Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 7 - Nội Dung Chứng Từ Trong Vận Tải
Nhóm 7 - Nội Dung Chứng Từ Trong Vận Tải
Mỗi khâu xuất và nhập hàng đều được thực hiện qua những quá trình thật nghiêm
ngặt để có được số liệu chính xác nhằm khai thông hải quan. Những chứng từ xác
nhận xuất nhập khẩu là phương tiện quan trọng thực hiện nhiệm vụ đó. Việc tìm hiểu
rõ công dụng chức năng, cách viết của các loại chứng từ xuất nhập khẩu và những quy
định liên quan là đặc biệt quan trọng.
II. Nội dung chính:
2.1. Các chứng từ thường dùng trong giao dịch xuất nhập khẩu
Để xuất khẩu hoặc nhập khẩu một loại mặt hàng cụ thể, doanh nghiệp cần phải có
1 bộ chứng từ đi kèm để làm cơ sở cho việc thanh toán tiền hàng hoặc khiếu nại đòi
bồi thường. Căn cứ vào từng chứng năng, các chứng từ cơ bản bao gồm 15 loại.
14. Danh sách đóng gói xuất khẩu - Export Packing List
Một danh sách đóng gói các thành phần trong bao bì xuất khẩu và chỉ ra cách đóng
gói (ví dụ: hộp, thùng carton). Nó cho thấy trọng lượng và số đo cho mỗi gói, được sử
dụng bởi hải quan trong các nước xuất khẩu và nhập khẩu để kiểm tra hàng hóa và xác
định tổng trọng lượng hàng hóa, khối lượng và lô hàng của hàng hóa chính xác.
Yếu tố quyết định giá vận chuyển hàng hóa đường hàng không
Giá cước vận chuyển hàng không dựa trên Chargeable Weight (CW) - “trọng
lượng dùng để tính cước” vì khối lượng hoặc trọng lượng có thể chất lên máy bay là
có giới hạn.
Trước tiên ta cần phân biệt 3 thuật ngữ:
– Chargeable Weight (CW): Là trọng lượng dùng để tính cước (đơn vị : kg)
– Gross Weight (GW): Là trọng lượng thực tế khi được cân của hàng hóa kể
cả bao bì (đơn vị: kg)
– Volume Weight (VW): Là trọng lượng theo thể tích
Trọng lượng tính phí (CW) sẽ là Actual Weight (hay Gross Weight) - “trọng
lượng thực tế” hoặc Volumetric Weight (VW) - “trọng lượng thể tích”, tùy theo giá trị
nào cao nhất. Nó được tính như sau:
- Actual Weight: Lấy trọng lượng hàng hóa tính bằng pound, chia cho 2,2046
để chuyển trọng lượng thành ki-lô-gam = actual kilos
- Volume: Nhân số đo hàng hóa theo inch chia cho 366 = volume kilos
Ví dụ:
Thiết bị y tế có kích thước 45x45x60 inch/Trọng lượng: 1.500 lb.
Actual weight: 1,500 lbs./2.2046 = 680 kilos
Volume weight: 45 45 60 inches/366 = 322 kilos
⇒ Phí vận chuyển sẽ được tính trên trọng lượng thực tế (vì AW > VW)
Lưu ý: Trọng lượng kích thước tiêu chuẩn của IATA dựa trên 6.000 cm khối trên một
kilôgam vật lý (Dài x Rộng x Cao (cm))/(6,000*) = Volume Kilos
Các yếu tố ảnh hưởng đến Giá hàng hóa đường hàng không
Khoảng cách đến điểm đến cũng như trọng lượng và kích thước của lô hàng là
những yếu tố quan trọng quyết định đến giá cước hàng không. Mô tả hàng hóa và việc
cung cấp bất kỳ dịch vụ đặc biệt nào cũng ảnh hưởng đến giá cước.
VD: Các dịch vụ đặc biệt như chuyến bay thuê bao hoặc vận chuyển ngay lập
tức có thể làm tăng đáng kể giá cước.
1. Phạm vi của Công ước: Công ước điều chỉnh trách nhiệm của người vận
chuyển trong khi hàng hóa được vận chuyển, dù ở trong hay ngoài sân bay. Nó
được áp dụng khi điểm khởi hành và điểm đến quy định trong hợp đồng vận
chuyển nằm ở hai quốc gia đăng ký Công ước. Công ước chỉ áp dụng cho
những hành khách có vé đi quốc tế
2. Vận đơn hàng không (Air Bill):
Giấy gửi hàng (vận đơn hàng không) là một chứng từ do người vận
chuyển hàng không cấp cho người gửi hàng, dùng để nhận hàng và là bằng
chứng của hợp đồng vận chuyển. Tuy nhiên, nó không phải là chứng từ quyền
sở hữu hàng hóa, như trong trường hợp vận đơn. Người vận chuyển yêu cầu
người gửi hàng lập và giao vận đơn hàng không cùng hàng hóa. Một phần của
vận đơn hàng không (do người gửi hàng lập thành ba phần gốc) phải có chữ ký
của người vận chuyển, người vận chuyển sẽ giao cho người gửi hàng sau khi
hàng đã được chấp nhận. Phần thứ hai được đánh dấu cho người chuyên chở
(ký bởi người gửi hàng). Phần thứ ba được đánh dấu cho người nhận hàng (ký
bởi người nhận hàng và người vận chuyển). Nếu, theo yêu cầu của người gửi
hàng, người vận chuyển lập vận đơn hàng không thì người vận chuyển sẽ được
coi là đã thay mặt người gửi hàng để làm điều đó.
Công ước Montreal khuyến khích người vận chuyển sử dụng hồ sơ điện tử và chỉ
yêu cầu ba điều xuất hiện trên vận đơn đi kèm với một chuyến hàng hóa:
(1) nơi đi và nơi đến;
(2) địa điểm dừng trung gian ở trạng thái khác (nếu nơi đi và nơi đến ở
cùng một trạng thái);
và (3) trọng lượng của lô hàng (Carr, 2010).
3. Trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ
Người vận chuyển phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại liên quan đến
hàng hóa thuộc quyền kiểm soát của mình lên đến 19 SDRs/kg (Quyền rút vốn đặc
biệt Special Drawing Rights là đơn vị tiền tệ quy ước được tạo ra bởi Quỹ Tiền tệ
Quốc tế) trừ khi người gửi hàng đã khai báo giá trị cao hơn trên vận đơn. Trách nhiệm
đối với hành lý bị mất được giới hạn ở 1.131 SDR cho mỗi hành khách trừ khi giá trị
cao hơn được khai báo. Các hãng hàng không có thể phải chịu trách nhiệm về sự chậm
trễ lên đến 4.694 SDR cho mỗi hành khách (Schaffer, Augusti, Dhoogie và Earle,
2012).
4. Giới hạn trách nhiệm
Trách nhiệm của người chuyên chở đối với mất mát, hư hỏng hàng hóa hoặc
chậm giao hàng được giới hạn trong phạm vi số tiền quy định theo Công ước trừ khi
người gửi hàng khai báo giá trị cao hơn và trả một khoản phụ phí.
5. Thời Hiệu Tố Tụng
Quyền được bồi thường thiệt hại sẽ bị chấm dứt nếu hành động không được
thực hiện trong vòng hai năm sau khi giao hàng thực tế hoặc được cho là hàng hóa.
Thông báo khiếu nại (về thiệt hại) phải được thực hiện trong vòng mười bốn ngày kể
từ ngày nhận hàng (bảy ngày đối với hành lý ký gửi) và, trong trường hợp chậm trễ, là
hai mươi mốt ngày kể từ ngày giao hàng thực tế hoặc hành lý (Schaffer và cộng sự,
2012).
6. An ninh hàng hóa hàng không quốc tế
Là phương thức vận tải phổ biến nhất hiện nay, hàng hóa được chuyên chở
bằng các loại phương tiện đường bộ khác nhau. Vận chuyển đường bộ có thể được
thực hiện bằng các phương tiện di chuyển như ô tô, xe tải, xe container, rơ moóc,
sơ mi rơ moóc kéo theo ô tô…
Vận chuyển đường sắt thích hợp với các loại hàng có trọng lượng lớn, khối lượng
vận chuyển nhiều và cự li vận chuyển dài. Ví dụ các nguyên liệu như than, gỗ, hóa
chất và hàng tiêu dùng có giá trị thấp như giấy, gạo, thực phẩm và với khối lượng
cả toa hàng.
Vận chuyển nội địa (công ước):
❖ Công ước về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường bộ -CMR
Công ước CMR, tên đầy đủ là Convention on the Contract for the International
Carriage of Goods by Road. Công ước nhằm mục đích thống nhất và tiêu chuẩn
hóa các quy tắc, điều kiện điều chỉnh các hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng
đường bộ quốc tế, đặc biệt về chứng từ và trách nhiệm của người chuyên chở
đường bộ, các nước Tây Âu đã ký kết Công ước CMR ngày 19/5/1956 tại Genève,
có hiệu lực từ ngày 02/7/1961. Đến nay, công ước CMR đã có 30 nước châu Âu
tham gia.
❖ Công ước liên quan đến vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường sắt:
● Các Quy tắc thống nhất về hợp đồng vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường
sắt (Uniform Rules Concerning the Contract for International Carriage of
Goods by Rail - CIM)
Các Quy tắc thống nhất về hợp đồng vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường sắt
(Uniform Rules Concerning the Contract for International Carriage of Goods by
Rail - CIM): Các Quy tắc này được ký lần đầu tiên tại Béc-nơ năm 1890
Nội dung bao gồm những quy tắc thống nhất về hợp đồng chuyên chở hàng hóa
bằng đường sắt quốc tế (CIM).
● Hiệp định vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường sắt-1951(Agreement 1951
on International Goods Transport by Rail):
Hiệp định SMGS - The Agreement on International Goods Traffic by Rail. Hiệp
định SMGS có hiệu lực từ ngày 01/11/1951 và được quản lý bởi cơ quan chính
phủ ở Warsaw, nước cộng hòa Ba Lan. Về sau các nước Trung Quốc, Triều Tiên,
Mông Cổ, và Việt Nam (1956) đã tham gia Hiệp định SMGS. Hiệp định được sửa
đổi và bổ sung lần cuối cùng vào tháng 11/1997.
2.5. Giao nhận nhận vận tải:
Giao nhận vận tải là bên thay mặt người gửi hàng hỗ trợ việc vận chuyển hàng hóa
đến nước định cư ở nước ngoài và xử lý chứng từ hoặc thực hiện các hoạt động liên
quan đến các chuyến hàng đó.
Hoạt động giao nhận vận tải bắt nguồn từ thế kỷ thứ mười ba, khi các thương
nhân thuê người trung gian, hay còn gọi là “frachtor”, để vận chuyển và chuyển tiếp
hàng hóa trên khắp châu âu. Sau đó, trách nhiệm của “frachtor” mở rộng sang việc
cung cấp các dịch vụ vận chuyển và lưu kho đường dài ở nước ngoài, phát hành vận
đơn, và thu tiền cước vận chuyển, quan hệ du lịch và thanh toán từ người nhận hàng. ở
Hoa Kỳ, ngành giao nhận phát triển vào cuối thế kỷ XIX và bắt đầu ở New York, nơi
xử lý phần lớn thương mại xuất khẩu của Hoa Kỳ, để cung cấp các dịch vụ vận tải
khác nhau cho các chủ hàng.
Nhiều mối quan tâm về giao nhận bắt đầu từ các nhà môi giới vận chuyển hàng
hóa, nhưng với sự gia tăng liên tục của các lô hàng sản xuất, công việc giao nhận được
ưu tiên hơn hoạt động môi giới. Ngày nay, một số nhà giao nhận xử lý các lô hàng lớn
trên một hãng vận tải thông thường hoặc các tàu vận tải đường bộ với tư cách là người
môi giới, nhưng phần lớn, các nhà giao nhận xử lý các lô hàng riêng lẻ có kích thước
hoặc container khác nhau.
- Tư vấn cho nhà xuất khẩu về sự lựa chọn phương tiện vận tải tiết kiệm
nhất và cách tốt nhất để đồng gói và vận chuyển hàng hóa nhằm giảm thiểu
chi phí và ngăn ngừa thiệt hại
- Đặt hàng vận chuyển đường hàng không, đường biển hoặc đường bộ
(hoặc vận chuyển liên phương thức hàng hóa và sắp xếp việc nhận hàng,
vận chuyển và giao hàng.
- Đảm bảo rằng hàng hóa được đóng gói và dãn nhãn thích hợp và đáp ứng
các yêu cầu về chứng từ để hàng hóa được thông quan tại cảng đến
- Khi một thư tín dụng được sử dụng, người giao nhận đảm bảo rằng nó
được tuân thủ nghiêm ngặt để cho phép người xuất khẩu nhận được thanh
toán.
- Giúp shippers và consignees bằng cách theo dõi và truy tìm hàng hóa.
- Thương lượng mức giá tốt hơn với các nhà vận chuyển vì họ có thể mua
chỗ trên các hãng hàng không hoặc tàu với giá bán buôn. Một loạt các dịch
vụ mà họ cung cấp giúp người gửi hàng tiết kiệm thời gian và tiền bạc.
Vì vậy, lợi thế của việc sử dụng một người giao nhận vượt xa việc xúc tiến sự
di chuyển của hàng hóa. Giao nhận vận tải là một phần quan trọng không thể thiếu
trong thương mại Hoa Kỳ và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và mở rộng
thương mại quốc tế.
Ước tính chung rằng hơn 90% hàng hóa xuất khẩu sử dụng dịch vụ của một công ty
giao nhận vận tải quốc tế. Phần lớn hoạt động giao nhận vẫn tập trung vào vận tải
biển, mặc dù đã có một số chuyển hướng sang vận tải đường bộ và đường hàng
không.
c. Sự khác biệt giữa giao nhận vận tải đối với NVOCC và môi giới hải
quan.
- NVOCC:
Người giao nhận có thể phân biệt được với hãng vận tải thông thường không
vận hành bằng tàu (NVOCC). NV0CC là các hãng vận tải biển quốc tế không
khai thác tàu riêng của họ. Họ sẽ thực hiện vai trò của người gửi hàng đối với
người vận chuyển và vai trò của người vận chuyển đối với người gửi hàng. Các
NVOCC điển hình đảm bảo cho một tuyến tàu hơi nước một lượng hàng hóa
nhất định mỗi tuần hoặc tháng và mua không gian cần thiết trên cơ sở bán
buôn để vận chuyển hàng hóa đến và đi từ một cảng nhất định. Họ công bố
mức thuế của riêng mình và nhận và gom hàng từ các tàu khác nhau để vận
chuyển đến cùng một cảng. Họ phát hành vận đơn để xác nhận đã nhận hàng
để chuyển hàng. Không giống như các NVOCC, các nhà giao nhận vận tải
không công bố biểu giá của riêng họ và tổng hợp các lô hàng nhỏ. Các nhà
giao nhận sử dụng dịch vụ của NV0CC và tạo điều kiện thuận lợi cho việc di
chuyển hàng hóa mà không cần hoạt động như người vận chuyển. Các
NVOCC thường thuộc sở hữu của những người vận chuyển hàng hỏa cho
những người xếp hàng hoặc các công ty vận tải lớn.
Người giao nhận khác với người môi giới hải quan ở chỗ người này giải quyết
việc thông quan hàng hóa nhập khẩu thông qua hải quan, trong khi người giao
nhận tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng xuất khẩu.
Nhà môi giới được cấp phép bởi Bộ Tài chính Hoa Kỳ; trong khi người giao
nhận được cấp phép bởi Ủy ban Hàng hải Liên bang (FMC).
Để đủ điều kiện nhận giấy phép của công ty giao nhận vận tải đường biển, người nộp
đơn phải chứng minh với FMC rằng họ:
- Có kinh nghiệm tối thiểu ba năm trong các nhiệm vụ giao nhận vận tải
đường biển tại Hoa Kỳ và đặc điểm cần thiết để cung cấp các dịch vụ đó,
Shippers có hoạt động kinh doanh chính là bán hàng hóa có thể thực hiện dịch vụ giao
nhận mà không cần giấy phép để di chuyển các lô hàng của chính mình. Trong trường
hợp này, shipper không có quyền nhận tiền bồi thường từ người lái xe cho các dịch vụ
của mình. Một nhân viên cá nhân hoặc chi nhánh không hợp nhất của một công ty
giao nhận vận tải biển được cấp phép không cần phải có giấy phép. Người vận chuyển
thông thường hoặc đại lý của họ cũng có thể thực hiện các dịch vụ giao nhận mà
không cần giấy phép đối với hàng hóa được vận chuyển theo vận đơn riêng của người
vận chuyển đó (Ủy ban Hàng hải Liên bang, 1984).
e. Nghĩa vụ và trách nhiệm bổ sung của bên giao nhận vận tải:
- Mô tả giao nhận vận tải với tư cách là người nhận hàng tiện vận đơn vận
tải nội địa (tức là xe tải hoặc đường sắt) có thể khiến người giao nhận phải
chịu trách nhiệm về phí vận chuyển hàng hóa đến sân bay hoặc cũng biển.
Điều này có thể tránh được bằng cách chỉ rõ trên hướng dẫn giao hàng của
người giao nhận rằng người giao nhận chỉ hoạt động như một đại lý và
không có bất kỳ quyền lợi nào đối với hàng hóa.
- Người giao nhận phải chịu trách nhiệm trước người gửi hàng về sự sơ
suất của mình trong việc lựa chọn người chuyên chở, làm chứng từ, chỉ dẫn
hàng hóa và phân loại lô hàng.
- Trong trường hợp người giao nhận hoạt động như một NVOCC, trách
nhiệm pháp lý của người giao nhận là của chung người vận chuyển để mất
mát, hư hỏng hàng hóa.
- Trách nhiệm của người giao nhận được giới hạn ở mức thấp hơn $50 cho
mỗi chuyển hàng hoặc chỉ được tinh cho các dịch vụ của họ. Mọi khiếu nại
của người xuất khẩu đối với người giao nhận phải được trình bày trong
văng chín mươi ngày kể từ ngày xuất khẩu.
- Mỗi nhà giao nhận được yêu cầu duy trì hồ sơ hiện tại và chính xác trong
năm năm. Hồ sơ phải bao gồm dữ liệu tài chính chung, các loại dịch vụ,
biên lai và chi phí.
- Người giao nhận bị cấm cung cấp bất kỳ khoản giảm giá nào cho người
gửi hàng hoặc chia sẻ bất kỳ khoản bồi thường hoặc phí giao nhận nào với
người gửi hàng, người nhận hàng hoặc người bán. NVOCC chỉ có thể nhận
tiền bồi thường từ người vận chuyển khi họ đóng vai trò là người giao nhận
đơn thuần, tức là khi họ không phát hành vận đơn hoặc thực hiện trách
nhiệm của người vận chuyển.
5. Nếu yêu cầu của shipper là lấy Bill gốc cho lô hàng xuất khẩu của họ thì nhân
viên chứng từ của công ty Forwarder cần gửi cho shipper giấy ủy quyền
(Authorization Letter) có chữ ký sống của giám đốc và giấy giới thiệu để
Forwarder có thể mượn danh shipper lên hãng tàu lấy Bill gốc.
- Nếu yêu cầu của shipper là lấy Surrender Bill cho lô hàng thì nhân viên chứng
từ cần gửi cho shipper 2 loại bill là Loi Telex và Loi Hold (nếu cần thiết).
- Nếu yêu cầu của shipper là lấy Seaway Bill cho lô hàng thì nhân viên chứng từ
của công ty Forwarder cần gửi cho khách hàng Loi Seaway Bill.
6. Sau khi có Bill nháp từ hãng tàu như được mô tả bên trên, saleman của công ty
forwarder sẽ phát hành Sale Contract:
Đây là mẫu báo giá của saleman của công ty Forwarder và shipper. Sau khi có mẫu
báo giá này, saleman sẽ tiến hành làm hóa đơn thanh toán cho khách hàng dựa trên
thông tin của cột Selling Rate.
7. Sau đó saleman sẽ gửi hóa đơn này cho shipper thanh toán. Thông thường, khách
hàng sẽ chọn phương thức trả chậm sau 30 ngày tàu chạy để xoay vốn và trong thời
gian đó công ty Forwarder phải lấy tiền của công ty để tiến hành thanh toán cho hãng
tàu trước.
Đây là hóa đơn thanh toán mà hãng tàu gửi cho công ty Forwarder. Tổng số tiền cần
thanh toán trong Debit Note của hãng tàu gửi cho công ty Forwarder luôn nhỏ hơn
trong Debit Note của saleman công ty Forwarder gửi cho shipper vì đó là khoảng dư
và lợi nhuận của công ty Forwarder.
8. Sau khi tiến hành thanh toán và tàu chạy, hàng hóa sẽ sang đầu người nhập khẩu và
người nhập khẩu nhận một số giấy từ từ người xuất khẩu gửi sang để làm thủ tục nhận
hàng.