ba năm Mattayom Plai (hoặc giáo dục phổ thông M4 tới
M6). Mattayom Plai được chia thành học thuật và học nghề. Sinh viên chọn học
thuật thường dự thi vào một trường đại học. Các trường dạy nghề đưa ra các chương
trình học giúp người học chuẩn bị cho một nghề nghiệp hoặc học lên cao hơn. giáo
dục phổ cập kéo dài chín năm, bao gồm Prathom và Mattayom Ton. Ngoài 12 năm
học cơ bản miễn phí, năm 2009 chính phủ quyết định mở rộng chương trình giáo dục
miễn phí bao gồm ba năm giáo dục tuổi thơ (đối với nhóm tuổi 3 đến 5). Chi tiết
thêm về chương trình này sẽ thảo luận sau trong chương này.

Hệ thống giáo dục Thái Lan hiện nay bắt nguồn từ những cải cách của Luật
Giáo dục quốc gia năm 1999, thực hiện tổ chức mới cơ cấu, đẩy mạnh việc phân cấp
quản lý và kêu gọi phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm sáng tạo.
Những thay đổi đáng kể trong các cơ cấu quản lý và điều hành đã diễn ra từ năm
2002 theo yêu cầu để nhân rộng vai trò và trách nhiệm của Bộ giáo dục. Điều quan
trọng là bất kể như thế nào thì về phân cấp trách nhiệm quản lý đến địa phương với
sự củng cố lập kế hoạch giáo dục ở cấp trung ương. Kết quả là, 175 Giáo dục Khu

8
vực (ESAs) đã được thành lập vào năm 2003, sau đó tăng lên 185 trong năm 2008.
Các lĩnh vực chính đã được chuyển từ Bộ Giáo dục tới ESAs về phạm vi học tập,
ngân sách và nguồn nhân lực (OEC, 2006). Quản lý giáo dục phân cấp ở Thái Lan
không phải luôn luôn được vận hành trôi chảy như những gì đã được hy vọng. Nó
được thừa nhận rộng rãi rằng nhiều cán bộ quản lý cấp tại

ESAs vẫn chưa thấy được vai trò và trách nhiệm của họ. Hơn nữa, kể từ khi phân
cấp quản lý giáo dục là một hiện tượng của quốc gia, đa số những người tham gia
trong các hoạt động của ESAs (tức là công chức) được cho vẫn tán thành tâm lý
truyền thống "nhận được" yêu cầu từ Trung ương. Tương tự như vậy, chính phủ vẫn
được sử dụng để 'cho' yêu cầu ESAs, và thất bại trong việc phân cấp quản lý giáo
dục của mình (OEC, 2006).

Cải cách chương trình giảng dạy mới nhất tại Thái Lan đã được đưa ra vào
năm 2008, cung cấp một chương trình giảng dạy cho mỗi môn trong tám môn học
chính: tiếng Thái, toán học, khoa học, xã hội, tôn giáo và văn hóa, y tế và giáo dục
thể chất, nghệ thuật, nghề nghiệp và công nghệ, ngôn ngữ trong và ngoài nước (Bộ
GD, 2008a). Đối với từng đối tượng và cho mỗi cấp lớp (P1- M6), các chương trình
học đặt ra những gì học sinh nên được dạy, và đạt được mục tiêu đề ra đó là các tiêu
chuẩn mong đợi của hoạt động dành cho học sinh. Theo Bộ Giáo dục (2008h, trang
3.): “Tính linh hoạt được xây dựng dựa vào chương trình giảng dạy để tích hợp trí
tuệ và văn hóa địa phương, do đó nó là phù hợp với bộ tiêu chuẩn học tập trong mỗi
nhóm môn học chính. Thúc đẩy các kỹ năng tư duy, chiến lược tự học và phát triển
đạo đức là trung tâm của việc dạy và học trong chương trình giảng dạy quốc gia Thái
Lan. Trong chương này, tác giả, dựa trên công việc trước đây của ông, lập luận rằng
việc cố gắng cải cách dạy và học ở Thái Lan có thể bị cản trở bởi một số các yếu tố
văn hóa xã hội Thái.

2.1.2. Giáo dục đại học


Hiện tại, để tốt nghiệp trung học, học sinh cần phải đạt CUAS (Hệ thống chấp
nhận nhập học của các trường đại học trung tâm), bao gồm 50% kết quả ONET (Trắc
nghiệm giáo dục quốc gia cơ bản) và kết quả ANET (Trắc nghiệm giáo dục quốc gia
tiên tiến) và 50% còn lại là điểm trung bình của 3 năm cuối trung học cơ sở. Phương

9
pháp trắc nghiệm năng lực mới được ban hành vào tháng 03.2009 và được sự giám
sát của Viện Khảo thí Giáo dục (NIETS) để thay thế cho A-NET. Phương pháp trắc
nghiệm mới bao gồm trắc nghiệm năng lực tổng quát bắt buộc, trong đó bao gồm
đọc, viết, tư duy phân tích, giải quyết vấn đề và giao tiếp tiếng Anh; và trắc nghiệm
năng lực cá nhân tự nguyện, thí sinh có thể lựa chọn một trong 7 chủ đề. Cả hai loại
trắc nghiệm năng lực có thể được tiến hành tối đa là ba lần, và tính điểm của lần tốt
nhất (NIETS, 2009).

Hầu hết các khóa học Cử nhân là bốn năm học toàn thời gian. Riêng ngành
dược và kiến trúc sư yêu cầu học 5 năm; nha sĩ, bác sĩ y khoa và bác sĩ thú y yêu cầu
học 6 năm. Bậc thạc sĩ yêu cầu học 1 hoặc 2 năm và được công nhận dựa trên các
chứng chỉ học phần kèm với 1 luận văn hoặc 1 kỳ thi tốt nghiệp. Sau khi hoàn tất bậc
thạc sĩ, học viên có thể tham gia dự tuyển vào chương trình học 2 năm hay 5 năm
của bậc tiến sĩ. Bậc tiến sĩ được công nhận dựa trên khoá học, các bài nghiên cứu và
bảo vệ thành công 1 luận án (Fry, 2002).
Trong số 165 trường đại học ở Thái Lan, có 65 ltrường đại học công lập và 13
trường đại học công lập tự chủ (Ủy ban giáo dục đại học, 2009). Trong những năm
gần đây, đã có nhiều trường đại học công lập trở thành đại học công lập tự chủ,
nhằm nâng cao hiệu quả trong học tập, quản lý nhân viên và tài chính. Xu hướng
này, theo Bovornsiri (1998), là một phần của hợp đồng tín dụng phục vụ giáo dục đại
học ký kết với Ngân hàng Phát triển Châu Á, trong đó đòi hỏi việc tách các trường
đại học nhà nước ra khỏi hệ thống dịch vụ dân sự của Thái Lan.

2.1.3. Đào tạo giáo viên


Việc đào tạo giáo viên hoặc do các trường đại học của Vụ Đại học trực thuộc
Bộ hoặc do các trường đại học sư phạm đảm nhiệm, và nhiều giáo viên bây giờ đã
trở thành các Rajaphat (học giả của nhà vua). Các trường Đại học này được quản lý
bởi bộ phận đào tạo giáo viên của Bộ Giáo dục. Chương trình bao gồm các khóa học
về phương pháp giảng dạy, quản lý lớp học, chuyên môn bắt buộc, giám sát kinh
nghiệm giảng dạy thực tế, và các đối tượng giáo dục phổ thông.

10
Hoàn thành chương trình trung học phổ thông (Mathayom 6) là yêu cầu bắt
buộc để được tham gia các chương trình đào tạo giáo viên cơ bản. Các giáo viên tiểu
học và trung học phải hoàn thành một chương trình hai năm để được tham gia học
lấy các chứng chỉ hoặc văn bằng giáo dục cao hơn. Để dạy học ở cấp trung học phổ
thông, yêu cầu tối thiểu là phải có bằng Cử nhân giáo dục theo chương trình 4 năm,
do các trường đại học sư phạm hoặc đại học giáo dục cấp. Những người có bằng cử
nhân trong các lĩnh vực khác phải tham gia một khóa học toàn thời gian một năm để
hoàn thành bằng Cử nhân Giáo dục (Văn phòng dịch vụ thương mại, 2002).

Nhiều giáo viên công lập ở Thái Lan bị thu hút vào công việc này vì sự đảm
bảo về việc làm, lương hưu và sự tôn trọng xã hội cao đối với nghề nghiệp. Tuy
nhiên, có rất ít sự khuyến khích về mặt tài chính khi giảng dạy trong một trường
công lập. Lương giáo viên đặc biệt thấp khi so sánh với các ngành nghề khác. Nhiều
giáo viên mới ra trường, thay vào đó, lựa chọn làm việc trong khu vực tư nhân là nơi
có mức lương thưởng tốt hơn, điều này dẫn đến kết quả là việc thiếu giáo viên và
tình trạng quá tải của các lớp học ở một số trường công lập (Pillay, 2002).

2.1.4. Giáo dục và Kế hoạch phát triển xã hội & kinh tế quốc dân lần thứ
X (2007- 2011)
Kế hoạch phát triển xã hội & kinh tế quốc dân lần thứ X là một kế hoạch
chiến lược năm năm (2007- 2011), dựa trên một tầm nhìn chung của xã hội Thái Lan
nhằm xây dựng một " xã hội xanh và hạnh phúc ", nơi mà người dân Thái Lan được
ưu đãi bởi đạo đức, dựa trên kiến thức và sự kiên cường chống lại các tác động tiêu
cực của toàn cầu hóa "(Bộ GD, 2008b, trang 9). Mục tiêu chính của Kế hoạch phát
triển quốc gia là tăng cường khả năng cải thiện chất lượng cuộc sống của người Thái.
Theo Văn phòng Ủy ban Phát triển Kinh tế Xã hội Quốc gia (2009), Kế hoạch lần
thứ X đặt ra 4 mục tiêu liên quan đến giáo dục:

1. Tăng thời gian trung bình của giáo dục người dân nhận được lên 10 năm.
2. Cải thiện điểm thi (cao hơn 55%) trong các môn chính. tại tất cả các cấp.
3. Nâng tỷ lệ lực lượng lao động trung cấp lên 60% lực lượng lao động của quốc gia.
4. Tăng tỷ lệ điều tra viên dân số lên 10:10.000.

11
Chính phủ quyết tâm đạt được các mục tiêu này bằng cách đầu tư cho việc
nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống giáo dục, giải quyết việc đào tạo và phát
triển giáo viên, chương trình giảng dạy, truyền thông giáo dục và công nghệ thông
tin, với hy vọng cải thiện điểm thi cao hơn 55% trong các môn chính ở tất cả các
cấp. Nó cũng nhằm mục đích đảm bảo rằng tất cả các công dân Thái Lan đều có
quyền được hưởng tối thiểu là 12 năm giáo dục cơ bản và miễn phí, cũng như tăng
cường tiếp cận giáo dục hơn nữa thông qua các chương trình tín dụng cho sinh viên,
và cung cấp học bổng bổ sung cho cả các chương trình giáo dục trong và ngoài nước.
Chính phủ hy vọng rằng những chiến lược trên sẽ giúp đảm bảo rằng thời gian trung
bình của giáo dục mà mỗi công dân Thái Lan nhận được sẽ tăng lên đến 10 năm, và
giúp đẩy mạnh việc đào tạo các sinh viên tốt nghiệp có kiến thức và kỹ năng, gia
tăng số lượng của lực lượng lao động trung cấp. Hơn nữa, chính phủ đặt mục tiêu
phát triển các tiêu chuẩn tổ chức giáo dục đại học để "đảm bảo ở một mức độ cao các
dịch vụ khoa học và chuyên nghiệp, nhằm đạt được sự xuất sắc trong nghiên cứu và
đổi mới, đào tạo và phát triển một lực lượng lao động tương ứng với những thay đổi
về cơ cấu trong lĩnh vực dịch vụ và sản xuất, đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng
lao động chất lượng cao với con đường sự nghiệp rõ ràng để nâng cao năng lực cạnh
tranh của đất nước trong nhiều ngành” (Bộ GD, 2008b, trang 9). Hơn nữa, bằng cách
tập trung hơn vào việc cải thiện tiếp cận và chất lượng giáo dục đại học, chính phủ
hy vọng sẽ đáp ứng một trong các mục tiêu là tăng tỷ lệ điều tra viên dân số lên
10:10.000. Rõ ràng, giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ Thái
Lan phát triển cả về mặt xã hội và kinh tế. Chính phủ thừa nhận điều này và đã đầu
tư vào giáo dục là một phần trong chính sách của mình.
Tải bản FULL (38 trang): https://bit.ly/3y6TZWO
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
2.2. Sự bình đẳng và chất lượng giáo dục
2.2.1. Sự bình đẳng trong giáo dục
Thực hiện bình đẳng trong giáo dục ở đây để chỉ sự tiếp cận nền giáo dục
trong việc xem xét số lượng người học từ bậc mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học cho đến giáo dục ở bậc đại học. Tỷ lệ nhập học theo độ tuổi (GER) và tỷ lệ
nhập học theo đúng độ tuổi cho một trình độ giáo dục nhất định (NER) được thông
qua ở bất cứ nơi nào có thể như là các chỉ số chính trong việc tiếp cận giáo dục.

12
Dựa vào số liệu thu thập được vào năm 2005 và 2006 bởi Văn phòng đại diện
của Hội đồng giáo dục (2007), người ta đã thảo luận, nghiên cứu tổng quan về sự
bình đẳng giáo dục trong khu vực và toàn bộ lãnh thổ ở Thái Lan.
Tiếp cận với giáo dục mầm non (từ 3 đến 5 tuổi). Vào năm 2005, đã có
2,410,120 trẻ em Thái Lan nằm trong độ tuổi mầm non của quốc gia, từ 3 đến 5 tuổi.
Khoảng 1,776,786 trẻ em được nhập học theo chương trình mầm non trên toàn quốc,
nhưng trong số đó chỉ có 1,296,868 em thực sự nằm trong độ tuổi từ 3 đến 5. Số còn
lại nhỏ hơn 3 tuổi hoặc lớn hơn 5 tuổi một chút. Từ những thống kê trên, chúng ta có
thể tính được tỷ số GER hay còn gọi là “tỷ lệ nhập học theo một mức độ nhất định
trong nền giáo dục, bất kể tuổi tác” (theo UNESCO, 2008, trang 409) trong giáo dục
mầm non bằng cách chia tổng số trẻ em được nhập học trường mầm non (tức là
1,770,786 em) cho tổng số trẻ em trong độ tuổi đi học mầm non (tức là 2,410,120
em) và nhân với 100 để chuyển đổi kết quả sang tỷ lệ phần trăm. Theo đó, năm 2005
tỷ số GER ở giáo dục mầm non tại Thái Lan là 73.72%. Dựa vào những con số thống
kê đã cho, ta có thể tính toán được tỷ số NER, “tỷ lệ nhập học theo đúng độ tuổi cho
một trình độ giáo dục nhất định, thể hiện qua tỷ lệ của người nhập học trong độ tuổi
đó” (theo UNESCO, 2008, trang 411). Ta có thể lấy tổng số trẻ em hiện tại thực sự
nằm trong độ tuổi theo chương trình mầm non (tức là 1,296,868 em) chia cho tổng
số trẻ em trong độ tuổi đi học mầm non (tức là 2,410,120 em) và nhân với 100 để
chuyển đổi kết quả sang tỷ lệ phần trăm. Tiếp đó, con số NER năm 2005 trong giáo
dục mầm non có thể thấp ở mức 53.81%. Nếu chúng ta chọn tỷ số NER như là một
chỉ số đo lường mức độ bình đẳng trong giáo dục mầm non ở Thái Lan thì Thái Lan
cũng phải mất một chặng đường dài để đảm bảo phần trẻ em còn lại khoảng 46.19%
trẻ em được học nhập học theo chương trình mầm non quốc gia đúng độ tuổi. Xu
hướng này cũng được thể hiện tại một số khu vực khác, ngoại trừ Bangkok và một số
vùng lân cận của nó (Xem Bảng I). Khu vực chậm trong việc tiếp cận việc bình đẳng
trong giáo dục mầm non là vùng đông bắc Thái Lan, nơi mà một số lượng lớn các
tỉnh thành có chỉ số thành đạt của con người thấp và rất thấp (theo Chương trình phát
triển liên Hợp Quốc, 2007b).

GER Xếp NER Xếp

13
hạng hạng
Bangkok và các vùng lân cận 75.92 3 70.29 1
Khu vực trung tâm 79.28 2 54.62 3
Khu vực phía Đông 80.66 1 57.98 2
Khu vực phía Bắc 72.92 5 54.47 4
Khu vực Đông Bắc 69.48 6 46.13 6
Khu vực phía Nam 75.34 4 52.78 5
Ba tỉnh thuộc cực Nam (Pattani, Yala và 72.18 51.25
Narathiwat)
Tổng cộng 73.72 53.81
Bảng I: Tỷ số GER và NER tại Thái Lan năm 2005 ở trình độ mầm non
Tiếp cận giáo dục tiểu học (độ tuổi từ 6 đến 11). Trong 2006, đã có khoảng
5,609,712 trẻ em Thái Lan thuộc lứa tuổi học tiểu học của quốc gia, từ 6 đến 11 tuổi.
Khoảng 5,693,040 trẻ em khắp cả nước đã được nhập học ở bậc tiểu học, nhưng chỉ
có 4,973,682 em trong số đó là nhập học đúng với độ tuổi học tiểu học. Số còn lại
nhỏ hơn 6 tuổi hoặc lớn hơn 11 tuổi một chút. Dựa vào thống kê trên, tỷ số GER và
NER trong bậc giáo dục tiểu học ở Thái Lan năm 2006 là khoảng 101.49% và
88.66% (xem bảng II)
GER Xếp NER Xếp
hạng hạng
Bangkok và các vùng lân cận 106.92 2 90.43 4
Khu vực trung tâm 105.95 3 90.43 3
Khu vực phía Đông 111.89 1 96.93 1
Khu vực phía Bắc 102.00 5 88.76 5
Khu vực Đông Bắc 94.47 6 82.40 6
Khu vực phía Nam 104.39 4 96.18 2
Ba tỉnh thuộc cực Nam (Pattani, Yala và 104.19 91.02
Narathiwat)
Tổng cộng 101.49 88.66
Bảng II: Tỷ số GER và NER tại Thái Lan năm 2005 ở trình độ tiểu học
Tiếp cận giáo dục trung học (độ tuổi từ 12 đến 17 tuổi). Trong năm 2006, có
khoảng 5,663,529 học sinh Thái Lan thuộc lứa tuổi học trung học, từ 12 đến 17 tuổi.
Khoảng 4,650,554 em được nhập học ở các trường trung học trong cả nước nhưng
chỉ có 4,334,143 trong số đó là nhập học đúng với độ tuổi học trung học. Phần còn
lại nhỏ hơn 12 tuổi hoặc lớn hơn 17 tuổi một chút. Dựa vào thống kê trên, tỷ số GER
và NER của giáo dục trung học lần lượt khoảng 82.11% và 76.53% (xem bảng III).
GER Xếp NER Xếp

14
4170816

You might also like