Professional Documents
Culture Documents
Nguyễn Ái Quốc với bản Luận cương chính trị 10/1930 của đồng chí Trần Phú. Vì sao có
điểm khác nhau đó?
Giống nhau:
– Đều xác định tính chất của cách mạng trong giai đoạn trước mắt là tư sản dân quyền, sau đó bỏ
qua giai đoạn TBCN, tiến thẳng lên XHCN và chũ nghĩa cộng sản
– Đều xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc, chống phong kiến,
2 nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau
– Đều xác định lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua Chính đảng tiên phong, cách mạng Việt
Nam là 1 bộ phận, có quan hệ mật thiết, gắn bó với cách mạng thế giới.
Khác nhau:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên Luận cương chính trị 10/1930
Tính chất xã hội Xã hội Việt Nam là xã hội Xã hội Đông Dương gồm 2
thuộc địa nửa phong kiến, bao mâu thuẫn dân tộc và giai cấp,
gồm 2 mâu thuẫn, đó là mâu trong đó mâu thuẫn giai cấp là
thuẫn giữa toàn thể dân tộc cơ bản nhất.
Việt Nam với đế quốc Pháp
xâm lược và mâu thuẫn giữa
nhân dân lao động (chủ yếu là
nông dân) với địa chủ phong
kiến, trong đó, mâu thuẫn cơ
bản nhất, gay gắt nhất là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc Pháp và
bọn tay sai.
Tính chất cách mạng Cách mạng trải qua 2 giai Cách mạng Đông Dương lúc
đoạn: cách mạng tư sản dân đầu là cách mạng tư sản dân
quyền và cách mạng thổ địa để quyền, sau khi thắng lợi tiến
tiến lên chũ nghĩa cộng sản. thẳng lên XHCN không qua
Hai giai đoạn kế tiếp nhau, giai đoạn phát triển TBCN.
không bức tường nào ngăn Hoàn thành thắng lợi của giai
cách. đoạn này mới làm tiếp giai
đoạn khác.
Kẻ thù cách mạng Đế quốc Pháp, vua quan phong Đế quốc và phong kiến, luận
kiến và tư sản phản cách cương không phân biệt rõ
mạng. Cương lĩnh đã xác định trong hàng ngũ giai cấp phong
rõ kẻ thù không phải toàn bộ là kiến còn có bộ phận tiến bộ,
phong kiến và tư sản. Luận cương cũng không đề cập
đến bộ phận tư sản mại bản.
Nhiệm vụ cách mạng Đánh đổ đế quốc Pháp, bọn Đánh đổ thế lực phong kiến,
phong kiến và tư sản phản đánh đổ ách áp bức bốc lột tư
cách mạng, làm cho nước Việt bản, thực hành cách mạng thổ
Nam độc lập. Dựng lên chính địa và đánh đổ đế quốc Pháp,
phủ công nông binh, tổ chức ra làm cho Đông Dương hoàn
quân đội công nông, tịch thu toàn độc lập.
hết sản nghiệp của đế quốc,
tịch thu ruộng đất,… chia cho
dân nghèo, tiến hành cải cách
ruộng đất.
Vai trò lãnh đạo Giai cấp công nhân thông qua Giai cấp vô sản với đội tiên
đội tiên phong là Đảng Cộng phong là Đảng Cộng sản Đông
Sản Việt Nam. Dương
Lực lượng Cách mạng Giai cấp công nhân, nông dân Chỉ gồm công nhân và nông
là động lực là gốc của cách dân, không đề cập tới các giai
mạng cần phải liên minh với cấp khác.
giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân
tộc, trung và tiểu địa chủ.
Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng
hơn (Đông Dương).
– Đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung cũng như mâu thuẫn
gay gắt trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
Câu 2: Vắn tắt diễn biến cao trào cách mạng 1930-1931; 1936-1939; 1939-1945
*, 1930 - 1931:
Phong trào dân chủ 1936 đến 1939 như một cuộc tập dượt để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa
tháng Tám sau này.
Vào tháng 7 năm 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do
Lê Hồng Phong chủ trì ở Thượng Hải – Trung Quốc. Đã dựa trên Nghị quyết Đại hội số 7 của
Quốc tế Cộng sản đã đề ra đường lối và những phương pháp đấu tranh:
Nhiệm vụ của chiến lược cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là nhằm chống đế quốc
và phong kiến.
Nhiệm vụ trực tiếp và trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát
xít, chống nguy cơ chiến tranh. Và đòi tự do, dân sinh, dân chủ, hòa bình.
Phương pháp đấu tranh của phong trào dân chủ 1936 đến 1939 là: Kết hợp các hình thức
công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp.
Chủ trương của phong trào dân chủ 1936 đến 1939: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế
Đông Dương. Tháng 3 năm 1938, đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi
tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ
Năm 1936, Đảng đã vận động và tổ chức nhân dân thảo ra bản dân nguyện. Để gửi tới phái
đoàn chính phủ của Pháp, tiên tời triệu tập Đông Dương Đại hội.
Các ủy ban hành động được thành lập khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận
dân chủ, dân sinh…Vào tháng 09/1936, Pháp đã giải tán Ủy ban hành động, cấm hội họp và
tịch thu các bài báo.
Qua phong trào dân chủ 1936 đến 1939, đông đảo quần chúng đã được giác ngộ, đoàn kết
và đấu tranh đòi quyền sống. Đảng ta đã thu được một số kinh nghiệm về việc phát động và
lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp.
Phong trào đón Gô đa: vào năm 1937, lợi dụng sự kiện này Gô đa và toàn quyền mới sang
Đông Dương. Đảng đã tổ chức quần chúng mít tinh, biểu dương những lực lượng đưa ra
yêu sách về dân sinh, dân chủ.
Từ năm 1937 đến năm 1939: nhiều cuộc mít tinh và biểu tình đòi quyền sống tiếp tục diễn
ra. Nhân ngày Quốc tế lao động 01/05/1938, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức công khai tại
Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác. Được đông đảo quần chúng tham gia.
Đấu tranh nghị trường – hình thức đấu tranh mới của Đảng
Đảng đã đưa người của Mặt trận Dân Chủ Đông Dương ra ứng cử vào Viện dân biểu Bắc
kỳ, Trung kỳ, Hội đồng quản hạt Nam kỳ….
Với mục tiêu là nhằm mở rộng lực lượng Mặt trận dân chủ. Và để vạch trần chính sách phản
động của thực dân, tay sai. Từ đó bênh vực, bảo vệ quyền lợi của nhân dân.
Từ năm 1937, báo chí công khai của Đảng bằng tiếng Việt là Tin Tức, Đời Nay, Phổ Thông,
Dân Chúng… Trở thành mũi xung kích trong cuộc vận động dân chủ, dân sinh.
Nhiều sách chính trị – lý luận được xuất bản công khai hoặc đưa về từ Pháp. Những tác
phẩm văn học hiện thực phê phán được ra đời như: Bước đường cùng, Tắt đèn, Số đỏ ,thơ
cách mạng, kịch Đời cô Lựu…
Vào cuối năm 1937, Đảng ta phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ. Nhằm giúp
quần chúng đọc được sách báo, nâng cao sự hiểu biết của mình về chính trị và cách mạng.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực báo chí đã thu được kết quả to lớn về văn hóa – tư tưởng.
Đông đảo các tầng lớp nhân dân đã được giác ngộ về con đường cách mạng.
Phong trào dân chủ 1936 đến 1939 là phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức dưới sự
lãnh đạo của Đảng ta.
Phong trào này buộc Pháp phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ.
Quần chúng nhân dân được giác ngộ về chính trị, trở thành lực hùng hậu của cách mạng.
Các cán bộ được tập hợp và tích lũy, trưởng thành từ những bài học kinh nghiệm.
Phong trào dân chủ 1936 đến 1939 còn là một cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị cho Tổng khởi
nghĩa tháng Tám sau này.
Nhân dân được giác ngộ về chính trị và trở thành lực hùng hậu của cách mạng
Bài học về việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp và công khai.
Đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng với các đảng phái phản động khác.
Đảng ta nhận thấy được những hạn chế trong công tác mặt trận, dân tộc…
Đây là một cuộc diễn tập chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám.
Sự khác nhau giữa phong trào cách mạng 1930 đến 1931 với phong trào dân chủ 1936 đến 1939
đã cho thấy do hoàn cảnh thế giới và trong nước khác nhau. Nên những chủ trương, sách lược,
hình thức tập hợp lực lượng và hình thức đấu tranh phải khác nhau thì mới phù hợp.
Chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1936 đến 1939 chỉ có tính chất sách lược nhưng vẫn kịp
thời và phù hợp với tình hình. Tất cả đã tạo ra cao trào đấu tranh vô cùng sôi nổi. Từ đó chứng tỏ
được Đảng ta đã ngày một trưởng thành. Và có khả năng đối phó với mọi tình huống, đưa cách
mạng ngày một lớn mạnh.
*, 1939 - 1945:
I. Tình hình Việt Nam trong những năm 1939 - 1945
- Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức.
- Tháng 9/1940, Nhật vào Việt Nam nhưng vẫn giữ nguyên chính quyền của Pháp để bóc lột
phục vụ chiến tranh và đàn áp phong trào cách mạng.
- Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, quần chúng sục sôi khí thế cách mạng, sẵn sàng vùng lên
khởi nghĩa.
- Pháp thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”, tăng thuế cũ, đặt thuế mới, sa thải công nhân, tăng
giờ làm, giảm lương…
- Nhật cướp ruộng đất của nông dân, buộc Pháp cung cấp nguyên liệu và lương thực, bắt nhân
dân nhổ lúa trồng đay, đầu tư vào một số ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh.
- Chính sách vơ vét của Pháp – Nhật đã khiến gần 2 triệu người Việt Nam chết đói vào năm
1945.
II. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng 3/1945
1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1939
Tháng 11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm (Hóc Môn) do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, xác định:
+ Nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc ở Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
+ Tạm gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa
chủ, phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng.
+ Thay khẩu hiệu “Thành lập chính quyền Xô viết công nông binh” bằng khẩu hiệu “Chính phủ
dân chủ cộng hòa”.
+ Chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ
hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp. Thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.
+ Hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng - đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước.
- Ngày 22/9/1940, Nhật vượt biên giới Việt – Trung, đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải
Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn.
- Ở Lạng Sơn, Pháp bị tổn thất nặng nề nên phần lớn đầu hàng, số còn lại rút chạy về Thái
Nguyên qua đường Bắc Sơn.
- Đêm 27/9/1940, Đảng bộ địa phương lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn chặn đánh Pháp, chiếm đồn
Mỏ Nhài, chính quyền địch ở Bắc Sơn tan rã, nhân dân làm chủ châu lị và các vùng lân cận, đội
du kích Bắc Sơn được thành lập.
- Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau, Nhật cho Pháp trở lại đóng đồn bốt ở Lạng Sơn; Pháp tiến
hành khủng bố, đốt phá làng bản, bắn giết những người tham gia khởi nghĩa.
- Khởi nghĩa Bắc Sơn mở đầu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng rút ra những bài
học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, thời cơ khởi nghĩa.
- Tháng 11/1940, Pháp bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên làm bia đỡ đạn tại biên giới Thái
Lan nên bị nhân dân Nam Kỳ và binh lính phản đối.
- Xứ ủy Nam Kỳ chuẩn bị phát động khởi nghĩa, cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương .
- Tháng 11/1940, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)
xác định kẻ thù chính là đế quốc Pháp - Nhật; duy trì đội du kích Bắc Sơn, lập căn cứ du kích và
đình chỉ cuộc khởi nhĩa Nam Kỳ vì thời cơ chưa chín muồi.
- Kế hoạch bị lộ nhưng lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy đã đến các địa phương, nên khởi nghĩa vẫn nổ
ra đêm 22 rạng sáng 23/11/1940.
- Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ như Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn,
Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Mỹ Tho, Vĩnh Long.
Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi.
- Pháp cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy và bắt nhiều người. Nghĩa
quân rút về Đồng Tháp và U Minh để củng cố lực lượng.
- Cuộc khởi nghĩa chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ, sẵn sàng
đứng lên chiến đấu chống quân thù.
Binh lính người Việt trong quân đội Pháp phản đối việc Pháp đưa lính người Việt sang Lào đánh
nhau với quân Thái Lan.
- Ngày 13/1/1941, Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) chỉ huy binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An)
nổi dậy, đánh chiếm đồn Đô Lương rồi kéo về Vinh, phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành.
- Do quân Pháp kịp thời đối phó, chiều hôm sau, toàn bộ binh lính tham gia nổi dậy bị bắt.
- Pháp xử bắn Đội Cung cùng 10 đồng chí khác, nhiều người khác bị kết án khổ sai, đưa đi đày .
Trong ba tháng, ba cuộc nổi dậy nối tiếp nổ ra ở ba miền của đất nước, do nhiều tầng lớp nhân
dân và binh lính tham gia, nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc. Các cuộc nổi dậy đã thất bại
vì điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nhưng là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân
tộc Đông Dương.
3. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5/1941)
- Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và chủ trì
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 trong thời gian từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941 tại Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng).
- Hội nghị xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc, thành lập chính phủ Cộng
hoà Dân chủ. Gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thay bằng khẩu hiệu giảm tô, chia lại ruộng
công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Thành lập chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa. Hội nghị thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh thay cho Mặt trận Thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương.
+ Hình thức khởi nghĩa đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa.
+ Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương đề ra tại Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 (tiếp tục đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu).
+ Ngày 19/5/1941, Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời và công bố Tuyên ngôn,
Chương trình, Điều lệ.
a). Xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang:
+ Vận động quần chúng tham gia Việt Minh qua các Hội cứu quốc…
+ Năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương văn hóa Việt Nam”.
+ Năm 1944, thành lập Hội văn hóa cứu quốc và Đảng Dân chủ Việt Nam.
+ Phát triển đội du kích Bắc Sơn thành các Trung đội Cứu quốc quân. Cứu quốc quân phát động
chiến tranh du kích. Đội Cứu quốc quân II ra đời.
+ Năm 1940, Khu Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai được xây dựng.
+ Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa.
b). Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền:
- Ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị chuẩn bị khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân sắm vũ
khí đuổi kẻ thù chung.
- Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập.
1. Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945)
+ Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”. Chỉ thị nhận định, kẻ thù là phát xít Nhật và tay sai; khẩu hiệu đấu tranh là
đánh đuổi phát xít Nhật;
+ Ở căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
cùng với quần chúng giải phóng nhiều xã, tổng, châu.
- Ở Bắc Kỳ, phát động phong trào phá kho thóc giải quyết nạn đói.
- Ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà lao Ba Tơ nổi dậy, thành lập chính quyền cách mạng (11/3), tổ
chức Đội du kích Ba Tơ.
- Tháng 4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết định thống nhất các lực lượng vũ
trang.
- Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam
và Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp.
- Tháng 6/1945, thành lập Khu giải phóng Việt Bắc và Ủy ban lâm thời Khu giải phóng.
a). Nhật đầu hàng Đồng minh, lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố
- Ngày 9/8/1945, Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc.
- Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính
phủ Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiện khách quan cho tổng khởi nghĩa đã đến.
+ Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn
quốc, ban bố “Quân lệnh số 1”, phát lệnh khởi nghĩa trong cả nước.
+ Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) quyết
định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh
vào Đông Dương; quyết định những chính sách đối nội và đối ngoại sau khi giành chính quyền.
+ Ngày 16 và 17/8/1945, Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào tán thành chủ trương khởi
nghĩa, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch.
- Chiều 16/8/945, Võ Nguyên Giáp chỉ huy đơn vị Giải phóng quân tiến đánh giải phóng thị xã
Thái Nguyên.
- Ngày 18/8/1945, Bắc Giang, Hải Dương. Hà Tĩnh, Quảng Nam, giành được chính quyền.
IV. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (2/9/1945)
- Ngày 25/8/1945, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng từ Tân Trào về Hà Nội.
- Ngày 28/8/1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc
lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Câu 3: Tính chất, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt về chất của cách mạng Việt Nam. Đó là một
trong những trang vàng chói lọi trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu mốc lớn trên con đường
phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
+ Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Quá trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo, rút kinh nghiệm qua đấu tranh.
+ Trong những ngày khởi nghĩa toàn đảng toàn dân quyết tâm cao. Các cấp Chi bộ Đảng chỉ đạo
linh hoạt, sáng tạo, chớp đúng thời cơ.
Quân Đồng minh chiến thắng phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tạo cơ hội khách quan
thuận lợi cho nhân dân Việt Nam khởi nghĩa thành công.
2. Ý nghĩa lịch sử
- CMT8 mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan xiềng xích của Pháp hơn 80 năm và
Nhật gần 5 năm, lật đổ chế độ phong kiến tồn tại ngót một ngàn năm, lập nên nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động lên nắm chính
quyền, làm chủ đất nước…
- Đảng cộng sản Đông Dương trở thành Đảng cầm quyền, chuẩn bị điều kiện cho những thắng
lợi tiếp theo.
- Góp phần tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong đấu tranh tự giải
phóng.
- Đảng phải có đường lối đúng đắn, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào
thực tiễn Việt Nam, nắm bắt tình hình thế giới và trong nước để đề ra chủ trương, biện pháp cách
mạng phù hợp.
- Đảng tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở liên
minh công nông, tạo nên sức mạnh toàn dân, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù để đánh bại
chúng.
- Kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang, tiến hành khởi nghĩa từng phần, chớp thời cơ phát
động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.