You are on page 1of 18

ĐỀ CƯƠNG

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh đặc sắc lâu đời. Đóng góp vào sự
rực rỡ của nền văn minh này thì không thể không kể đến công lao của kho tàng văn học
đồ sộ, đặc biệt là thơ ca. Và thời kì đỉnh cao nhất của thơ ca Trung Quốc chính là thời
nhà Đường.
Trong thơ Đường, cảnh và tình là hai yếu tố không thể thiếu. Nhà Đường lãnh thổ
rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên cũng vì vậy mà vô cùng phong phú, nhưng phần nhiều
vẫn là vùng đồng bằng khí hậu ôn hòa với bốn mùa rõ rệt. Xuân, hạ, thu, đông là bối cảnh
thường thấy trong các bài thơ Đường. Mỗi mùa đều có những đặc sắc riêng, những cảnh
vật riêng. Tức cảnh thì thường sinh tình, vậy nên cảnh thiên nhiên bốn mùa thường là
nguồn cảm hứng sáng tác trong Đường thi, đặc biệt là Bạch Cư Dị - một trong những nhà
thơ nổi danh thời đó.
Là một trong số những nhà thơ có số lượng tác phẩm đồ sộ nhất thời nhà Đường,
trong cuộc đời mình, Bạch Cư Dị đã sáng tác rất nhiều bài thơ miêu tả cảnh sắc thiên
nhiên và luôn chìm đắm trong cái muôn màu muôn vẻ của đất trời, từ đó cảm nhận vẻ đẹp
cuộc sống và bộc lộ tình cảm, cảm xúc của bản thân. Cuộc đời của Bạch Cư Dị có rất
nhiều thăng trầm. Sự thăng trầm này cũng giống như cái nóng lạnh giao hòa của bốn
mùa. Đây cũng là điểm đáng suy ngẫm về nhân sinh mà hình tượng bốn mùa trong thơ
Bạch Cư Dị mang lại cho chúng ta. Vậy nên trong bài niên luận này, chúng tôi đi nghiên
cứu đề tài “Bốn mùa trong thơ Bạch Cư Dị” với mong muốn có thể góp một phần vào
việc nghiên cứu thơ Đường tại Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà bài niên luận này hướng tới chính là hình tượng bốn mùa
trong thơ Bạch Cư Dị.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của bài niên luận này là các bài thơ có chứa hình ảnh bốn mùa
trong thơ của Bạch Cư Dị. Bạch Cư Dị có khoảng 3000 bài thơ, tuy nhiên do có sự hạn
chế về tư liệu nên chúng tôi đã tìm được 91 bài thơ có chứa hình tượng bốn mùa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm, chỉ ra và thống kê các bài thơ có chứa hình tượng bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông cũng như các hình tượng bốn mùa đó, bài niên luận có mục đích:
 Chỉ ra mối quan hệ giữa hình tượng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và tâm trạng của
nhân vật trữ tình trong thơ Bạch Cư Dị;
 Ý nghĩa và tác dụng của việc sử dụng hình tượng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
trong thơ Bạch Cư Dị.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với những mục đích, mục tiêu trên, đề tài này tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau
đây:
 Tìm và chỉ ra đặc trưng của hình tượng tượng bốn mùa trong thơ Bạch Cư Dị;
Tìm và chỉ ra đặc trưng trong cảm xúc của nhân vật trữ tình trong các bài thơ có

chứa hình ảnh bốn mùa trong thơ Bạch Cư Dị;
Phân tích và chỉ ra mối tương quan chung giữa hình tượng bốn mùa và cảm xúc

của nhân vật trữ tình trong thơ Bạch Cư Dị.
 Tìm và chỉ ý nghĩa của hình tượng bốn mùa trong thơ Bạch Cư Dị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện bài niên luận này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau đây:
 Phương pháp thi pháp học;
 Phương pháp thống kê;
 Phương pháp liên ngành;
 Phương pháp tiểu sử.
Nội dung
Chương 1. Hình tượng mùa xuân trong thơ Bạch Cư Dị
Xuân, hạ, thu, đông đã là quy luật muôn thuở của tự nhiên. Mùa xuân không chỉ là
sự bắt đầu của một năm mới, hay sự tái sinh của vạn vật sau những tháng ngày đông giá
buốt, mà còn là một khoảng thời gian tuyệt đẹp để con người trào dâng những cảm xúc
mãnh liệt của mình. Tiết trời mùa xuân trong trẻo, ấm áp; cỏ cây hoa lá đều bước vào chu
kỳ sinh sôi nảy nở, tỏa hương khoe sắc. Đây cũng là quãng thời gian diễn ra những ngày
lễ lớn.
Theo dòng chảy thi ca, hình tượng mùa xuân đã đi vào trong các bài thơ từ xưa đến
nay. Cũng như những nhà thơ cùng thời khác, khi viết về mùa xuân, Bạch Cư Dị cũng
nhắc đến những sự vật đặc trưng nhất của mùa xuân như nhành liễu, hoa đào hay chim
én,...
Trong số 91 bài thơ của Bạch Cư Dị được chúng tôi nghiên cứu và phân tích:
 Có 41 bài thơ chứa hình ảnh về mùa xuân;
Có tổng cộng 12 dấu hiệu nhận biết hình ảnh mùa xuân tất cả, bao gồm từ chỉ thời
gian, thực vật, động vật và hiện tượng tự nhiên;

STT Dấu hiệu nhận biết mùa xuân Phân loại dấu hiệu nhận biết Số lượng bài thơ
xuất hiện
1 Xuân Từ chỉ thời gian 37
2 Tiết thanh minh Từ chỉ thời gian 1

3 Hoa đào Thực vật 3


4 Hoa mai Thực vật 1

5 Mẫu đơn Thực vật 2


6 Bạch dương Thực vật 1

7 Hoa lê Thực vật 1


8 Liễu Thực vật 1

9 Chim én Động vật 1


10 Tuyết Hiện tượng tự nhiên 1

11 Băng tan Hiện tượng tự nhiên 1


12 Mùa hoa Hiện tượng tự nhiên 1

Có thể thấy, các dấu hiệu nhận biết là “Thực vật” thì đa dạng nhất, tuy nhiên tần
suất xuất hiện nhiều nhất lại là dấu hiệu nhận biết là “Từ chỉ thời gian”. Vậy nên cảnh
xuân trong thơ của Bạch Cư Dị có thể được nhận biết một cách rõ ràng và đặc trưng nhất
nhờ dấu hiệu “Từ chỉ thời gian”.
Chúng tôi nhận thấy trong các bài thơ có hình tượng mùa xuân, chủ yếu xuất hiện
hai nhóm sắc thái cảnh tượng mùa, đó là cảnh thơ mộng, trữ tình và cảnh tiêu điều, ảm
đạm. Trong đó, cảnh trữ tình, thơ mộng có tần suất xuất hiện nhiều hơn là 29 lần. Còn
cảnh tiêu điều, ảm đạm xuất hiện trong 13 lần.
Cảnh xuân trữ tình, thơ mộng trong thơ Bạch Cư Dị rất đa dạng, nó xuất hiện trong
nhiều hoàn cảnh khác nhau, dưới nhiều tình huống khác nhau. Đầu tiên, cảnh xuân trong
thơ Bạch Cư Dị tràn ngập màu sắc và đẹp như một bức họa, như trong bài “Hàng Châu
xuân vọng”:
望海楼明照曙霞,护江堤白踏晴沙。
涛声夜入伍员庙,柳色春藏苏小家。
红袖织绫夸柿蒂,青旗沽酒趁梨花。
谁开湖寺西南路,草绿裙腰一道斜。
(Vọng hải lâu minh chiếu thự hà, Hộ giang đê bạch đạp tình sa.
Đào thanh dạ nhập Ngũ Viên miếu, Liễu sắc xuân tàng Tô Tiểu gia.
Hồng tụ chức lăng khoa thị đế, Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa.
Thùy khai hồ tự tây nam lộ, Thảo lục quần yêu nhất đạo tà.)
Bài thơ đã điểm những khung cảnh đặc trưng nhất của mùa xuân Hàng Châu vào
một tác phẩm, giống như vẽ một bức tranh “thưởng xuân Hàng Châu” bằng bút lông ngũ
sắc. Bức tranh không chỉ có màu vàng của nắng, màu trắng của cát, mà còn tràn ngập
trong màu xanh lục của liễu, của cỏ cây và màu xanh ngọc của nước, điểm xuyết bằng
hoa lê, váy đỏ, lụa màu và cờ rượu.
Hay như trong bài thơ “Đông đình nhàn vọng”:
綠桂為佳客
紅蕉當美人
(Lục quế vi giai khách,
Hồng tiêu đương mỹ nhân)
Tác giả đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân rực rỡ, đầy sức sống với màu xanh của
hoa quế và màu đỏ của chuối. Đồng thời ông cũng đã sử dụng phép nhân hóa: quế xanh
là một vị khách, còn chuối đỏ là mỹ nhân, tuy cả hai đứng bên nhau không nói gì nhưng
lại tôn lên vẻ đẹp của nhau, trông vô cùng hòa hợp, thân thiết.
Thứ hai, cảnh xuân trong thơ Bạch Cư Dị tươi vui, nhộn nhịp. Đó có thể là cảnh
xuân với sự đông đúc của phố xá ngày lễ hội, khi người người nô nức sắm sửa, váy áo
xúng xính ra đường như trong bài thơ “Tần trung ngâm kỳ 10: Mãi hoa”:
“喧喧車馬度”
(Huyên huyên xa mã độ)
“相隨買花去”
(Tương tuỳ mãi hoa khứ)
“灼灼百朵紅”
(Chước chước bách đoá hồng,)
“家家習為俗,
人人迷不悟”
(Gia gia tập vi tục,
Nhân nhân mê bất ngộ.)
Bạch Cư Dị miêu tả rất nhiều cảnh phố chợ Trường An náo nhiệt. Từ các từ láy như
“huyên huyên”, “gia gia”, “nhân nhân”, người đọc có thể hình dung khung cảnh phiên
chợ xuân với từng lớp từng lớp người nô nức, xe ngựa qua lại tấp nập, ai nấy cũng đều
háo hức, nóng lòng ngắm nghía những khóm hoa mẫu đơn rực rỡ. Bức tranh mùa xuân đã
hiện lên một cách tươi vui, đầy sức sống.
Đó cũng có thể là cảnh xuân với tiếng chim ca, muông thú đón mừng xuân về, đón
một năm mới tràn ngập niềm hy vọng trong bài thơ “Khuê oán từ kỳ 1”. Nếu trong “Tần
trung ngâm kỳ 10: Mãi hoa”, Bạch Cư Dị sử dụng thị giác để quan sát bức tranh xuân náo
nhiệt thì trong “Khuê oán từ kỳ 1”, ông lại sử dụng thính giác để lắng nghe từng âm
thanh mùa xuân. 
朝憎鶯百囀
夜妒燕雙棲
(Triêu tăng oanh bách chuyển,
Dạ đố yến song thê)
Mùa xuân thời tiết ấm áp, vạn vật sinh sôi, những đàn chim yến, chim oanh từ cuộc
nghỉ đông trở về kiếm ăn. Tác giả dùng biện pháp phóng đại với từ “bách” để nhấn mạnh
có hàng chục, hàng trăm con chim oanh đang cùng cất tiếng hót chào xuân. Cặp từ “triêu”
- “dạ” (ngày - đêm) như muốn nói tiếng chim hót mừng xuân vang vọng khắp mọi lúc,
không ngừng nghỉ. Dàn đồng ca ấy làm cho bức tranh mùa xuân càng thêm tươi vui, rộn
ràng. Hình ảnh đôi chim yến đậu bên nhau “yến song thê” - tượng trưng của tình yêu, như
điểm lên bức tranh ấy nét trữ tình cùng không khí hạnh phúc.
Thứ ba, cảnh xuân trong thơ Bạch Cư Dị nền nã, lãng mạn và nhẹ nhàng, yên bình.
Điển hình như cảnh đêm xuân trong bài thơ “Cửu bất kiến hàn thị lang, hí đề tứ vận dĩ kí
chi”:
“靜吟乖月夜”
(Tĩnh ngâm quai nguyệt dạ)
“春風滿鬢絲”
(Xuân phong mãn mấn ty)
Với hai hình ảnh nhân hóa là “quai nguyệt dạ” (ánh trăng tinh nghịch) và “xuân
phong mãn mấn ty” (gió xuân vờn mái tóc), khung cảnh đêm xuân không chỉ hiện lên đầy
sống động mà còn mang một màu sắc trữ tình. Nhờ hai tính từ “tĩnh” và “nhàn”, hình ảnh
nhà thơ uống say, nhàn tản và yên bình tận hưởng không gian ánh trăng mùa xuân đã
hiện lên rất rõ trước mắt người đọc.
Như vậy, Bạch Cư Dị đã sử dụng điêu luyện những tính từ, động từ đặc tả trạng thái
của sự vật, hiện tượng, cùng các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa để phác họa lên những bức
tranh xuân hoặc là nhiều màu sắc, hoặc là tươi vui nhộn nhịp, hoặc là lãng mạn và yên
bình. Cảnh xuân khi này đa dạng, được thêu dệt từ nhiều chất liệu khác nhau, nhưng đều
có một điểm chung là trữ tình, thơ mộng.
Mùa xuân là mùa tươi vui, hạnh phúc, tràn ngập hy vọng nên người ta cũng theo đó
mà thường miêu tả cảnh xuân mang trạng thái đầy tươi sáng. Nhưng Bạch Cư Dị còn
nhìn thấy cả những dáng vẻ tiêu điều, ảm đạm của mùa xuân, như là cảnh xuân ai oán
trong bài thơ “Khuê oán từ kỳ 2”, cảnh đêm xuân não nề với tiếng sáo bên sông trong bài
thơ “Giang thượng địch”, hay là cảnh thê lương trong tiết tảo mộ của bài thơ “Hàn thực
dã vọng ngâm” dưới đây:
寒食誰家哭
風吹曠野紙錢飛
古墓累累春草綠
棠梨花映白楊樹
盡是死生離別處
冥寞重泉哭不聞
蕭蕭墓雨人歸去
(Hàn thực thuỳ gia khốc.
Phong xuy khoáng dã chỉ tiền phi,
Cổ mộ luỹ luỹ xuân thảo lục.
Đường lê hoa ánh bạch dương thụ,
Tận thị tử sinh ly biệt xứ.
Minh mịch trùng tuyền khốc bất văn,
Tiêu tiêu mộ vũ nhân quy khứ)
Khác với khung cảnh vui tươi đầy màu sắc thường thấy, bài thơ “Hàn thực dã vọng
ngâm” có màu sắc trầm buồn, tang thương. Bối cảnh bài thơ là tiết Thanh minh, là thời
điểm những người ở lại nhớ về người đã khuất. Thời nhà Đường, phong tục dọn mộ tiết
Thanh minh rất thịnh hành. Những ngày từ tiết Hàn thực đến tiết Thanh minh, mọi người
sẽ thăm mộ, phát quang dọn dẹp nhằm tưởng niệm và an ủi vong linh người thân dưới
hoàng tuyền. Bao trùm cả bài thơ là cảnh tượng tảo mộ thê lương. Chữ “khoáng” cùng
với cảnh tiền giấy bay lên trên không trung trong câu “Phong xuy khoáng dã chỉ tiền phi”
gợi lên một không gian rộng lớn, làm cho tiếng khóc than người đã khuất như được
khuếch đại. Cặp câu thơ cuối với từ láy tượng hình “minh minh” và từ láy tượng thanh
“tiêu tiêu” trùm lên bài thơ một màu sắc ảm đạm, tiêu điều, vốn là miêu tả cảnh vật
nhưng lại giống như đang nói đến cảm xúc con người.
Cảm xúc của nhân vật trữ tình trước mùa xuân trong thơ của Bạch Cư Dị cũng đa
dạng và phong phú: có nỗi nhớ quê hương, nhớ bạn, nhớ người yêu; có cảm giác nhàn
tản, hưởng thụ cuộc sống; có sự xót thương, cảm thán cho số phận con người,... Chúng
tôi sẽ chia các tâm trạng đó thành hai nhóm, đó là tâm trạng tiêu cực và tâm trạng tích
cực. Trong đó, tâm trạng tiêu cực xuất hiện trong 17 bài thơ xuân của Bạch Cư Dị, và tâm
trạng tích cực xuất hiện trong 17 bài.
Trong bài thơ “Yến tử lâu kỳ 3”, tác giả đã thông qua câu chuyện đi tảo mộ để nói
lên tình cảm thủy chung của người phụ nữ với người mình yêu:
見說白楊堪作柱
爭教紅粉不成灰
(Kiến thuyết bạch dương kham tác trụ
Tranh giao hồng phấn bất thành hôi)
Cây bạch dương là loại cây mất 7 đến 10 năm mới có thể hoàn toàn trưởng thành,
mà Bạch Cư Dị viết cây bạch dương đã giống như một cái cột trụ lớn “kham tác trụ”. Có
thể thấy thời gian đã trôi đi rất lâu, tuy nhiên tình cảm yêu thương của nhân vật trữ tình
vẫn mãi thủy chung, son sắt, không hề đổi thay “bất thành hôi” (chưa tan thành khói bụi).
Trong bài thơ này, Bạch Cư Dị muốn ca ngợi tình cảm sâu đậm, trước sau như một của
người phụ nữ. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện niềm thương cảm, xót xa cho người phụ
nữ, mặc cho thời gian có trôi qua một cách tàn nhẫn, mặc dù phí hoài tuổi xuân nhưng
trái tim vẫn mãi hướng về một người.
Hay như trong bài “Tiền Đường hồ xuân hành”, nhà thơ đã sử dụng cụm từ “tối ái”
và “mê nhân nhãn” để thể hiện sự tán thưởng với cảnh xuân tươi đẹp trước mắt. Tận
hưởng cảnh thiên nhiên tươi đẹp đó, nhân vật trữ tình cảm thấy yêu đời, lạc quan, hạnh
phúc và thư thái. Từ đó có thể thấy được tình yêu thiên nhiên sâu sắc của nhà thơ. 
亂花漸欲迷人眼
(Loạn hoa tiệm dục mê nhân nhãn)
最愛湖東行不足
(Tối ái hồ đông hành bất túc)
Trong tổng số 41 bài thơ có chứa hình hình ảnh mùa xuân của Bạch Cư Dị, đã có 28
bài cảnh thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật trữ tình tương thông, đồng cảm với nhau
(có 12 bài cảnh và tình đều có sắc thái tươi vui, 13 bài cảnh và tình có sắc thái ảm đạm).
Hai bài thơ “Trường hận ca” hay “Phong vũ vãn bạc” chính là điển hình cho điều này.
“Trường hận ca” là một tác phẩm tiêu biểu, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ Bạch
Cư Dị. Bài thơ kể về mối tình của vua Đường Huyền Tông với Dương Quý Phi, từ khi
bắt đầu đến giây phút lìa xa nhau. Trong bài thơ xuất hiện rất nhiều chữ “xuân”, nhưng
những chữ “xuân” ấy lại có đa dạng các ý nghĩa khác nhau. Ví như trong hai câu thơ: “ 芙
蓉帳暖度春宵/春宵苦短日高起” (Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu/ Xuân tiêu khổ
đoản nhật cao khởi), từ “xuân tiêu” là chỉ khung cảnh đêm mùa xuân, nhưng cũng là ẩn ý
cho những đêm tình nồng ái mặn của Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi. Hay như
hình ảnh “gió xuân” trong câu thơ “ 春風 桃李 花開 日 ” (Xuân phong đào lý hoa khai
nhật), Đường Huyền Tông nhìn thấy gió thổi lay động những bông hoa đào mà nhớ lại
những ngày tháng khi Dương Quý Phi vẫn còn ở bên, những tháng ngày tình cảm mặn
nồng. Nhân vật trữ tình lúc này hạnh phúc bởi đang chìm đắm trong tình yêu, và người
khi yêu thì đều nhìn mọi thứ với một con mắt lạc quan hơn rất nhiều, thấy mọi vật xung
quanh đều đẹp đẽ.
Cũng tương tự “Trường hận ca”, “Phong vũ vãn bạc” là một bài thơ thể hiện rất rõ
sự tương thông giữa cảnh vật và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tuy nhiên, đó không còn
là sự tương thông giữa cảnh sắc tươi vui và tâm trạng hạnh phúc khi được đắm chìm
trong tình yêu kia nữa, mà ở bài thơ này, nhà thơ lại thông qua miêu tả cảnh thiên nhiên
mênh mang vô cùng để thể hiện nỗi sầu nhân thế:
苦竹林邊蘆葦叢,停舟一望思無窮
青苔撲地連春雨,白浪掀天盡日風
忽忽百年行欲半,茫茫萬事坐成空
此生飄蕩何時定,一縷鴻毛天地中
(Khổ trúc lâm biên lô vĩ tùng, Đình chu nhất vọng tứ vô cùng.
Thanh đài phác địa liên xuân vũ, Bạch lãng hân thiên tận nhật phong.
Hốt hốt bách niên hành dục bán, Mang mang vạn sự tọa thành không.
Thử sinh phiêu đãng hà thời định, Nhất lũ hồng mao thiên địa trung)
Tác giả dùng những hình ảnh như “lô vĩ tùng” (cỏ lau mọc rậm rạp), “liên xuân vũ”
(mưa xuân không ngớt), “Bạch lãng hân thiên tận nhật phong” (các đợt sóng trắng đánh
lên tận trời) và “thanh đài phác địa” (rêu xanh trải đầy mặt đất) để miêu tả cảnh sắc ảm
đạm và không gian mênh mông. Tương thông với cảnh vật ấy là cảm xúc mông lung vô
định của nhân vật trữ tình. Sắc thái tình cảm ấy được thể hiện qua hình ảnh sợi tơ hồng
bay vô định trong không trung, cùng với các tính từ như “bán”, “không”, “hốt hốt”,
“mang mang”, “phiêu đãng”. Nhân vật trữ tình trong bài thơ cảm thán với số phận vô
định của mình, cảm thấy cuộc đời cứ trôi qua một cách mông lung, không có mục tiêu,
đồng thời giãi bày nỗi uất hận, căm ghét bọn quan tham lộng quyền.
Mùa xuân là thời điểm khởi đầu của một năm mới, là mùa của lễ hội, nhưng trong
số 41 bài thơ xuân của Bạch Cư Dị, có đến 11 bài thơ nhân vật trữ tình thể hiện sự trầm
tư, hay những nỗi buồn, nỗi nhớ. Điều đó được thể hiện qua các tác phẩm như “Tư phụ
my”, “Trường An chính nguyệt thập ngũ nhật”, “Tần trung ngâm kỳ 10: Mãi hoa”,
“Dương liễu chi nhị thủ kỳ 1”, “Khuê oán tử kỳ 1”,...Sau đây chúng tôi sẽ phân tích bài
thơ “Tư phụ my” để làm rõ được nét trái ngược giữa cảnh xuân và tình trong thơ Bạch
Cư Dị:
唯餘思婦愁眉結
無限春風吹不開
(Duy dư tư phụ sầu mi kết,
Vô hạn xuân phong xuy bất khai.)
Cảnh thiên nhiên mùa xuân trong “Tư phụ my” như một bức tranh động, nên thơ,
trữ tình, với các nét họa tràn ngập màu sắc và hương thơm. Thế nhưng bức tranh thiên
nhiên tươi đẹp ấy lại không thể hóa giải được nỗi u sầu trên gương mặt người thiếu phụ.
Từ “tư phụ” thể hiện rất rõ tình cảnh của nhân vật trữ tình - người phụ nữ đang mong
ngóng người chồng đang trên chiến trường, cũng thể hiện rất rõ tâm trạng lúc bấy giờ của
Bạch Cư Dị. Bởi trước đó, ông đã bị biếm chức xuống làm Tư mã Giang Châu, đồng thời
ông cũng rất bất mãn trước tình hình triều chính loạn lạc.
Sự đối lập giữa cảnh và tình trong những bài thơ của Bạch Cư Dị về mùa xuân
thường được thể hiện rất rõ ràng và mang tính hiện thực sâu sắc. Tuy số lượng những bài
thơ như vậy không nhiều, nhưng đều là những bài thơ hay và mang đặc trưng riêng của
Bạch Cư Dị. Phong cách thơ của ông chủ trương là giản dị, gần gũi với nhân dân, phản
ánh thực tại xã hội. Đó là lý do vì sao Bạch Cư Dị khá ưa chuộng việc dùng những hình
tượng thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp để làm đòn bẩy, nêu bật lên cái tâm trạng đối lập
hoàn toàn của nhân vật trữ tình.
Tiểu kết:
Những chất liệu thêu dệt nên mùa xuân trong thơ ông là các hình ảnh cây cối như
hoa đào, hoa mai, các hoạt động của con người như mua hoa mẫu đơn hay đi tảo mộ vào
tiết thanh minh,...Các dấu hiệu này rất gần gũi, và người đọc có thể từ đó mà dễ dàng
thấy được mùa xuân trong thơ Bạch Cư Dị.
Cảnh xuân trong thơ Bạch Cư Dị phần nhiều đều tươi sáng, náo nhiệt và tràn ngập
các sắc màu. Nhưng ông khỉ dừng lại ở đó mà còn miêu tả cả những nét đượm buồn của
mùa xuân trong thơ mình. Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong thơ Bạch Cư Dị
được bộc lộ vô cùng tinh tế, nhẹ nhàng. Bạch Cư Dị không trực tiếp thể hiện hẳn ra tâm
trạng của nhân vật trữ tình như thế nào, mà ông ưa việc sử dụng gián tiếp qua các hình
ảnh về thiên nhiên. Mặc dù đôi lúc tình cảm nhân vật vẫn được tóm gọn lại một cách đầy
súc tích qua một chữ “sầu” hay “nhàn”, nhưng nhờ có bối cảnh xung quanh mà người đọc
có thể hiểu rõ, hiểu sâu hơn về tâm trạng, cảm xúc xuyên suốt bài thơ.
Xu hướng chung trong thơ Bạch Cư Dị là hình tượng mùa xuân thường tương thông
với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cảnh và tình có thể cùng mang sắc thái tươi vui, hoặc
cùng mang sắc thái ảm đạm.
Chương 2. Hình tượng mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị
Mỗi khi mùa thu đến, dường như trong lòng mỗi người luôn man mác một nỗi buồn
khó tả. Chỉ vì cơn gió thu ảm đạm, hoa héo và lá rơi, khung cảnh hoang tàn có thể nhìn
thấy khắp nơi. Các thi nhân mặc khách đứng trước cảnh vật có phần thê lương như vậy
thường dễ tức cảnh sinh tình mà tạo ra những kiệt tác để đời. Mùa thu trong thơ Bạch Cư
Dị có thể nói là đong đầy cảm xúc trữ tình, lãng mạn.
Trong số 91 bài thơ của Bạch Cư Dị được chúng tôi nghiên cứu và phân tích:
 Có 40 bài thơ chứa hình ảnh về mùa thu;
 Có tổng cộng 14 dấu hiệu nhận biết hình ảnh mùa thu tất cả, bao gồm từ chỉ thời
gian, thực vật, động vật, sự vật và hiện tượng tự nhiên;

STT Dấu hiệu nhận biết mùa thu Phân loại dấu hiệu Số lượng bài
nhận biết thơ xuất hiện

1 Thu Từ chỉ thời gian 30


2 Các tháng trong mùa (tháng tám, Từ chỉ thời gian 6
tháng chín, tháng mười)
3 Trung thu Từ chỉ thời gian 2

4 Trùng dương/trùng cửu Từ chỉ thời gian 3


5 Thất tịch Từ chỉ thời gian 1

6 Lá ngô đồng Thực vật 3


7 Lá phong Thực vật 1

8 Hoa cúc Thực vật 2


9 Cây quế Thực vật 1

10 Phù dung Thực vật 1


11 Lá đọng sương Thực vật 1

12 Chim nhạn Động vật 2


13 Vùng núi lạnh Sự vật 1

14 Tiếng lá rơi Hiện tượng tự nhiên 1

Có thể thấy, các dấu hiệu nhận biết là “Thực vật” thì đa dạng nhất, tuy nhiên tần
suất xuất hiện nhiều nhất lại là dấu hiệu nhận biết “Từ chỉ thời gian”. Đặc biệt, Bạch Cư
Dị đã sử dụng thêm các ngày lễ đặc trưng như trung thu hay thất tịch để giúp người đọc
dễ dàng nhận biết mùa thu. Vậy nên cảnh thu trong thơ của Bạch Cư Dị có thể được nhận
biết một cách rõ ràng và đặc trưng nhất nhờ dấu hiệu “Từ chỉ thời gian”.
Trong các bài thơ thu của Bạch Cư Dị, khung cảnh thiên nhiên vẫn có thể được chia
ra là cảnh thơ mộng, trữ tình và cảnh tiêu điều, ảm đạm. Trái ngược với mùa xuân, các
bài thơ thu có cảnh tiêu điều, ảm đạm lại nhiều hơn với số lượng 22 bài, và chỉ có 13 bài
thơ thu có cảnh thơ mộng, trữ tình.
Cảnh tiêu điều, ảm đạm trong các bài thơ thu của Bạch Cư Dị nói chung là buồn
sầu, lạnh lẽo. Ví như trong bài thơ “Tặng nội 2”:
漠漠暗苔新雨地
微微涼露欲秋天
(Mạc mạc ám đài tân vũ địa
Vi vi lương lộ dục thu thiên)
Mùa thu trong bài thơ đã được Bạch Cư Dị khắc họa qua bốn hình ảnh: sương thu,
mưa thu, trời thu và trăng thu. Trong hai câu thơ đầu bài, cảnh vật tối tăm, mơ hồ “mạc
mạc”, “ám”, “vi vi”. Hơn nữa, hình ảnh “lương lộ” còn gợi sự lạnh lẽo, nhuốm lên bức
tranh thu một vẻ thê lương.
Hay như trong bài thơ “Tảo thu độc dạ”:
井梧涼葉動
鄰杵秋聲發
(Tỉnh ngô lương diệp động
Lân chử thu thanh phát)
Bao trùm lên cảnh vật đêm thu là cảm giác tiêu điều, tĩnh mịch với hình ảnh lá cây
ngô đồng lạnh lùng lay động bên cạnh giếng - “Tỉnh ngô lương diệp động”. Thủ pháp lấy
động tả tĩnh qua tiếng chày vang lên trong đêm khuya tĩnh lặng càng làm cho không gian
trở nên trống trải, mênh mang vô tận.
Cảnh thu tiêu điều, ảm đạm trong thơ Bạch Cư Dị còn chứa cả những âm thanh não
nề, khiến tâm trạng con người trĩu hẳn lại. Ví dụ như bài thơ “Sơn giá cô”:
朝朝暮暮啼復啼
啼時露白風凄凄
黃茅岡頭秋日晚
苦竹岭下寒月低
(Triêu triêu mộ mộ, đề phục đề
Đề thời lộ bạch phong thê thê
Hoàng mao cương đầu thu nhật vãn
Khổ trúc lĩnh hạ hàn nguyệt đê)
Ngay từ tên bài thơ, chúng ta có thể thấy được hình tượng con chim đa đa. Chim đa
đa là một loài chim mang đến điềm rủi, và mọi người quan niệm nếu gặp phải nó thì sẽ có
chuyện không may xảy ra. Cụm từ láy “triêu triêu mộ mộ” nhấn mạnh sự lặp đi lặp lại
không ngừng, tô đậm hình ảnh chim kêu dai dẳng từ sáng đến chiều. Bài thơ đặt trong bối
cảnh buổi chiều tà lạnh lẽo với làn sương trắng đục (lộ bạch) cùng làn gió thổi một cách
thê lương (phong thê thê). Tất cả những hình ảnh và âm thanh ấy hợp lại với nhau, vẽ lên
một bức tranh chiều thu ảm đạm, não nề.
Còn nói đến cảnh thơ mộng, trữ tình trong thơ thu của Bạch Cư Dị, không thể
không nhắc đến bài thơ “Mộ giang ngâm”:
一道殘陽鋪水中
半江瑟瑟半江紅
可憐九月初三夜
露似真珠月似弓
(Nhất đạo tàn dương phô thủy trung
Bán giang sắt sắt bán giang hồng
Khả liên cửu nguyệt sơ tam dạ
Lộ tự trân châu nguyệt tự cung)
Trong bài thơ này, Bạch Cư Dị đã vẽ nên một bức tranh thu tràn ngập màu sắc và
ánh sáng “tàn dương phô thủy trung”. Tác giả đã chọn thời điểm chiều tà miêu tả cảnh
thu, khi ánh tà dương đang dần tàn và mảnh trăng bạc đang từ từ sáng lên, ánh hoàng hôn
phản chiếu xuống mặt sông tạo nên khung cảnh huyền ảo, thơ mộng. “Sắt sắt” là một từ
đa nghĩa, và nó thường xuất hiện như một tính từ tượng thanh. Tuy nhiên ở đây Bạch Cư
Dị lại sử dụng từ “sắt sắt” để nói về màu xanh ngọc bích của nước sông, cùng với ánh
hoàng hôn buông xuống như một bức tranh thủy mặc: một nửa sông có màu xanh, một
nửa sông có màu đỏ. Hai gam màu này tuy đối lập về sắc thái nhưng lại làm nổi bật nhau,
tô điểm cho nhau. Thời điểm chiều tà thường là lúc tâm trạng con người nhạy cảm hơn,
vì vậy đa phần các bài thơ viết trên bối cảnh này đa phần mang sắc thái ảm đạm. Nhưng ở
bài thơ này, nhà thơ dùng hai từ “khả liên” để tán thưởng ánh trăng thu, làm cho cảnh vật
chiều thu càng thêm tươi vui, sống động.
Bởi chịu ảnh hưởng từ sự tiêu điều của cảnh vật, nên tâm trạng của nhân vật trữ tình
trong thơ thu Bạch Cư Dị phần nhiều cũng trầm lắng theo. Trong 40 bài thơ thu, có đến
22 bài thơ nhân vật trữ tình mang tâm trạng tiêu cực, nhưng lại chỉ có 8 bài thơ nhân vật
trữ tình mang tâm trạng tích cực.
Tiêu biểu cho nhóm bài thơ mà nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc Nhắc đến Bạch
Cư Dị, chúng ta không thể không nhắc đến một trong những bài thơ gắn liền với tên tuổi
của ông - “Tỳ bà hành”. Qua câu chuyện về cuộc đời nàng ca kỹ, Bạch Cư Dị đã vạch
trần một xã hội xuống cấp, bất công, vùi dập người tài.
Bài thơ bắt đầu với khung cảnh bữa tiệc chia tay trên sông, dù say nhưng không
mấy vui vẻ gì “Tuý bất thành hoan thảm tương biệt”. Qua tiếng đàn tỳ bà, người ca kỹ kể
lại câu chuyện đời mình, bộc lộ những tâm tư muộn phiền trong lòng. Nàng trước đây là
là một ca kỹ nổi danh, nhưng rồi thời gian dần trôi, giờ nàng trở thành vợ của người lái
buôn. Nghe tiếng đàn của nàng, Bạch Cư Dị cũng hoàn toàn đồng cảm và bộc bạch nỗi
lòng mình: “Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức/Hựu văn thử ngữ trùng tức tức” (Nghe tiếng đàn tỳ
bà đã não nề, nay nghe thêm câu chuyện lại càng bùi ngùi). Ông cảm thông, thấu hiểu với
nỗi khổ của người ca kỹ, bởi chính bản thân ông cũng là người hiền tài nhưng không
được xã hội công nhận. Cặp câu thơ “Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ/Vãng vãng thủ
tửu hoàn độc khuynh” nói lên rằng đã qua bao lâu rồi, ông đều chỉ uống rượu một mình,
bởi vì không ai có thể hiểu được những thăng trầm trong cuộc đời ông cho đến khi được
nghe câu chuyện của nàng. Hai con người dù không quen biết nhau nhưng lại có chung
một số phận bi thương, có duyên được gặp nhau, thấu hiểu nhau: “Giang Châu tư mã
thanh sam thấp” (Tư mã Giang Châu khóc đẫm vạt áo xanh).
Bao trùm bài thơ là tâm trạng ảo não, sầu buồn bởi cuộc sống ảm đạm, tẻ nhạt, vô
nghĩa, cùng với nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình, nhớ người thân. Có thể thấy, bài thơ
“Tỳ bà hành” kể nhiều hơn tả, nhưng thông qua câu chuyện của hai con người tài giỏi mà
bất hạnh, người đọc có thể thấy được sự đồng cảm, cảm thông lẫn nhau, sự xót thương
cho chính số phận bạc bẽo của mình lẫn đối phương. 
Nếu ở bài thơ trên, Bạch Cư Dị thể hiện sự cảm thông đối với số phận của người kỹ
nữ, thì trong bài “Trường tương tư”, ông lại vô cùng tài ba khi đặt mình vào tâm trạng
của người con gái đang nhớ nhung người tình nơi phương xa. 
思君秋夜長
一夜魂九昇
Tư quân thu dạ trường
Nhất dạ hồn cửu thăng
Đêm thường là lúc cảm xúc con người trở nên nhạy cảm hơn. Khi mà xung quanh
bốn bề tĩnh lặng, con người không thể không đối diện với chính mình. Như Lý Bạch vào
lúc đêm khuya mà trong lòng dâng lên nỗi nhớ nhà, người thiếu nữ trong bài cũng vào
đêm khuya mà nhớ đến người mình yêu. Nỗi nhớ ấy cứ quanh quẩn mãi trong suy nghĩ
của người thiếu nữ, khiến hồn nàng như bay đi đâu mất (“hồn cửu thăng”), và dường như
cũng làm đêm trở nên dài hơn (“thu dạ trường”). Có thể thấy tuy không phải phụ nữ,
nhưng chính tâm hồn nhạy cảm, tinh tế đã giúp Bạch Cư Dị hóa thân một cách tài tình
vào tâm trạng của một người con gái đang yêu.
Tuy nhiên, trong bài thơ “Chiêu đông lân”, nhân vật trữ tình lại mang tâm trạng,
cảm xúc hoàn toàn trái ngược:
小榼二升酒
新簟六尺床
能來夜話吥
池畔欲秋涼
(Tiểu khạp nhị thăng tửu
Tân điệm lục xích sàng
Năng lai dạ thoại bất
Trì bạn dục thu lương)
Bao trùm toàn bộ bài thơ là cảm xúc hân hoan vui mừng khi được đón khách đến
chơi nhà. Lời mời ở câu thơ thứ ba đã thể hiện lòng hiếu khách: Không biết tối nay đến
chơi có được không? Nhân vật trữ tình đã chuẩn bị chu toàn cả rượu lẫn chiếu để cùng
người khách hóng mát, ngắm trăng bên bờ hồ. Những hành động này đều cho thấy sự
chân thành và lòng hiếu khách của nhà thơ.
Với số lượng những bài thơ thu có cảnh ảm đạm, buồn bã cùng tâm trạng tiêu cực
chiếm phần nhiều, cũng là lẽ đương nhiên khi thơ thu của Bạch Cư Dị có cảnh với tình
cùng tương thông và mang sắc thái ảm đạm - 19 bài thơ trên tổng số 27 bài thơ có cảnh
với tình tương thông. Bài thơ “Vọng nguyệt hữu cảm” là một đại diện tiêu biểu cho điều
này.
Bài thơ được Bạch Cư Dị sáng tác vào thời điểm loạn lạc, cuộc sống nhân dân đói
kém, nạn mất mùa diễn ra khiến người thân trong gia đình ông ly tán mỗi người một nơi.
Các hình ảnh như “thời loạn”, “mất mùa”, “mất cơ nghiệp”, “ruộng vườn xơ xác” vẽ lên
bức tranh mùa thu thê lương, ảm đạm, tiêu điều. 
弔影分為千里雁
辭根散作九秋蓬
(Điếu ảnh phân vi thiên lý nhạn,
Từ căn tán tác cửu thu bồng)
Tác giả ví bản thân “như cánh nhạn lạc đàn” (“thiên lý nhạn”), “như ngọn cỏ bồng
tan tác bật gốc trong gió tháng chín mùa thu” (“Từ căn tan tác cửu thu bồng”), từ đó thể
hiện cảnh tượng loạn lạc, bị chia cắt khỏi gia đình và người thân. 
共看明月應垂淚
一夜鄉心五處同
(Cộng khan minh nguyệt ưng thuỳ lệ,
Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng)
Tác giả viết “Nỗi nhớ quê ở năm nơi trong một đêm đều như nhau” bởi vì anh em
tuy ly tán khắp nơi, luôn một lòng hướng về quê hương, về gia đình. Có thể thể thấy, tâm
trạng chủ đạo của bài thơ là nỗi cô đơn, lẻ loi, đau khổ khi phải tha hương nơi đất khách
“khan minh nguyệt ưng thùy lệ” (ngắm trăng sáng mà rơi lệ).
Tuy nhiên, không phải lúc nào thơ thu của Bạch Cư Dị cảnh buồn và tình cũng
buồn. Trong 27 bài thơ có cảnh và tình tương thông, chỉ có 8 bài thơ cảnh và tình đều
mang sắc thái ảm đạm. Ví dụ như bài “Tùng thanh”:
“蕭寥發為聲”
(Tiêu liêu phát vi thanh)
“寒山颯颯雨
秋琴冷冷絃”
(Hàn sơn táp táp vũ
Thu cầm lãnh lãnh huyền)
“南陌車馬動”
(Nam mạch xa mã động)
Bài thơ tràn ngập âm thanh: tiếng gió thổi vào lá cây xào xạc, tiếng mưa rơi, tiếng
đàn vang lên, tiếng xe ngựa qua lại. Hình ảnh ngồi trước hiên nhà, ngắm vầng trăng sáng,
ngắm cây thông và tận hưởng cơn gió tây nam mát mẻ vẽ nên khung cảnh bức tranh thu
sống động, tươi sáng, thơ mộng. Trong khung cảnh đó, tâm trạng của nhân vật trữ tình
cũng trở nên khoan khoái, thư thái, thoải mái lạ thường, nhất là sau khi nghe tiếng đàn:
“Tâm thể câu diểu nhiên”. Nhân vật trữ tình như đặt xuống những ưu tư, phiền não mà
tận hưởng giây phút quý giá được hòa mình vào thiên nhiên.
Mặc dù phần nhiều các bài thơ thu của Bạch Cư Dị có sự đồng điệu giữa cảnh và
tình, bên cạnh đó vẫn có những bài thơ mà cảnh vật tươi vui nhưng nhân vui tình thì
buồn, đó là: “Tỳ bà hành”, “Tống Vương thập bát quy sơn ký đề Tiên Du tự”, “Thu tứ”
và “Thu sơn”. Trong đó bài thơ “Thu tứ” thể hiện vô cùng rõ ràng sự đối lập đó:
夕照紅于燒
晴空碧勝藍
獸形雲不一
弓勢月初三
(Tịch chiếu hồng vu thiếu
Tình không bích thắng lam
Thú hình vân bất nhất
Cung thế nguyệt sơ tam)
Qua bốn câu thơ đầu, nhà thơ phác họa lên một bức tranh chiều thu sinh động, đầy
màu sắc với màu đỏ rực của ánh tà dương (“hồng vu thiếu”), màu ngọc bích của bầu trời
(“bích thắng lam”) và màu trắng của mây. Bức tranh ấy lại có thêm phần tinh nghịch,
tươi vui khi có sự xuất hiện của mảnh trăng non mùng ba cong cong hình cánh cung
(“cung thế nguyệt”) và những đám mây đa dạng hình thú khác nhau, không cái nào giống
cái nào. Tuy nhiên phong cảnh tươi đẹp đấy lại không làm vơi đi nỗi buồn trong lòng
người. Câu thơ “Nhạn tứ lai thiên bắc” như một bước chuyển ý trong bài, từ cảnh sang
tình. Cũng như trong bài thơ “Vọng nguyệt hữu cảm”, ở đây nhà thơ lại một lần nữa dùng
hình ảnh chim nhạn để nói về tình cảnh tha hương của mình, đồng thời cũng bày tỏ nỗi
nhớ quê hương, một lòng muốn trở về quê cha đất mẹ. Và câu thơ “Vị lão dĩ thâm an” ở
cuối bài như một lời kết, lời cảm thán cho cuộc đời đầy thăng trầm của bản thân tác giả,
tuy chưa đến tuổi xế chiều mà đã trải qua nhiều biến cố, nhiều khoảnh khắc tối tăm của
cuộc đời.
Khác với mùa xuân, thơ thu của Bạch Cư Dị đặc biệt ở một chỗ, đó là trong 40 bài
thơ thu, có duy nhất một bài thơ cảnh thiên nhiên tiêu điều, ảm đạm nhưng tâm trạng lại
vui tươi. Đó chính là bài thơ “Thu vũ dạ miên”. Bạch Cư Dị sáng tác bài thơ này lúc ông
đã tuổi cao sức yếu, việc quan nhàn hạ. và bản thân ông cũng đã ngao ngán trước sự suy
yếu của nhà Đường. Vì vậy ông viết bài thơ trong tâm thái nhàn tản, tĩnh tại của một
người đã vất vả một đời đang bình yên an hưởng tuổi già:
涼冷三秋夜
安閑一老翁
(Lương lãnh tam thu dạ
An nhàn nhất lão ông)
Tiết trời mùa thu thường lạnh ẩm, nhưng nhân vật trữ tình lại ở trong một căn phòng
hết sức ấm cúng: “Hôi túc ôn bình hoả/Hương thiêm noãn bị lung”. Có thể thấy sự đối
lập giữa cảnh và tình rất rõ ràng: ngoài trời mưa gió lạnh giá - tâm trạng an nhàn, ấm áp.
Hành động lên giường trễ sau khi tắt đèn hay bỏ thêm trầm hương vào lồng đốt cho thấy
cuộc sống của nhân vật trữ tình bây giờ trôi qua rất chậm rãi, bình thản, cảm xúc cũng
yên bình, nhẹ nhàng theo. Đây là quãng thời gian cuối đời của Bạch Cư Dị, nên ông gần
như không còn quá mặn mà với chốn quan trường nữa. Ông chủ trương tận hưởng cuộc
sống, tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên, vậy nên dù cảnh vật có giá rét, ảm đạm thế nào, nhà
thơ cũng vẫn có thể nhìn nó dưới con mắt lạc quan, yêu đời.
Tiểu kết:
Cũng như mùa xuân, Bạch Cư Dị vẫn tiếp tục sử dụng đa dạng các dấu hiệu nhận
biết là “Thực vật” trong thơ thu của mình. Ngoài ra, mùa thu còn có thể được nhận biết
thông qua các dấu hiệu “Từ chỉ thời gian” là các dịp lễ đặc trưng như thất tịch, trung thu
hay trùng dương.
Đặt trong tương quan với mùa xuân, cảnh thiên nhiên trong thơ thu lại hoàn toàn
trái ngược, với số lượng các bài thơ có cảnh thu tiêu điều, ảm đạm chiếm phần nhiều.
Mùa thu đến cũng là lúc cái se lạnh dần thay thế không khí ấm áp của mùa hè  những
chiếc lá trên cây bắt đầu lụi tàn, nhiều loài hoa từng nở rực rỡ vào mùa xuân cũng bắt đầu
héo úa, chuẩn bị cho một vòng đời mới. Trước cái tiêu điều của cảnh vật, lòng người
không khỏi dâng lên những nỗi buồn, nỗi nhớ cùng những suy tư trăn trở về cuộc đời. Đó
là lý do vì sao thơ thu Bạch Cư Dị có rất nhiều bài cảnh với tình tương thông và mang
đậm sắc thái trầm buồn, sâu lắng.
Bên cạnh đó, có thể thấy, các bài thơ thu của Bạch Cư Dị phần nhiều chứa hình ảnh
ánh trăng (26 trong tổng số 40 bài). Tả trăng một phần để nói cảnh, một phần cũng là để
nói tình. “Tức cảnh sinh tình” là xu hướng thường thấy trong thơ Đường. Cảnh vật thê
lương của mùa thu thường làm lòng người dâng lên nỗi buồn, nỗi nhớ. Mà khi chiều tà
cũng như đêm đến, khi thi nhân chỉ có một mình, những tâm trạng ấy không biết phải bộc
bạch với ai, chỉ có thể gửi gắm vào ánh trăng kia. 
Cuối cùng, có thể thấy, ở những bài thơ chứa hình ảnh mùa thu của Bạch Cư Dị,
tương thông là xu hướng chủ yếu trong tương quan giữa cảnh và tình. Điều này có thể lý
giải bởi hai lý do. Thứ nhất, như đã nêu ở trên, số lượng bài thơ có cảnh vật tiêu điều, ảm
đạm chiếm phần nhiều, mà sắc thái cảnh vật có ảnh hưởng lớn đến tâm trạng con người.
Thứ hai là lý do từ cá nhân nhà thơ. Trong cuộc đời mình, Bạch Cư Dị đã trải qua vô số
biến cố: gia đình phân tán, quan lộ bị ảnh hưởng do kẻ gian hãm hại, những người bạn tri
âm tri kỉ dần lìa xa cõi đời. Những yếu tố ấy khiến tâm trạng cảm xúc của thi nhân có sự
đồng điệu với cảnh sắc thiên nhiên mùa thu.

You might also like