Professional Documents
Culture Documents
Sự Thất Bại Trong Sinh Sản Ở Gia Súc Cái
Sự Thất Bại Trong Sinh Sản Ở Gia Súc Cái
Suốt thời gian thuần hóa vật nuôi, con người đã dần dần chuyển đổi quá trình sinh sản
của các vật nuôi trong nông trại từ chăng thả trên đồng cỏ, chăn nuôi theo thời vụ đến
những sản xuất mạnh mẽ, theo các hệ thống chăn nuôi quanh năm. Kết quả là có sự ảnh
đến sự sinh sản của vật nuôi thường là bị suy tàn do các yếu tố môi trường và những
nhu cầu về sản xuất kinh tế. Những nhân tố này có thể là kết quả của một phần hay toàn
phần về những thất bại trong sự sinh sản. Sự vô sinh là một yếu tố kéo dài cản trở sự
sinh đẻ, và sự tồn tại của chúng hay sự vô sinh tạm thời ngăn cản sự sản suất ở những
con vật hậu bị trong thời gian sinh đẻ của loài. Chương này giải thích về thời kỳ sinh
sản mà trong thời kỳ này, những cá thể dễ bị tấn công nhất là đang trong chu kỳ động
dục, mang thai, sinh đẻ và chỉ ra cách cân bằng hormone, sự lây lan của bệnh truyền
nhiễm hay những bất lợi bên ngoài môi trường và yếu tố di truyền có ảnh hưởng (bđ-1).
Chương này cũng thảo luận về sự khác thường của buồng trứng, hao hụt khi sinh đẻ,
thai chết lưu, và những rối loạn trong thời gian đẻ.
Trước khi được Sau khi được con Thai bị bị trục Thai còn ở lại
con mẹ chấp nhận mẹ chấp nhận xuất trong tử cung
Biểu đồ 17-1: Sự biểu diễn thất bại trong sinh sản ở gia súc
Buồng trứng của động vật có vú hoạt động với hai chức năng: vừa là nơi sản xuất trứng
và vừa là nơi tiết các hormone. Chức năng này có quan hệ mật thiết với thành công của
sự sinh sản. Sự liên quan này tạo nên chu kỳ động dục khác nhau ở từng loài (xem
chương 10-15), đặc biệt là về mặt sinh lý học ở tuổi dậy thì, mùa phối giống, và sự tái
Các yếu tố môi trường: mùa, Buồng trứng bất thường: sự Yếu tố của tử cung: sự mang
dinh dưỡng, sự tiết sữa giảm sản, “nang buồng trứng”, thai, xác khô, mủ tử cung,
thể freemartin “mang thai giả”
Biểu đồ 17-2. Các nguyên nhân có thể dẫn đến thất bại của sự phát triển nang buồng
trứng và không động dục ở gia súc. Chú ý sự mang thai là nguyên nhân quan trọng làm
cho không động dục.
2. Sự tồn tại lâu của CL kết hợp với bệnh ở tử cung. Ở các dạng như mủ tử cung,
nhớt tử cung, thai lưu hoặc sự thấm ướt ở bò, cừu và heo (xem kỹ trong chương này) và
sự mang thai giả ở ngựa cái, bò cái và thỏ cái. Chức năng của thể vàng và các tuyến ở
màng trong tử cung như là sự tiết hay sự duy trì của mô bào thai trong thời gian đầu là
đặc điểm của sự mang thai giả ở heo. Sự tiêm estrogen (luteotrophin thời kỳ đầu) vào
cuối thời gian động dục cũng dẫn đến sự mang thai giả ở bò cái.
Sự mang thai giả ở thỏ là sự tích lũy của dịch trong tử cung kết hợp với sự tồn lưu của
CL. Bụng của thỏ cái cũng to lên như mang thai thật nhưng sự phát triển của tuyến vú
và thất bại khi đẻ thì xảy ra. Thuật ngữ cloudburst được sử dụng khi có sự tự thải ra các
đám dịch tử cung trong thời gian mang thai. Hàm lượng progesterone được tăng cao,
làm cho có những khó khăn khác biệt với của tình trạng này với sự mang thai; có thể dễ
dàng được chẩn đoán bằng siêu âm bởi sự thiếu các u nhau trong dịch đầy của tử cung.
Yếu tố gây nên hiện tượng mang thai giả ở dê không được thiết lập, nhưng sự tiết
prolactin cho thấy vai trò quan trọng của thể vàng (1). Cả PGF2α và sự tiết ra lập lại
oxytocin đưa đến kết quả là giảm hàm lượng progesterone, hoạt động động dục và chảy
ra các dịch ở tử cung (2).
Sự không động dục kéo dài, rõ ràng là duy nhất ở ngựa cái, kết quả từ sự kéo dài tự
phát của sự tòn tại CL vượt quá bình thường 14 đến 15 ngày. Điều đó chủ yếu xảy ra
trong suốt thời gian không động dục theo mùa của tự nhiên. Sự tồn tại kéo dài của CL
có thể được cho là làm thất bại của sự giảm PGF2α.
Thất bại của sự rụng trứng
Thất bại của sự rụng trứng có thể do sự thất bại của các nang trứng trong suốt chu kỳ
bình thường hay nang buồng trứng.
Sự động dục không có rụng trứng thường xảy ra ở heo và ngựa hơn là ở bò và cừu. Con
vật cho thấy có sự động dục bình thường và nang buồng trứng được nghiên cứu kích cỡ
từ trước nhưng không có dấu hiệu rụng trứng. Các nang trứng không rụng trở thành một
phần của hoàng thể và làm chậm chu kỳ động dục như khi có CL bình thường. Những
nang trứng bị bệnh hay những nang buồng trứng thường gặp ở bò sữa và heo nhưng
hiếm khi gặp ở bò hậu bị hay các loài khác. Bệnh này do sự bất thường ở các tuyến nội
tiết ở bò, đặc biệt là ở những con bò có sản lượng sữa cao. Những nang noãn thường
phát triển sớm nhất trong thời gian đẻ là khi những nang noãn được nhận ra ở bò được
xác định ở 30 ngày sau khi đẻ hơn là sau khi phối giống hay sau khi động dục không
bình thường. Mặc dù một số bò cái bị ảnh hưởng có thể biểu hiện tính hăng mãnh liệt,
chủ yếu vẫn là sự thất bại trong sự động dục (không động dục). Một hay cả 2 buồng
trứng chứa đựng 1 hay nhiều nang có đường kính lớn hơn 2.5cm. Chúng là các nang
hay thể vàng. Các nang này trải qua chu kỳ biến đổi, i.e., chúng lần lượt phát triển và
chậm lại nhưng dẫn đến thất bại trong sự rụng trứng. Thể vàng chứa những mô có
đường kính nhỏ cũng làm thất bại trong sự rụng trứng, nhưng lại tồn tại trong thời gian
dài. Trước đây, sự khác biệt của các loại nang dựa vào khám qua trực tràng, với tỷ lệ
chủ quan cao. Tuy nhiên, với sự phát triển của kỹ thuật siêu âm, độ chính xác của sự
khác biệt được rõ ràng hơn. Điều đó cho thấy rằng chúng có thể gây ra bởi cơ chế thất
bại trong sự giảm LH. Sự thất bại này không do thiếu hụt hay giảm GnRH nhưng sự
nhạy cảm này tác động đến trục HPA là làm tăng mức độ estrsdiol.
Sự phát triển của nang buồng trứng ở bò có quan hệ với sản lượng sữa cao, sự thay đổi
mùa, sự di truyền bẩm sinh và sự khác thường của tuyến yên (bđ 17-3).
1. Nguyên nhân và ảnh hưởng của quan hệ giữa sản lượng sữa và bệnh ở nang
buồng trứng không rõ ràng, nhưng sản lượng sữa cao có thể đáp ứng lại sự thay đổi
hormone ở bò với nang buồng trứng hơn là gây ra bệnh.
2. Sự phát triển của nang buồng trứng có liên quan đến sự lây nhiễm trong tử cung
khi đẻ. Chất độc bên trong được sản sinh bởi vi sinh vật trong tử cung có thể làm giảm
PGF2α, và làm kích thích tiết cortisol. Sự tăng lên của cortisol làm giảm hàm lượng LH
trước khi rụng trứng và dẫn đến sự phát triển của các nang.
3. Tồn tại quan hệ giữa bệnh ở nang buồng trứng và sự di truyền tác ddonongj vào
đàn vật nuôi sau khi chọn lọc những con bò đực mà con gái của nó có bệnh ở nang
buồn trứng.
4. Nang buồng trứng cũng thường xuyên thấy ở những con bò sữa được cho ăn với
hàm lượng dinh dưỡng cao, và trong suốt mùa đông
Những phương pháp thông thường có thể điều trị bệnh ở nang buồng trứng ở bò.
1. Khám nang noãn qua trực tràng làm phương pháp đã củ.
2. HCG và GnRH thì có ảnh hưởng như nhau trong điều trị các nang buồng trứng,
làm giảm khối lượng phân tử, nó làm giảm chức năng kích thích các kháng thể.
3. Prostaglandin F2α hoặc những thứ tương tự thì ảnh hưởng lên sự điều trị ở nang
buồng trứng.
4. Tiêm progesterone hay tiêm tĩnh mạch có thể cũng phục hồi lại nang buồng
trứng của bò với những nang trứng.
Nang buồng trứng ở heo là nguyên nhân quan trọng làm thất bại trong sinh sản và là lý
do chủ yếu để chọn lọc, loại thải những con heo nái già. Những nang kết hợp lại thành
thể vàng lớn thì rõ rang hơn ở những nang nhỏ, và chúng chứa đựng progesterone. Chu
kỳ động dục không đều trong thời gian dài giữa các chu kỳ có thể tạo nên sai lầm trong
khi mang thai. Dấu hiệu động dục rất rõ ràng, nhưng tính hăng thì không xảy ra.
SỰ RỐI LOẠN CỦA SỰ THỤ TINH
Sự rối loạn của sự thụ tinh bao gồm thất bại trong khi thụ tinh và thụ tinh không được.
Thụ tinh thất bại
Thất bại trong thụ tinh có
thể do kết quả là tế bào Trứng không
bình thường
trứng chết trước khi tiếp
nhận tinh dịch, cấu trúc
hay chức năng bất
thường của tế bào trứng Sự vận chuyển Cấu trúc ngăn
giao tử Thụ tinh cản
hay tinh dịch, nàn chắn
thất bại
trong đường sinh dục của
gia súc cái ngăn cản sự
vận chuyển của giao tử
đến thụ tinh, hay là thụ Tinh dịch bất
thường
tinh thất bại (bđ 17-4).
3416430